Tranh vẽ Trương Tử Phòng trong một ngôi mộ thời Tây Hán |
16. SỬ KÝ TƯ MÃ THIÊN
(Tư Mã
Thiên)
Lưu Hầu Thế Gia
Tổ tiên Lưu Hầu Trương Lương là người nước Hàn. Người ông là Khai
Địa làm tướng quốc của Hàn Chiêu Hầu, Tuyên Huệ Vương, Tương Ai Vương; cha là
Bình làm tướng quốc của Ly Vương, Điệu Huệ Vương. Năm thứ hai mươi ba đời Điệu
Huệ Vương. Bình chết (250 trước công nguyên). Lương còn ít tuổi, chưa từng làm
quan nước Hàn. Khi nước Hàn bị phá tan, Lương có ba trăm người tôi tớ trong
nhà. Em Lương chết, Lương không lo chôn cất, đem tất cả gia tài tìm thích khách
giết vua Tần để báo thù cho nước Hàn, bởi vì cha và ông làm tướng quốc năm đời
vua Hàn. Lương thường học lễ ở đất Hoài Dương, đi về đông yết kiến Thương Hải
Quân (người ẩn sĩ lúc bấy giờ), tìm được một lực sĩ làm một cái chuỳ sắt, nặng
một trăm hai mươi cân. Tần Thuỷ Hoàng đi chơi ở miền đông, Lương và người khách
rình đánh Tần Thuỷ Hoàng ở bãi cát Bác Lãng, đánh nhầm phải xe tuỳ tùng. Tần
Thuỷ Hoàng nổi giận sai lùng khắp thiên hạ, tìm người thích khách rất gấp, cốt
lùng cho được Trương Lương. Lương bèn đổi tên họ, trốn tránh ở Hạ Bì. Một hôm
dạo chơi ở trên cầu Hạ Bì, Lương thấy một cụ gìa, mặc áo cộc đến chỗ mình, để
chiếc giầy rơi tõm xuống cầu. Cụ quay lại bảo Lương:
- Thằng bé! Xuống lấy giầy!
Lương ngạc nhiên muốn đánh. Nhưng thấy ông cụ già cả nên cố nhịn,
xuống lấy giầy lên.
Ông cụ nói:
- Xỏ giày cho ta!
Lương trót đã lấy giầy, nên cũng luôn tiện quỳ xuống xỏ giầy cho
ông cụ. Cụ già đút chân vào giầy, cười rồi bỏ đi. Lương hết sức kinh ngạc, đưa
mắt nhìn theo. Ông cụ đi khỏi một dặm, lại quay lại nói:
- Thằng bé dạy được đấy! Năm ngày sau, sáng tinh mơ, ngươi sẽ gặp
ta ở đây!
Lương lấy làm lạ, quỳ xuống nói:
- Dạ!
Năm hôm sau, sáng tinh mơ, Lương đến thì cụ già đã ở đấy từ trước.
Cụ giận, nói:
- Đã hẹn với người già cả, lại đến sau là cớ gì?
Cụ ra đi, nói:
- Năm ngày nữa, sẽ gặp ở đây cho sớm.
Năm ngày sau, vào lúc gà gáy, Lương đến nơi họp, thì cụ già đã đến
trước. Cụ lại giận, nói:
- Tại sao lại đến sau?
Cụ ra đi, nói:
- Năm ngày sau, đến cho sớm.
Năm ngày sau, chưa đến nửa đêm, Lương đã đi. Một lát sau, cụ già
cũng đến.
Cụ vui mừng nói:
- Thế mới phải chứ!
Cụ đưa ra một quyển sách nói:
- Đọc quyển sách này thì làm được thầy bậc vương giả. Mười năm
sau, sẽ ứng nghiệm. Mười ba năm sau, con đến gặp ta. Hòn đá màu vàng dưới chân
núi Cốc Thành ở phiá bắc sông Tế là ta đó.
Cụ già liền đi, không nói gì và Lương không gặp lại nữa. Sáng hôm
sau, Lương xem quyển sách thì đó là quyển “Thái Công binh pháp”. Lương vì vậy
rất quí quyển này, thường đem ra học tập nghiền ngẫm. Lương ở Hạ Bì làm người
nghĩa hiệp. Hạng Bá giết người, được Lương che chở (Đoạn 1 – Trương Lương trước
khi theo Lưu Bang).
2. Mười năm sau (209 trước công nguyên), bọn Trần Thiệp khởi
nghĩa, Lương cũng tụ họp hơn trăm trai tráng. Cảnh Câu ở đất Lưu tự lập làm Giả
Vương (“Vua tạm thời”, lập vua tạm thời để hiệu triệu dân chúng cho tiện) nước
Sở. Lương muốn đi theo. Giữa đường, Lương gặp Bái Công. Bái Công đem mấy nghìn
người cướp được đất ở phía tây Hạ Bì. Lương bèn theo Bái Công. Bái Công cho
Lương làm tướng coi về việc ngựa của quân. Lương mấy lần đem binh pháp của Thái
Công ra trình bày với Bái Công. Bái Công khen, thường dùng sách lược ấy. Lương
nói cho người khác nghe thì họ đều không hiểu. Lương nói:
- Bái Công là người nhà trời chăng!
Vì vậy, Lương theo Bái Công, không đến yết kiến Cảnh Câu nữa.
Bái Công đến đất Tiết, yết kiến Hạng Lương, Hạng Lương lập Sở Hoài
Vương. Lương bèn nói với Hạng Lương:
- Ngài đã lập con cháu vua Sở; trong các công tử nước Hàn, Hành
Dương Quân tên là Thành là người hiền, có thể lập làm vương để tăng thêm vây
cánh.
Hạng Lương sai Trương Lương tìm Hàn Thành, lập làm vua Hàn, cho
Lương làm tư đồ nước Hàn, cho Hàn Vương cầm hơn nghìn quân đi về hướng tây lấy
đất Hàn. Quân Hàn lấy được mấy thành, nhưng quân Tần cướp lại ngay. Quân Hàn đi
lại đánh quanh quẩn ở miền Dĩnh Xuyên. Khi Bái Công đi từ miền nam Lạc Dương ra
khỏi núi Hoàn Viên, Lương dẫn quân theo Bái Công, lấy được hơn mười thành của
Hàn, đánh phá quân của Dương Hùng. Bái Công bèn sai Hàn Vương Thành ở lại giữ
huyện Dương Định, còn mình cùng Trương Lương đi về hướng nam, đánh lấy được đất
Uyển, rồi quay sang hướng tây vào Vũ Quan. Bái Công muốn đem hai vạn quân đánh
quân Tần ở gần đất Nghiên. Lương nói:
- Quân Tần vẫn còn mạnh, chưa có thể coi thường. Thần nghe nói
tướng Tần là con nhà hàng thịt. Là con nhà buôn, thì dễ lấy lợi mà lôi cuốn họ.
Xin Bái Công hãy tạm thời ở lại giữ thành, sai người đi trước dự bị lương thực
cho năm vạn người ăn, lại cắm thêm cờ xí ở trên núi để làm nghi binh, sai Lịch
Tự Cơ mang của quý đút lót cho tướng Tần.
Quả nhiên tướng Tần làm phản, muốn liên kết với Bái Công cùng đem
binh về hướng Tây đánh úp Hàm Dương. Bái Công nghe theo, Lương nói:
- Đây chỉ có viên tướng của nó là muốn làm phản thôi, sợ bọn quân
lính không nghe theo. Nếu họ không nghe theo thì nguy, chi bằng ta nhân lúc nó
trễ nãi mà đánh nó.
Bái Công liền đem quân đánh quân Tần, phá tan quân Tần. Bèn đi về
hướng bắc đến Lam Điền. Đánh trận thứ hai, quân Tần thua to. Bái Công bèn đến
Hàm Dương, vua Tần là Tử Anh ra hàng.
Bái Công vào cung nhà Tần, thấy nhà cửa, màn trướng, chó ngựa, vật
quí, đàn bà con gái đến hàng ngàn, ý muốn ở lại đấy. Phàn Khoái can Bái Công
nên ra ngoài. Bái Công không nghe. Lương nói:
- Tần làm điều vô đạo cho nên Bái Công mới đến được đây. Đã cốt vì
thiên hạ giết bọn giặc tàn ác, thì ta nên ăn ở theo lối mộc mạc, để tỏ cái nền
nếp của mình. Nay ngài vừa mới vào nước Tần mà đã ham thích cái vui thú của nó,
thì khác gì người ta nói, “Nối giáo cho giặc” vậy. Vả chăng, “lời nói ngay nghe
chướng tai, nhưng có lợi cho việc làm, thuốc đắng, uống khó chịu nhung chữa
được bệnh”, xin Bái Công nghe theo lời Phàn Khoái!
Bái Công bèn đem quân về Bá Thượng.
Hạng Vũ về đến Hồng Môn, muốn đánh Bái Công. Hạng Bá đang đêm ruỗi
ngựa vào trong quân doanh của Bái Công hội kiến riêng với Trương Lương, muốn rủ
Lương cùng đi với mình. Lương nói:
- Tôi vì Hàn Vương mà tiễn Bái Công, nay có việc gấp bỏ trốn đi
thì bất nghĩa.
Lương bèn đem tất cả những lời nói của Hạng Bá nói lại với Bái
Công, Bái Công hoảng sợ nói:
- Làm sao bây giờ?
Lương hỏi:
- Bái Công có muốn chống lại Hạng Vũ không?
Bái Công nói:
- Cái thằng khốn nạn kia khuyên ta giữ lấy Hàm Cốc Quan, không cho
quân của chư hầu vào, thì có thể làm vương trên tất cả đất Tần, cho nên ta nghe
theo!
Lương hỏi:
- Bái Công tự lượng sức xem có thể đánh lui được Hạng Vũ không?
Bái Công yên lặng một lát rồi nói:
- Cố nhiên là không được. Làm sao bây giờ?
Lương bèn cố mời Hạng Bá vào. Hạng Bá yết kiến Bái Công. Bái Công
mời Bá uống rượu chúc thọ kết làm thông gia, nhờ Hạng Bá nói lại đầu đuôi rằng,
Bái Công không dám phản lại Hạng Vũ. Bái Công sở dĩ giữ lấy cửa ải là đề phòng
bị bọn đạo tặc khác. Sau rồi Bái Công gặp Hạng Vũ mới được giải thoát, việc ấy
đã nói trong truyện Hạng Vũ (Xem Hạng Vũ bản kỷ).
Tháng giêng, năm thứ nhất nhà Hán (206). Bái Công làm Hán Vương,
cai trị đất Ba, đất Thục. Hán Vương cho Lương hai nghìn lạng vàng, hai hộc châu
báu, Lương đem hiến tất cả cho Hạng Bá. Hán Vương cũng nhân đó, sai Lương đem
nhiều của quí cho Hạng Bá nhờ Hạng Bá xin đất Hán Trung cho mình. Hạng Vương
ưng thuận, vì vậy Bái Công được đất Hán Trung. Hán Vương vào đất Ba, đất Thục,
Lương tiễn đến đất Bao Trung. Hán Vương sai Lương về nước Hàn. Lương nhân đó
nói với Hán Vương:
- Sao vương không đốt quách các đường sạn đạo (Xem chú thích ở Cao
Tổ bản kỷ) đã đi qua, để nói với thiên hạ rằng mình không có ý muốn quay lại,
làm cho Hạng Vương yên lòng!
Hán Vương bèn sai Trương Lương quay lại. Hán Vương đi qua đốt tất
cả đường sạn đạo.
Lương đến nước Hàn. Vì Hàn Vương Thành đã cho Lương theo Hán
Vương, nên Hạng Vương không cho Thành về nước Hàn, bắt Thành theo mình sang
đông. Lương nói với Hạng Vương:
- Hán Vương đã đốt đường sạn đạo, tức là không muốn quay lại nữa.
Lương bèn lấy thư của Tề Vương là Điền Vinh làm phản đưa cho Hạng
Vương. Vì vậy Hạng Vương không lo đến Hán Vương đang ở phía tay; trái lại, đem
binh về phương bắc đánh Tề. Sau đó Hạng Vương không chịu cho Hàn Vương về,
giáng xuống làm hầu, rồi giết ở Bành Thành. Lương bỏ trốn, lẻn theo về với Hán
Vương. Hán Vương cũng đã lấy được Tam Tần, cho Lương làm Thành Tín Hầu, đi về
hướng đông đánh Sở.
Quân Hán tới Bành Thành, bị đánh bại quay về. Hán Vương đến Hạ Ấp
xuống ngựa, ngồi xổm trên yên ngựa (chi tiết dường như không quan trọng nhưng
rất điển hình) mà hỏi Trương Lương:
- Ta muốn bỏ tất cả đất đai từ Hàm Cốc Quan sang phía đông. Bây
giờ giao cho ai thì có thể cùng ta lo nghiệp lớn.
Lương nói:
- Cửu Giang Vương Kình Bố là viên mãnh tướng của Sở, có hiềm khích
với Hạng Vương. Bành Việt theo Tề Vương là Điền Vinh làm phản ở đất Lương, hai
người này nên dùng ngay. Trong số các tướng của Hán Vương, chỉ có một mình Hàn
Tín là có thể giao được việc lớn, chống giữ được một mặt. Nếu muốn bỏ đất đai
cứ giao cho ba người ấy thì có thể phá được nước Sở.
Hán Vương bèn sai Tuỳ Hà, nói với Cửu Giang Vương Kình Bố, lại sai
sứ giả kết liên với Bành Việt. Đến khi Nguỵ Vương là Báo làm phản, Hán Vương
sai Hàn Tín đem binh đánh Báo, nhờ vậy lấy được các nước Yên, Đại, Tề, Triệu.
Cuối cùng phá được nước Sở, là do sức của ba người này.
Trương Lương hay ốm, chưa từng làm tướng một mình, thường làm kẻ
bày mưu kế, và luôn luôn đi theo Hán Vương.
Năm thứ ba nhà Hán (204 trước công nguyên), Hạng Vũ vây Hán Vương
ở Huỳnh Dương rất gấp. Hán Vương lo lắng, cùng Lịch Tư Cơ bàn cách làm yếu lực
lượng của Sở. Tự Cơ nói:
- Ngày xưa, vua Thang đánh Kiệt, phong cho con cháu Kiệt ở đất Kỷ.
Vua Vũ Vương đánh Trụ, phong cho con cháu Trụ ở đất Tống. Nay nhà Tần bỏ điều
đức nghĩa, lấn đánh các nước chư hầu, tiêu diệt con cháu sáu nước, khiến cho họ
không có tấc đất cắm dùi. Nếu bệ hạ quả thực lập lại được con cháu sáu nước, họ
nhận được ấn rồi thì vua tôi, trăm họ tất cả đều mang ơn đức, không ai không nô
nức hâm mộ đạo nghĩa của bệ hạ, tình nguyện làm thần thiếp. Nếu đã thi hành đức
nghĩa, thì bệ hạ quay mặt về hướng nam mà xưng bá, nước Sở nhất định phải khép
áo đến chầu.
Hán Vương nói:
- Phải! Mau mau khắc ấn! Tiên sinh nhân tiện đi mang theo luôn.
Tự Cơ chưa đi, Trương Lương ở ngoài vào yết kiến.
Hán Vương đang ăn, nói:
- Tử Phòng lại đây! Có người khách bàn giúp ta cách làm giảm quyền
lực nước Sở.
Hán Vương đem lời Lịch Sinh kể lại đầu đuôi, và hỏi:
- Tử Phòng thấy thế nào?
Trương Lương hỏi:
- Ai bày cho bệ hạ kế này? Công việc của bệ hạ thế là hỏng rồi.
Hán Vương nói:
- Tại sao thế?
Lương nói:
- Thần xin mượn nắm đũa trước mâm mà trù tính cho đại vương nghe.
Xưa, vua Thang đánh Kiệt, nhưng phong con cháu Kiệt ở đất Kỷ, là biết chắc mình
có thể nắm được cái chết của Kiệt. Nay bệ hạ có thể nắm được tính mạng của Hạng
Tịch không?
- Chưa nắm được.
Lương nói:
- Đó là điều thứ nhất chứng tỏ không thể làm thế. Vũ Vương đánh
Trụ, phong con cháu nhà Thương ở Tống, là chắc lấy được đầu Trụ, nay bệ hạ có
thể lấy được đầu Hạng Tịch không?
Hán Vương nói:
- Chưa thể được.
Lương nói:
- Đó là điều thứ hai chứng tỏ không thể làm thế. Vũ Vương vào đất
Ân, nêu tỏ quê hương của Thương Dung, tha tù cho Cơ Tử, đắp mộ cho Tỷ Can
(Thương Dung, người hiền đi ẩn ở núi Thái Hàng. Cơ Tử can Trụ không được bị Trụ
bắt giam. Tỷ Can can Trụ bị Trụ giết). Nay bệ hạ có thể đắp được mộ cho thánh
nhân, nếu lo quê hương của bậc hiền nhân, cúi đầu trước cửa người trí giả
không?
Hán Vương nói:
- Chưa làm được.
Lương nói:
- Đó là điều thứ ba, chứng tỏ không thể làm thế. Vũ Vương phát
thóc ở kho Cự Kiều, tung tiền ở nhà Lộc Đài cấp cho dân nghèo. Nay bệ hạ có thể
lấy của kho ra phân phát cho người nghèo được không?
Hán Vương nói:
- Chưa làm được.
Lương nói:
- Đó là điều thứ tư, chứng tỏ không thể làm thế. Sau khi đánh nhà Ân xong, Vũ Vương đổi xe trận làm xe thường, đặt ngược giáo mác, lấy da hổ bọc bên ngoài, để báo với thiên hạ rằng không dùng binh nữa. Nay bệ hạ có thể xếp việc võ để lo việc văn, không dụng binh nữa không?
Hán Vương nói:
- Chưa làm được.
Lương nói:
- Đó là điều thứ năm chứng tỏ không thể làm thế. Vũ Vương cho ngựa
nghỉ ở phía nam núi Hoa Sơn để chứng tỏ rằng không dùng ngựa chiến nữa. Nay bệ
hạ có thể cho chiến mã nghỉ ngơi không dùng nó nữa không?
Hán Vương nói:
- Chưa làm được như vậy.
Lương nói:
- Đó là điều thứ sáu chứng tỏ không thể làm thế. Vua Vũ Vương thả
trâu ở phía bắc cánh đồng Đào Lâm để chứng tỏ rằng không dùng nó vào việc
chuyên chở nữa. Nay bệ hạ có thể thả trâu nghỉ ngơi không dùng nó vào việc
chuyên chở nữa không?
Hán Vương nói:
- Chưa có thể làm được.
Lương nói:
- Đó là điều thứ bảy, chứng tỏ không thể làm thế. Những kẻ du sĩ
trong thiên hạ bỏ thân thích, xa lìa mồ mả ông cha, rời những người quen thuộc
đi theo bệ hạ, chỉ là ngày đêm mong được một thước, một tấc đất đai. Nay bệ hạ
lại khôi phục sáu nước, lập lại con cháu Hàn, Nguỵ, Yên, Triệu, Tề, Sở thì
những kẻ du sĩ trong thiên hạ đều trở về thờ vua của họ, theo thân thích của
họ, quay về với những người quen thuộc của họ, với mồ mả ông cha của họ, vậy bệ
hạ còn nhờ ai mà lấy được thiên hạ nữa? Đó là điều thứ tám chứng tỏ không thể
làm thế. Vả chăng, nếu nước Sở mà mạnh nhất thì sáu nước được lập lên sẽ lại
chịu khuất mà theo Sở. Như vậy bệ hạ làm sao mà bắt họ thần phục mình được? Nếu
bệ hạ dùng mưu của người khách thì sự nghiệp của bệ hạ hỏng mất (Trương Lương
đưa ra 8 điều, nhưng thực ra chỉ có điều thứ 8 là quan trọng. Những điều kia
chỉ có tính chất hổ trợ).
Hán Vương liền dừng ăn, nhả cơm ra mà mắng:
- Cái thằng hủ nho! Suýt nữa mày làm hỏng cả việc của ông (Miêu tả
Hán Vương rất sinh động).
Liền sai tiêu hủy ngay các ấn.
Năm thứ tư nhà Hán (203), Hàn Tín phá quân nước Tề, muốn tự lập
làm Tề Vương. Hán Vương giận. Trương Lương bàn với Hán Vương. Hán Vương sai
Lương trao ấn Tề Vương cho Tín. Việc này chép trong chuyện Hoài Âm Hầu (Xem
Truyện Hoài Âm Hầu). Mùa thu năm ấy, Hán Vương đuổi theo Sở đến miền nam Dương
Hạ, đánh không lại, phải đóng giữ ở Cố Lăng. Chư hầu hẹn nhưng không đến. Lương
bàn với Hán Vương. Hán Vương dùng mưu kế của Lương, chư hầu đều đến, việc này
chép trong chuyện Hạng Tịch (Xem Hạng Vũ bản kỷ).
Tháng giêng, năm thứ sáu nhà Hán (200), Hán Vương phong cho các
công thần. Lương chưa hề có công về chiến trận. Cao Đế nói:
- Bàn mưu kế ở trong màn, trướng, quyết định sự thắng lợi ở ngoài
ngàn dặm, đó là công của Tử Phòng! Cho tự chọn lấy ba vạn hộ ở đất Tề.
Lương nói:
- Xưa kia thần khởi nghĩa ở Hạ Bì, tới đất Lưu thì gặp bệ hạ. Đó
là trời đem thần giao cho bệ hạ! Bệ hạ dùng mưu kế của thần, may mà có lúc
trúng, thần xin được phong ở Lưu là đủ rồi, không dám nhận ba vạn hộ.
Cao Đế bèn phong Trương Lương làm Lưu Hầu, cùng được phong với bọn
Tiêu Hà. Năm thứ sáu, vua đã phong hơn hai mươi người đại công thần, còn những
người khác thì ngày đêm tranh công nhau, không quyết định được, cho nên chưa
làm việc phong tước. Vua ở cung Nam thành Lạc Dương, từ con đường trên gác nhìn
các tướng, thấy họ cùng nhau ngồi trên bãi cát nói chuyện.
Vua nói:
- Họ nói gì thế?
Lưu Hầu nói:
- Bệ hạ không biết sao? Đó là họ bàn việc làm phản đấy thôi!
Vua nói:
- Thiên hạ đã gần được yên rồi! Vì cớ gì họ lại làm phản?
Lương nói:
- Bệ hạ vốn từ áo vải xuất thân, nhờ bọn họ mà lấy được thiên hạ.
Nay bệ hạ làm thiên tử, mà người được phong lại là những người bạn cũ, hoặc
người thân yêu như là Tiêu Hà, Tào Tham; còn những người bị giết lại là những
người bình sinh bệ hạ thù oán. Nay quân lại (nha môn coi về việc quân chính)
tính công trạng cho rằng lấy cả thiên hạ cũng không đủ để phong cho khắp cả mọi
người, bọn này sợ bệ hạ không thể phong cho tất cả, lại ngờ rằng mình sẽ bị
giết vì những lỗi lầm ngày trước, cho nên họp nhau mưu làm phản đó thôi.
Vua lo lắng hỏi:
- Bây giờ làm thế nào?
- Trong số những người ngày thường bệ hạ vẫn ghét mà các quan đều
biết thì ai là bị ghét hơn cả?
Nhà vua nói:
- Ung Xỉ với ta là chỗ quen biết cũ, thường làm ta khốn khổ, nhục
nhã. Ta muốn giết hắn nhưng vì hắn lập được nhiều công cho nên không nỡ.
Lương nói:
- Nay mau mau phong cho Ung Xỉ trước, để tỏ cho các quan biết. Các
quan thấy Ung Xỉ được phong thì người nào cũng sẽ yên tâm.
Vua bèn đặt tiệc rượu, phong Ung Xỉ làm Thập Phương Hầu, và giục
gấp thừa tướng, ngự sử phải lo việc định công lao, phong đất đai. Tiệc rượu
tan, các quan đều mừng rỡ nói:
- Ung Xỉ mà còn được phong hầu, thì bọn ta chẳng phải lo nữa.
Lưu Kính nói với Cao Đế:
- Nên đóng đô ở Quan Trung.
Vua đang phân vân. Các quan đại thần xung quanh đều là người Sơn
Đông (Sơn Đông ở đây dùng để chỉ tất cả các nước ở phía đông nước Tần), phần
nhiều khuyên nhà vua đóng đô ở Lạc Dương, nói:
- Lạc Dương phía đông có Thánh Cao, phía tây có Hào Sơn, Dẫn Trì,
sau lưng là Hoàng Hà, quay mặt sang các sông Y, sông Lạc. Có thể tin cậy vào sự
hiểm trở của nó.
Lưu Hầu nói:
- Tuy Lạc Dương có những hiểm trở ấy, nhưng đất hẹp không quá vài
trăm dặm, ruộng đất xấu lại phải đương đầu với kẻ địch cả bốn mặt, độ không
phải là nước dụng võ. Trái lại, Quan Trung bên trái có Hào Sơn, Hàm Cốc Quan;
bên phải có đất Lũng, đất Thục, đồng ruộng phì nhiêu ngàn dặm; phía nam có của
cải của đất Ba, đất Thục; phía bắc có cái lợi đồng cỏ đất Hồ, cả ba mặt đều có
thiên nhiên hiểm trở phòng giữ, chỉ dùng một mặt đông để khống chế chư hầu. Khi
chư hầu yên ổn, thì sông Hoàng Hà, Vị Thuỷ có thể dùng để chuyên chở của cải
của thiên hạ đem về cấp cho Kinh Đô. Nếu chư hầu có biến, thì cứ thuận dòng
sông đi xuống, có thể tiện việc chuyên chở. Đó mới là thành vàng ngàn dặm, một
kho báu trời cho vậy. Lời của Lưu Kính là phải đấy.
Cao Đế liền chuẩn bị xe ngựa ngay hôm ấy sang hướng tây đóng đô ở
Quan Trung. Lưu Hầu theo vua vào Quan Trung, Lưu Hầu vốn hay ốm, thường học
phép “đạo dẫn” (phép tu luyện của người theo đạo Lão, mục đích tập thở và luyện
gân cốt để sống lâu), không ăn cơm, đóng cửa không ra ngoài hơn một năm (Đoạn 2
– Trương Lương bày mưu cho Lưu Bang lấy thiên hạ).
3. Vua muốn bỏ thái tử, lập con của Thích Phu Nhân là Triệu Vương
Như Ý lên làm thái tử, các quan đại thần phần nhiều đều can ngăn, nhưng không
thấy vua quyết định hẳn. Lữ Hậu sợ, không biết làm thế nào. Có người nói với Lữ
Hậu:
- Lưu Hầu khéo bày mưu tính kế, vua tin dùng ông ta!
Lữ Hậu bèn sai Kiến Thành Hầu là Lữ Trạch ép Lưu Hầu:
- Ngài thường làm mưu thần cho hoàng thượng, nay hoàng thượng muốn
đổi thái tử, ngài nằm khểnh điềm nhiên thế sao được.
Lưu Hầu nói:
- Xưa kia hoàng thượng thường ở trong cảnh nguy khốn cấp bách, nhờ
đó mà có dùng mưu kế của tôi. Nay thiên hạ đã yên ổn rồi, hoàng thượng vì cớ
yêu thương, muốn thay đổi thái tử, đó là việc ở trong gia đình, cốt nhục, tuy
có hơn trăm người như tôi cũng không ăn thua.
Lữ Trạch cố nài.
- Việc này khó lòng lấy miệng lưỡi mà can ngăn. Thế nhưng trong
thiên hạ có bốn người, hoàng thượng không sao mời nổi. Bốn người này đã già, họ
đều cho rằng nhà vua khinh người, nên bỏ trốn vào ở ẩn trong núi, giữ nghĩa
không làm tôi nhà Hán, nhưng hoàng thượng rất tôn trọng bốn người này. Nay nếu
ông không tiếc vàng, ngọc, lụa là; bảo thái tử viết thư, dùng lời lẽ nhũn nhặn,
sắp xe êm, sai người biện sĩ cố mời, thì họ sẽ đến. Họ đến, cho họ làm khách,
thường cho vào triều để cho hoàng thượng trông thấy, thì thế nào hoàng thượng
cũng lấy làm lạ và hỏi. Khi hoàng thượng hỏi, biết bốn người kia là người hiền,
thì chính là một cách giúp đỡ đó!
Lữ Hậu liền sai Lữ Trạch cho người mang thư của thái tử, dùng lời
lẽ khiêm nhường, lấy lễ, lạt hậu, để đón bốn người kia. Bốn người đến làm khách
ở nhà Kiến Thành Hầu.
Năm thứ mười một nhà Hán (196 trước công nguyên), Kình Bố làm
phản. Vua ốm muốn sai thái tử cầm quân đi đánh. Bốn người bàn nhau:
- Chúng ta đến đây là cốt để bảo hộ địa vị của thái tử. Thái tử
cầm quân thì việc nguy mất!
Bèn nói với Kiến Thành Hầu:
- Nếu thái tử cầm quân, có công thì địa vị cũng không thêm hơn
được nữa, nhưng nếu không có công quay về thì sẽ vì đó mà mang vạ. Vả chăng,
các tướng cùng đi với thái tử, đều là những mãnh tướng thường cùng hoàng thượng
bình định thiên hạ cả. Nay cho thái tử điều khiển họ, thì chẳng khác gì sai dê
điều khiển sói, chẳng ai chịu ra sức, nhất định sẽ không có kết quả. Tôi nghe
nói, “Mẹ được yêu thì con được bế”, nay Thích Phu Nhân ngày đêm chầu chực,
Triệu Vương Như Ý thường được bế ở trước mặt, hoàng thượng nói, “Thế nào cũng
không để đứa con hư ở trên đứa con yêu”, như thế thì rõ ràng định thay thế thái
tử. Tại sao ông không nói với Lữ Thần mau mau tìm cơ hội khác mà can nhã vua
rằng, “Kình Bố là một mãnh tướng trong thiên hạ, giỏi về việc dùng binh. Nay
các tướng đều là hạng ngang vai vế với hoàng thượng, thế mà lại sai thái tử
điều khiển bọn họ thì khác nào cho dê điều khiển sói, chẳng ai chịu ra sức. Vả
lại, nếu Kình Bố nghe điều đó, thì hắn sẽ gióng trống kéo quân sang hướng tây
mất! Hoàng thượng tuy bệnh, cũng xin gượng trở lên xe, để nằm mà điều khiển.
Như vậy các tướng sẽ không ai không dám hết sức. Hoàng thượng tuy khổ, nhưng
xin vì vợ con mà gắng gượng ( Xem Kình Bố liệt truyện).
Lữ Trạch ngay đêm ấy vào yết kiến Lữ Hậu. Lữ Hậu nhân lúc rảnh
khóc lóc nói với nhà vua theo như ý bốn người nói. Vua nói:
- Ông thấy có sai thằng bé cũng chẳng làm nên gì, thôi ông phải
làm lấy thôi.
Vua liền thân hành cầm quân đi về hướng đông, các quan ở lại đều
tiễn đến Bái Thượng. Lưu Hầu ốm cũng gắng gượng dậy đi đến Khúc Bưu, ra mắt nhà
vua và nói:
- Đáng lý thần phải theo, nhưng thần ốm nặng. Quân Sở hung tợn,
xin bệ hạ chớ có giao chiến với chúng (Trận ấy Hán Cao Tổ không nghe lời
Trương Lương, bị tên bắn trúng).
Nhân lại nói với nhà vua:
- Nên cho thái tử làm tướng quân coi quân ở Quan Trung.
Vua nói:
- Tử Phòng tuy ốm, hãy cố gắng nằm mà giúp thái tử.
Bấy giờ Thúc Tôn Thông làm thái phó, Lưu Hầu làm thiếu phó.
Năm thứ mười hai, nhà Hán (195 trước công nguyên), sau khi đánh
phá quân Kình Bố về, vua ốm càng nặng, muốn thay thái tử. Lưu Hầu can, vua
không nghe, mượn cớ ốm xin nghỉ việc. Thúc Tôn Thông dẫn chuyện xưa nay, cố
chết bảo toàn ngôi cho thái tử, vua giả vờ nhận lời, nhưng vẫn muốn thay thái
tử. Đến khi ăn tiệc, rót rượu thái tử đứng chầu. Bốn người theo thái tử tuổi
đều ngoài tám mươi, mày râu bạc phơ, áo mũ rất đẹp. Vua lấy làm lạ hỏi:
- Họ làm gì thế?
Bốn người tiến đến thưa, kể họ tên, là Đông Viên Công, Gíac Lý
tiên sinh, Ỷ Lý tiên sinh, Hạ Thạch Công. Nhà vua hoảng kinh:
- Ta tìm các ông mấy năm nay, các ông trốn tránh ta. Nay tại sao
các ông lại từ đâu đến chơi với con ta như vậy?
- Bệ hạ khinh kẻ sĩ, hay mắng người, bọn thần nghĩa khí không chịu
nhục, cho nên sợ mà trốn tránh. Nay trộm nghe thái tử là người nhân đức hiếu
thảo, cung kính, thương yêu kẻ sĩ, trong thiên hạ không ai không vươn cổ muốn
vì thái tử mà chết, vì vậy chúng tôi đến đây.
Vua nói:
- Phiền các ông nhờ giúp đỡ thái tử cho trót.
Bốn người chúc thọ xong, đứng dậy đi ra. Vua đưa mắt tiễn, cho gọi
Thích Phu Nhân vào, chỉ bốn người kia bảo rằng:
- Ta muốn đổi nó, nhưng bốn người kia giúp nó. Lông cánh nó đã
thành, khó mà lay chuyển được. Lữ Hậu là chủ của ngươi rồi đấy!
Thích Phu Nhân khóc, vua nói:
- Nàng hãy múa lối Sở cho ta xem! Ta sẽ hát lối Sở cho nàng nghe.
Rồi hát:
Chim hồng hộc bay cao
Một cất cánh ngàn dặm
Lông cánh đã đầy đủ
Bốn bể bay xa thẳm
Bốn bể bay xa thẳm:
Bây giờ biết làm sao?
Tên dây (đời xưa rập chim, lấy dây tơ cột vào cái tên ngắn mà bắn)
tuy có đó.
Biết đặt ở nơi nao?
Hát mấy lần, Thích Phu Nhân nức nở chảy nước mắt. Vua đứng dậy,
quay đi, bãi tiệc rượu. Cuối cùng vua không thay đổi thái tử, đó là nhờ công
Lưu Hầu mời bốn người kia.
Lưu Hầu theo nhà vua đánh đất Đại, bày kế lạ ở miền Mã Ấp, và lập
Tiêu Hà làm tướng quốc, Lương thung dung bàn việc thiên hạ với vua rất nhiều,
nhưng không liên quan đến việc mất còn của thiên hạ, cho nên không chép.
Khi bấy giờ Lưu Hầu nói:
- Gia đình tôi đời đời làm tướng quốc nước Hàn. Đến khi Hàn mất,
tôi chẳng tiếc số tiền vạn lạng vàng, đối phó với nước Tần mạnh, để báo thù cho
nước Hàn, làm cho thiên hạ đều rung động. Nay tôi lấy ba tấc lưỡi mà làm thầy
bậc đế vương, được phong vạn hộ, ở ngôi chư hầu, kẻ áo vải được thế là tột bậc,
đối với Lương thế là đủ rồi. Vậy xin bỏ việc nhân gian, chỉ muốn đi ngao du với
Xích Tùng Tử (tương truyền là một vị tiên đời xưa) mà thôi.
Bèn học cách nhịn cơm, học lối đạo dẫn cho nhẹ mình. Gặp lúc Cao
Đế băng hà, Lữ Hậu cảm ơn đức của Lưu Hầu ép ông ta phải ăn, nói:
- Người ta sinh ra trong đời như bóng bạch câu đi qua cửa sổ (Đoạn
3 – Trương Lương bày mưu cho Lữ Hậu khiến nhà vua không thay đổi thái tử); cần
gì phải làm khổ mình như thế?
Lưu Hầu bất đắc dĩ phải gượng nghe mà ăn (Trang Tử, thiên “Đạo
chích”: Trời và đất vô cùng, người ta chết có hạn, nắm cái có hạn mà gửi vào
cái vô cùng chẳng khác gì ngựa Kỳ, ngựa Ký chạy qua cửa sổ).
4. Tám năm sau, Lương chết, tên thuỵ là Văn Thành Hầu. Con là Bất
Nghi thay cha làm hầu. Lúc đầu Tử Phòng gặp ông già ở Hạ Bì trao cho quyển
“Thái Công thư”. Mười ba năm sau, Tử Phòng theo Cao Đế qua phía bắc sông Tế,
quả thấy viên đá màu vàng ở dưới chân núi Cốc Thành, bèn lấy về mà thờ. Khi Lưu
Hầu chết, người ta chôn luôn viên đá vàng. Mỗi khi tảo mộ và lễ lạt lại cúng
viên đá vàng. Bất Nghi tập tước Lưu Hầu, năm thứ năm đời Hiếu Văn Đế (175) phạm
tội bất kính, nước bị tước bỏ.
Thái Sử Công nói, “Các học giả phần nhiều nói rằng không có quỷ
thần. Nhưng lại nói rằng có tính quái, đến như cụ già cho sách mà Lưu Hầu gặp
thì cũng thực lạ. Cao Tổ nhiều lần bị nguy khốn, thường nhờ ở công sức của Lưu
Hầu, có thể nói không có trời sao! Nhà vua nói, “Bày mưu kế ở trong màn trướng,
quyết định sự thắng lợi ở ngoài ngàn dặm, ta không bằng Tử Phòng. ”
Tôi cho ông ta phải là người khôi ngô, lạ lùng lắm!
Đến khi nhìn tranh, thấy ông ta mặt mũi như một người con gái đẹp!
Khổng Tử nói, “Xét người bằng nét mặt thì sẽ lầm Tử Vũ” (Tử Vũ học trò Khổng
Tử, dáng người xấu xí nhưng hiền đức). Lưu Hầu cũng thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét