3. Quẻ Thủy Lôi Truân
Ngoại quái (ở trên) là Khảm, nội quái (ở dưới) là Chấn.
Khảm là thủy (mà cũng là vân: mây), Chấn là lôi (sấm) cho
nên quẻ này gọi là Thủy lôi (hoặc Vân lôi), có nghĩa là Truân.
Theo Tự Quái truyện
thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất
sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân 屯 có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn.
Thoán Từ
屯:元,亨,利,貞,勿用有攸往,利建侯。
Truân: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi
kiến hầu.
Dịch: Gặp lúc
gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái
với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một
người giỏi lên tước hầu).
Giảng: Thoán
truyện và Đại Tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức
có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở)[57] cho
nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quáicó một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngoại quáicũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật mà lúc đầu bao giờ cũng gian nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải
kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài
giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên
tước hầu) đó là hào 1 dương. Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu
trong nội quái (Chấn) có nghĩa hoạt động. Buổi đầu gian nan thì được người đó,
tỉ như lập được một đoàn thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ
làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân.
Hào Từ
初九:盤桓,利居貞,利見侯。
Sơ cửu: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến[58] hầu.
Dịch: Hào 1,
dương: Còn dùng dằng, giữ được điều chính thì lợi, được đặt lên tước hầu (nghĩa
là được giao cho việc giúp đời lúc gian truân) thì lợi.
Giảng: Như trên
tôi đã nói, hào này là dương, tượng người có tài, lại đắc chính vì dương ở
dương vị, cho nên giữ được điều chính và có lợi; sau cùng nó là dương mà lại
dưới hai hào âm trong nội quái, có cái tượng khiêm hạ, được lòng dân. Vậy là
người quân tử mới đầu tuy còn do dự, sau sẽ được giao cho trọng trách giúp đời.
六二:屯如,邅如,乘馬班如,匪寇婚媾。女子貞不字,十年乃字。
Lục nhị: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như. Phỉ khấu
hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.
Dịch: hào 2,
âm: Khốn đốn khó khăn như người cưỡi ngựa còn dùng dằng lẩn quẩn (Nhưng hào 1
kia) không phải là kẻ cướp, chỉ là muốn cầu hôn với mình thôi. Mình cứ giữ vững
chí, đừng chịu, mười năm nữa sẽ kết hôn (với hào 5).
Giảng: Hào 2,
âm, vừa đắc trung lẫn đắc chính, lại ứng với hào 5 cũng đắc trung đắc chính ở
trên, như vậy là tốt. Chỉ hiềm cách xa hào 5 mà lại ở sát ngay trên hào 1,
dương, bị 1 níu kéo, cho nên còn ở trong cảnh truân chuyên (khó khăn). Nhưng
đừng ngại, hào 1 có tư cách quân tử, không phải là kẻ xấu muốn hãm hại mình,
chỉ muốn cưới mình thôi (1 là dương, 2 là âm). Đừng nhận lời, cứ giữ vững chí,
mươi năm nữa sẽ kết hôn với hào 5. Chữ tự 字 ở đây nghĩa là gả chồng. Theo Kinh Lễ, con
gái tới tuổi gã chồng thì cài trâm và đặt tên tự.
六三:即鹿,無虞,惟入于林中。君子幾,不如舍,往,吝。
Lục tam: Tức lộc, vô ngu, duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ,
bất như xả, vãng, lận.
Dịch: Hào 3,
âm: Đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi
(không bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tiếp tục
tiến nữa thì sẽ hối hận.
Giảng: Hào 3 là âm, ở dương vị, bất chính bất trung; tính chất đã không tốt mà ở vào thời truân; hào 6 trên cũng là âm nhu không giúp được gì mình, như vậy mà cứ muốn làm càn, như người ham đuổi hươu mà không được thợ săn giúp (chặn đường con hươu, đuổi nó ra khỏi rừng cho mình bắt) thì mình cứ chạy theo con hươu mà càng vô sâu trong rừng thôi. Bỏ đi là hơn.
六四:乘馬班如。求婚媾,往吉,無不利。
Lục tứ: Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi.
Dịch: Hào 4,
âm: Cưỡi ngựa mà dùng dằng. Cầu bạn trăm năm (hay đồng tâm) ở dưới (ở xa) thì
không gì là không tốt.
Giảng: Hào này
âm nhu, đắc chính là người tốt nhưng tài tầm thường, gặp thời Truân không tự
mình tiến thủ được. Tuy ở gần hào 5, muốn cầu thân với 5, nhưng 5 đã ứng với 2
rồi, thế là 4 muốn lên mà không được, như người cưỡi ngựa muốn tiến mà dùng
dằng. Chu Công khuyên hào 4 nên cầu hôn với hào 1 ở dưới thì hơn: (vì 1 có tài
đức) mà cùng nhau giúp đời, không gì là không lợi.
Chúng ta để ý: cặp 5-2 rất xứng nhau, cả hai đều đắc chính,
đắc trung, rất đẹp, cặp 4-1 không đẹp bằng: 4 bất trung, kém 2; cho nên phải
kết hợp với 1 ở dưới, 1 tuy ở dưới mà đắc chính, như vậy là xứng đôi. Đó là
luật: “dĩ loại tụ”, họp với nhau thì phải xứng nhau, đồng tâm, đồng đạo.
九五:屯其膏,小貞吉,大貞凶。
Cửu ngũ: Truân kì cao; tiểu trinh cát, đại trinh hung
Dịch: Hào 5,
dương: Ân trạch không ban bố được (nguyên văn: dầu mỡ (cao) không trơn (truân),
chỉnh đốn việc nhỏ thì tốt, việc lớn thì xấu.
Giảng:
Hào cửu ngũ này vừa chính vừa trung, ở địa vị chí tôn, đáng lẽ tốt; nhưng vì ở
trong thời gian truân (quẻ Truân) lại ở giữa ngoại quái là Khảm, hiểm, nên chỉ
tốt vừa thôi. Hào 2 tuy ứng với nó nhưng âm nhu, không giúp được nhiều; lại
thêm hào 1 ở dưới, có tài đức, được lòng dân, uy quyền gần như lấn 5, mà ân
trạch của 5 không ban bố khắp nơi được. Cho nên 5 phải lần lần chỉnh đốn các
việc nhỏ đã, đừng vội làm việc lớn mà hỏng.
Nghĩa là tuy có tài đức, có địa vị, nhưng cũng phải đợi có
thế có thời nữa.
上六:乘馬班如,泣血漣如。
Thượng lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như.
Dịch: Hào trên
cùng, âm: Cưỡi ngựa mà dùng dằng, khóc tới máu mắt chảy đầm đìa.
Giảng: Hào này
ở trên cùng, là thời gian truân tới cực điểm. Nếu là hào dương (có tài trí) thì
gian truân cùng cực sẽ biến thông; nhưng hào này là hào âm, bất tài, bất trí,
nhu nhược, chỉ biết lên lưng ngựa rồi mà vẫn dùng dằng mà khóc đến chảy máu mắt
(Hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng cũng âm nhu, chẳng giúp được gì).
Đọc xong ba quẻ đầu này chúng ta cũng đã thấy: thể của hào
chỉ có: âm và dương, vị của hào chỉ có 6: từ hào sơ đến hào thượng; nhưng ý
nghĩa mỗi hào rất thay đổi, tùy ý nghĩa của trọn quẻ, cho nên hào 1 dương quẻ
Càn không giống hào 1 dương quẻ Truân; hào 5 dương quẻ Truân cũng không giống
hào 5 dương quẻ Càn; hào 2 âm quẻ Khôn không giống hào đó quẻ Truân, hào 6 âm
quẻ Truân cũng không giống hào đó quẻ Khôn. Ý nghĩa của quẻ quyết định ý nghĩa
của hào, nói cách khác: quẻ là cái thời chung của các hào, mà hào là mỗi việc,
mỗi hoàn cảnh trong thời chung đó.
Chú thích
11
[57].
Độc giả nên coi lại Phần I, Chương I, để nhớ ý nghĩa 8 quẻ đơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét