Đại Ngọc - Tình Văn: tuy hai mà một
Anh Nguyễn
Tranh vẽ Lâm Đại Ngọc
Trong giới Hồng học, ít ai còn xa lạ với việc Tào Tuyết Cần
cố ý xếp đặt cho Tình Văn trở thành phiên bản song sinh của Đại Ngọc. Tuy nhiên
nếu độc giả không chú ý thật kỹ thì dễ dàng để những chi tiết lắt léo mà tác giả
dày công “cài cắm” trượt khỏi ý thức của mình. Sau khi dành cả đời tận tâm
nghiên cứu Hồng học, ông Chu Nhữ Xương cũng phải thốt lên “Hồng Lâu Mộng thật
không dễ đọc và càng khó để hiểu.” Điều này khẳng định một lần nữa tài năng
trác tuyệt của Tào Tuyết Cần trong việc kiến tạo một tác phẩm đồ sộ nhưng rất tự
nhiên, “không có dấu vết của công phu và nhân tạo” như ông Nhật Chiêu đã nhận
xét.
Mặt khác, đối với độc giả mê Hồng Lâu Mộng, tự
mình nhặt nhạnh những đầu mối để giải những bài tập Hồng học là một thử thách
thú vị. Thí dụ có người đã ví Tình Văn như “cái bóng” của Lâm Đại Ngọc vậy.
Trong bài này, người viết xin mạn phép hệ thống lại những điểm tương đồng giữa
hai nhân vật Đại Ngọc-Tình Văn nhằm làm sáng tỏ những thông điệp về “duyên” và
“nghiệp” của Hồng Lâu Mộng.
Tranh vẽ Tình Văn
Nếu Tình Văn là cái bóng trong gương của Đại Ngọc thì Tập Nhân là hình ảnh phản chiếu của Bảo Thoa. Khi xét về mối tương quan giữa Đại Ngọc-Tình Văn, ta luôn cần so sánh nó với cặp bài trùng Bảo Thoa-Tập Nhân. Trước hết, về hoàn cảnh xuất thân, Bảo Thoa và Tập Nhân đều mồ côi cha nhưng vẫn còn mẹ và anh trai thương yêu. Tình Văn và Đại Ngọc đều mồ côi cha mẹ, bơ vơ không nơi nương tựa. Đây là điểm khiến họ trở nên vô cùng đáng thương trong con mắt người đọc. Tuy trẻ tuổi, Đại Ngọc và Tình Văn đều không ảo tưởng về địa vị của họ trong phủ Giả. Hai cô gái mồ côi gửi gắm thân mình vào nhà họ Giả, tuy được chiều chuộng từ tấm bé, nhưng họ đều ý thức rõ rằng sự thân thiện của nhà họ Giả cũng chỉ là “giả” mà thôi, có thể tan biến bất cứ lúc nào như làn khói mỏng. Quả nhiên khi câu chuyện đến hồi kết, Đại Ngọc và Tình Văn đều bị chính những kẻ cưu mang họ hắt hủi, đúng với nhận xét của Bảo Ngọc là như “cây hoa lan bị vứt vào chuồng lợn.” Tình Văn bị giới quý tộc mà nàng nai lưng hầu hạ rũ bỏ như một miếng giẻ rách, còn Đại Ngọc bị Giả Mẫu mà nàng yêu thương ruồng bỏ. Đó là bi kịch thứ nhất của Đại Ngọc và Tình Văn. Ngược lại, Tập Nhân và Bảo Thoa được nhà họ Giả đối xử tử tế cho đến cùng.
Tình Văn vá áo lông công cho Bảo Ngọc
Điểm tương đồng thứ hai được nhắc đi nhắc lại trong Hồng
Lâu Mộng là sự giống nhau về hình dáng của Đại Ngọc-Tình Văn. Vương
phu nhân nhận xét Tình Văn là “lưng hơi cong, vai hơi thon, lông mày và mắt lại
hơi giống em Lâm.” Trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách, Lâm Đại
Ngọc đứng đầu, nàng là tiểu thư đẹp và tài năng nhất trong Giả phủ. Trong Kim
Lăng thập nhị thoa hựu phó sách, Tình Văn cũng là số một, nàng là người hầu
có nhan sắc diễm lệ nhất, khí chất cao đẹp và trong sáng nhất. Tào Tuyết Cần nhắc
đi nhắc lại rằng Tình Văn có hình dáng giống Lâm Đại Ngọc, và cùng gắn vẻ đẹp của
họ với mỹ nhân số một Trung Hoa: Tây Thi. Một số dẫn chứng:
– Khi Lâm Đại Ngọc lần đầu xuất hiện đã gây ấn tượng bởi
vẻ đẹp mong manh, yếu đuối của nàng. Tào Tuyết Cần gọi đó là nét mềm mại “Vẻ
thư nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió. Tim đọ Tỉ Can
hơn một trăm khiếu, bệnh so Tây Tử trội vài phân.”
– Lâm Đại Ngọc chôn hoa là một trong những hình ảnh lãng
mạn nhất trong Hồng Lâu Mộng. Khi Bảo Ngọc ngó thấy Linh Quan vạch vẽ chữ “Tường”
trên mặt đất liền đoán rằng con bé học theo Đại Ngọc chôn hoa, và gọi đó là trò
Đông Thi vờ nhăn mặt, không có gì hay mà còn đáng chán. (Tây Thi đời Chiến quốc
nhan sắc tuyệt vời, khi nhăn mặt lại càng đẹp. Ở phía đông trong làng có một
người con gái rất xấu, thấy thế cũng bắt chước. Nhưng khi cô ta nhăn mặt, người
giàu trông thấy phải đóng cửa, không dám nhìn, người nghèo trông thấy phải đem
cả vợ con trốn đi nơi khác.)
– Đến bọn con hầu, người ở trong nhà cũng lén gọi Lâm Đại
Ngọc là “nàng Tây Thi đa bệnh,” vừa vì nàng có nhan sắc hơn người, vừa vì Đại
Ngọc ốm đau luôn.
Đại Ngọc cầm cuốc đi chôn hoa
Giống như Đại Ngọc, Tình Văn có nhan sắc đặc biệt trội
hơn hẳn các nô tỳ khác trong phủ, khiến nàng bị ghen ghét không ít. Tình Văn
cũng thường được/ bị ví với Tây Thi:
– Vợ Vương Thiện Bảo khi ton hót với Vương phu nhân có
nói rằng Tình Văn “Nó cậy sắc đẹp hơn người, miệng lại khéo léo, ngày
nào cũng trang điểm như nàng Tây Thi.” Lời dèm pha này đã bắt đầu quá
trình Tình Văn bị ngược đãi.
– Khi Vương phu nhân tới tra hỏi Tình Văn, con mắt giận dữ
của bà thấy nàng “đầu tóc bơ phờ, áo quần lõng thõng, có vẻ lẳng lơ như Tây
Thi đêm xuân nằm ôm bụng.” Vốn là người mừng giận bất thường, bà ta liền mắng
chửi Tình Văn: “Đẹp thật! Thật là giống hệt ‘Tây Thi đương ốm!’ Ngày
nào mày cũng giở cái lối trai lơ ấy ra để cho ai xem đấy? Mày cứ tưởng là ta
không biết việc mày làm à?”
Trong toàn bộ Hồng Lâu Mộng, ngoài Đại Ngọc
và Tình Văn ra, không còn ai được ví với nàng Tây Thi nữa. Nhưng cũng đúng với
câu hồng nhan bạc mệnh, số phận của cả hai cũng thật đau xót, đúng như bài vịnh
Tây Thi mà Đại Ngọc đã viết trong chùm thơ Ngũ mỹ:
Trôi theo hoa sóng ngán
cho đời,
Luống để vua Ngô nhớ thiếp
hoài.
Đừng bảo Đông Thi nhăn mặt
vụng,
Bạc đầu mà vẫn giặt bên
khơi.
Điểm tương đồng thứ ba giữa Đại Ngọc-Tình Văn là tính
cách của họ. Nhạy cảm, thông minh vốn sẵn tính trời, cả hai cô gái đều dễ xúc động,
hay buông lời trách móc, đùa cợt, trêu chọc người khác. Đúng như lời sấm báo,
Tình Văn “tinh khôn, đài các tổ người ghen.” Đại Ngọc thì thường “tinh ranh,
nói câu bỡn cợt.” Sở dĩ tính cách Đại Ngọc-Tình Văn như vậy một phần do hoàn cảnh
côi cút của họ, một phần do họ đều có lòng yêu Bảo Ngọc, từ yêu đâm ra ghen,
càng ghen lại càng mẫn cảm với những bóng hồng xung quanh anh ta. Đối tượng gây
hiềm khích của Đại Ngọc-Tình Văn cũng tương ứng với thứ bậc của họ. Đại Ngọc
ghen với Bảo Thoa và Tương Văn; chiếc khóa vàng, con kỳ lân vàng, và điềm báo
“kim ngọc lương duyên” khiến nàng bứt rứt không thôi.
Tình Văn, với vai trò người hầu cận bên Bảo Ngọc, thường
hay soi xét Tập Nhân và Xạ Nguyệt – hai a hoàn thân thiết khác. Với Xạ Nguyệt,
nàng chỉ thường trêu chọc, nhưng biết rõ quan hệ “trên mức bình thường” của Bảo
Ngọc và Tập Nhân, nàng rất dễ nổi cáu:
Tình Văn nghe thấy hai
tiếng “Chúng tôi”, cho ngay là Tập Nhân muốn nói cô ta với Bảo Ngọc, trong bụng
đâm ra ghen, liền cười nhạt mấy tiếng:
– Tôi chả biết ai là
“Chúng tôi” cả, đừng để tôi phải hổ thẹn thay cho ai! Các người làm những việc
thầm kín với nhau, giấu thế nào được tôi! Tôi cứ nói thẳng: ngay các cô nhà này
cũng còn chưa với lên được, huống chi chị cũng như tôi, thế mà lại dám gọi
“Chúng tôi” à?
Điểm tương đồng thứ tư giữa Đại Ngọc và Tình Văn là biểu
tượng hoa phù dung. Những người đẹp trong Hồng Lâu Mộng thường được ví với hoa.
Bảo Thoa là hoa mẫu đơn rực rỡ, đài các, đầy đặn, Thám Xuân là hoa hồng đẹp
thơm nhưng lắm gai làm đau người khác, Kim Quế là hoa quế sắc sảo tàn nhẫn,
Tương Vân là thược dược phóng khoáng, Hương Lăng là củ ấu bình dị, v.v,… Đại Ngọc
và Tình Văn đều ứng với hoa phù dung. Phù dung là loài hoa đẹp kiều mị nhưng
mong manh, sớm nở tối tàn. Người sao hoa vậy, cả hai cô gái đều lìa đời khi
đang ở tuổi hoa đẹp nhất. Những dẫn chứng về Đại Ngọc-Tình Văn và hoa phù dung
bao gồm:
– Khi uống rượu rút thẻ hoa với các chị em, Đại Ngọc rút
được thẻ hoa phù dung.
Rồi rút được một thẻ vẽ
một cành hoa phù dung, có đề bốn chữ “sương gió buồn tênh”. Mặt sau có một câu
thơ cổ: “Thương mình nào dám giận gì gió đông”. (…) Mọi người cười nói:
– Hay quá! Trừ cô ấy ra,
không còn có ai đáng làm hoa phù dung nữa.
– Khi Bảo Ngọc lên thăm Thái hư ảo cảnh lần thứ hai, nữ
thần cai quản hoa phù dung chính là Tiêu Tương phi tử – cùng tên với Đại Ngọc
khi còn sống. Đây chính là hậu kiếp của Đại Ngọc.
– Khi Tình Văn qua đời, Bảo Ngọc liền làm Văn tế nữ thần hoa phù dung để tiễn linh hồn nàng. Về sau câu chuyện lưu truyền trong Đại Quan viên theo lời Giả Dung rằng Tình Văn đã hóa thành nữ thần coi hoa phù dung.
Cuối cùng, điểm tương đồng giữa Đại Ngọc-Tình Văn là mối quan hệ của họ với Bảo Ngọc. Không phải ngẫu nhiên mà Tào Tuyết Cần để Tình Văn làm “cánh chim xanh” đưa thư giữa Đại Ngọc-Bảo Ngọc. Bức thư tình đầu tiên Bảo Ngọc gửi cho cô Lâm không có thơ, không có họa, mà chỉ là hai chiếc khăn lụa cũ trơn. Tình Văn nửa tin nửa ngờ nhưng vẫn vâng lời đem tín vật này đến cho Đại Ngọc, đó là thời điểm bước ngoặt của câu chuyện chính thức đánh dấu Bảo Ngọc-Đại Ngọc sa chân vào đường tình ái.
Tập Nhân và Bảo Thoa cũng gần gũi Bảo Ngọc vậy, song vì
sao họ không bao giờ chạm được vào trái tim Bảo Ngọc? Đó là vì Tập Nhân, Bảo
Thoa ăn mặc giản dị, được lòng trên dưới, đáng kính đáng yêu,… song họ không hiểu
được chí hướng của Bảo Ngọc, một mực khuyên chàng học hành, đỗ đạt, làm quan. Họ
có biết đâu Bảo Ngọc sinh ra trong trời đất này chỉ để nếm trải thất tình lục dục
của con người, để đốt cháy trái tim đến tận cùng, buông thả cho “lửa nhiệt độc”
tình ái bẩm sinh dẫn chàng ta đến đâu thì đến. Viên ngọc là hòn đá hóa thành,
sau khi mất đi em Lâm, Bảo Ngọc lại quay trở về làm hòn đá lãnh đạm với đời.
Bảo Thoa và Tập Nhân có yêu Bảo Ngọc không? Có. Nhưng họ
có sẵn sàng hủy mình vì tình yêu đó chăng? Không. Chỉ có Tình Văn dù ốm yếu vẫn
“vùng dậy vá áo cừu” cho Bảo Ngọc không màng đến thân mình, báo trước cho việc
Đại Ngọc tự hủy hoại bản thân khi tình yêu tan vỡ. Tình Văn xé quạt, Đại Ngọc cắt
dây đeo ngọc chính là những điềm báo số phận của họ. Trong câu chuyện này, chỉ
có Đại Ngọc-Tình Văn dám cháy hết mình cho tình yêu, bất chấp kết quả bi đát.
Tình Văn xé quạt
Một điểm cần lưu ý: Đại Ngọc và Tình Văn tuy có tình cảm
mãnh liệt với Bảo Ngọc, song mối quan hệ đó hoàn toàn trong sạch, không vướng
nhơ bẩn của tình dục. Trong Hồng Lâu Mộng, cả Tình Văn và Đại Ngọc
đã cùng nằm chung một giường với Bảo Ngọc (Đại Ngọc khi nằm ngủ trưa, Tình Văn
khi cảm lạnh) nhưng họ vẫn là xử nữ băng thanh ngọc khiết. Ngược lại, Tập Nhân
và Bảo Thoa là hai người có quan hệ chăn gối với Bảo Ngọc, nhưng mãi là “đồng
sàng dị mộng”, nên nực cười thay khi nhà họ Giả nghi ngờ Tình Văn đã quyến rũ Bảo
Ngọc vào con đường xằng bậy, khiến nàng khi sắp chết vẫn ôm hận mang tiếng xấu
mà chẳng được sống hết mình, quả là “Chịu tiếng ong ve thành tổn thọ,
đa tình công tử luống than phiền.”
Tình Văn gạt nước mắt, với
lấy con dao cắt đứt hai móng tay tháp bút, sau lại cho tay vào trong chăn, cởi
chiếc áo lót bằng lụa hồng cũ cùng với móng tay đưa cho Bảo Ngọc và nói:
– Cậu hãy cầm lấy. Sau này trông thấy vật này cũng như thấy tôi vậy. Cậu cởi ngay áo của cậu ra cho tôi mặc. Tôi dù có nằm trong quan tài thì cũng như ở viện Di Hồng. Lẽ ra không nên như thế, nhưng trót mang tiếng hão, tôi không còn cách nào.
Tình Văn trước khi chết và Bảo Ngọc trong ngôi nhà lụp xụp
Với vai trò “chị em song sinh”, cái chết của Tình Văn báo
trước kết cục của Đại Ngọc. Khi qua đời Tình Văn ho dồn, gầy mòn, và mang những
dấu vết của bệnh lao. Khi đọc đến đây, người đọc không khỏi ngậm ngùi vì biết số
phận Đại Ngọc cũng không mấy tốt đẹp hơn. Hai người con gái đẹp đẽ, trong sáng,
lãng mạn bậc nhất Giả phủ đều chết trong cảnh cô độc, không người thân thiết.
Tuy nhiên Tình Văn còn đôi phần có hậu hơn vì nàng được gặp Bảo Ngọc trước khi
lìa trần, được thổ lộ hết tấm tình chân thật. Đại Ngọc trút hơi thở cuối cùng
trong khi người yêu làm lễ hợp cẩn với người con gái khác, âu cũng là số kiếp
sinh ra để trả nợ tình kiếp trước bằng nước mắt.
Lâm Đại Ngọc qua đời
Theo Tào Tuyết Cần, nghiệp chướng ái tình của Lâm Đại Ngọc
chính là phải chịu cảnh “hoài công biết nhau” với Bảo Ngọc. Cũng như Tình Văn,
Đại Ngọc chia sẻ với Bảo Ngọc mối tình đằm thắm, song tất cả chỉ là uổng phí.
Có lẽ đến lúc chết, Đại Ngọc vẫn không thể nhắm mắt được vì những câu hỏi luẩn
quẩn:
Bảo rằng chả có duyên
đâu,
Thì sao lại được gặp
nhau kiếp này?
Bảo rằng sẵn có duyên
may,
Thì sao lại đổi thay lời
nguyền?
Lâm Đại Ngọc có thể không hiểu, nhưng người đọc không thể
không hiểu: chính cuộc tình tưởng chừng như vô thường, “bóng trăng đáy nước,
hoa rọi trong gương” đó mới là ái tình thật sự. Vì khi giấc mộng lầu hồng chấm
dứt, cát bụi lại trở về với cát bụi, giả và chân dần lộ rõ thì chỉ còn lại mối
ơn đằm thắm của Thần Anh với Giáng Châu còn sống lại mãi với nhân gian. Tình chỉ
đẹp khi còn dang dở là vậy!
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét