Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2019

NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC - Lại Nguyên Ân


NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC
Lại Nguyên Ân


Còn nhớ, chừng vài chục năm trước, tôi có những lần chuyện trò với một họa sĩ đã từng hành nghề đắp mặt nạ để lưu lấy khuôn mặt người, nên hay có nhận xét về kiểu loại những khuôn mặt đáng chú ý. Có hôm nhân nói về nhà văn Nguyên Ngọc (lúc ấy ông đang là Tổng biên tập tuần báo “Văn Nghệ” của Hội nhà văn Việt Nam), anh ấy nhận xét: Ông Ngọc có khuôn mặt trẻ, trẻ thơ, thậm chí trẻ con, như là không bao giờ già!
Tôi thoáng nhớ tới nhận xét ấy khi nghĩ về anh Ngọc, đường văn của anh, tiến triển tư tưởng và hoạt động văn hóa xã hội của anh.
Nét thứ nhất ở Nguyên Ngọc là vai trò nhà văn; một nhà văn đa năng, sáng tác thành công trong nhiều thể tài văn xuôi, hư cấu và phi hư cấu, tự sự và nghị luận, lại cũng có đóng góp đáng kể trong hoạt động dịch thuật.
Vào đời là người lính, anh sớm được giao làm báo, từ đấy tập viết văn. Nếu ai được đọc một vài trang truyện ký của tác giả này trước 1954, hẳn sẽ nói đó là thứ văn minh họa, dễ dãi trong nhìn người nhìn việc. Thực ra công chúng chỉ biết đến tên tuổi nhà văn Nguyên Ngọc kể từ tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” (1955). Tác giả được giao đề tài viết thành tích anh hùng chiến sĩ, đã cho phép mình thoát cái khung khổ truyện ký gò bó để phóng bút thành tiểu thuyết. Ở tác phẩm này, nay nhìn lại sẽ dễ thấy tính minh họa biểu hiện lộ liễu. Song ít ra vẫn còn một điểm ghi nhận được, ấy là sự lựa chọn, sáng tạo trong phong cách ngôn ngữ. Viết bằng tiếng Việt câu chuyện những con người thuộc các sắc tộc Tây Nguyên mà tiếng Việt không là bản ngữ, tác giả đã tạo ra một giọng kể cùng các giọng nói tiếng Việt theo lối thơ ngây, có khi ngờ nghệch, ngồ ngộ, nhưng bao giờ cũng chất phác, chân chất. Phong cách ngôn ngữ thơ ngây sẽ còn được Nguyên Ngọc vận dụng thành công trong các tập truyện “Rẻo cao” (1962) viết về vùng cao Tây Bắc, và “Rừng xà-nu” (1969) cũng viết về vùng núi Tây Nguyên.
Các bạn văn cùng thời với ông ở tạp chí “Văn nghệ quân đội” từng nhận xét: bên cạnh ngòi bút viết truyện ở Nguyên Ngọc còn một ngòi bút nghị luận, chính luận. Ngay trong văn xuôi, bên cạnh phong cách thơ ngây trữ tình, ông còn tìm tòi viết truyện trong phong cách suy tư, cật vấn các vấn đề đời sống hiện tại. Truyện “Mạch nước ngầm” (1959) viết về công trường xây dựng trên miền Bắc, đã làm nhói lên những câu hỏi ngờ vực mở ngỏ về con người, ngay ở lớp cán bộ, sĩ quan. Luồng dư luận cứng rắn đã kịp lên tiếng chất vấn tác giả, trước lúc Nguyên Ngọc lên đường vào Nam, trở lại vùng Liên khu V, rồi xuất hiện trên báo chí miền Bắc với bút danh mới: Nguyễn Trung Thành, với nhiều truyện ngắn, bút ký, nổi tiếng nhất là bút ký “Đường chúng ta đi” (1965) kêu gọi giục giã bạn trẻ đương thời lên đường vô Nam “chống Mỹ cứu nước”.
Dòng viết về chiến tranh ở Nguyên Ngọc dường như tạm dừng ở tiểu thuyết “Đất Quảng” tập 1 (1971). Tác giả trở ra Bắc, là sĩ quan (hàm đại tá), được xem là cán bộ nguồn để cơ cấu cho các bộ máy lãnh đạo, như Phó Tổng biên tập tạp chí “Văn nghệ quân đội”, đại biểu Quốc hội (1976-1980), Bí thư Đảng đoàn Hội nhà văn VN, Phó Tổng thư ký Hội nhà văn VN (khóa 2), Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn VN khóa 3 (1983-89), khóa 4 (1989-1995).
Từ cuối những năm 1970s, trước giới nhà văn và công chúng dần dần hiện diện rõ rệt một Nguyên Ngọc trong vai trò cán bộ lãnh đạo văn nghệ. Nổi bật nhất là vai trò Tổng biên tập tuần báo “Văn nghệ” những năm cao trào Đổi mới (1987-1989).
Nhưng trước đó, Nguyên Ngọc đã rơi vào một tai nạn văn chương, do bản đề dẫn anh viết và đọc tại hội nghị nhà văn đảng viên (10/3/1979), tuy chủ yếu nói theo diễn ngôn quy ước thời bao cấp về nền văn nghệ bao cấp hậu chiến, nhưng cũng đụng tới vài nhược điểm của nó (tình trạng “có sách mới in ra mà không có tác phẩm”, người viết bối rối, thiếu niềm tin; lý luận phê bình thô thiển kéo dài, “hạ thấp văn học xuống thành một sự sao chép hiện thực, coi giá trị văn học cao nhất là làm sao cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực”), làm phật ý một vài lãnh đạo cấp cao. Lúc này đang có sự tranh chấp ngấm ngầm giữa những quan chức từ chiến trường ra với những quan chức vẫn yên vị ở hậu phương; Nguyên Ngọc chưa phải cán bộ cấp cao, chỉ nằm trong số những nhân sự dưới quyền các quan chức đang giành nhau quyền thế. Có lẽ sự thất thế của ông là do không đủ mềm mại hạ mình trước sự cao ngạo của vài quan chức cấp cao. Song chính vấp váp trong môi trường quan liêu lại khiến Nguyên Ngọc có dịp nhìn sâu hơn vào cơ chế bao cấp, nhận ra những nhược điểm căn bản của nó.
Vì vậy, khi công cuộc đổi mới được đảng cầm quyền phát động (1986), ông được số khá đông trong giới nhà văn ủng hộ đảm nhận vị trí Tổng biên tập tuần báo “Văn nghệ”. Dưới sự điều hành của ông, báo “Văn nghệ” trở thành một diễn đàn lớn của công cuộc đổi mới, tập hợp được đông đảo nhà văn, nhà báo, văn nghệ sĩ, tích cực cổ vũ tư tưởng đổi mới tư duy, đổi mới hành động, ủng hộ việc đảng cầm quyền chuyển nền kinh tế chỉ huy quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hóa thị trường; đồng thời cũng khơi lại việc thảo luận các vấn đề văn nghệ cốt thiết, qua đó, giới nhà văn tỏ rõ ý muốn tiết giảm việc “sáng tác phục vụ chính trị”, khẳng định quyền tự do sáng tác, thực chất là đòi lại những điều kiện hoạt động văn nghệ thông thường nhưng đã bị xóa bỏ suốt thời bao cấp. Dưới thời Tổng biên tập Nguyên Ngọc, tuần báo “Văn nghệ” giành được sự quan tâm chưa từng có của độc giả, được đánh giá là một trong vài ba tờ báo sáng giá nhất ở vài năm cao trào đổi mới; đây là một vinh quang không thể lặp lại. Dưới thời Tổng biên tập Nguyên Ngọc, báo “Văn nghệ” đã phát hiện được những tài năng văn học lớn (Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, v.v.), thúc đẩy văn học bao cấp đóng kín chuyển sang văn học hậu bao cấp cởi mở hơn, tiếp cận dần dần hướng đi của các nền văn học bên ngoài.
Những đấu tranh về phương hướng đổi mới ở cấp cao diễn ra đồng thời với những tranh chấp trong giới quan chức văn hóa-tư tưởng, đã dẫn tới việc Nguyên Ngọc bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo “Văn nghệ” (1989). Nhưng vai trò quan chức văn nghệ của Nguyên Ngọc còn kéo dài đến đầu năm 1995, khi ông vẫn còn là ủy viên chấp hành Hội NVVN khóa 4 (1089-1995).
Từ những năm 1990s, nhất là từ đầu thế kỷ XXI, trước công chúng ngày càng rõ Nguyên Ngọc như một trí thức dấn thân, một tiếng nói phản biện chân thành.
Lúc này, Nguyên Ngọc có thời gian cho mình nhiều hơn. Ông tham gia việc chuyển thể tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” sang màn ảnh; ông tham dự những chuyến đi tìm dấu tích con đường đưa vũ khí vào Nam bằng đường biển và có tập ký sự “Có một con đường mòn trên biển Đông” (2000). Ông có nhiều dịp trở lại xứ Quảng quê hương, trở lại đất Tây Nguyên núi rừng trùng điệp khi xưa, chứng kiến cuộc di dân ồ ạt đang đổ về đây. Ông tận mắt thấy rừng già ngàn năm bị phá bỏ làm dâu tằm, cà-phê, bị đào xới để khai mỏ, bị san lấp làm thủy điện, gây ô nhiễm từ rừng núi xuống đồng bằng, tận mắt thấy thế giới vẹn nguyên bản sắc của các tộc người Tây Nguyên bị thu hẹp, đứng trước nguy cơ bị hủy hoại, tan rã…
Ở Nguyên Ngọc, bản năng nhạy cảm của nhà văn như đã làm liền mạch cái tinh thần trách nhiệm của người cán bộ tuyên huấn có bản lĩnh tương đối độc lập khi xưa với sự phản tỉnh giàu suy tư của người trí thức dấn thân hôm nay. Những điều ông chứng kiến luôn luôn thôi thúc sự suy nghĩ, đào sâu tìm tòi phân tích, đúc rút thái độ và phương châm hành động.
Đụng chạm một Tây Nguyên đang đổi thay nguy hiểm, ông tìm đọc lại dịch lại những công trình khảo cứu dân tộc học Tây Nguyên của các học giả Pháp, nhận ra triết lý sống tự nhiên nhân bản của những tộc người miền núi mà khi xưa ông đã kể về họ bằng thứ ngôn ngữ chất phác thơ ngây, cũng phần nào là hệ quả cái nhìn đơn giản hóa về họ hồi ấy nơi ông.
Đụng chạm những rối rắm của công việc điều hành và duy trì một đại học, ông tìm hiểu và nhận ra những khủng hoảng ở một nền giáo dục thiếu triết lý sáng rõ.
Đụng chạm những phân hóa gia tăng trong giới nhà văn, ông tự ôn lại phần “bảo thủ” hồi trước (cứ đứng nguyên trong cái “hội” bao cấp này mà viết ủng hộ cuộc đổi mới cũng được chớ sao!), đi tới ý tưởng mới: “Văn học và nhà văn không là công cụ của ai hết!”, chỉ khuyến nghị đồng nghiệp cầm bút cùng xây dựng nền văn học tiếng Việt tự do nhân bản.  
Đụng chạm những tranh cãi bất tận trong các giới về con đường phát triển đất nước, ông tìm hiểu lại các bậc tiền bối đầu thế kỷ XX và tìm thấy ở tư tưởng Phan Châu Trinh một lý giải, một kiến giải khả thủ, tuy đã bị hạ thấp và xa lánh suốt một thế kỷ. Phan Châu Trinh đặt vấn đề phát triển đất nước chứ không phải bằng mọi giá giành độc lập; độc lập chỉ có ý nghĩa khi dân tộc mình phát triển được bằng người. Nguyên Ngọc tin rằng tư tưởng đó của Phan Châu Trinh vẫn còn nguyên ý nghĩa chỉ đường cho người Việt hiện tại. 
Năm nay đã ở tuổi 85, sức vóc không còn đủ săn chắc, nhưng tinh thần, chí khí Nguyên Ngọc vẫn mạnh mẽ, dứt khoát. Phần khá đông trong giới nhà văn Việt Nam vẫn nhìn về Nguyên Ngọc như một người anh Cả đáng tin cậy. Phần khá đông trong giới trí thức Việt Nam vẫn nhìn về Nguyên Ngọc như một tấm gương dấn thân can đảm. Nguyên Ngọc là niềm tin, niềm tự hào của chúng tôi. 
18/10/2017
LẠI NGUYÊN ÂN




Nguyên Ngọc là nhà văn năng động, xông xáo, có cá tính và đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét trong đời sống văn học. Năm 1950, khi đang học trung học chuyên khoa (nay là trung học phổ thông), ông nhập ngũ, chủ yếu hoạt động ở Tây Nguyên - chiến trường chính của Liên khu V bấy giờ. Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu, ông làm phóng viên báo Quân đội nhân dân liên khu V và lấy bút danh Nguyên Ngọc. Sau hòa bình 1954, Nguyên Ngọc nổi tiêng với tác phẩm Đất nước đứng lên viết về Anh hùng Núp của Tây Nguyên…Năm 1962 ông trở lại miền Nam, lấy tên là Nguyễn Trung Thành, hoạt động ở khu V, là chủ tịch chi hội Văn nghệ giải phóng miền Trung Trung Bộ, phụ trách Tạp chí Văn nghệ quân giải phóng của quân khu V. Thời gian này Nguyên Ngọc viết tùy bút Đường chúng ta đi,  truyện Rừng Xà Nu có tiếng vang lớn… Sau chiến tranh ông có thời gian làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ. Trong thời kỳ Đổi Mới và phong trào Cởi Mở ông đã có những đổi mới quan trọng về nội dung tư tưởng của tờ báo và được coi là người có công phát hiện, nâng đỡ nhiều nhà văn tên tuổi sau này như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Thị Hoài... Tuy nhiên, sau đó báo Văn nghệ bị chính thức phê phán là "chệch hướng" và Nguyên Ngọc đã thôi chức Tổng biên tập để thay thế bằng Hữu Thỉnh…

Là người cùng tuổi và có nhiều năm cùng “lăn lộn” với Nguyên Ngọc ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Xuân Sách rất “thuộc” tính cách Nguyên Ngọc và qua những đoạn văn cũng như chân dung viết về Nguyên Ngọc, người đọc thấy hiện lên một Nguyên Ngọc khao khát và quyết tâm “Đổi mới” nhưng cũng đầy bất trắc, sóng gió:

“Nguyên Ngọc mở đầu công việc của mình (Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn) là bằng triệu tập một hội nghị những nhà văn  là đảng viên và trong hội nghị ngày ( 11-13/6/1976) để đọc bản đề dẫn, thực sự là một tuyên ngôn về văn học trong thời kỳ mới. Đối với các bậc trưởng lão  có ý nghĩa là chúng nó sắp mời các cụ về vườn. Ngay lập tức có người lên trình với Tố Hữu rằng lấy trẻ đánh già. Cho nên hôm sau ông đã đến hội nghị lấy danh nghĩa tôi đến đây với tư cách nhà văn chứ không phải tư cách Ủy viên Bộ Chính trị của Đảng. Nghe thế các đảng viên văn chương cười đẹp và nghĩ thầm “ chúng em biết chứ ạ.”

 “ Lớn là thế nào hè? Thời đại là thế nào hè? Văn học phải đi từng bước. Phải có cây số một, rồi mới có cây số hai, số ba. Thực tế của ta bây giờ là rất đẹp, có thể nói là tuyệt diệu. Cứ thế mà ghi chép,  thậm chí sao chép cũng được.”

Tố Hữu nói hơn nửa buổi. Suốt buổi Tố Hữu chỉ biểu dương hai tác phẩm là Hòn Đất của Anh Đức và Vụ lúa chiêm của Đào Vũ. Ông còn gọi Hòn Đất là Hòn Ngọc. Dĩ nhiên cử tọa người thì sướng rơn, người thì toát mồ hôi hột về những lời vàng ý ngọc như thế thì nền văn học chúng ta cứ là lên mây. Điều đó hồi sau sẽ rõ còn ngay bây giờ là cuộc chiến tranh không có tiếng súng giữa hai phe, mà thực chất là tranh giành mấy chiếc ghế ở cái “ suối cạn Hội Nhà văn “.

Nguyên Ngọc người nhỏ nhưng gan lớn vẫn khẳng định những quan điểm của mình. Số đông ủng hộ Nguyên Ngọc, nhưng khổ thay đó lại là số đông im lặng, các nhà văn linh động giống như các triết gia còn những người có vị trí ở ban chấp hành ở Đảng đoàn, trước hội nghị tỏ bày ủng hộ thì sau lời nói của ông Tố Hữu, hầu như đều “ thay đổi sắc phù sa” một cách chóng vánh và quyết liệt. Nhất là khi ông Trần Độ, một người thành tâm hướng tới sự tiến bộ của văn học bằng tự do dân chủ bị chuyển sang công tác khác, và nhà lý luận Hà Xuân Trường trúng vào chân dự khuyết Trung ương Đảng được bổ nhiệm làm trưởng ban tư tưởng và văn hóa thì coi như thuyền thay lái, gái thay chồng, Nguyên Ngọc trơ trọi. Ông Trường mời Nguyên Ngọc lên thương lượng để thay đổi quan điểm, Nguyên Ngọc không nhân nhượng và lẽ tất nhiên phải xảy ra. “ Anh không “ đổi” thì tôi phải “thay” như lời miệng nói của ông Tố Hữu. “Cậu Ngọc chỉ làm được bí thư chi bộ, làm bí thư Đảng đoàn thì quá sức. Việc đặt Nguyên Ngọc ngồi chỗ đó coi như tôi làm bài thơ dở, phải làm lại”.

Mấy ủy viên Đảng đoàn thì dao động. Giang Nam, nhà thơ “ yêu quê hương vì có chim có bướm “ được Nguyễn Khải cũng là ủy viên trong Đảng đoàn bàn tìm người thay Nguyên Ngọc. Nguyễn Khải cũng tự biết mình không được cấp trên yêu vì nhiều lẽ. Hôm diễn ra vở kịch cách mạng Tố Hữu đã có nhận xét “ thằng Khải xỏ lá “. Nguyễn Đình Thi cũng tự coi như gái lỡ thì. Chỉ còn một nhân vật có  thể thay Nguyên Ngọc ai cũng thấy đấy là Chế Lan Viên và ông cũng thấy đã đến lúc cờ đến tay. Ông tập hợp mấy nhà văn gặp Nguyên Ngọc để đòi Ngọc từ chức. Nhà văn Tô Hoài thì tủm tỉm đứng ngoài vòng tọa sơn quan hổ đấu. Bình luận về sự kiện này nhà văn Hải Hồ tạp chí chúng tôi nói : đó là cách dùng khỉ vặt lông khỉ. Không khí sáng tác chìm trong không khí im lìm giống như nền kinh tế những năm đầu 80. Năm tám mươi gạo tám mươi / dân xứ Nghệ mặt vàng như nghệ. Nguyễn Khải khôn ngoan bỏ của chạy lấy người, anh chuyển cả gia đình vào Sài Gòn sinh sống và viết. Trần Mạnh Hảo nhận xét Nguyễn Khải là người “ta không ra ta địch không ra địch”.

Nguyên Ngọc thành danh rất sớm. Tôi bằng tuổi anh . Người ta nói tuổi Nhâm Thân là con khỉ bạc. Lúc đó tôi đang là viên trợ lý văn hóa văn nghệ dưới sư đoàn pháo binh còn anh đã là nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” giành giải nhất văn học quốc gia. Thời ấy giải văn học danh giá hơn bây giờ nhiều. Sách in ra hàng vạn cuốn, nhuận bút cũng lớn, anh Ngọc đang độc thân không biết tiêu gì cho hết tiền. Anh Ngọc lại là người nghiêm chỉnh, không chè rượu đàn đúm. Mãi đến năm 1960 tôi về Văn nghệ Quân đội mới biết anh. Một người nhỏ bé nhưng tài cao chí lớn. Cùng ở cơ quan nhưng tôi ít có dịp trò chuyện với anh. Nguyên Ngọc đi nhiều, anh lên tận Bắc Kạn, Cao Bằng viết tập truyện ngắn “Rẻo cao”. Rồi đó đi về Thái Nguyên khi ấy đang xây dựng một khu gang thép lớn, một trong những đứa con đầu lòng của nền công nghiệp XHCN. Được viết về anh vừa là trách nhiệm vừa là vinh dự. Anh Ngọc viết tập truyện “Mạch nước ngầm” ẩn ý là sau cái tưng bừng vĩ đại của công trình và những người mới của giai cấp công nhân tương lai, thì đã có một mạch nước ngầm đang chảy rì rầm không được trong lành lắm. Anh bị rắc rối vì chuyện đó,  cuốn sách phải xé bỏ một số trang mới được phát hành. Truyện đó không ảnh hưởng gì nhiều đến con người vốn cứng rắn như Nguyên Ngọc. Anh không biết đi xe đạp, và anh cũng không định tập, dù có nhiều người tình nguyện hướng dẫn. Anh em nói vụng: “Ông Ngọc kiên trì đường lối đi lên CNXH không qua giai đoạn tư bản, cũng từ đi bộ đi luôn ô tô, bỏ qua giai đoạn xe đạp, xe máy”. Một lần người yêu anh Ngọc từ Vĩnh Phú về Hà Nội, Nguyễn Khải và tôi tự nguyện làm phu pooc-tê cho hai người. Tôi đèo chị, Khải đèo anh, chúng tôi đạp xe song song với tốc độ đồng đều để hai anh chị ngồi phía sau tâm sự trên đường quanh Hà Nội.

Nguyên Ngọc làm TKTS, anh làm rất giỏi và mọi người ủng hộ, vì như vậy mọi người được tự do đi viết. Năm 1962, Nguyên Ngọc vào chiến trường, khu Năm và Tây Nguyên quen thuộc của anh thời kỳ chống Pháp. Không lâu sau anh gửi ra bài viết từ chiến trường. Bài tùy bút “ Đường chúng ta đi” mang âm hưởng một bài hịch. Truyện “Rừng xà nu” như một áng sử thi của con người và đất Tây Nguyên. Những anh Núp chị Niêu mới lại đứng lên chống  Mỹ, đất nước lần nữa lại đứng lên. Nguyên Ngọc lấy bút danh là Nguyễn Trung Thành. Đây là điều bắt buộc với những nhà văn miền bắc khi vào chiến trường miền Nam. Năm 1974 Nguyên Ngọc ra Bắc rồi năm 1975 anh lại đi chiến dịch giải phóng MN.

Khi đất nước thống nhất, Nguyên Ngọc đã đứng ở vị trí cao trong văn nghệ. Anh cũng xứng đáng như vậy, anh cũng mong muốn được thổi vào văn nghệ một không khí mới. Tôi nhớ hồi còn ở chiến trường anh có viết thư về tòa soạn nhắc nhở chúng tôi đại ý, nếu cứ viết như những gì đăng trên tạp chí thì không góp gì được cho công cuộc chiến đấu trên chiến trường. “Muốn thực hiện được những ý tưởng đó, tất nhiên phải nắm giữ một vị trí lãnh đạo càng cao càng tốt”. Một lần Nguyễn Khải nói với tôi:    “Chúng ta “nịnh” ông Ngọc đi thì vừa”. Một lần Nguyễn Khải đèo Nguyên Ngọc trên xe đạp đi qua báo Quân đội Nhân dân, mấy ông bạn hàng xóm trêu: “Thằng lớn đèo thằng bé”. Nguyễn Khải cười toét: “Cái bóng bao giờ cũng lớn hơn người! “Anh em chúng tôi đối với Nguyên Ngọc thường kính nhi viễn chi, thân thiện nhưng không suồng sã.

Nguyên Ngọc rời quân đội chuyển sang Hội nhà văn, được bổ nhiệm làm phó tổng thư ký hội. Và anh chuẩn bị thực hiện ý tưởng của mình chuẩn bị cho “sự kiện” bản đề dẫn. Nguyên Ngọc tổ chức cuộc họp một số nhà văn chủ chốt, trình bày bản đề dẫn Để làm mới văn nghệ, để phù hợp với tình hình mới , để sáng tác đa dạng hơn, trung thực hơn, và vấn đề giữa chính trị và văn nghệ.

Nguyễn Khải nói với tôi rằng lần này Nguyên Ngọc sẽ vào ban chấp hành Trung ương Đảng. Anh còn kể cho tôi nghe những gì mà anh biết, nhưng chuyện tưởng là ngoài lề nhưng lại có tính quyết định ai ngồi đâu, làm chức gì, nhiều khi nghe cứ tưởng chuyện đùa mà có thật. Như chuyện anh Ngọc làm việc với một vị lớn ở Quốc hội. Lúc này Nguyên Ngọc là đại biểu Quốc hội. Hai người làm việc đêm, ông tối đó có việc đi ra ngoài, khi trở vào kêu lên : “Ngọc ơi, mình đã nhầm dép của cậu”. “Chân ông Ngọc cũng nhỏ như chân cấp trên”. Thân mật như thế, hòa hợp đến thế thì vào Trung ương là cái chắc. Lúc đầu tôi nghĩ anh Khải đùa nhưng rồi nghĩ lại thấy đúng. Lại nữa , với Nguyên Ngọc việc vào Trung ương cũng không phải xa vời lắm. Nhưng lại nghĩ như nhà văn Nguyễn Đình Thi bề dày còn hơn Nguyên Ngọc, ông đã nổi tiếng là đại biểu trẻ nhất Quốc hội năm 1946, là thư ký Quốc hội trong phiên họp cử Cụ Hồ đứng đầu chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đầu tiên. Vậy mà bao nhiêu năm ông không được vào Trung ương, có lẽ tại vì chân ông to, giày dép không vừa như chân cấp trên. Tôi tán dóc một cách cù lần như thế với Nguyễn Khải. Nhưng rồi chính Nguyễn Khải lại nói: “ Hỏng rồi, thủ trưởng của chúng ta hụt rồi”. Và cũng là lý do rất dở hơi. Rồi kết quả đúng như vậy, Nguyên Ngọc hụt vào Trung ương vào phút chót. Nguyễn Khải có lối nói đùa chết cây chết cá. Sau sự thể ấy, Nguyễn Khải nói với Nguyên Ngọc: “Giá ông cho Xuân Sách một bao thuốc lá, hắn sẽ giúp ông cách vào Trung ương”.

Tôi không biết chuyện đó, mãi sau này khi anh Ngọc với tôi có mối quan hệ thân thiết hơn. Lần Đại hội văn nghệ Vũng Tàu tôi mời Nguyên Ngọc vào dự, trong bữa rượu vui vẻ Nguyên Ngọc mới nhắc lại chuyện đó. Tôi nói:
-  Anh lạ gì ông Khải, ông ấy đùa thôi mà, báo hại tôi rồi!
-  Tôi không lạ ông Khải, ông ấy đùa bao giờ cũng có một nửa sự thật, ông cứ nói tôi nghe.
-  Khi anh đã được chấm tên vào sổ thiên tào rồi, anh có thể ngủ yên chờ đợi không cần phải làm gì nữa, và khi đã yên vị lúc ấy làm gì mới  có thể làm. Chính nhiệt tâm của anh và cả sự nóng vội nữa, anh đã làm cái việc mà người ta thường nói là cầm đèn đi trước ô tô. Cầm đèn đi trước ô tô dù với thành tâm và thiện chí cũng rất dễ làm bận lòng đối với những người đang ghen tỵ với anh. Lưu Bang là người biết dùng người tài, tin cậy Trương Lương như cha, vậy mà Trương muốn Lưu làm gì vẫn khôn khéo gợi ý sao cho những ý nghĩ những việc làm ấy là nhờ “tài năng và hồng phúc của chúa công”. “Mất mùa là tại thiên tai/Được mùa là bởi thiên tài Đảng ta”. Dân gian đã đúc kết như vậy mà.

Nguyên Ngọc cười: -  Sao lúc đó ông không nói thẳng với tôi, chắc hẳn không phải là ông sợ rồi?
-  Tôi không phải là Trương Lương và anh… Nhưng thôi, việc đó nói cho cùng không có gì quan trọng.
-  Đúng vậy, tôi nghĩ trong cái rủi có cái may. Nếu Nguyên Ngọc thành ông Trung ương, thì không có Nguyên Ngọc làm tổng biên tập báo Văn nghệ thời kỳ đổi mới. Cái thời mà ông tổng bí thư thứ tư của Đảng Nguyễn Văn Linh trong một ngày đẹp trời tuyên bố “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, tự cứu trước khi trời cứu, thời tướng Trần Độ với nhãn quan chính trị tiến bộ, với nhiệt tâm đối với văn nghệ đã dựng được cái “nghị quyết năm”, một nghị quyết góp phần cho việc tự do sáng tạo, thì tờ báo Văn nghệ của Nguyên Ngọc là thành phẩm sáng giá nhất. Có người chủ trì ấy tờ báo mới có “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc, một anh cán bộ văn hóa làng xã viết rất hay tố cáo nỗi đau khổ của người nông dân bị bọn cường hào mới áp bức và bóc lột. Mới có những truyện ngắn mới mẻ xuất sắc của Nguyễn Huy Thiệp và một số nhà văn khác. Mới có những bài tuyển luận như Nguyễn Minh Châu viết: “Đọc lời ai điếu cho một thời kỳ văn nghệ minh họa”… và đặc biệt là tạo được bầu không khí dễ thở trong trường văn trận bút và manh nha không khí dân chủ không chỉ trong văn chương mà cả trong toàn xã hội. Mới có được Đại hội nhà văn lần thứ tư 1989, một đại hội rất đáng hãnh diện của những người cầm bút. Một đại hội được nhân dân tin cậy, cơm đùm cơm nắm lên thủ đô đem đơn từ đi khiếu kiện tới trao cho các nhà văn. Với một khúc ngâm “đặc tả” Đại hội với mấy câu mở đầu:

Thuở trời đất nổi cơn Đại hội/ Khách làng văn nhiều nỗi truân chuyên/ Trời kia thăm thẳm tầng trên/ Vì ai gây dựng cho nên nỗi này/ Trống Ba Đình tùng tùng…

 Rồi ban chấp hành Hội nhà văn trong đó có Nguyên Ngọc tặng giải thưởng cho tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Cuốn tiểu thuyết lần đầu mô tả chiến tranh ở một khía cạnh khác, một hiện thực mà từ trước chưa ai dám viết. Và chúng ta biết sau thời gian mở và cởi trói cho văn nghệ người ta lại thấy hiểm họa mà nó mang tới nên phải trói trở lại. Một số người trong ban chấp hành tự kiểm điểm và xóa bỏ giải thưởng của cuốn sách kia. Theo đó cũng là lúc Nguyên Ngọc phải lặng lẽ rời bỏ chức Tổng biên tập tờ báo Văn nghệ. Nhưng dù sao có trói lại cũng không thể trói chặt như trước.

Nguyên Ngọc chuyển hoạt động của mình sang một hướng khác. Anh lại đem tài năng của mình để làm được điều gì đó có lợi ích cho dân cho nước, và lại phải vượt qua những thử thách gian nan mới. Qua những bước thăng trầm của Nguyên Ngọc, tôi đã viết chân dung anh:

“ Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên lại nằm..”

Cách đây mấy năm, Nguyên Ngọc từ Hà Nội gọi điện vào Vũng Tàu cho tôi : “Sách ơi, lần này mình lại đứng lên rồi và không nằm nữa đâu!”

 Tôi tin và mong như thế. Bây giờ sống đến U80 không còn là chuyện xưa nay hiếm. Nhưng đến độ ấy mà còn “đứng lên” đi về phía trước thì vẫn được gọi là xưa nay hiếm” (Hồi ký Giải mã chân dung).

Chân dung Nguyên Ngọc

Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu!

 
* 
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét