Đội quân đất nung, bảo tàng lăng mộ Tần Thủy Hoàng. |
5.
Chương V Nhà Tần (221 - 206 TrCN)
1. Thời của pháp gia
Ở trên tôi đã nói đời Chiến Quốc có một thương nhân buôn cả vua.
Thương nhân đó, Lã Bất Vi, có một người thiếp đẹp, khi biết nàng bắt đầu có
mang đem dâng nàng cho một công tử của Tần làm con tin ở Triệu. Công tử đó về
Tần làm vua, phong cho Lã làm tể tướng. Sau nàng hầu sinh con trai, vua Tần cho
nối ngôi, tức Tần Thủy Hoàng. Hồi Tần Thủy Hoàng còn nhỏ, Lã nhiếp chính. Lần
đó là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, một thứ dân con buôn được cầm quyền
chính như vậy. Không rõ ông ta buôn gì mà mau giàu như vậy - có lẽ là buôn ngựa
- nhưng ông ta có học chút ít, thích bọn "thi, thư", chủ trương chính
sách hoà bình. Lớn lên Tần Thủy Hoàng bãi chức ông ta mà dùng Lý Tư. Trong thời
làm tể tướng, Lã bảo các môn khách chung nhau soạn bộ Lã Thị Xuân Thu, gần như
một sử tư tưởng, học thuật cuối thời Chiến Quốc.
Tần Thủy Hoàng tư cách tầm thường, tính tình hung dữ, rất tin dị
đoan. Các sử gia đời sau đều theo Khổng học, rất chê ông ta, nhưng các sử gia
phương Tây nhận ông là một trong những vĩ nhân cổ kim. Ông chỉ cầm quyền chưa
đầy mười lăm năm mà làm cho nước Trung Hoa thay đổi hẳn, thống nhất về mọi mặt,
mở mang thêm bờ cõi, thành một đế quốc lớn thời thượng cổ.
Ông cho rằng công đức của mình ngang với Tam Hoàng Ngũ Đế, nên
thụ xưng là Hoàng Đế, hiệu là Thủy Hoàng, nghĩa là vị hoàng đế đầu tiên, và
muốn cho con cháu đời sau lấy danh hiệu: nhị thế, tam thế... cho đến vạn thế.
Những danh từ xưng hô như trẫm, bệ hạ, đều do ông đặt ra.
2. Tổ chức hành chính
Ông bắt vương tộc sáu nước mà ông đã chiếm, cả gia đình các đại
thần của họ nữa, phải dời lại Hàm Dương, kinh đô của Tần, như vậy để họ bị bứng
hết rễ, không sai ngóc đầu lên được. Đất đai của họ đem phát mãi hết.
Ông chia đất của sáu nước thành quận, huyện. Thời Thương Ưởng,
Tần đã chia làm nhiều huyện, mỗi huyện là một đơn vị hành chính trực thuộc
triều đình, có một viên quan thu thuế. Sau lập thêm quận ở những miền mới chiếm
được. Quận là một quân khu lớn, nhất là ở những miền mới chiếm được. Vì muốn
thống nhất quốc gia, vua Tần bắt huyện tuỳ thuộc quận, mỗi quận gồm nhiều
huyện, viên chủ quận là một võ quan. Sau tổ chức lại, mỗi quận gồm một quận thú
coi về dân sự, và một quân uý coi về quân sự. Ở trên cả, có một viên giám ngự
sử chỉ chịu trách nhiệm với nhà vua, như vậy không một viên nào chuyên quyền
được, không thể thành một ông chúa như trong thời phong kiến. Thời Tần Thủy
Hoàng, Trung Hoa chia thành 36 quận, cũng như tỉnh ngày nay.
3. Trọng nông
Tần theo Pháp gia 1 khuyến khích binh, nông; ghét công,
thương. Muốn nắm hết cái lợi thương nghiệp, triều đình đày hết phú thương có
những xưởng sản xuất sắt lại miền Thiểm Tây và miền Tứ Xuyên. Sử chép coi hai
trăm ngàn gia đình phú thương, tiểu thương bị đày tại xứ Thục và miền An Dương,
ở phía nam Lạc Dương ngày nay, chắc là để làm ruộng. Ngày nay có nước cũng áp
dụng chính sách đó.
Nông dân được ưu đãi. Đất không còn là sở hữu của nhà vua nữa,
mà của người làm ruộng. Người chủ ruộng có quyền bán ruộng và ai cũng có quyền
mua. Chế độ đó gọi là danh điền, tạo nên một giới địa chủ; bọn đại địa chủ có
những cơ sở rất lớn và dần dần thành một giai cấp có quyền hành tương tự như
các chư hầu nhỏ thời trước, hoặc các lãnh chúa bên châu Âu thời trung cổ.
Năm hay mười nhà họp nhau thành một liên gia, chịu chung trách
nhiệm với nhau. Chế độ đó đem áp dụng ở khắp Trung Hoa cho tới đầu đời Hán.
Tráng đinh nào cũng phải đi lính tới già. Gia đình nào có ba người đàn ông thì
phải chia làm hai hộ. Hình luật tàn khốc hơn thời trước nhiều.
Tướng ấn của Lã Bất Vi chữ Hán: 右丞相印 (Hữu Thừa Tướng Ấn) |
4. Thống nhất văn tự, đồ đo lường, tư tưởng
Thời Chiến Quốc, mỗi miền có một ngôn ngữ, người nước Yên không
hiểu tiếng nước Sở, người nước Triệu không biết tiếng nước Việt - mà ngày nay
cũng còn tình trạng người Quảng Đông ít học không hiểu nổi tiếng Bắc Kinh - Một
viên quan Tần phải đi cai trị một nước khác, không hiểu ngôn ngữ nước đó thì
khó làm tròn nhiệm vụ được. Ngay đến chữ viết cũng vậy. Những gì thiên tử nhà
Chu thông báo cho các chư hầu đều viết bằng thứ chữ đại triện; nhưng thứ chữ đó
không phổ biến và kẻ sĩ các nước thường dùng một lối chữ khác.
Vì vậy tể tướng Lý Tư nghĩ tới việc thống nhất ngôn ngữ và văn
tự. Chúng ta không biết ông thống nhất ngôn ngữ ra sao; về văn tự thì ông giản
dị hoá lối đại triện, quy định một lối viết khác gọi là tiểu triện, và lối này
thành thông dụng trong toàn cõi Trung Hoa.
Ông lại thống nhất các đồ cân, lường (cả nông cụ, cày bừa...),
như vậy để dễ tính thuế và thu thuế. Thuế trả bằng lúa, phải dùng thuyền, xe
chở lại các quận và kinh đô. Cho nên lại phải thống nhất khoảng cách giữa hai
bánh xe (xe đồng quy), nếu không thì những xe quá lớn vào những đường nhỏ không
được.
Quan trọng nhất là thống nhất tư tưởng. Về điểm này pháp gia (Lý
Tư, Hàn Phi) chịu ảnh hưởng của Mặc Tử. Mặc Tử trước kia đã chủ trương
"thượng đồng", nghĩa là bắt dân phải tán đồng lẽ phải với người trên,
phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên. Không ai được có chủ trương
riêng khác với chính sách của triều đình. Tần ghét nhất bọn nho sĩ, triết gia mở
trường tư dạy đạo lý, chỉ trích chiến tranh và hình pháp tàn bạo. Tần chỉ muốn
nhồi nặn dân chúng cho thành dễ bảo, rất có kỷ luật. Tư do tư tưởng, tự do ngôn
luận là tội nặng nhất. Tứ thư và ngũ kinh của đạo Nho bị coi là cực kỳ phản
động vì khiến dân nhớ tiếc trật tự cũ của chế độ phong kiến. Năm 213 TrCN, theo
đề nghị của Lý Tư, Thủy Hoàng ra lệnh "đốt sách và chôn nho": đốt hết
các bản tứ thư, ngũ kinh và bách gia chư tử trong dân gian, chỉ giữ lại một bản
tàng trữ trong thư viện của triều đình. Các bộ sử của lục quốc cũng phải đốt
hêt, chỉ được giữ những sách về kỹ thuật, như sách thuốc, sách trồng trọt, sách
bói... Kẻ nào không tuân lệnh mà lén lút giữ thì bị kết tội là phản quốc. Có
người phải giấu sách vào trong tưởng, có người lại ráng học thuộc lòng thư và
kinh để truyền miệng lại đời sau. Năm chục năm sau (đời Hán lệnh phần thư đó
mới bãi bỏ, không ai có thể nhớ đúng tứ thư, ngũ kinh cả. Còn bản cất trong thư
viện triều đình thì đã bị đốt theo với Hàm dương trong cuộc cách mạng của nông
dân cuối đời Tần.
Do đó mà sách đời Tiên Tần mất rất nhiều, cuốn nào còn lại thì
cũng bị thêm bớt, sửa chữa, khó tin được là chính xác; lại thêm nạn nguỵ thư:
người đời sau viết mà mượn tên người đời trước, để cho tác phẩm của mình có giá
trị, như bộ Quản Tử chẳng hạn.
Số nhà Nho bị chôn sống ở Hàm Dương là 460 người. Sau mỗi ngày
một đông, đều bị đày ra ngoài biển.
Các trường tư bị dẹp hết. Dân muốn học thì phải học các quan
(bác sĩ) của triều đình, mà chỉ được dạy cho mỗi môn là pháp luật của quốc gia.
Di chỉ cung A Phòng ở thị trấn Tam Kiều, Tây An với diện tích lên tới 60 ngàn mét vuông. |
5. Xây cất
Thủy Hoàng giao hết việc trị nước cho Lý Tư, mà để thì giờ đi
kinh lý các miền, xây đường sá, tổ chức các trạm và xây cung điện.
Những đường từ kinh đô Hàm Dương đi bốn phương đều rộng, thẳng
băng, có ba lối cho xe chạy, trồng cây hai bên lề, muốn vậy phải san núi, lấp
thung lũng, tốn biết bao nhiêu nhân công! Theo Eberhard, đường rộng 7 mét rưỡi,
nhưng theo Tsui Chi thì là 75 mét. Đường đó chỉ để cho vua và quan lớn đi, còn
dân chúng thì phải dùng đường mòn ở hai bên.
Khi chiếm được kinh đô một nước chư hầu nào, Thủy Hoàng sai
người vẽ kiểu cung điện của nước đó để về xây dựng lại y hệt tại Hàm Dương, ở
bên cung điện của ông, thành một dãy dài cả mấy dặm. Bao nhiêu đồng trong thiên
hạ gom cả về để đúc những tượng nặng 24000 cân bày trong cung đình.
Ngoài ra, ở gần kinh đô, ông còn xây một cung để nghỉ mát mùa
hè, cung A Phòng, trên bờ sông Vị. Phải dùng 70 vạn tù nhân để cất, chở đá từ
các núi phương bắc xuống, chở gỗ từ các rừng phương nam lên (coi bài A Phòng
cung phú của Đỗ Mục đời Đường).
Chưa hết, trong một khoảng mà bán kính dài trên trăm cây số
chung quanh kinh đô, còn xây thêm 270 cung điện nữa. Bao nhiêu châu báu, nhạc
công và vũ nữ của lục quốc, ông gom cả về đó để làm vui tai mắt cho ông. Tương
truyền cuối đời Tần, kinh đô bị chiếm và đốt, ba tháng sau ngọn lửa mới tắt.
Các vua Ai Cập, Babylone thời cổ cũng không xa xỉ hơn ông.
Công trình kiến trúc lớn nhất, tới nay vẫn còn dấu vết là Vạn Lý
Trường Thành. Sự thực nhiều khúc thành đã được các nước Yên, Triệu, Nguỵ xây từ
thời trước, nay ông chỉ cho nối lại, kéo dài, củng cố thêm, để thành một thành
duy nhất dải cả ngàn cây số. Ba trăm ngàn chiến sĩ với không biết bao nhiêu tội
nhân, quan lại phạm lỗi, nho sĩ không tuân lệnh đốt sách... phải làm khổ sai
trong một miền rừng núi trùng trùng điệp điệp, mùa đông thì lạnh buốt, nước
đóng băng, mùa hè thì không khí nóng như nung, mù mịt cát bụi. Trên thành cất
những đồn canh, và có đường rộng chạy ngựa được giữa các đồn với nhau. Không
biết bao nhiêu lời than thở, bao nhiêu nước mắt của thân nhân những người đó,
không văn, nhân thi sĩ nào chép lại hết được. Nhưng trong dân gian còn truyền
lại nỗi khổ của nàng Mạnh Khương, thương nhớ chồng, đi mười ngàn dặm đường để
thăm chồng bị bắt đi xây thành, đến nơi thì chồng nàng đã chết rồi. Chung quanh
chỉ là rừng núi và đá. Không biết kiếm xác chồng ở đâu, nàng tuyệt vọng, khóc
mấy ngày mấy đêm, khóc tới nỗi chính cái thành cũng phải mủi lòng. Thành xây
xong, giúp cho Trung Hoa ngăn được các rợ xâm lăng trong một thời gian, chứ làm
sao ngăn cản được một cách vĩnh viễn. Hễ Trung Hoa suy, các rợ du mục thịnh lên
thì họ lại vượt qua được trường thành, vào chiếm các cánh đồng phì nhiêu của
Trung Hoa. Hiện nay thành nằm ở phía dưới biên giới, không còn dùng vào việc gì
nữa, ngoài cái việc thu hút khách du lịch ngoại quốc 2.
Bức họa cung A Phòng của họa sĩ Viên Diệu thời nhà Thanh. |
6. Mở mang bờ cõi
Mới hoàn thành sự thống nhất Trung Quốc, chưa kịp củng cố ở
trong, Thủy Hoàng đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi ra nước ngoài.
Các dân tộc du mục miền bắc gọi chung là Hung nô vẫn là mối lo
từ đời Thương, Chu; họ thường xâm lấn biên giới, có chỗ sống lẫn lộn với người
Trung Hoa; đầu đời Tần họ đã len lỏi vào Hà Nam, Thủy Hoàng vội chặn họ lại,
sai Mông Điềm đem quân lên đánh, dồn họ về bắc, và đắp trường thành để ngăn họ.
Yên ở phương bắc rồi, ông sai Đồ Thư đi đánh lấy Bách Việt, tức
các tỉnh Chiết Giang, Quảng Đông, Quảng Tây, và một phần Bắc Bộ nước ta, thời
đó gọi là Âu Lạc (An Dương Vương).
Vậy Thủy Hoàng đã lập được một đế quốc lớn vào bậc nhất thế giới
và người phương Tây, do những thương nhân chở lụa sang bán, đã biết danh nhà
Tần, gọi Trung Hoa là nước Tần.
Chỉ trong mười mấy năm Thủy Hoàng thực hiện được bấy nhiêu công
trình về nội trị, tổ chức hành chính, thống nhất ngôn ngữ, văn tự..., xây cất,
đắp đường, mở mang cương vực, đáng gọi là vĩ đại.
Nhưng dân chúng đã phải cực khổ biết bao. Dân Tần vốn còn bán
khai, gần như dã man, hung hãn, không có văn học, nghệ thuật (tới năm 237 TrCN
mà trong các buổi tế lễ, vẫn còn dùng nhạc cụ rất thô sơ là những vò bằng đất),
có thể chịu được sự thiếu thốn, lao khổ vì họ quen rồi, còn dân lục quốc đã văn
minh, rất uất hận dưới ách của Tần mà họ coi như mọi rợ, chỉ chờ cơ hội để nổi
dậy. Đó là một nguyên nhân khiến Tần rất mau suy vong.
7. Thủy Hoàng chết - Nhị Thế lên thay
Trong một cuộc kinh lý, Tần Thủy Hoàng đã bị Trương Lương (Tử
Phòng) 3 thuê võ sĩ đón đường ám sát hụt ở Bác Lãng
Sa. Trong một cuộc kinh lý sau, năm 210 TrCN, ông bị bệnh, chết ở dọc đường,
người ta phải chở lén thi thể ông về Hàm Dương, rồi mới tuyên bố cho dân biết,
và chôn Thủy Hoàng trong một ngôi mộ đã xây sẵn ở Ly Sơn. Trong mộ chứa rất
nhiều châu báu, có một bản đồ của một trăm con sông, trên đó sông Hoàng Hà,
sông Dương Tử và biển Đông đều bằng thuỷ ngân. Hầm mộ ngày đêm đều thắp đèn đốt
bằng dầu cá, một loại cá đặc biệt giống hình người. Quan tài hạ rồi, người ta
nấu đồng để gắn phần mộ và đặt một cái máy để hễ có kẻ nào lén vào đào mả thì
sẽ bị những mũi tên từ mọi chỗ phát ra tự động bắn vào. Tương truyền lăng đó do
70 vạn người xây cất trong nhiều năm.
Tranh vẽ Trương Tử Phòng trong một ngôi mộ thời Tây Hán |
Thủy Hoàng băng rồi, thừa tướng Lý Tư và hoạn quan Triệu Cao làm
di chiếu giả, không lập thái tử Phù Tô mà lập thứ tử Hồ Hợi lên ngôi, tức Nhị
Thế Hoàng Đế (Hoàng đế đời thứ nhì).
Nhị Thế cũng hà khắc, tàn nhẫn như cha, giết nhiều vương tử, đại
thần. Lý Tư bị Triệu Cao ghét, dèm pha, Nhị Thế giết cả ba họ (họ cha, họ mẹ,
họ vợ của Lý. Sau Triệu Cao lại giết Nhị Thế (207 TrCN), lập con Phù Tô, tên
Anh, lên thay. Vương tử Anh (hay Tử Anh lên ngôi rồi giết Triệu Cao, tiếp theo
là Tần mất nước. Nhà Tần trước sau chỉ được mười bốn năm, từ vua tới đại thần,
không người nào không bất đắc kỳ tử. Thời của Pháp gia thật ngắn ngủi và hết
sức bi thảm. Nhưng phải thừa nhận rằng họ có công thống nhất Trung Quốc.
8. Nhà Tần chấm dứt - Hạng Vũ và Lưu Bang
Thủy Hoàng vừa mới chết là các anh hùng ở thảo dã nổi lên. Chỉ
trong vài tháng, có sáu cuộc nổi loạn, đáng kể là Trần Thắng ở đất Kỳ (An Huy
ngày nay), một nông dân đầu tiên phất cờ khởi nghĩa, nhưng sớm thất bại; rồi
tới Hạng Tịch (cũng gọi là Hạng Vũ ở đất Ngô Giang Tô) và Lưu Bang ở đất Bái
(cũng trong tỉnh Giang Tô ngày nay);
Hạng Vũ là dòng dõi tướng nước Sở, Lưu Bang ở trong giới bình
dân. Hạng Vũ không có học, nhưng có sức mạnh (nhấc nổi cái đỉnh nặng 500 cân),
giỏi chiến thuật, đáng gọi là anh hùng. Lưu Bang cũng gần như vô học, làm đình
trưởng (một chức nhỏ trong làng cho Tần, tham tài, hiếu sắc, gặp thời loạn, thả
một bọn tù, kết nạp được một số lưu manh và nông dân, lực lượng rất nhỏ, nhưng
biết chiêu hiền đãi sĩ, may mắn được vài anh tài giúp đỡ: Tiêu Hà về việc tài
chính (như tể tướng), Trương Lương làm mưu thần, 4 mỗi ngày một mạnh lên.
Hạng Vũ |
Mới đầu Hạng Vũ và Lưu Bang đều lấy danh nghĩa là giúp một hậu
duệ của vua Sở (Sở Hoài vương để đánh Tần, hẹn với nhau ai vào được Hàm Dương
(kinh đô Tần) trước thì được xưng vương, làm chủ Quan Trung (Tần). Lưu Bang vào
được trước, vương tử Anh xin hàng. Nhà Tần chấm dứt. Lưu Bang nghe lời Trương
Lương, vỗ về nhân dân, không cho quân lính cướp bóc đốt phá.
Nhưng Lưu Bang tự lượng sức yếu hơn Hạng Vũ nhiều (lúc đó Hạng
Vũ đã tới Hàm Cốc, cửa ngõ phía đông của Tần), nên đã nhường cho Hạng Vũ vào
Hàm Dương xưng vương. Vào Hàm Dương, Hạng vũ không nghe lời can của Phạm Tăng,
giết vương tử Anh, đốt cung điện nhà Tần, cung A Phòng lửa cháy ba tháng mới
tắt, lại quật mộ Tần Thủy Hoàng lên để vơ vét vàng bạc châu báu.
Hạng tôn Sở Hoài vương làm Nghĩa đế, rồi lại giết đi, tự lập làm
Tây Sở Bá Vương (Bá vương nghĩa là vương làm bá chủ các vương khác), phong Lưu
Bang làm Hán vương ở đất Ba Thục và đất Hán Trung (trên lưu vực sông Hán, miền
Thiểm Tây)... và cả chục tướng nữa, mỗi người được làm vương một miền nhỏ.
Lưu Bang vào Ba Thục, luyện tập binh mã, khai khẩn đất hoang
ngày một mạnh lên, tranh ngôi vua với Hạng Vũ 5. Hạng Vũ vì nóng nảy hiếu sát, tự phụ, không chịu
nghe lời Phạm Tăng, chống cự được năm năm, sau bị quân Lưu Bang vây chặt ở Cai
Hạ.
Tạo hình Hạng Vũ và Ngu Cơ trong Kinh kịch. |
Biết vận mình sắp hết, Hạng Vũ nửa đêm dậy uống rượu với ái cơ họ Ngu, xúc động, ứng khẩu hát:
Lực bạt sơn hề, khí
cái thế!
Thì bất lợi hề, truy
bất thệ!
Truy bất thệ hề, khả
nại hà?
Ngu hề, Ngu hề, khả
nại hà?
(Sức nhổ núi chừ, hùng
khí trùm đời!
Thời chẳng gặp chừ,
con "truy" 6 không chạy!
Con "truy"
không chạy, còn biết làm sao?
Ngu ơi! Ngu ơi! Em rồi
ra sao?)
Nàng Ngu hát theo:
Đại vương ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu
sinh?
(Đại vương ý khí hết,
Tiện thiếp sống làm
gì?
Hai người cùng khóc. Người chung quanh cũng khóc. Rồi nàng dùng
gươm của Hạng Vũ, tự đâm cổ chết.
Sáng sớm hôm sau, Hạng Vũ lên ngựa cùng với 800 quân phá vòng
vây, qua sông Hoài, số quân theo kịp chỉ còn khoảng 100. Lạc đường, lại bị vây
nữa. Một mình Hạng Vũ xông ra chém một tướng và cả trăm quân Hán. Phá được vòng
vây, chạy tới Ô Giang (tỉnh An Huy), cùng đường, phải xuống ngựa, cầm gươm, một
mình giết được mấy trăm quân Hán nữa, trên người bị hơn mười vết thương, tự đâm
cổ mà chết (31 tuổi) chứ không cho quân Hán bắt sống.
Vụ Cai Hạ và Ô giang đó vừa là một thiên chiến sử oai hùng, vừa
là một thiên tình sử đẹp và cảm động, được Tư Mã Thiên chép lại trong bộ Sử Ký
bằng một bút pháp rất cao, và được biết bao văn nhân thi sĩ đời sau đưa vào
tiểu thuyết, tuồng. Đoạn trên tôi chép theo Sử Ký.
Cuộc Hán Sở (Hán vương và Sở vương tranh hùng tới đây chấm dứt.
Lưu Bang thắng, lên ngôi thiên tử (202 TrCN), tức Hán Cao Tổ,
rồi về cố hương ở đất Bái, bày tiệc rượu say sưa với bà con, làng xóm, ứng khẩu
ca:
Đại phong khởi hề, vân
phi dương,
Uy gia tứ hải hề, quy
cố hương.
An đắc mãnh sĩ hề, thủ
tứ phương.
(Gió lớn thổi chừ, mây
bay ngang,
Uy khắp trong nước
chừ, về cố hương.
Sao được mãnh tướng
chừ, giữ bốn phương.)
Khí phách của hai người hiện rõ trong những bài hát đó: một kẻ
là anh hùng tự phụ, lầm lỡ mà không tự trách lại trách thời bất lợi; một kẻ là
hạng tầm thường, gặp thời, được người giúp mà nên một cách bất ngờ,chỉ lo cố
giữ địa vị để hưởng thụ.
°
Trong các đời trước, Thương và Chu đã có những cuộc cách mạng
của Thành Thang, Vũ vương (đổi mệnh trời, nghĩa là đổi ngôi vua), toàn là của
quý tộc. Tới cuối đời Tần mới bắt đầu có những cuộc cách mạng của nông dân, mà
cuộc cách mạng của Lưu Bang là cuộc đầu tiên thành công (Trần Thiệp - cũng gọi
là Trần Thắng - chỉ làm vua được sáu tháng rồi bị Tần diệt).
Trong các đời sau, cho tới thế kỷ chúng ta, hầu hết các cuộc
cách mạng đều do nông dân cả, và một số học giả phương Tây bảo không một dân
tộc nào mà nông dân làm cách mạng nhiều như dân tộc Trung Hoa.
--------------------------------
xem chương sau. |
|
Trường thành ngày
nay không hoàn toàn như đời Tần, vì về sau đã được các triều Bắc Nguỵ, Đường,
Minh đắp thêm. Nó bắt đầu từ Thanh Hải đến Triều Tiên, dài 4500 dặm, cao từ
15 đến 30 thước, chân thành rộng 25 thước. |
|
Sau Trương Lương
giúp Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ diệt Tần; nhưng cũng như Phạm Lãi, công thành
thân thoái, Trương không ham phú quý, bỏ đi ở ẩn. |
|
Về sau được thêm Hàn
Tín nữa, cầm quân rất giỏi, đời gọi mà tam kiệt. |
|
Vì vậy Ba Thục thành
đất phát của nhà Hán, cho nên sau này Khổng Minh khuyên Lưu Bị lui về Ba
Thục. |
|
Truy là con tuấn mã
tạp sắc. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét