Lỗ Túc - nhân vật đóng vai trò quan trọng chống đỡ mối quan hệ bấp bênh giữa Ngô - Thục, cùng với Khổng Minh bên phía Lưu Bị. |
NGÔ THƯ QUYỂN 9 - CHU DU LỖ TÚC LÃ MÔNG TRUYỆN
Chu Du, Lỗ Túc, Lã Mông
LỖ TÚC TRUYỆN
Lỗ Túc tự Tử Kính, người huyện Đông Thành quận Lâm Hoài. Lúc sinh thì mất cha, ở với bà nội. Nhà rất nhiều tiền của, tính lại ưa bố thí. Bấy giờ thiên hạ đã loạn, Túc không lo việc nhà, chỉ phân chia tiền của, bán bỏ ruộng đất để cấp chẩn cho người nghèo cùng, giao kết với kẻ sĩ, rất được lòng người trong thôn ấp.
Chu Du làm Cư Sào Trưởng,
đem mấy trăm người cố qua thăm Túc, và xin lương tiền. Nhà Túc có hai vựa lúa,
mỗi vựa có ba nghìn hộc, Túc bèn đem một vựa trao cho Du, do đó Du thêm coi trọng
Túc, bèn giao kết với nhau, làm bạn Kiều, Trát(1). Viên Thuật nghe danh Túc, liền
cho làm Đông Thành Trưởng. Túc thấy Thuật không có phép tắc, không đủ cùng mưu
việc, bèn đem hơn trăm người già yếu, người trẻ hào hiệp đi về phía nam, đến Cư
Sào gặp Du. Lúc Du vượt sông về phía đông, nhân đó cùng đi.
Ngô thư viết: Túc có
dáng vẻ khôi kì, thuở trẻ có chí lớn, ưa bày mưu lạ. Bấy giờ thiên hạ sắp loạn,
bèn học đánh kiếm, bắn cung, cưỡi ngựa, chiêu tụ người trẻ tuổi, cấp cơm áo cho
họ, qua lại núi Nam Sơn săn bắn, ngầm chọn bộ khúc, giảng võ luyện quân. Người
già cả đều nói: “Nhà họ Lỗ suy kém mới sinh ra thằng cuồng ấy”! Sau đó hào kiệt
cùng nổi dậy, Trung Châu rối loạn, túc bèn lệnh thuộc hạ nói: “Trung Quốc mất
phép tắc, giặc cướp làm càn, vùng Hoài Tứ(2) không phải là đất sinh sôi, ta
nghe nói miền Giang Đông có đồng lầy vạn dặm, dân giàu quân mạnh, có thể tránh
nạn, ai chịu cùng theo ta đến miền đông để đợi xem sự biến không”? Thuộc hạ đều
nghe lệnh, bèn sai người nhỏ yếu đi trước, kẻ khoẻ mạnh đi sau, cả thảy hơn ba
trăm trai gái cùng đi. Quân kị trong châu đuổi theo, bọn Túc đi chậm, xua quân
chống lại, bảo chúng nói: “Bọn khanh là trượng phu nên biết thế lớn. Nay thiên
hạ quân loạn, có công chẳng được thưởng, chớ đuổi theo người không có tội, sao
lại ức ép nhau thế”? Lại tự dựng khiên, lấy cung bắn chúng, tên đều xuyên thâu.
Quân kị đã khen lời Túc, lại không chống được, bèn dắt nhau chạy về. Túc vượt
sông đến gặp Sách, Sách cũng khen là kì khôi.
Lưu người nhà ở Khúc
A. Gặp lúc bà nội chết, đem về táng ở Đông Thành.
Lưu Tử Dương làm bạn
tốt với Túc, gửi thư cho Túc nói: “Ngày nay hào kiệt trong thiên hạ cùng nổi dậy,
ta nhờ vào tiền của của ông mới được như ngày nay. Vì việc gấp mà về đón mẹ
già, rồi không có việc gì đành ở lại tại Khúc A. Gần đây có người tên là Trịnh
Bảo đang ở tại Sào Hồ, tụ hơn vạn người, đất đai màu mỡ, người quận Lư Giang phần
lớn đến nương nhờ ở đấy, huống chi bọn ta đây” Xem hình thế đất ấy có thể tụ tập
đông đảo, thời cơ không nên để mất, túc hạ mau đến đi”. Túc đáp thư theo kế ấy.
Táng xong, về Khúc A, muốn đi về phía bắc. Vừa lúc Du đã dời mẹ Túc đến đất
Ngô, túc kể tình trạng cho Du. Bấy giờ Sách đã hoăng, Quyền vẫn ở tại đất Ngô.
Du bảo Túc nói: “Ngày xưa Mã Viện đáp Quang Vũ Đế nói: ‘Vào thời ngày nay,
không chỉ vua chọn tôi, mà còn tôi cũng chọn vua’. Nay ông chủ kính người hiền
yêu kẻ sĩ, thu mưu kì, nạp kế lạ, vả lại ta nghe nói có lời sấm của bậc hiền
thánh ngày trước nói rằng người thay vận họ Lưu ứng tại miền đông nam. Suy xét
thế cuộc, nay đang là buổi ấy vậy. Xoay dứt ngôi Đế để hợp mệnh trời, đây là
lúc kẻ sĩ nhanh chóng nương rồng dựa phượng. Ta sắp làm thế, túc hạ chớ nên vướng
vịn vào lời của Tử Dương”. Túc nghe lời này, Du nhân đó tiến cử Túc là người
tài giúp đời được, lại tìm nhiều người như thế để lập nên nghiệp lớn, không nên
khiến họ bỏ đi.
Quyền đã gặp Túc,
cùng nói chuyện rất vui. Bọn khách đã bãi hội, Túc cũng từ tạ đi ra, bèn dẫn
riêng Túc về, cùng ngôi trên giường uống rượu, nhân đó bàn ngầm rằng: “Nay nhà
Hán nghiêng nguy, bốn phương rối loạn, ta nối nền nghiệp của cha anh, mưu lập
công của Hoàn, Văn. Ông đã chịu theo, làm sao để giúp”? Túc đáp nói: “Ngày xưa
Cao Đế khăng ngăng muốn tôn thờ Nghĩa Đế(3) mà không cướp ngôi, để cho Hạng Vũ
gây hại. Tào Tháo ngày nay như Hạng Vũ ngày xưa, Tướng quân sao lại chỉ làm
Hoàn Công mà thôi? Túc đã nghĩ kĩ rồi, nhà Hán không thể dựng lại, không thể
không trừ Tào Tháo, bày kế cho Tướng quân, chỉ có làm thế chân vạc ở Giang
Đông, đợi xem sự biến của thiên hạ. Khuôn phép như thế, cũng chẳng bị ghét. Vì
sao? Phương bắc đang có nhiều việc, nhân lúc phương bắc có nhiều việc mà diệt
trừ Hoàng Tổ, đến đánh Lưu Biểu, đi ngược chỗ cùng của sông dài mà chiếm lấy đất
ấy, sau đó xưng hiệu Đế Vương mà mưu tranh thiên hạ, đấy là nghiệp lớn của Cao
Tổ vậy”. Quyền nói: “Nay gắng sức lấy một vùng, như thế là giúp nhà Hán rồi, lời
này không thể làm được”. Trương Chiêu cho là Túc không có chí nhún nhường, liền
chê bai Túc, nói rằng Túc tuổi còn trẻ dại, chưa nên dùng. Quyền không vì thế
mà vướng bận, lại càng coi trọng Túc. Ban áo quần màn trướng cho mẹ Túc, cho ở
nhà nhiều tiền của như ở nhà cũ.
Lưu Biểu chết, Túc đến
nói rằng: “Kinh Sở liền kề với ta, dòng nước thuận lên phía bắc, ngoài liền dải
với miền Giang Hán, trong bao bọc gò, có cái vững của thành vàng, đồng lầy vạn
dặm, dân chúng giàu có, niếu chiếm lấy đất ấy, đấy là cái của cải của Đế Vương
vậy. Nay Biểu mới chết, hai người con vốn không hòa mục, các tướng trong quân lại
đều mỗi người mỗi ý. Lại thêm Lưu Bị kiêu hùng, có hiềm khích với Tháo mà ở nhờ
chỗ Biểu, Biểu ghét tài Bị mà không được dùng vậy. Nếu Bị hợp lòng với bên ấy,
trên dưới cùng giúp, thì nên vỗ về, cùng kết thề ước; nếu có trái nghịch, nên
chia rẽ mà đánh lấy để mưu việc lớn. Túc xin được vâng lệnh sang thăm hai con
Biểu, nhân đó an ủi những người coi việc trong quân của bên ấy, cùng khuyên Bị
vỗ về quân của Biểu, một lòng một ý, cùng chống Tào Tháo, Bị tất mừng mà vâng lệnh.
Nếu bên ấy theo về, mới định được thiên hạ. Nay nếu không đến sớm, sợ rằng Tháo
sẽ đến trước”. Quyền liền sai Túc đi. Đến Hạ Khẩu, nghe tin Tào Công đã hướng về
Kinh Châu, đi gấp ngày đêm, kịp đến Nam Quận, lại nữa con Biểu là Tông đã hàng
Tào Công, Bị kinh hoàng vội bỏ chạy, muốn vượt sông về phía nam. Túc bèn đi thẳng
đón Bị, đến Trường Bản huyện Đương Dương, gặp với Bị, nói rõ lệnh của Quyền, đến
lúc bày trận vững mạnh ở Giang Đông, khuyên Bị hợp sức với Quyền. Bị rất vui mừng.
Bấy giờ Gia Cát Lượng đi theo với Bị, Túc bảo Lượng nói: “Ta là bạn của Tử
Du”(4). Liền cùng giao kết. Bị bèn đến Hạ Khẩu, sai Lượng làm sứ giả đến chỗ
Quyền, Túc cũng quay về.
Thần là Tùng Chi xét:
Lưu Bị hợp sức với Quyền cùng chống Trung Quốc, đều là mưu ý của Túc. Lại bảo
Gia Cát Lượng rằng: “Ta là bạn của Tử
Du”, vậy thì Lượng thường nghe nói đến Túc rồi. Mà truyện về Lượng trong
Thục thư nói: “Lượng bày mưu liên hoành mà khuyên Quyền, Quyền bèn cả mừng”, cứ
như là kế ấy bắt đầu có từ Lượng. Như quan chép sử của hai nước đều chép những
điều mà mình được nghe nói đến, lại muốn nêu cao cái hay đẹp của nước mình,
cùng lấy công về nước mình. Nay chép hai sách ấy làm chứng rằng kế ấy cùng xuất
từ một người, vậy mà lẫn lộn như thế, đấy không phải là phép tắc của việc chép
sử vậy.
Gặp lúc Quyền biết được
tin Tào Công muốn đánh phía đông, bàn với các tướng, đều khuyên Quyền đón Tào
Công, nhưng riêng Túc không nói. Quyền đứng dậy thay áo, Túc theo vào sau nhà,
Quyền biết ý ấy, cầm tay Túc nói: “Khanh muốn nói gì”? Túc đáp nói: “Nếu xét ý
của mọi người, chỉ muốn làm cho Tướng quân lầm lỡ, không đủ để cùng mưu việc lớn.
Nay Túc đón Tháo được thôi, còn Tướng quân thì không nên vậy. Vì sao nói thế?
Là vì nay Túc đón Tháo, Tháo tất đem Túc về trao cho thôn ấp, ban cho chức tước,
vẫn không mất chức Hạ tào Tòng sự, ngồi xe bò, đi theo quan quân, giao du với kẻ
sĩ, làm quan chẳng dưới châu quận vậy. Tướng quân đón Tháo, muốn được chỗ yên?
Mong sớm định kế lớn, chớ dùng lời bàn của mọi người”. Quyền than thở nói: “Đấy
là mọi người cố giữ lời bàn ấy, rất làm mất sự trông đợi của ta; nay khanh bày
mở kế lớn, thật giống với ta, đấy là trời đem khanh cho ta vậy”.
Ngụy thư và Cửu Châu
Xuân thu viết: Tào Công đánh Kinh Châu, Tôn Quyền kinh hãi, Lỗ Túc thật muốn
khuyên Quyền chống Tào Công, bèn nói khích Quyền nói: “Tào Công bên ấy thật là
địch mạnh, vừa chiếm đất của Viên Thiệu, quân mã rất khỏe, thừa oai thắng trận
mà đánh nước tang loạn, tất chiếm được vậy. Không bằng sai quân giúp Tào Công,
lại chở người nhà Tướng quân đến đất Nghiệp luôn; nếu không, nguy đến nơi”. Quyền
cả giận, muốn chém Túc, Túc nhân đó nói: “Nay việc đã gấp, phải có mưu khác,
sao không sai quân giúp Lưu Bị mà lại muốn chém ta”? Quyền cho là phải, bèn sai
Chu Du giúp Bị. Tôn Thịnh nói: “Ngô thư và Giang Biểu truyện cho rằng Lỗ Túc một
lần gặp Tôn Quyền liền nói ra kế chống Tào Công và bàn về việc Đế Vương, cái chết
của Lưu Biểu, lại xin đi sứ để xem sự biến, như thế là không có dịp để quay về
nói khích Quyền đón Tào Công vậy. Lại nữa, bấy giờ nhiều người khuyên đón Tào
Công, lại nói chỉ muốn chém Túc, lại càng chứng tỏ không có lời nói khích ấy.
Bấy giờ Chu Du được
sai đến tại Bà Dương, Túc khuyên Quyền đến gọi Du về. Bèn dùng Du làm việc, lấy
Túc làm Tán quân Hiệu úy, giúp bày mưu kế. Tào Công thua chạy, Túc liền về trước,
Quyền sai các tướng đón Túc. Túc sắp vào cửa bái, Quyền đã ra tiếp Túc, nhân đó
bảo nói: “Tử Kính, ta cầm yên xuống ngựa mà đón khanh, đủ để làm khanh rạng rỡ
chưa”? Túc đi nhanh đến đáp nói: “Chưa vậy”. Mọi người nghe nói thế, chăng ai
không sửng sốt. Đến ngồi, thong thả cầm roi nói rằng: “Mong hãy đem oai đức ban
khắp bốn cõi, thổi bay chín châu, làm nên nghiệp Đế, lúc đó lấy xe êm bánh mềm
mà đón Túc, như thế mới rạng rỡ”. Quyền vỗ tay cười vui.
Sau đó Bị đến kinh gặp
Quyền, xin trông coi Kinh Châu, chỉ có Túc khuyên Quyền cho Bị mượn đất ấy để
cùng chống Tào Công.
Hán Tấn Xuân thu viết:
Lữ Phạm khuyên giữ Bị ở lại, Túc nói: “Không nên. Oai thần của Tướng quân dẫu
hơn đời, nhưng thế lực của Tào Công rất mạnh, mới vào Kinh Châu, ân tín chưa
rõ, nên cho Bị mượn, sai vỗ về đất ấy, khiến Tháo có nhiều kẻ địch, rồi tự lập
phe đảng riêng, đấy là kế hay hơn cả”. Quyền liền nghe theo.
Tào Công nghe tin Quyền
đem đất đai cho Bị dựng nghiệp, đang viết thư mà quẳng bút xuống đất.
Chu Du bệnh khốn,
dâng sớ nói: “Ngày nay thiên hạ sắp có việc quân, đấy là điều mà Du ngày đêm lo
lắng, mong bậc chí tôn(5) mưu nghĩ trước khi có việc, rồi mới vui vẻ sau. Nay
đã thành kẻ địch với Tào Tháo, mà Lưu Bị gần ở Công An, bờ cõi gần kề, nhưng
trăm họ chưa theo, nên chọn tướng giỏi để đánh dẹp hắn đi. Lỗ Túc có mưu trí
nên dùng, xin lấy Túc thay Du. Nay Du sắp lìa đời, đấy là điều mà Du mong mỏi lần
cuối vậy”.
Giang Biểu truyện viết:
Lúc trước Du bệnh khốn, gửi thư cho Quyền nói: “Du vì tài kém, ngày trước may mắn
được nhận lệnh đánh giặc, làm người tim bụng, bèn lạm giữ chức cao, thống lĩnh
quân mã, chí cầm cung roi, tự xét việc
quân. Tự muốn định yên Ba Thục, sau đó lấy Tương Dương, cậy nhờ vào oai linh của
tổ tiên, vẫn tự vắt tóc suy nghĩ. Nhưng lại không cẩn thận, trên đường mắc bệnh
nặng, trước đã mắc bệnh, ngày càng nặng không giảm. Người ta tất bị chết, chỉ
là sớm hay muộn thôi, thật là không đáng tiếc, nhưng hận nỗi chí nhỏ ấy chưa
thành, không được vâng mệnh giúp vua nữa.
Nay Tào Công tại phía
bắc, bờ cõi chưa yên. Lưu Bị ở nhờ, như có nuôi hổ. Việc trong thiên hạ, chia
biết kết cuộc ra sao, đây là lúc bầy tôi nên nếm mật(6), bậc chí tôn phải xét
nghĩ vậy. Lỗ Túc trung liệt, làm việc chẳng lầm, nên cho thay Du. Người ta sắp
chết, lời nói cũng hay, nếu nghe lời này, thân Du chết cũng không mục”. Xét lời
văn này so với lời văn của truyện gốc, ý nghĩa dẫu giống, nhưng lời lẽ khác hơn
vậy.
Liền bái Phấn vũ Tướng
quân, thay Du lĩnh quân. Du lĩnh hơn bốn nghìn quân sĩ, phụng ấp có bốn huyện,
đều giao cho Túc. Lệnh Trình Phổ lĩnh chức Nam Quận Thái thú. Túc lúc đầu đến
Giang Lăng, sau lại xuống đóng quân ở Lục Khẩu, ân uy lên cao, thu nạp thêm hơn
vạn quân, bái Hán Xương Thái thú, Thiên Tướng quân. Năm thứ mười chín, theo Quyền
phá Hoản Thành, chuyền làm Hoành giang Tướng quân.
Lúc đầu, Ích Châu Mục
là Lưu Chương làm phép tắc rơi rụng, Chu Du, Cam Ninh cùng khuyên Quyền lấy đất
Thục, Quyền giao cho Bị, Bị trong muốn tự định, vẫn vờ báo thư nói: “Bị mượn cớ
là họ hàng với Chương, cậy dựa anh linh của tổ tiên để giúp nhà Hán. Nay Chương
gây tội cho tả hữu, riêng Bị kính sợ, không dám báo tin, mong đượng tha thứ. Nếu
không được tha, Bị sẽ bỏ đi vào rừng núi”. Sau Bị về phía tây đánh Chương, để
Quan Vũ ở lại giữ, Quyền nói: “Con hổ ranh lại dám lừa dối ta”! Đến lúc chỗ Vũ
liền cõi với chỗ Túc, mấy lần gây nghi ngờ, tranh chia bờ cõi, Túc thường vui vẻ
vỗ về Vũ. Bị đã định Ích Châu, Quyền xin lấy lại các quận Trường Sa, Linh Lăng,
Quế Dương, nhưng Bị không theo lệnh, Quyền sai Lữ Mông đem quân đến lấy. Bị
nghe tin, tự về Công An, sai Vũ tranh ba quận. Túc trú ở Ích Dương, chống nhau
với Vũ. Túc mời Vũ gặp nhau, đều phục quân mã trên bờ cách trăm bước, chỉ xin
đem quân cầm một thanh đao đến gặp. Túc nhân đó trách mắng Vũ nói: “Nhà nước
nhún nhường vốn là đem đất đai cho các ông mượn, các ông vốn thua trận từ xa đến,
không có gì làm đất riêng vậy. Nay đã lấy Ích Châu, vậy mà không có ý trả về,
nhà nước chỉ xin lại ba quận, lại không chịu nghe”. Lời nói chưa xong, có một
người ngồi nói: “Đất đai chỉ thuộc về người có đức mà thôi, muốn có dễ sao”!
Túc lớn tiếng mắng người đó, lời lẽ rất khẩn thiết, Vũ cầm đao đứng dậy nói: “Đấy
là việc của nhà nước, ta sao biết được”! Liếc mắt sai người ấy đi ra.
Ngô thư viết: Túc muốn
gặp nói chuyện với Vũ, các tướng nghi sợ có biến, bàn không nên đến. Túc nói:
“Việc của ngày nay nên cùng nói cho rõ. Lưu Bị quên ơn, việc đúng hay sai còn
chưa quyết, Vũ cũng dám muốn làm trái lệnh sao”! Bèn liền đến chỗ Vũ. Vũ nói: “Ở
trận Ô Lâm, thân Tả Tướng quân(7) ở trong trận, ngủ chẳng cởi giáp, gắng sức
phá quân Ngụy, há không vất vả, không được phong một mảnh đất nhỏ sao, mà sao
túc hạ đến muốn thu lại đất vậy”! Túc nói: “Không phải. Lúc trước mới cùng Lưu
Dự Châu đứng xem sự biến ở Trường Bản, quân của Lưu Dự Châu không đủ một đội, kế
cùng lo lắm, chí khí suy yếu, chỉ mong muốn đi xa tránh nạn, chẳng mong được
như thế. Chủ ta thương xót Lưu Dự Châu không có chỗ ở, không yêu lấy công lao của
quân sĩ mở đất, sai các chỗ che chở cứu giúp nạn, vậy mà Lưu Dự Châu mưu muốn
chiếm riêng, đức hạnh lầm lỡ, tiếng tốt hủy hoại.
Nay đã lấy được Tây
Châu(8) rồi, lại muốn cắt chiểm cả Kinh Châu, việc này dẫu kẻ thất phu cũng
không nỡ làm sai, huống chi là người chủ đứng đầu của vạn người! Túc nghe nói rằng
tham của mà vứt đạo nghĩa, tất bị họa đến thân. Ta thấy ông gánh vác việc lớn,
đã không làm rõ đạo lí, chia rành chức phận để giữ lễ nghĩa, mà lại cậy dựa
quân gầy yếu để mưu tính tranh giành, đem quân già yếu, sao mà giành lấy được”?
Vũ không đáp được.
Bị bèn chia sông
Tương làm ranh giới, do đó bãi quân.
Túc chết vào năm bốn
mươi sáu tuổi, bấy giờ là năm Kiến An thứ hai mươi hai. Quyền bày lễ cử tang, lại
đến thăm mộ Túc. Gia Cát Lượng cũng lấy lễ cử tang.
Ngô thư viết: Túc là
người thẳng thắn, ít dùng ngọc báu, trong ngoài đều tiết kiệm, không kết giao với
kẻ tầm thường. Trị quân nghiêm chỉnh, đề ra phép cấm, dẫu lúc vào trận, tay
không bỏ sách vở. Lại giỏi bàn luận, thông thạo văn từ, ý tứ sâu xa, sáng suốt
hơn người. Sau Chu Du, đứng đầu là Túc vậy. Quyền xưng tôn hiệu, lên đàn, ngoảnh
bảo công khanh nói: “Ngày trước Lỗ Tử Kính từng xét việc này, có thể nói là biết
rất rõ thời thế vậy”.
Túc có người con còn
trong bụng mẹ(9) là Thục, Nhu Tu Đốc là Trương Thừa nói là tất sẽ làm chức cao.
Giữa năm Vĩnh An, làm Chiêu Vũ Tướng quân, Đô Hương Hầu, Vũ Xương Đốc. Giữa năm
Kiến Hành, ban Giả tiết, chuyển làm Hạ Khẩu Đốc. Chỗ làm quan nghiêm chỉnh, có
tài lược. Năm Phượng Hoàng thứ ba thì chết. Con là Mục thay tước, lĩnh quân mã.
CHÚ THÍCH
(1) Kiều, Trát: Kiều
là Tử Sản, cháu của vua Trịnh. Trát là Quý Trát, em của vua Ngô là Chư Phàn, đều
là người thời Xuân thu. Vua Ngô sai Quý Trát đi sứ nước Trịnh, mới gặp Tử Sản lần
đầu mà thân ái như gặp người quen cũ, hai người làm bạn với nhau, Quý Trát tặng
một dải lụa mộc cho Tử Sản, Tử Sản lại tặng một cái áo sợi gai cho Quý Trát.
Người đời sau gọi là “bạn Kiều, Trát”.
(2) ùng Hoài Tứ: là
vùng đất giữa sông Hoài và sông Tứ.
(3) ghĩa Đế: tức Sở
Nghĩa Đế, dòng dõi vua cuối cùng của nước Sở. Khi Tần diệt nước Sở phải làm dân
thường, sau khi Hạng Vũ cùng chư hầu diệt Tần, tôn làm Nghĩa Đế, sai bị Hạng Vũ
sai người giết chết ở trên sông Trường Giang.
(4) Tử Du: tức Gia
Cát Cẩn tự Tử Du, anh của Gia Cát Lượng.
(5) Bậc chí tôn: người
được tôn kính nhất, tức Hoàng Đế, ý chỉ Tôn Quyền.
(6) Nếm mật: chuyện
xưa Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật để mưu dựng nghiệp lớn, ý nói phải làm
việc chăm chỉ.
(7) Tả Tướng quân: chỉ
Lưu Bị bấy giờ làm Tả Tướng quân.
(8) Tây Châu: tức Ích
Châu, Lương Châu, là đất Ba Thục ở phía tây.
(9) Túc có người con
còn trong bụng mẹ: ý nói lúc Túc chết thì vợ đang mang thai một người con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét