Nam Kha Thái Thú
Hưởng Vu
Phần là người nghiện rượu như mạng sống. Tên lại là Phần, Phần có nghĩa là thèm
rượu, rõ ràng cái tên đã biểu thị quan niệm nhân sinh của chàng ta và cũng rõ
là biểu thị cái tình cảnh vô phương làm ăn kiếm tiền sinh sống của chàng. Tài
sản của chàng dễ đến phân nửa đã vung phá vào những cuộc tiêu xài huy hoắc. Cứu
cánh của việc khuynh gia bại sản đó là bởi tháng ngày đam mê rượu gái, hoặc là
kết quả của việc cùng với bọn bạn bè đốn mạt đàn đúm chơi bời, hoặc là do những
ngày sống hồ đồ mê muội thì cùng không rõ. Chàng đã từng đảm chức sĩ quan,
nhưng vì rượu say chống mệnh lệnh nên bị cách chức. Trở về nhà, sống lông bông
du thủ, lãng đãng tiêu dao, cùng đám bạn bè say chung lộn, suốt ngày rượu chè
be bét. Cứ thế mà tửu lượng ngày một tăng, mà tiền trong tay thì mỗi ngày một giảm. Thảng khi tỉnh táo, nghĩ đến cái hùng
tâm tráng chí của thanh niên thời đại, cái lòng hăng hái chen bước thanh vân
ngày nay đều phó cho dòng nước chảy, không khỏi rớt giọt lệ thương tâm... Ấy
thế, nhưng chỉ ba ly nhồi bụng, lại là hoan hỉ như thường, vô ưu vô lự. Chàng
sống ở cố hương gần miền Quảng Lăng, cách thành khoảng ba dặm. Trên khoảng đất
trồng ở mé Nam nhà chàng, có một cây hòe rất cao lớn. Dưới tàng lá xum
xuê như cái lọng, chàng thường cùng đám bạn vui say chè chén. Cây hòe ấy sống
đã rất lâu năm, có thời gian đã chết đến ba, bốn chục năm, rồi trên thân lại
nảy ra những chồi xanh sống lại. Vâng, cây hòe ấy đã sống rất lâu năm, những
cành nhánh dài vươn ra khắp bốn phương tám hướng. Cứ trông thấy cũng biết ngay
là một cây lão thụ. Đất dưới gốc cây đã xói lở đi nhiều, rễ cây lộ cả trên mặt
đất uốn éo ngoằn ngoèo, sứt sứt sẹo sẹo. Dưới ấy là nơi dung thân của
nhiều loại côn trùng. Có một hôm, Hưởng Vu Phần say khướt, bật khóc nức nở (cứ lời bạn bè nói thì đó là
khoảng tháng 9 năm 792 sau Kỷ nguyên), nói trông cây hòe vừa lớn vừa già nọ mà càng thêm xúc động sâu xa. Từ thuở mình còn bé bỏng đã từng
chơi giỡn dưới gốc cây. Cha chàng, ông nội chàng hồi còn bé bỏng cũng thường
chơi giỡn dưới gốc cây này. Đến nay, chàng đã thấy mình lớn rồi (kỳ thực chàng
mới gần ba mươi) mà vẫn lêu bêu vất vưởng, chàng khóc thê thảm, bạn bè lão Chu,
lão Điền dìu chàng vào nhà, đặt chàng nằm trên ghế dựa vào tường ở hành lang mé
Đông.
- Cậu chợp
mắt đi một chốc, là khỏe lại ngay. Bọn tớ đi cho ngựa ăn, tắm rửa
cho ngựa, đợi cậu khá một chút rồi mới về.
Hưởng Vu
Phần thiêm thiếp ngủ say. Vừa nhắm mắt thì thấy
có hai sứ giả áo tím đến vái chào, cung kính nói:
- Quốc
vương Hòe An đang đợi tiên sinh, đã phái xe ngựa ra đón, mời tiên sinh nhập triều
ngay cho.
Hưởng Vu
Phần lập tức ngồi dậy, thay quần áo mói đẹp. Ra đến cổng nhà thấy có cỗ xe màu lục, tháng bốn
con ngựa lớn, ngựa mang dây cương vàng, dây đai hồng.
Một đội
tùy viên của Hoàng gia khoảng bảy, tám người đang đứng chờ. Chàng vừa leo lên ngồi
xuống, xe liền phóng xuống dốc. Rễ cây thô lớn quấn quanh, hình thành một cái
động lớn. Ngoài ý liệu của chàng, cỗ xe cứ phóng thẳng vào trong động. Vào cửa
mới thấy có cả một dải giang sơn phong quang đẹp đẽ trước nay chàng chưa bao
giờ được thấy. Ba bốn dặm phía trước, có thành cao vây quanh, trên tường thành
chòi canh san sát, lầu trên cao vót. Dọc đường lớn dẫn đến cổ thành, xe ngựa đi
lại như nước chảy, giao thông nhộn nhịp. Khách bộ hành đứng ở hai bên dường
nhường đường cho xe đi qua, ai nấy đều chăm chú nhìn vị khách quý. Đến trước
cổng thành, Hưởng Vu Phần thấy trên thượng lâu của thành viết ba chữ vàng
"HÒE AN QUỐC". Tường thành vây quanh vài chục dặm, trên đường, nhân
dân chen vai thích cánh tựa hồ họ đều là những người cần lao hoạt bát. Tất cả
đều tề chỉnh sạch sẽ, lễ phép, lịch sự đến không ngờ. Họ chào hỏi nhau rất tử
tế, dừng chân chưa đầy một sao lại dóng xe lên đường trước như thể công tác bận
bịu mà ngày giờ thì không có nhiều. Chàng không biết tại sao dân ở đây lại vội
vã như vậy. Trên đầu những người phu đội những chiếc mũ lớn. Ngoài ra, cùng
còn những trạm đồn lính, những người lính canh tuân, quân phục chỉnh tề sạch
sẽ.
Vị đặc sứ
của Quốc vương đứng đợi ở cổng thành nghênh tiếp, sau đó cùng chàng đến một tòa
dinh thự nguy nga tráng lệ, tòa dọc dãy dài có những hoa viên tuyệt đẹp. Đáy là
nơi ở của khách của nước.
Đến nơi,
thị tùng vào thông báo có tể tướng đến thăm. Chủ khách gặp gỡ. Tể Tướng nói đến
việc hướng dẫn chàng đi yết kiến hoàng thượng. Tể Tướng bảo:
- Hoàng đế
muốn gả công chúa thứ hai cho Phò mã tiên sinh.
Hưởng Vu
Phần nói:
- Kẻ hèn
mọn này dám đâu nhận vinh dự lớn lao ấy.
Tuy nói
vậy, nhưng lại hết sức mừng rỡ trước diễm phúc lớn lao này. Bụng nghĩ:
"Cuối cùng thì vận may của ta cũng đã đến. Ta sẽ làm cho nhân dân cả nước rõ mặt Hưởng Vu Phần này
là người như thế nào. Ta nhất, định sẽ là một vị quan trung thực, trên thờ minh
quân, dưới vỗ yên trăm họ. Những ngày lêu lỏng trước đây coi như tuốt tuột
quẳng vào quá khứ, để mọi người thấy ta đây một phen dựng xây công nghiệp".
Sau dinh
thự chừng năm trăm mã, chàng cùng tể tướng đi vào một cổng sơn son lớn. Quân
cảnh vệ và các binh sĩ cầm thương, mang giáo hướng về phía quý khách kính lễ.
Bách quan mặc phẩm phục, chia đứng hai hàng bên đường lớn lót đá phiến, chiêm
ngưỡng phong thái của quý khách. Hưởng Vu Phần ngồi trên xe cảm thấy vinh dự,
tôn quý không thế tả, cả đời nằm mơ cũng khó được. Mà các bạn như lão Chu, lão
Điền cũng đứng ở trong đám người bên đường
nữa chứ. Lúc Hưởng Vu Phần đi qua hai người ngầm ra dấu nhận ra nhau, thầm nghĩ
hai người thấy cảnh phú quý của mình hôm nay chắc cũng ngẩn ngơ không biết tại
sao ta được diễm phúc vậy. Được tể tướng hướng dẫn chàng đến trước thềm đại
diện nghĩ rằng chắc đó là đạo sảnh, nơi hoàng cung tiếp khách quý. Chàng cơ hồ
không dám ngẩng đầu. Quan tán lễ ra lệnh cho chàng quỳ xuống, chàng tuân lệnh
quỳ xuống. hoàng đế phán rằng:
- Trẫm
chấp nhận lời cầu xin của lệnh tôn, cùng tôn phu kết nghĩa Tần Tấn, cũng lấy
làm vinh. Nay đem thứ nữ là Dao Phượng gả cho người làm phò mã đông sàng.
Hương Vu
Phần mừng rỡ không biết nói sao chỉ dập đầu lạy tạ ơn lia lịa.
- Được
rồi, bây giờ cho phép người thoái triều về phủ nghỉ ngơi vài hôm, tùy ý dạo
chơi thưởng ngoạn khắp nơi. Tể Tướng sẽ bầu bạn hướng dẫn ngươi đi thăm các nơi
danh thắng. Trẫm sẽ lập tức ra lệnh cho chuẩn bị đầy đủ, vài ngày sau sẽ cử
hành hôn lễ.
Thánh chỉ
truyền xuống mọi việc xong ngay. Vài ngày sau, khắp thành thôn, ngõ hẻm, mọi
người đua nhau nô nức xem lễ cưới công chúa. Công chúa mặc quần áo sa mỏng đeo
châu báu lấp lánh tựa mây ráng. Thị tì đẹp tựa thiên tiên vây quanh tứ phía. Công chúa thông minh, hiền
lành. Hương Vu Phần vừa nhìn thấy đã ngất ngây điên đảo. Đêm tân hôn, công chúa
nói:
- Em đã
thỉnh cầu Phụ vương phong quan tước cho chàng, làm quan gì cũng được, tùy chàng
muốn.
Chàng rể
say nói:
- Thú thực
với em dạo gần đây tôi lười nhác quá lắm, không nhiệt tình với công việc và
phép tắc công môn. Vả lại cũng chưa nghiên cứu rành rọt đạo an bang trị quốc.
Công chúa
mỉm cười duyên dáng nói:
- Việc đó
khỏi lo, em sẽ giúp chàng.
Hưởng Vu
Phẩn thầm nghĩ: "Ngoài cái tôn quý của ngôi phò mã, mình cũng cần địa vị
quan cao mới không hổ thẹn". Chàng sướng quá suýt khóc, nhưng lại e công
chúa hiểu lầm nên cố nén.
Hôm sau
công chúa cẩu xin hoàng đế. Hoàng đế bảo:
- Cha muốn
cho chàng làm Nam Kha Thái Thú. Thái thú trước mới bị miễn chức, vì bỏ bê chức
vụ. Ở đấy thành tri mỹ lệ đều tọa lạc ở khoảng núi non, ngoài thành có rừng
rậm, có thác nước, có hang động. Dân cư lao động cần cù giữ nghiêm pháp luật.
Màu da của họ tuy có sạm hơn chúng ta, nhưng họ đều dũng cảm thiện chiến. Công
chúa và Phò mã đến đấy trị lý tất nhiên nhân dân đều vui lòng thần phục. Các
con chắc chắn sẽ vui vẻ làm tốt công việc.
Hưởng Vu
Phần được chỗ tốt như vậy, mừng rỡ, quá cả điều mơ ước. Có công chúa bên mình
thì sá gì chân trời góc bể. Chàng nói:
- Thế thì
ta đem thân gánh vác chức Thái Thú Trấn Nam Kha vậy.
Công chúa
sửa lại:
- Không
phải Trấn Nam Kha mà là Quận Nam Kha.
Yêu cầu
duy nhất của Hưởng Vu Phần là xin cho các bạn nối khố lão Chu, lão Điền làm mạc
liêu. Chuyện đó nào khó gì. Trước khi lên đường, bách quan tiễn hành, hoàng đế
bệ hạ ngự giá tiễn đến tận cửa cung. Người đông như kiến, tranh nhau xem công
chúa với phò mã ngồi xe đi phó nhiệm. Bọn con gái rơi nước mắt vì dân nước này
vốn tính đa sầu đa cảm. Trước xe công chúa có đội kỵ binh, quân nhạc, sau xe có
quân hộ tống. Phải ba ngày dường, họ mới tới Quận Nam Kha, dân chúng hoan hô
rầm trời. Đôi vợ chồng mới cưới ở trọn năm tại Quận Nam Kha ngày tháng mới xiết
bao mỹ mãn! Dân chúng trăm họ hiền lành, tuân lẽ công, giữ gìn pháp luật, ai
cũng chăm lo nghề nghiệp, khắp thành không có dân du đãng, lười nhác, cũng
không có ăn mày. Hưởng Vu Phần nghe nói nếu có chiến tranh chẳng kể nam nữ, ai
cũng đều phấn đấu đánh giặc, bảo vệ nhà cừa, chẳng tiếc mạng sống, thế nhưng
rất ít xảy ra việc giết chóc, bách hại lẫn nhau.
Công chúa
nhân hậu thương dân nên rất được nhân dân yêu kính. Hưởng Vu Phần tính vốn lười
biếng, công chúa thường phải lay gọi chàng dậy sớm, xử lý công việc để làm
gương cho trăm họ. Tât cả đều xứng tâm mãn ý, duy mỗi việc chính trị chuyên cần
là xem ra chàng cảm thấy khó khăn. Nơi công đường
luôn sẵn để một bình mỹ tửu, nhưng vì lương tâm áy náy nên chàng thường
gắng gượng nhịn thèm để khỏi phụ lòng yêu thương của công
chúa, huống hồ chàng hiểu rất rõ nếu không chăm chỉ chăn dân thì không
xứng đáng là nơi trông cậy của hoàng thất. Chiều chiều thanh nhàn rỗi việc lệ
thường không phải đến phủ lo việc công, chàng thường cùng vợ yêu đi dạo nơi
rừng rậm, nắm tay nhau tản bộ dọc bờ sông, hoặc cùng lão Chu, lão Điền chén chú
chén anh vài ly nơi sơn động. Trời đẹp cảnh xinh, việc vui lòng sướng. Tất
cả đầy đủ mà không được thỏa lòng uống một trận thống khoái, đủ thấy làm quan
hiền, tôi giỏi cũng là việc khổ. Vợ thường bảo chàng:
- Thôi đủ
rồi không nên uống nữa!
Chàng
nghĩ: "Người ta mấy ai thập toàn thập mỹ". Chàng rất biết ơn công
chúa, bởi công chúa làm việc giúp chàng, xử lý giúp chàng các văn kiện quan
trọng. Lão Chu, lão Điền làm mạc liêu cho chàng, đối với chàng đã kính mà còn
sợ nữa. Chàng thầm nghĩ: "Cứ bình tâm mà nói thì cuộc sống của mình thế
này là hết sức mỹ mãn rồi không phải ước ao điều gì nữa".
Một năm
trôi qua, vợ yêu bỗng cảm phong hàn rồi bị bệnh qua đời. Hưởng Vu Phần đau đớn
quá, không cách giải sầu lại tiếp tục uống rượu. Chàng
dâng biểu xin từ chức về kinh, hộ tống linh cữu của công chúa về, chiếu lễ nghi
hoàng gia an táng. Dùng tiền bạc đã súc tích được, chàng xây cho vợ một tòa
lăng tẩm bằng đá trắng, ở trên gò núi cao chót vót,
khóc lóc rất thương tâm, quyết ý ở bên làng tẩm suốt ba năm trời.
Công chúa
chêt rồi, muốn sự đều không. Chàng cô độc, thê lương thả rong các nơi trong
thành, chẳng kể ngày đêm thường lần đến các
quán rượu mua say. Hoàng đế mất con gái yêu, đối với
Hưởng Vu Phần ngày càng lãnh đạm. Có người tâu vua: phò mã rong chơi nhếch nhác
bên ngoài làm mất cả thể thống. Vì nghĩ đến con gái yêu, hoàng đế không nỡ ra
lệnh bãi truất chàng. Tình trạng của chàng, nhân dân trăm họ đều biết, bạn bè
ngày dần quay lưng bỏ rơi, cảnh huống ngày càng ngang trái, đến nỗi phải vay
tiền lão Chu, lão Điền để uống rượu. Có lần bị người phát hiện nằm say li bì
trên đất ở một quán rượu suốt đêm. Các kỳ lão trong dân gian đều yêu cầu:
- Tống cổ
tên bại hoại đó đi! Thật rõ bêu riếu khiến nước chúng ta mất hết thể diện!
Hoàng đế
cũng xấu hổ vì có một phò mã như vậy. Một hôm, Hoàng Hậu bảo Hưởng Vu Phần:
- Công
chúa mất rồi, ngươi thương tâm quá. Thôi hãy trở về nhà cho ngày tháng nguôi
ngoai bớt đi chăng?
- Nơi đây
chính là nhà của con. Con còn biết về đâu bây giờ?
- Nhà của
con là ở Quảng Lăng. Con quên rồi sao?
Hưởng Vu
Phần chập chờn nhớ lại ở Quảng Lăng có một ngôi nhà, một năm trước mình có đến vùng ấy.
Chàng cúi đầu bơ phờ, nói muốn về nhà.
- Được, để
ta sai người tiễn con về.
Chàng lại
thấy hai sứ giả ngày nọ đưa chàng đến đây. Nhưng lần này, chàng ra đến cổng thì
chỉ thấy một cỗ xe ngựa vừa xấu vừa nát, cũng không có lính, không tùy viên và
không bạn bè đưa tiễn. Thậm chí, quần áo kẻ tôi
tớ cũng vừa cũ vừa tả tơi rách rưới bạc màu. Lúc qua cổng thành chẳng ai thèm
lý đến. Chàng hồi tưởng cảnh vinh hiển phồn hoa trước đây, bất giác hiểu trọn
vẹn cái cảnh giàu sang ở chốn hồng trần toàn là hư huyễn. Chàng còn nhớ rõ đường đi năm
trước. Chẳng bao lâu, cỗ xe ngựa xuyên qua một cổng đá, chàng thoáng nhìn đã
nhận ra làng cũ, bất giác sa lệ. Sứ giả đưa chàng về đến nhà, dìu chàng đến
ngồi chiếc ghế dựa bên tường hành lang mé Đông lớn tiếng bảo:
- Hiện đã
về đến nhà rồi đó!
Hưởng Vu
Phần giật mình tỉnh dậy, thấy bạn bè lão Chu, lão Điền đang đứng rửa chân ở
sân, tịch dương đổ bóng râm in trên vách tường đông. Chàng thảng thốt kêu lên:
- Đời
người như giấc mộng a!
Lão Chu,
lão Điền chạy vội đến hỏi:
- Sao, cái
gì? Đã thấy tỉnh chút nào chưa?
Chàng kể
lại giấc mộng ly kỳ ở nước Hòe An cho hai người nghe, cả hai đều kinh lạ. Chàng dẫn
Chu, Điền hai gã ra dưới gốc hòe, chỉ chỗ rễ cây ngoằn ngoèo uốn khúc, dưới có
một cái hang lớn bảo:
- Đây
chính là nơi cỗ xe ngựa đưa tôi đi vào, tôi còn nhớ rất rõ.
- Nhât
định cậu bị tinh cây mê hoặc đây, Cây hòe này già lắm rồi.
Hưởng Vu
Phần nói:
- Sáng mai
hai cậu trở lại, mình cùng xem xét cái động này xem sao.
Hôm sau,
chàng sai đầy tớ cầm rìu đào cái động nọ lên. Sau khi
chặt đứt một số rễ cây lớn thì phát hiện cái động này vuông cỡ mười thước
(Tàu). Trong động, đường đi quanh co dọc ngang. Ở mé Đông, có bãi đất trống
bằng phẳng có một tòa thành nhỏ, có đường đi, có địa khu, có đường thông, nghìn
vạn con kiến đang vây quanh. Ở giữa có một đài cao,
phía trên có hai con kiến lớn cánh trắng, đầu trắng, có rất nhiều kiến lớn đứng
bốn phía. Hưởng Vu Phần kinh ngạc quá nói:
- Đây
chính là Hòe An Quốc. hoàng đế đang ngồi trong cung đó.
Giữa động
có một đường thông đạo dài đến một cành cây mé Nam, ở đó có một cái động lớn, phía
ngoài có một con kiến, bên trong kiến trúc bằng bùn, cũng có đường thông. Sắc
kiến ở đây so với những con ở giữa trung tâm động thì đen hơn. Chàng
nhận ra đó là lầu thành của Quận Nam Kha, cái thành thị nhỏ nơi chàng từng sống
quá một năm êm ấm. Sào huyệt của kiến bị người quậy phá. Chàng thấy lũ bách
lính dưới tay chàng trị lý năm xưa đang kinh hoàng chạy cuống cuồng khắp nơi,
lòng chợt xót xa không nỡ. Tận cùng chỗ mục nát của rễ cây được khoét thành một
đường rãnh, cạnh bên có một miếng rêu xanh, không ngờ gì nữa, đây chính là chỗ
chàng và công chúa đã từng sống qua những ngày sướng vui vô hạn ở chốn rừng
rậm. Gần đó có một cái động nhỏ, chính trong động này vợ từng khuyên bảo chàng:
- Thôi đủ
rồi, không nên uống nữa!
Hưởng Vu
Phần khôn xiết kinh lạ, chàng lại đo lường con đường thông đến trung tâm động
nọ. Con đường này chàng từng cùng công chúa dong cỗ xe ngựa đi suốt ba ngày
trời. Sau cùng chàng còn phát hiện một cái động nhỏ khác, xa về mé Đông cờ mười
thước (Tàu). Ở đó, có ít cục đá chỉ nhỏ cao chừng ba tấc, trên có một cục đá
nhỏ ở chỗ vách đá cheo leo cao vút. Nhìn qua hình dạng, lập tức chàng nghĩ đến
lăng tẩm của công chúa. Vẫn biết rằng đó chỉ là giấc mộng, nhưng đối với tình
ân ái của còng chúa, chàng vẫn như xưa không thể nào nguôi. Chàng không nén
được cảm thán nỗi hư vô không huyễn của kiếp nhân sinh, hệt như khói mây trôi qua
mắt. Chàng thở dài quay bảo Chu, Điền hai người:
- Tôi cứ
tưởng mình nằm mộng, dế đâu bây giờ mới biết Hòe An Quốc hoàn toàn là thật.
Giữa ban ngày ban mặt, không tơ hào là giả. Đại khái, chúng mình đều là đang
mộng cả đấy thôi.
Từ đó về
sau, Hưởng Vu Phần khác hẳn. Chàng xuất gia làm sư, lại uống rượu lại, càng
uống dữ dội hơn. Ba năm sau thì chết.
Lý Công Tá
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét