Nội quái, ngoại quái đều là Khôn
Thoán Từ
坤:元,亨,利,牝馬之貞。君子有攸往,先迷後得,主利。西南得朋,東北喪朋。安貞吉。
Khôn: Nguyên, hanh, lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du
vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng. An trinh,
cát.
Dịch: Khôn có
đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con ngựa cái.
Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người khác thủ xướng mà mình
theo sau thì được, chỉ cốt lợi ích cho vạn vật. Đi về phía tây nam thì được
bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng giữ đức bền vững, tốt.
Giảng: Quẻ Càn gồm 6 hào dương, quẻ Khôn gồm 6 hào âm. Càn “tượng”[55] trời
thì Khôn “tượng” đất. Càn cương kiện thì Khôn nhu thuận. Càn tạo ra vạn vật ở
vô hình, thuộc phần khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới sinh
trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn như công của Càn; chỉ khác Khôn phải ở
sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn; cho nên các đức nguyên, hanh, lợi, Khôn
có đủ như Càn; chỉ riêng về đức trinh (chính và bền) thì Khôn hơi khác: tuy
chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương dùng con ngựa cái để “tượng” Khôn:
ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có tính thuận theo ngựa đực.
Cũng vì Khôn có đức thuận, cho nên khởi xướng phải là Càn,
Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người quân tử nếu ở vào địa vị Khôn, phải
tùy thuộc người trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng để khỏi lầm lẫn, chờ
người ta khởi xướng rồi mới theo thì được việc, như vậy là có đức dày như đất,
chở được muôn vật, lớn cũng không kém đức của trời (Càn): “Quân tử dĩ tự cường
bất tức” là bài học rút ra từ quẻ Càn.
Chu Công còn khuyên đi về phía Tây Nam vì trên Hậu thiên bát
quái Khôn ở phía Tây nam (có học giả hiểu là phía Tây và phía Nam) thì được bạn
(hoặc được tiền bạc), vì chữ “bằng” có thể hiểu là bằng hữu, cũng có thể hiểu là
bằng bối (朋攸:
bối là vỏ sò ngao xưa dùng làm tiền, 1 bằng là 2 hoặc 10 bối) nếu đi về phía
Đông Bắc thuộc dương thì mất bạn (hoặc tiền bạc).
Được quẻ này, nên theo những lời khuyên đó mà an lòng, giữ
đức bền vững thì tốt.
Câu “Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc” có người hiểu là:
“Người quân tử có đi đâu thì trước lầm sau đúng”, mà không giảng tại sao lại như
vậy. Hiểu như chúng tôi ở trên thì có lí hơn, làm rõ cái đạo “thuận tòng thì
tốt” của Khôn. Chữ “du” 攸 ở trong Kinh Dịch
thường dùng như chữ “sở” 所.
Tác giả Văn Ngôn
không giảng gì thêm chỉ tóm tắt lại: Đạo Khôn là thuận theo trời mà tiến hành
không ngừng.
Hào Từ
初六:履霜,堅冰至。
Sơ lục: Lí sương, kiên băng chí.
Dịch: Hào 1, âm: Đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến.
Giảng: Đây là
hào âm đầu tiên trong quẻ. Âm thì lạnh, nên Chu Công ví với sương lạnh mới kết
lại thì thành sương, rồi lần lần, lạnh hơn, nước sẽ đông lại thành băng. Hào
này có hàm cái ý phải thận trọng từ bước đầu. Tiểu Tượng truyện không giảng
thêm, còn Văn Ngôn truyện thì khuyên ta: “Nhà nào tích lũy điều lành thì tất có
thừa phúc (để đến đời sau); nhà nào tích lũy điều chẳng lành thì tất có thừa
tai vạ (để đến đời sau). Như việc bề tôi giết vua, con giết cha, nguyên do
không ở trong một buổi sớm chiều; tất dần dà có từ lâu rồi, mà người ta không
biết lo toan từ sớm vậy” (Tích thiện chi gia tất hữu dư khách, tích bất thiện
chi gia tất hữu dư ương: Thần thí kì quân, tử thí kì phụ, phi nhất triêu nhất
tịch chi cố, kì sở do lai giả tiệm hĩ. Do biện chi bất tảo biện dã).”
Chúng ta để ý: hào 1 quẻ Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu
đức luyện tài chờ thời; còn hào 1 quẻ Khôn này. Dịch răn phải đề phòng từ đầu,
nếu không sẽ gặp họa; như vậy Dịch tin ở Dương hơn đạo Âm, trọng Dương hơn Âm.
六二:直方大,不習無不利。
Lục nhị: Trực phương đại, bất tập vô bất lợi.
Dịch: Hào 2,
âm: (Đức của mình) thẳng, vuông, lớn thì chẳng phải học tập mà cũng không có gì
là không lợi.
Giảng: Hào này
rất tốt: Thể là âm, vị cũng là âm (hào chẵn), thế là đắc chính, cho nên bảo là
có đức thẳng (trực) nó lại đắc trung, (ở giữa nội quái) cho nên bảo là vuông
vức (phương)[56] nó lại ở trong
quẻ Khôn, có qui mô lớn, nên chẳng cần học tập khó khăn mà hành động nào cũng
hợp đạo lí.
Văn Ngôn giảng thêm: người quân tử muốn như hào 2 này mà ngay thẳng
ở trong lòng thì phải có đức kính; vuông ở ngoài (khi tiếp vật) thì phải có đức
nghĩa. Có hai đức kính, nghĩa đó thì sẽ không cô lập (?). Nguyên văn: “bất cô”,
Chu Hi giảng là to lớn, tức có ý cho rằng: Kính thì “trực”, nghĩa thì “phương”.
Có đủ kính và phương thì là “đại”. Chúng tôi hiểu theo câu: “Đức bất cô, tất
hữu lân” (người có đức thì không lẻ loi, tất có bạn cũng trọng đạo đức như mình
(bạn đây là hào 5, ứng với 2) không biết có đúng không.
六三:含章可貞,或從王事,無成有終。
Lục tam: Hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành
hữu chung.
Dịch: Hào 3,
âm: Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ vững được, có khi theo người trên
mà làm việc nước, đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả.
Giảng: Hào 3 là
âm mà ở vào địa vị dương (lẻ), như vậy là không chính, nhưng nó vốn có đức nhu
thuận của quẻ Khôn, thêm được tính cương kiện của vị dương, thì lại là tốt (đây
là lẽ biến hóa của Dịch).
Nó đứng trên cùng nội quái, tức có thể có chức phận, cho nên
bảo là có lúc theo bề trên làm việc nước. Nhưng nó nên nhũn, nhu thuận (đức của
Khôn) chỉ làm trọn nghĩa vụ mà đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có
kết quả.
Văn Ngôn bàn thêm: Ngậm chứa đức tốt, theo người trên làm việc mà
không dám chiếm lấy sự thành công, đó là đạo của Đất, của vợ, của bề tôi (địa
đạo, thê đạo, thần đạo). Đó là cách cư xử của người dưới đối với người trên.
六四:括囊,無咎,無譽。
Lục cửu: Quát nang, vô cữu, vô dự.
Dịch: Hào 4,
âm: Như cái túi thắt miệng lại, (kín đáo giữ gìn) thì khỏi tội lỗi mà cũng
không danh dự.
Giảng: Hào 4 là âm ở địa vị âm trong một quẻ toàn âm, mà không đắc trung như hào 2, ví như người quá nhu thuận, vô tài, không có chút cương cường nào. Đã vậy, mà ở sát hào 5, tức là có địa vị một đại thần, tài thấp mà địa vị cao, nên phải thận trọng thì mới khỏi tội lỗi, an thân, mặc dầu không có danh dự gì.
Hào 4 quẻ Càn cũng ở địa vị như hào này, nhưng là dương, có
tài năng, nên còn có thể bay nhảy, tiến được (hoặc dược), khác nhau ở chỗ đó.
Văn Ngôn cho hào này có cái tượng “âm cự tuyệt dương” (vì không có
chút dương nào cả từ bản thể tới vị), như vậy là âm dương cách tuyệt nhau, trời
đất không giao nhau (thiên địa bế), lúc đó hiền nhân nên ở ẩn (hiền nhân ẩn),
rất thận trọng thì không bị tai họa.
六五:黄裳,元吉。
Lục ngũ: Hoàng thường, nguyên cát.
Dịch: Hào 5,
âm: Như cái xiêm màu vàng, lớn, tốt (rất tốt).
Giảng: Hào 5 là
hào chí tôn trong quẻ, đắc trung. Tuy nó không đắc chính vì là âm mà ở vị
dương; nhưng ở trong quẻ Khôn, như vậy lại tốt vì có chút cương, không thuần
âm, thuần nhu, như hào 4, tức là có tài, nhưng vẫn là Khiêm nhu (vì là âm). Âm
còn hàm ý văn vẻ nữa, trái với dương cương kiện là võ. Cho nên Chu Công cho là
hào này rất tốt, và “tượng” bằng cái xiêm màu vàng. Vàng là màu của đất, của
trung ương (hàm ý không thái quá, không bất cập) của vàng, đồng, nên người
Trung Hoa thời xưa rất quí, chỉ vua chúa mới được dùng màu vàng trong y phục.
xiêm là một bộ phận y phục ở phía dưới, đẹp đẽ, hàm cái nghĩa khiêm hạ, không
tự tôn.
Văn Ngôn bàn thêm: người quân tử có đức trung (màu vàng) ở trong mà
thông suốt đạo lí, ở ngôi cao mà vẫn khiêm, tự coi mình ở thể dưới (như cái
xiêm); như vậy là chất tốt đẹp ở bên trong mà phát ra bề ngoài, làm nên sự
nghiệp lớn, tốt đẹp như vậy là cùng cực.
Như vậy Dịch tuy coi âm (Khôn) không quí bằng dương (Càn),
nhưng có lúc coi trọng đức khiêm nhu, mà Dịch cho là đức của người văn minh.
Tinh thần đó là tinh thần hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Hào 5 quẻ Càn, Chu Công
cho là đại quí (long phi tại thiên) nhưng chỉ bảo: “Lợi kiến đại nhân”; còn hào
5 quẻ Khôn thì khen là “nguyên cát” hào tốt nhất trong Kinh Dịch, là có nghĩa vậy.
六上:龍戰于野,其血玄黄。
Lục thượng: Long chiến vu dã, kì huyết huyền hoàng.
Dịch: Hào trên
cùng, âm: Như rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng.
Giảng: Hào này
âm lên tới điểm cực thịnh. Âm dương tuy bổ túc nhau, nhưng bản thể vẫn là ngược
nhau, đối địch nhau. Khi âm cực thịnh, dương cũng vậy (hào 6 quẻ Càn) thì hai
bên tất tranh nhau, và cả hai đều bị hại. Đạo đến đó là cùng rồi. Cũng vẫn cái
nghĩa thịnh cực thì suy như hào 6 quẻ Càn.
Văn Ngôn: không giảng gì khác, chỉ cho biết rằng “huyền hoàng”: là
sắc của trời đất, âm dương.
Cao Hanh ngờ rằng hai chữ đó 玄黄 thời xưa dùng
như hai chữ (vì
đọc như nhau) và có nghĩa là chảy ròng ròng. Không rõ thuyết nào đúng, nhưng
đại ý vẫn là tai hại cả cho hai bên.
7
用六:利永貞。
Dụng lục: Lợi vĩnh trinh.
Dịch: (nghĩa
từng chữ) Dùng hào âm: Phải (nên) lâu dài, chính và bền.
Giảng: Hai chữ
“dụng lục” ở đây cũng như hai chữ “dụng cửu” ở quẻ Càn rất tối nghĩa, và câu 7
này mỗi nhà giảng một khác. Dưới đây tôi chỉ đưa ra ba thuyết:
Thuyết của tiên Nho: sáu hào âm biến ra sáu hào dương, tức Thuần Khôn biến thành Thuần Càn, như một người nhu nhược biến ra một người cương cường, cho nên bảo là: phải (nên) lâu dài, chính và bền.
Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát
hay hung lâu dài, mà được “hào” này thì lợi.
Thuyết của Tào Thăng: Khôn thuận
theo Càn cho nên gọi là lợi; Khôn động thì mở ra, tĩnh thì đóng lại.
Cho nên bảo chính và bền, ý muốn nói: đạo Khôn đơn giản mà
tác thành vạn vật.
Chú ý: chỉ hai quẻ Càn và Khôn là có Văn Ngôn truyện, Dụng Cửu và Dụng Lục; từ quẻ sau trở đi không còn
những tiết đó nữa.
Chú thích
10
[55]. Từ đây chúng tôi gọi tắt tượng trưng, biểu tượng là “tượng”.
[56]. Tôn Châu Nhân có câu: Hạnh dục phương, trí dục viên, nghĩa là tính nên vuông vức – giữ đúng đạo, ngay ngắn – mà trí óc nên tròn trịa, linh động, không cố chấp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét