9. PHẦN II. KINH VÀ TRUYỆN
LỜI NÓI ĐẦU
Trong phần II này tôi sẽ chép chữ Hán, phiên âm và dịch trọn phần Kinh gồm Thoán Từ tức lời đoán mỗi quẻ của Văn Vương; và Hào Từ, tức lời đoán mỗi hào của Chu Công.
Thoán Từ và Hào Từ rất gọn, chỉ ghi lại ít chữ, như một thứ “aide mémoire” cho người đọc dễ nhớ thôi (chẳng hạn Thoán Từ quẻ Trung phu số 61[52], Hào Từ hào 4 quẻ Bí số 22[53]); vì vậy rất tối nghĩa, phải có lời giảng mới hiểu được, và dưới mỗi lời dịch, tôi sẽ thêm lời giảng.
Để giảng Thoán Từ, dĩ nhiên tôi phải căn cứ trước hết vào Thoán truyện và Đại Tượng truyện; để giảng Hào Từ, tôi căn cứ trước hết vào Tiểu Tượng truyện. Tôi sẽ không dịch trọn Thoán truyện và Tượng Truyện (Đại và Tiểu) mà chỉ tóm tắt ý nghĩa và trích dẫn một số câu quan trọng cho xen vào lời giảng.
Riêng về hai quẻ Càn và Khôn, tôi trích dẫn thêm Văn Ngôn truyện, và trong một số quẻ khác, tôi cũng lác đác dùng lời bình luận trong Hệ Từ truyện mà tôi sẽ dịch trọn và đặt sau phần Kinh. Tôi lại tham khảo thêm những chú giải của Chu Hi, lời giảng của Phan Bội Châu, đôi khi của James Legge, của Richard Wilhelm, của Cao Hanh, Nghiêm Linh Phong và vài nhà khác nữa.
Đầu mỗi quẻ tôi
dẫn một câu trong Tự quái truyện cho
biết vì lí do gì cố nhân sắp quẻ đó tiếp theo quẻ trước, nói cách khác, là cho
biết sự liên lạc giữa ý của quẻ đó và quẻ trước.
Tóm lại, như vậy là trong bảy truyện: Thoán truyện, Tượng Truyện, Hệ Từ truyện, Văn Ngôn truyện, Tự quái truyện, Thuyết quái truyện, Tạp quái truyện, tôi dùng năm truyện đầu để giảng phần kinh, cho xen vào phần kinh, nhưng chỉ dịch trọn Hệ Từ truyện thôi; còn hai truyện Thuyết quái và Tạp quái thì không dùng tới.
Chủ trương của tôi giống chủ trương của cụ Phan Bội Châu, chú trọng về ý nghĩa triết lí, nhất là về nhân sinh quan, mà coi nhẹ phần bói toán, phần huyền bí. Như vậy là phiến diện, không hợp với bản ý của những người đầu tiên đặt ra Kinh Dịch, nhưng hợp với tư tưởng của Dịch học phái, tức của một số học giả chịu ảnh hưởng của Nho, Lão ở thời Chiến Quốc và đã soạn Thoán truyện, Tượng Truyện, Văn Ngôn truyện, một phần Hệ Từ truyện làm cho Kinh Dịch thành một tác phẩm triết lí quan trọng ngang với các kinh khác thời Tiên Tần; vì nếu nó chỉ là một sách bói như hồi đầu, thì dân tộc Trung Hoa tất không gọi nó là một kinh và coi nó là một môn học trong các kì thi cho mãi tới cuối thế kỉ trước.
Tôi không có tham vọng nghiên cứu Kinh Dịch, chỉ tìm hiểu được tới đâu rán chép lại tới đấy một cách gọn và sáng để giúp các bạn không biết chữ Hán mà muốn đọc Kinh Dịch.
Bản tôi tham
khảo nhiều nhất là bản của cụ Phan Bội Châu (Khai Trí – 1969) mà tôi cho là bản
giảng kĩ nhất từ trước đến nay. Chỉ tiếc cụ có lối giảng của một thầy đồ trước
một nhóm môn sinh có vốn Hán học kha khá rồi, cho nên hơi rườm rà và nhiều bạn
trẻ ngày nay không hiểu được hết, nhất là bản của nhà Khai Trí để sót nhiều lỗi
in quá, mà không đính chính nên càng khó hiểu. Phần dịch này của tôi có thể nói
là chỉ diễn lại phần giảng của cụ cho gọn hơn dễ hiểu, dễ nhớ, và thêm vài ý
kiến của các nhà khác, thế thôi.
DỊCH VÀ GIẢNG
Số của mỗi quẻ trong phần dịch này không phải là số trong phương vị 64 quẻ của Phục Hi.
KINH THƯỢNG
(Gồm 30 quẻ đầu)
Nội quái, ngoại quái đều là Càn
Thoán Từ
乾:元,亨,利,貞。
Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
Dịch: Càn (có
bốn đức – đặc tính): Đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền.
Giảng: Văn
Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững
được cho tới lúc cuối cùng.
Về sau, tác giả Thoán
truyện (tương truyền là Khổng Tử, nhưng không chắc), cho quẻ này một ý
nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện,
tượng trưng cho trời.
Trời có đức “nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức
“hanh” vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi”
và “trinh” vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí
cho thái hòa (cực hòa).
Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ
bình an vô sự.
Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử. Người quân tử có bốn đức.
Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức “nguyên” của trời.
Lễ, là hợp với đạo lí, hợp với đạo lí thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời.
Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời.
Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” – chính và bền – của trời.
Nguyên, hanh, lợi, trinh mà giảng thành nhân, lễ, nghĩa,
trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý
nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi.
Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính
thống. Còn vài cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học giả gần đây, như Phùng Hữu
Lan, Tào Thăng, Cao Hanh mà ở phần I, Chương IV, chúng tôi đã ghi lại rồi.
Hào Từ
Từ đây trở xuống là Hào
Từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.
初九:潛龍勿用。
Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.
Dịch: Hào 1,
dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được.
Giảng: Người
Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc
về loài dương, cho nên Chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều
là dương cả – trong quẻ Càn.
Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp
ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất
rõ. Tiểu Tượng truyện không giảng gì
thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn
rộng ra về cách xử sự của bậc thánh nhân, người quân tử: chưa gặp thời thì nên
tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai
biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.
九二:見龍在田。利見大人。
Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 2,
dương: Rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi.
Giảng: Hào 2 là
dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích cho
đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở
giữa ngoại quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực mà hiện lên
cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiếm người đồng tâm đồng
đức với mình mà làm việc (lợi kiến đại nhân).
Văn Ngôn: khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức
thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không
khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2.
九三:君子終日乾乾,夕惕若。厲,無咎。
Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô
cữu.
Dịch: Hào 3,
dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như
lo sợ.
Nguy hiểm,
nhưng không tội lỗi.
Giảng: Hào 3 là
dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc trung. Hơn nữa,
nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngoại quái, nghĩa là ở một chỗ chông
chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có
đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên tuy
gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi.
Văn Ngôn bàn
thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn), vững
lòng thành để lập sự nghiệp… nhờ vậy mà thấu được đạo lí, giữ được điều nghĩa
làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không
lo (coi toàn văn ở phần I, Chương II…). Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở
hào 2.
九四:或躍,在淵,無咎。
Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: Như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi.
(Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu,
không lầm lỗi).
Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất
trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên
ngoại quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thoái thì dở dang. Cho nên phải thận trọng
xem xét thời cơ, nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ
thời (con rồng nằm trong vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất
định.
Tuy bất chính, bất trung nhưng nó có chất cương kiện (hào
dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc quân tử, biết giữ tư cách, biết
tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi.
Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3
chưa thể tiến được.
Văn Ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu
nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.
九五:飛龍在天,利見大人。
Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 5,
dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi.
Giảng: Hào 5 là
dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở giữa ngoại quái),
như vậy là có đủ những điều tốt, vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2
ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt
nhất trong quẻ, cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và ngôi của nó là
ngôi chí tôn (ngôi vua).
Chữ đại nhân
(người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp
nhau, hợp lực với nhau thì có lợi.
Văn Ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước
chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp,
thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…). Mọi vật đều theo loài của
nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân
tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kì loại
dã).
上九:亢龍有悔。
Thượng cửu: Kháng long hữu hối.
Dịch: Hào trên
cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận.
Giảng: hào
dương này ở trên cao của quẻ, cương kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao
quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì
lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả cửu).
Văn Ngôn: giảng thêm: Hào 5 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết)
nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các
người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng
lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho
nên hào 6 mà hoạt động thì tất có điều phải ăn năn. (Lời giảng trong Văn Ngôn, tác giả Hệ Từ truyện dẫn lại trong thiên Thượng, Chương VIII, Tiết 9).
Tóm lại thời của hào này là thời không nên hoạt động gì cả,
sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử.
7
用九:見群龍無首。吉。
Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.
Dịch: (nghĩa
từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt.
Chú thích: Chu
Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra âm) cả, tức là cương
mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng (sáu hào dương) mà
không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó.
J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một hào, nhưng theo Hào Từ của Chu Công thì cũng giả thiết là một hào. “Quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng hoạt động khác thường là cốt cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình tích hoạt động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu.
Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích
nghĩa đen thôi, chứ cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá”.
Nghĩa là lời kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi.
Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng
không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình
và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời, tốt”.
Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không?
Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu” là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kì diệu, vạn vật nhờ đó mà thành công, nhưng cái lí do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó hợp thời thì tốt.
Vậy cơ hồ Tào không cho “Dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn.
Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch
xuất bản xã – đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu
hào thuần dương. Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không có
gì ở trước nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của
hai chữ “vô thủ”. Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được.
Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư
cục – dẫn nhiều thuyết nữa.
Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu:
Kiến quần long vô thủ, cát” không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo
tiết Thượng cửu”
Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến
đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v…
Tóm lại câu “Dụng cửu…” này, tới nay vẫn còn là một bí mật,
không ai hiểu rõ nghĩa, toàn là đoán phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức
trường hợp cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu
lần chưa chắc đã xảy ra một[54], các sách bói, đoán số không khi nào dùng nó cả. Về triết
lí, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng
biết nhu, hợp thời mới tốt.
Phụ lục
Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 quẻ Càn của
một số học giả gần đây, để độc giả so sánh.
Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn):
“Rồng có 81 cái vảy! đủ chín lần chín, cho nên dùng nó để
tượng trưng hào dương. Rồng tới tiết xuân phân thì lên trời, tiết thu phân thì
nấp dưới vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà Chu, tháng
tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hoàng tuyền) chưa manh nha, còn tiềm
phục, như người có thánh đức ở giữa đám người ngu… cho nên chưa dùng được, tài
đức chưa thi thố được”.
Tào Thăng (sách đã dẫn):
“Người thời cổ thấy con rồng khéo biến hóa, cho nó là thần kì, dùng nó để đại biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long” (rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng thì con rồng ở dưới vực không dùng được, vì năng lực nó còn tiềm phục, chưa hiện, chưa sinh tác dụng được (…).”
Dùng cái phép của hào mà giảng thì hào 1 ở dưới hào 2, hào 2
chưa động thì hào 1 không thể động trước. Hào 1 biến động quẻ Càn này thành quẻ
Cấu (trên là Thiên, dưới là Phong) thì cũng chỉ là mới gặp “ở âm” (?) mà thôi,
cho nên bảo là rồng còn ẩn náu, chưa dùng được (Cấu có nghĩa là gặp).
Cao Hanh (sách đã dẫn). Tôi chỉ
trích câu cuối:
“Con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành”.
Chúng tôi không biết các học giả Trung Hoa gần đây còn những
cách giảng nào mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên không kĩ gì hơn cách của
người xưa, mà cũng chẳng phát huy thêm được gì.
Chú thích 9
[52]. Thoán Từ quẻ Trung phu: “Đồn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên”; dịch nghĩa từng chữ:
“Heo, cá, tốt, lội qua sông lớn”; phải hiểu là: “Lòng chí thành đó mà ứng phó
với những gian hiểm như vượt qua sông lớn thì thành công”.
[53]. Hào Từ hào 4 quẻ Bí :
“Bí như, bà như, bạch mã, hàn như, phỉ khấu, hôn cấu”, dịch nghĩa từng chữ:
“Trang sức, trắng toát, ngựa trắng chạy mau, không phải giặc, kết hôn”; phải
hiểu là: “Muốn trang sức cho nhau, nhưng không được. Hào 4 cưỡi ngựa trắng mà
chạy như bay, đuổi kịp hào 1, rốt cuộc cưới nhau được, vì Hào 3 ở giữa ngăn
cách 1 và 4 không phải là kẻ cướp, không phải là người xấu. Ý nói bị ngăn trở
một chút, nhưng sau sẽ tốt.
[54].
Muốn vậy thì dùng cách gieo ba đồng tiền (coi cuối Phần I), phải gieo 6 lần,
lần nào cũng có 3 đồng đều sắp cả, điều đó theo luật xác suất khó xảy ra lắm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét