Tống Thái Tổ (trị vì 960–976), tranh chân dung cung đình. |
11.
Chương V: THỐNG NHẤT VÀ PHÂN CHIA LẦN III
A. THỐNG NHẤT: BẮC TỐNG (960-1120)
1. Thống nhất đất đai
Thái Tổ (960-975)
Triệu Khuôn Dẫn lên ngôi, hiệu là Thái Tổ, đổi tên nước là Tống,
đóng đô ở Biện Kinh tức Đại Lương (Khai Phong ngày nay).
Tổ tiên ông gốc ở phía nam Bắc Kinh ngày nay, nhiều đời làm
tướng. Ông là ông vua duy nhất được quân lính đặt lên ngai vàng. Ông không phải
là bậc anh hùng, cũng không có tài gì siêu quần, nhưng có nhiều đức quý, lương
thiện, thành thực, thực tiễn, hiểu lòng người và biết mình.
Ông không đem quân đi đánh đuổi rợ Khiết Đan để thu hồi đất Vân,
Yên ở miền Bắc vì biết việc đó khó, sức ông chưa đủ. Ông hãy làm một việc dễ
trước đã, việc các nước ở miền Nam. Thời đó còn bảy nước. Năm 963 ông xuất quân
đánh Kinh Nam, thừa thế diệt luôn Vu Bình. Năm sau, ông sai một viên tướng đánh
Hậu Thục, thắng, rồi chuyển quân đánh Bắc Hán, nhưng Bắc Hán được nước Liêu
(tức Khiết Đan giúp sức, thấy khó nuốt, ông tạm "tha" cho, rút quân
về đưa xuống miền Nam chiếm Nam Hán. Vua Nam Đường thấy vậy sợ, xin hàng. Rồi
Nam Hải cung xin nộp cống, Ngô Việt xin thuần phục. Như vậy là cả miền Nam vào
tay ông, chỉ còn Bắc Hán (ở miền Bắc) đến đời sau (Thái Tôn mới dẹp được (979).
Thái Tôn (976-999) tuy diệt được Bắc Hán, nhưng không thu về
được đất Vân, Yên, trái lại bị Liêu đánh bại, nhưng Liêu cũng chỉ quấy nhiễu ở
miền Bắc thôi, chứ không dám tiến xa hơn.
Công việc thống nhất tuy chưa được hòan thành, nhưng tạm coi là
yên. Đế quốc đời Tống không được mở mang thêm mà còn mất miền Hà Bắc (Vân, Yên)
và miền Tây Hán (Vân Nam, Tây Khang), nhỏ hơn đời Đường vì bỏ hẳn miền Tây Vực
mà tiến về Đông Nam, vừa phong phú vừa dễ chiếm hơn.
2. Củng cố nội bộ
Thu quyền chính trị về trung ương.
Triệu Khuông Dẫn đã tỏ ra thực tế, biết sức mình khi ông tạm
"tha cho Bắc Hán". Khi đã chiếm được Nam Hán, những nước còn lại xin
thuần phục rồi, ông lại tỏ ra thành thực, mà khéo léo, biết tâm ý các người đã
cộng tác với ông, đặt một tiệc rượu mời Thạch Thủ Tín và Trương Thầm Kỳ, nửa
tiệc ông đuổi tả hữu ra ngoài, nói với hai viên tướng đó: "Làm thiên tử
khó khăn, chứ không vui sướng như tiết độ sứ. Trẫm thường ăn ngủ không yên. Thủ
Tín hỏi vì sao, ông đáp: "Ngôi cao quý này ai mà không muốn?" Thủ Tín
cúi đầu tâu: "Bệ hạ sao lại nghĩ thế? Mạng trời đã định, ai còn dám hai
lòng?" Ông nói: "Hai khanh thì cố nhiên, còn bọn thủ hạ ai mà không
ham phú quý? Một ngày kia, họ đem hoàng bào mặc vào cho khanh, khanh không muốn
có được không?.... Trẫm muốn tình thân giữa chúng ta còn hoài để còn hưởng phú
quý như bây giờ. Muốn vậy thì binh quyền của các khanh phải trở về quốc gia... Như
vậy mới không còn lòng nghi ngờ lẫn nhau nữa."
Thế là các tiết độ sứ xin từ chức, giải trừ binh pháp hết. Để bù
lại, ông tặng họ chức cao, bổng hậu trong hành chánh.
Bỏ sự các cứ của phiên trấn, giải nhiệm các tiết độ sứ, rồi ông
đặt chức phán quan (văn quan) thay vào, chức đó coi cả việc quân chính và dân
chính, nhưng việc gì cũng phải tâu về triều đình, lại đặt ra chức Chuyển vận sứ
trông nom về tài chính, số thu được bao nhiêu, trừ số chi tiêu trong châu quận
rồi phải nộp về triều đình, ông cũng hạn chế quyền hành pháp của các châu quận,
bắt phải phúc trình lên bộ Hình xét, chứ không được tự ý xử tử bất kỳ ai.
Tổ chức lại quân đội.
Chia quân làm hai hàng, lựa những lính mạnh ở các châu quận đưa
về kinh, gọi là cấm quân, còn lính già yếu ở địa phương gọi
là sương quân, mỗi năm cho cấm quân và lính ở biên trấn thay đổi
nhau một lần để các quan địa phương khỏi mua chuộc lòng binh lính mà gây thế
lực, phép đó gọi là canh nhung.
Hơn nữa, Thái Tổ tuy là võ quan mà trọng văn hơn võ vì ông cho
rằng võ quan dễ làm phản, ông ra lệnh võ quan cũng phải đọc sách Nho để hiểu
đạo trị quốc. Sáng kiến đó rất mới.
Những biện pháp đó lập ngay lại được trật tự trong nước sau nửa
thế kỷ hỗn loạn vì nạn hoành hành của bọn tiết độ sứ, nhưng về sau kết quả rất
tai hại.
° Theo phép canh nhung, quân lính thay đổi luôn, không rõ hình
thế địa phương, mà các văn thần ở các biên trấn không biết chỉ huy, do đó sức
phòng vệ ở biên trấn sút kém.
° Quyền binh thu về trung ương cả, mà kinh đô (Biện Kinh) ở giữa
đường Bắc Kinh và Nam Kinh ngày nay, nghĩa là khá xa phía Bắc và phía Tây, nơi
các rợ thường quấy phá, như vậy mỗi khi nguy cấp, truyền tin về kinh rồi đợi
lệnh của triều đình, mất nhiều thì giờ, thật bất lợi.
° Chính sách trọng văn kinh võ làm cho tinh thần chiến đấu sa
sút.
° Quyền binh thu về trung ương cả, người tài năng ở các địa
phương không có chỗ dùng, tập trung cả ở kinh đô, tranh giành nhau để được bổ
dụng, rồi kết thành bè đãng để khuynh loát nhau.
Tóm lại là mắc cái lỗi "kiểu uốn quá chính", cây cong
uốn cho ngay lại thì lại uốn quá, hóa hết ngay. Phân quyền hay tập quyền điều
có ưu điểm và nhược điểm, cần nhất là người cầm đầu, có tài, sáng suốt, biết
uyển chuyển thì nước mới mạnh được.
3. Ngoại Giao
Với Liêu
Ông vua thứ nhì nhà Tống - Thái Tôn- còn có chút tinh thần nhà
tướng. Từ đời thứ 3 trở đi (Chân Tôn, Nhân Tôn....) Tống bắt đầu suy nhược, do
hậu quả của chính sách trọng văn khinh võ, mà triều đình hiếu hoà tới cái mức
chịu nuốt nhục, hạ mình trong việc ngoại giao với các rợ phương Bắc: Khiết Đan
tức Liêu, Thát Bạt tức Tây Hạ.
Khi Tống Thái Tôn băng, con là Chân Tôn nối ngôi. Khiết Đan thời
đó gần như Hán hoá, có chữ viết tựa như chữ Hán, có tổ chức, có quân đội,
thường quấy phá phương Bắc. Năm 1004, họ xâm nhập chỉ cách kinh đô khoản 150
cây số, người Tống kinh hoảng. Quần thần xin dời đô, chỉ riêng tể tướng là Khấu
Chuẩn một mực xin vua thân chinh. Chân Tôn phải nghe, đem quân tới Thiền Châu
rồi lên thành, giương lọng vàng lên, quân Tống thấy vậy hâm hở hoan hô vạn tuế,
tiếng vang xa mấy dặm, khí thế rất hăng. Lúc đó tướng Khiết Đan mới bị trúng nỏ
chết, quân mất tinh thần, vua Khiết Đan xin nghị hoà. Tể tướng Khấu Chuẩn muốn
bắt họ phải xưng thần và trả lại hai đất Yên, Vân mới cho hoà, nhưng Chân Tôn
không nghe, sai sứ thương nghị với Khiết Đan, hai bên ước rằng:
° Biên giới hai nước y như trước khi có chiến tranh
° Tống tặng cho Liêu (Khiết Đan mỗi năm 10 vạn lượng bạc, 20 vạn
tấm lụa
° Hai nước trao đổi tù binh
° Vua Liêu gọi vua Tống bằng anh
Vậy là Tống tuy thắng mà hoá bại
Năm 1042 vua Liêu sai sứ sang đòi thêm đất. vua Tống lại phái
tặng thêm cho Liêu 10 vạn lạng bạc và 10 vạn tấm lụa nữa.
Với Tây Hạ
Với Tây Hạ, Tống cũng chịu "nhũn" như vậy.Tây Hạ vốn
là giống Thát Bạt, quy phục Trung Hoa từ đời Đường. Đời Tống Chân Tôn, họ biết
dung hoà văn minh Trung Hoa và văn minh Thổ Phồn, cải cách chính trị, cường
thịnh lên, đánh các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Tuy Viễn, hằng năm đem binh vào
cướp phá biên giới. Sau vì tình hình trong nước không yên, vua Tây Hạ xin hoà,
vua Nhân Tôn phong cho làm quốc vương và mỗi năm "cho" trà và bạc 25
vạn rưỡi lạng (1043). Vua Tống nghĩ rằng chịu nhũn như vậy đỡ tốn hơn là nuôi
binh, mà lại được yên. Lầm lớn, yên ổn được mấy chục năm, tướng sĩ biến nhác,
tinh thần suy nhược, mà các rợ thấy Tống chịu cống bạc, lụa để được an thân,
càng ngày càng lấn hiếp. Nguyên nhân suy vong của Tống và của dân tộc Trung Hoa
ở đó.
Liêu và Hạ vốn là dân tộc du mục, từ khi tiếp xúc với Trung Hoa
hâm mộ văn hoá Trung Hoa, một số lớn ăn mặc như người Hán, họ lại phỏng theo
chữ Hán mà tạo ra quốc tự cho họ. Họ cũng lập học hiệu, xin ngũ kinh, tứ thư,
sách thuốc về dạy, cũng sùng bái Khổng Tử, dịch Luận ngữ, Chu Dịch... Vài nhà
viết sách bằng Hán Văn mà nổi danh, lần lần họ Hán hoá hết.
4. Kinh tế suy sụp - quốc khố rỗng không
Vua Cao Tổ khi mới cầm quyền cũng dùng ngay chính sách khuyến
khích nông nghiệp, phân phát ruộng đất cho công thần, sĩ tộc và dân chúng như
đời Đường.
Chính sách đó mới đầu có lợi cho dân, và kinh tế rất phát đạt,
nhất là ở phương Nam, diện tích cày cấy tăng lên, dân số chỉ trong bốn chục năm
tăng lên gấp hai rưỡi, số thuế thu được cũng tăng theo.
Nhưng vì những lẽ tôi đã dẫn ở trên, chỉ vài thế hệ sau, số dân
lưu vong (vì bán đất), không còn ruộng để làm tăng lên, mà điền sản của giới sĩ
tộc mỗi ngày một rộng thêm, bọn này lại giỏi trốn thuế, nên chỉ bọn họ là giàu
lớn còn dân chúng và quốc gia thì nghèo
Vua Cao Tổ được quân sỹ đặt lên ngai vàng nên thưởng công họ khá
hậu (có người được cả mấy ngàn mẫu), hơn nữa, còn ban ân cho cả gia đình nội
ngoại của họ (ân đó gọi là "ấm", tức phúc trạch tuỳ theo chức tước
của cha hay con lớn nhỏ mà thân nhân được hưởng nhiều hay ít, ví dụ cha làm
quận công thì con được hưởng lộc vào hàng nào đó, hoặc con làm quận công thì dù
không lãnh chức gì cũng được hưởng lộc vào hàng nào đó.
Mà lương quan lại thời đó, theo Eberhard, cao hơn đời Đường
nhiều, mặc dù vẫn không đủ sống, vì vậy mà triều đình bán thêm ruộng và miễn
thuế cho họ. Chính vì cái tệ trả lương cho quan lại rất thấp nên thời nào ở
Trung Quốc cũng có nạn tham nhũng.
Cũng nên kể thêm số bạc, lụa, trà phải "cống" hàng năm
cho Liêu và Tây Hạ, mặc dù theo Eberhard, số đó không là bao, chỉ bằng 2% ngân
sách quốc gia thôi.
Nặng nhất là khoản quân phí. Tuy là kết nghĩa anh em với Liêu,
Tây Hạ, nhưng vẫn phải đề phòng sự tráo trở của họ, nên không thể giảm số quân
được. Trái lại, cứ phải tăng lên vì phép tổ chức lại quân đội của Cao Tôn, vì
tinh thần chiến đấu của tướng sĩ sa sút, cho nên phải lấy lượng bù vào phẩm,
nhưng mặc dù số quân tăng từ 380.000 lên tới 1.260.000, quân phí chiếm tới 25%
ngân sách, mà phẩm càng ngày càng kém.
Các đời trước, nhân dân vẫn còn bổn phận đi lính mà không được
công xá gì hết. Đời Tống có lệ trả lương cho quân lính, do đó quân lính có thói
quen quá tuổi phục dịch rồi mà vẫn ở lì trong đội ngũ để lãnh lương. Phải trả
lương cho họ mỗi ngày mỗi cao lên vì họ yêu sách mỗi ngày một nhiều, khi một
đạo quân đổi chỗ, lính không chịu mang lấy đồ đạc của họ nữa, đòi có phu khiêng
cho, phái họ đóng ở một đồn xa quê hương họ quá thì họ đòi phụ cấp. Do đó tốn
kém rất nhiều nhưng không được kết quả gì cả.
Chi tiêu như vậy mà số thu nhập chỉ trông vào thuế ruộng. Nhưng
giới đại điền chủ trốn thuế, còn nông dân bị thúc thuế, không đủ sức trả, phải
bán ruộng đi nơi khác làm ăn, xin lãnh canh đất của điền chủ, và có nơi phải
góp cho chủ trên 50% số lúa gặt được.
Cả nước chỉ có Thiểm Tây vì loạn lạc, các đại điền chủ bỏ đất,
đi nơi khác hết - qua miền Đông, nhất là xuống miền Nam- chỉ còn lại những bần
nông, làm ít mẫu ruộng và đóng thuế răm rắp cho triều đình vì không thể trốn
thuế được. Do đó có hiện tượng lạ lùng này vô tiền khoán hậu trong lịch sử
Trung Quốc, chỉ một tỉnh đó mà nộp cho triều đình được một phần tư số thuế tìm
được trong cả nước. Vì vậy mà vua Tống phải cắn răng chịu nộp cho Tây Hạ 250.000
quan để cố giữ lấy tỉnh đó.
Không đủ tiền tiêu, triều đình phải đúc thêm tiền, như ngày nay
người ta in giấy bạc. Nhờ kỹ nghệ đã bắt đầu phát triển, Trung Quốc khai thác
thêm được nhiều mỏ bạc, đồng, sắt, năm 1050 so với năm 800, số bạc sản xuất
được tăng lên gấp 13 lần, số đồng 8 lần, số sắt 14 lần. Nhưng phí tổn đúc tiền
quá cao, gần bằng 75% giá trị của đồng tiền. Vả lại mỏ ở phương Nam, ló đúc ở
phương Nam mà kinh đô thì ở phương Bắc, phí tổn chuyên chở về kinh đô trả lương
cho quan lại, quân lính rất nặng. Do đó phải đúc thật nhiều, và ngân sách quốc
gia trong 21 năm (từ 1000 đến 1021) từ 22.200.000 ngàn quan tăng lên
150.800.000 quan (theo Eberhard) một phần lớn vì lạm phát, đồng tiền mất giá.
Bọn con buôn được dịp làm giàu thêm. Còn bọn sĩ tộc, đại điền
chủ càng thấy tiền mất giá càng đổ ra mua đất, điền địa của họ càng mở rộng
thêm. Chỉ có triều đình là nghèo mạt.
Nghèo đến nỗi vua Nhân Tôn (1023-1063), con vua Chân Tôn, phải
cần kiệm từng chút. Một đêm đói, thèm món thịt dê mà phải nhịn, để "đỡ một
món tốn hao", lại bỏ hẳn cái lệ "quân vương không mặc áo giặt bao
giờ", mà ở trong cung thường mặc áo vải giặt đi giặt lại. Có kẻ dâng ông
hai mươi tám con hến bể, tính cả phí tổn chở chuyên thì mỗi con giá một ngàn
đồng tiền (đồng tiền thời đó chắc đã phá giá), ông lắc đầu "gắp một con mà
hao một ngàn đồng, ta chẳng kham nổi".
Một số đại thần cũng tốt như ông, như quan tư giám Phạm Trọng
Yêm, một nhà nho có đức và một nhà văn nổi tiếng. Phạm không cho vợ con được
mặc đồ tơ lụa, và mỗi bữa cơm chỉ dọn một món thịt, trừ khi có khách. Ông tìm
mọi cách rút bớt các tiêu pha, tiết kiệm ngân quỹ, thấy thuộc viên kẻ nào bất
tài thì ngoặc trên đầu họ một nét bút rồi bãi chức. Một viên đồng liêu thấy
vậy, trách ông một nét bút mà làm cho cả gia đình người ta phải phát khóc. Phạm
điềm nhiên đáp: "Thà một gia đình khóc, chẳng hơn là một nước mà khóc
ư?" Rồi lại tiếp tục ngoặc, ngoặc nữa. Nhưng nguy cơ lớn quá, phương pháp
tiết kiệm đó không đủ để cứu vãn được, khác chi một gáo nước đổ lên một bãi
cát.
Nhân Tôn băng, Anh Tôn nối ngôi được 3 năm rồi cũng băng. Tới
Thần Tôn (1065-1085). Ông vua này cũng tốt, biết lo việc nước và thương dân. Có
lẽ chính vì nghèo mà nhà Tống được nhiều ông vua khá, nếu không có tài thì cũng
có lòng, có tư cách, chỉ có vài ông xa xỉ, dâm đãng, không có một ông nào tàn
bạo. Đời Bắc Tống là đời duy nhất trong lịch sử Trung Hoa không có cái hoạ
ngoại thích và hoạn quan.
4. Cuộc biến pháp của Vương An Trạch.
Chỉ có mỗi một người, Vương An Trạch, là có sáng kiến và hùng
tâm nghĩ tới việc biến pháp để cho quốc gia mau phú cường. Do một sự ngẫu hợp
kỳ dị, trong lịch sử Trung Hoa đã có một người có chủ trương giống ông, sinh
trước ông khoản ngàn năm mà cùng một họ với ông, Vương Mãng.
Đọc lịch sử đời Hán chúng ta thấy Võ đế đã thử biến pháp để cho
nước mau giàu nhưng ông không kiên trì, bỏ nữa chừng. Rồi Vương Mãng biến pháp
mạnh hơn, lâu hơn, có chương trình đàng hoàng mà thất bại. Bây giờ Vương An
Trạch rút kinh nghiệm của người trước, tính toán kỹ hơn, có tổ chức hơn, có cả
một đảng được vua cho phép hành động.
Họ Vương (1021-1086), tự là Giới Phủ, quê ở Giang Tây, rất thông
minh, có tài mà cũng thật kỳ cục. Thiếu thời đã nổi tiếng. Chỉ đọc sách qua một
lần là nhớ, mà đọc rất nhiều sách, thông cả bách gia chi tử, lại du lịch nhiều,
từng trải lắm. Văn thơ hay, là một trong những "bát gia" (Tám nhà)
viết cổ văn hay nhất đời Đường và Tống không ham phú quý, giàu tình cảm, thương
người nghèo (một người thiếu tiền, phải đợ vợ làm nàng hầu cho vợ Vương lấy
chín trăm đồng, Vương hay cho gọi chồng chị ta lại, bảo dắt vợ về và cứ giữ lấy
số tiền). Say đắm lý tưởng, có chí lớn, có bản lĩnh cao, coi thường thế tục, tự
tin lạ lùng. Suốt ngày đêm đọc sách suy tư trứ tác (khá nhiều), tìm cách cứu
vãn quốc gia, không hề quan tâm tới đời sống hằng ngày chẳng nghĩ tới sự ăn
mặc, tắm rửa, óc lúc nào cũng như ở trên mây, đãng trí lạ lùng: trong một bữa
tiệc, chỉ gắp hoài một món đặt trước mặt mà không đụng tới các món khác, không
thay quần áo nếu vợ không nhắc, mặt mày lem luốc vì cả tuần không rửa. Nhiều
người ghét ông, cho là lập dị, giả dối.
Năm 1058, Vương dâng lên một bức thư trên vạn chữ cho Nhân Tôn
đề nghị biến pháp để cứu vãn quốc gia vì tình hình rất đáng lo, địa chủ được
hưởng nhiều quyền lợi quá, không phải nộp thuế, không phải phục dịch, còn dân
chúng thì nghèo khổ, bị mọi sự áp bức, mà rợ Liêu, rợ Tây Hạ luôn luôn quấy
phá, quốc khố rỗng không. Nhân Tôn thấy tính tình, cách ăn mặc của Vương kỳ
cục, không ưa, không để ý đến bản quốc sách Vương dâng lên.
Mười năm sau, năm 1068, Vương đã 47 tuổi mới được Thần Tôn trọng
tài bác học, phong làm hàn lâm học sỹ, khiêm chức thị giảng để hầu vua đọc
sách, Thần Tôn mới 20 tuổi nhưng có nhiệt tâm cứu quốc, thường hỏi Vương về
chính sách phú quốc cường binh. Lần lần Vương thuyết phục được Thần Tôn dùng
tân pháp ông đề nghị, và năm 1069, Vương nhận ấn tể tướng để thi hành biến
pháp.
Triều đình chia làm 2 phe, phe vua, Vương gọi là Tân Đảng, được
vua tin nhưng ít có người tài, tận tâm, mà lại có nhiều kẻ vô lại như Lí Định,
Đặng Oản.
Phe chống Vương gọi là Cựu Đảng, cầm đầu là Tư Mã Quang, cựu tể
tướng, đại sứ gia, gồm nhiều nhà nho có tiếng tăm, có đức, có tài, tuy đôi khi
hẹp hòi, thủ cựu như Âu Dương Tu, Hàn Kì, hai anh em họ Tô (Đông Pha, Tử Do),
hai anh em họ Trình (Hạo, Di).
Nguồn lợi chính của Trung Hoa là nông sản, nên mới cầm quyền,
Vương An Trạch khuyết trương ngay nông điền, thuỷ lợi, ông dùng những nhà
chuyên môn chứ không dùng những ông cử, ông nghè, bổ làm thuỷ lợi quan, nên
trong 7 năm, diện tích thuỷ lợi tăng lên 36 triệu mẫu (theo Tống Sử mỗi mẫu vào
khoảng 600 mét vuông).
Ông ghét bọn địa chủ lũng đoạn tài sản trong nước, một mặt đặt
ra những cơ sở kinh doanh để thu lợi cho quốc gia, giảm cái lợi của đại địa
chủ, đại thương gia, một mặt thay đổi chính sách thuế khoá cho được công bằng
hơn, có lợi cho quốc khố hơn.
Ông dùng các biện pháp:
- Phép thanh miêu: mỗi năm 2 mùa, khi lúa còn xanh
(thanh miêu), quan địa phương xem xét tình hình rồi lấy thóc trữ trong kho (gọi
là thường bình sương cho nông dân vay để chi dùng, tới ngày
mùa, gặt hái xong, nông dân đong thóc trả lại cho nhà nước, thêm 2 ba phân lời
mỗi tháng, địa chủ cho vay thì có khi lãi tới 20 phân mỗi tháng.
Như vậy, số thu nhập của triều đình tăng lên mỗi năm được 20-30%
mà dân nghèo khỏi bị nạn bóc lột.
Chính sách đó rất đúng về lý thuyết mà thất bại khi đem ra thực
hành vì kẻ thừa hành làm bậy. Muốn tỏ ra đắc lực, nhiều kẻ bắt buộc nông dân
phải vay mặc dù họ không cần tiền, cần lúa. Có nơi nông dân nào cũng phải vay
và trả ba chục phân lời trong ba tháng (từ khi lúc xanh cho tới ngày mùa),
không trả nỗi thì bị tịch thu gia sản, bị giam cầm rồi thừa hành báo cáo láo,
nào là dân chúng sung sướng, mang công triều đình, nào là họ tự nguyện xin vay
và luôn luôn trả đủ.
Trái lại, nơi nào mất mùa, dân đói kém, đáng lẽ họ phải xuất lúa
kho ra cho vay thì giữ lại, đem bán chợ đen, nộp chính phủ một ít, còn bao
nhiêu bỏ túi. Thì ra bọn quan lại còn bóc lột hơn bọn điền chủ nữa, xưa cũng
như nay.
Nên kẻ thêm một nguyên nhân thất bại nữa: sự phá hoại ngấm ngầm
của bọn địa chủ mất cái lợi cho vay nặng lãi, chẳng hạn họ lấy lại ruộng không
cho lĩnh canh nữa, nếu tá điền không vay lúa của họ mà vay của nhà nước.
- Phép thi dịch: Vương sáng lập ra một cơ quan coi
việc buôn bán gọi là thi dịch, triều đình bỏ ra 5 triệu đồng và 30 triệu hộc
lúa làm vốn. Hàng hoá nào mà vì đường giao thông trắc trở, tới nơi đã trái mùa,
bán không được thì cơ quan thi dịch mua hết, trả cho người bán một giá phải
chăng, không đến nỗi bị lỗ, nhà nước tích trữ hàng có lợi đợi lúc có giá sẽ bán
ra lấy lời. Nếu thương nhân không muốn bán đứt cho chính phủ thì có thể gởi
hàng ở thị dịch mà vay tiền, nửa năm là mười phân. Như vậy cũng là một cách
giúp thương nhân, họ khỏi phải bán đổ bán tháo, hoắc phải vay lãi nặng hơn
nhiều.
Biện pháp này bị Cựu đảng đã kích mạnh nhất, bảo rằng như vậy là
nhà nước tranh lợi với dân-tức con buôn-tư nhân không sao tranh nổi sẽ phá sản.
Vả lại chưa chắc vì có lợi cho nhà nước vì nhà nước phải dùng nhiều nhân viên,
trả lương cho họ, mà họ không quen việc buôn bán, thiệt cho công quỹ, hoặc
không siêng năng giữ gìn hàng hoá, có khi ăn cắp nữa, và mất mát hư hại. Lại
thêm cái nạn cậy quyền cậy thế, thấy món nào có lợi thì mượn tên bà con, hoặc
cho bọn tay chân mua để hưởng, món nào không lợi thì bắt chẹt các thương gia
không có vây cánh phải mua. Cái tệ này mấy năm nay chúng ta điều thấy rõ. Và
chúng ta sống 9 thế kỷ sau họ Vương.
- Phép quân thâu: dân khỏi phải nộp thuế bằng tiền
mà nộp bằng sản vật, nhà nước cứ tính theo giá trung bình ở mỗi nơi mà thu, rồi
bỏ vào thường bình sương, như vậy đến vụ nộp thuế, dân khỏi bán tháo bán đổ để
đóng thuế. Nhưng mà bọn thừa hành không có lương tâm thì cũng dễ bóc lột dân
bằng cách chê sản vật là xấu mà định giá quá thấp. Tệ đó ngày nay cũng không
tránh khỏi.
- Phép mộ dịch: thời nào dân cung phải làm xâu (đào
kinh đắp đường....) mà không được công xá gì cả, phải tự túc về ăn uống, chỉ
nhà quan, nhà chùa, đàn bà, nhà độc đinh là được miễn dịch, như vậy bất công mà
có hại cho sức sản xuất của dân vì có khi họ phải bỏ công việc đồng áng để phục
dịch.
Vương đặt ra thứ tiên miễn dịch, người nào không làm mộ dịch thì
nộp một số tiền để nhà nước mướn người làm thay cho, như vậy thêm công ăn việc
làm cho một số dân thất nghiệp. Những người trước kia được miễn dịch, bây giờ
phải nộp tiền trợ dịch.
Biện pháp này làm cho tài chính nhà nước thêm dồi dào mà lại có
tình công bằng. Bọn phú hào được miễn dịch tự cho là bị thiệt thòi, phản đối.
- Phép phương điền quân thuế: đo lại ruộng đất cho
đúng để đánh thuế cho công bằng.
- Phép bảo giáp: cứ 10 nhà hộp nhau thành một bảo,
có bảo trưởng làm đầu. Nhà nào có hai nam đinh thì phải cho một nam đinh sung
vào bảo giáp để luyện tập võ nghệ, sử dụng khí giới, thay phiên nhau phòng bị
trộm cướp, khi có giặc thì chiến đấu được. Như vậy triều đình giảm được một phần
ba số lính phải trả lương. Dĩ nhiên dân chúng, nhất là các nhà nho trong Cựu
đảng không ưa chính sách Thương Ưởng, Tần Thuỷ Hoàng đó.
- Phép bảo mã: giao ngựa cho dân nuôi, mỗi hộ một
con, để đến lúc chiến tranh thì có ngựa dùng, nuôi 2 con thì được miễn thuế
nhưng ngựa chết thì phải bồi thường.
Hai phép cuối có mục đích cường binh, năm phép trên có mục đích
phú quốc, hết thảy đều bắt người giàu phải gánh vác chung với dân về thuế má,
quốc phòng......
Ngoài ra Vương còn thay đổi khoa cử. Đầu đời Đường, khoa cử tuy
trọng thi phú, nhưng không khinh hẳn những môn kỹ thuật, chuyên môn: toán,
luật, sử, thư pháp... Rồi lần lần, không rõ từ đời nào, khoa cử chỉ trọng riêng
thi phú, và "kẻ sĩ chỉ đóng cửa học làm thơ, phú đến khi ra đời chẳng biết
chút gì cả" Như vậy là khoa cử chỉ làm hại nhân tài thôi. Âu Dương Tu cũng
đã thấy cái tệ đó nên khi làm chánh chủ khảo ra những đề tài thiết thực về cách
trị nước và đề cao lối văn bình dị, giản minh, ghét lối văn sáo mà rỗng.
Vương An Trạch mạnh bạo hơn, mới đầu chỉ bỏ thi phú, vẫn còn
dùng kinh nghĩa, văn sách để chọn kẻ sĩ, sau bãi bỏ hẳn khoa cử, lấy những kẻ
sĩ ở trong học quán ra làm quan, học xá dạy nhiều môn thực dụng, chuyên khoa,
ai giỏi về khoa nào thì sẽ được bổ dụng tuỳ theo khả năng. Ở thế kỷ IX cuộc cách
mạng văn hoá đó thật lớn, nếu thành công thì có thể Trung Hoa đã tiến bộ về
khoa học, kỹ thuật trước phương tây rồi.
Vương còn có hùng tâm như Vương Mãng, cùng với Lữ Huệ Khanh chú
thích lại Kinh thi, kinh Thư, kinh Lễ (gọi là Tam kinh tân nghĩa) cho hợp với
tân pháp, rồi dâng lên Thần Tôn để ban hành trong nước, các học quan phải theo
bộ đó mà dạy, và khi thi thì theo bộ đó mà ra đề thi. Di nhiên các nhà Nho
trong Cựu đảng cho là giải thích bậy. Chúng ta không biết Vương giải thích ra
sao vì sau khi Vương chết, Tam kinh tân nghĩa không một bản nào được giữ lại.
6. Tân pháp thất bại - Hai đảng tranh nhau.
Tân pháp mới thi hành được 5 năm, thì bị Cựu đảng phản đối mạnh,
đại điền chủ và thương gia ngầm phá, mà dân chúng ngày càng khổ hơn, từng đoàn
đói rách bỏ quê hương, kéo nhau lên kinh đô xin ăn, vua Thần Tôn tuy vẫn tin
Vương An Thạch, phải tạm ngưng chức ông (1074 mà vẫn giữ lại tay chân của Vương
là Lữ Huệ Khanh, Tăng Bố... nghĩa là chưa bỏ hẳn tân pháp, và năm sau lại phục
chức cho Vương.
Trong lịch sử đông và tây, thời nào cũng vậy khi một nội các
không được tin cậy thì người ta nghĩ đến việc lập một chiến công oanh liệt để
làm chủ dư luận, gây lại uy tín. Vương không để cho lực lượng quốc gia được bồi
dưỡng mạnh mẽ, năm 1075 vội đem quân đánh Tây Hạ, thắng được vài trận nhỏ,
nhưng tiêu hao mất 60 vạn quân, và không biết bao nhiêu tiền của. Thần Tôn ôm
mặt khóc bỏ ăn mấy ngày.
Liêu thừa cơ Trung Hoa bị tổn thương nặng, đòi cắt thêm đất,
Vương cắn răng chịu khuất, cắt cho họ 700 dặm ở Hà Đông, phong trào phản đối
nổi lên càng dữ.
Thất bại ở Bắc, Vương quay về phía Nam, muốn thôn tín Việt Nam.
Triều đình ta (Lý Thân Tôn) ra tay trước. Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn
quân chia làm hai đạo, một đạo đánh vào hai châu Khẩu, Liêm (Quảng Đông), một
đạo đánh lên Ưng Châu (Quảng Tây), đại thắng, giết hại cả vạn quân Tàu. Năm sau
Tống muốn phục thù, đem quân xâm lăng nước ta nữa. Lý Thường Kiệt lại thắng một
trận oanh liệt, giết hơn một ngàn quân Tống trên sông Như Nguyệt (sông Cầu,
tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Sau trận đó, Vương bị cắt chức tể tướng, về vườn luôn. Tân pháp
vẫn tiếp tục, nhưng kết quả càng tệ, Thần Tôn buồn rầu chết 1085. Năm sau,
Vương An Thạch cũng chết.
Triết Tôn lên nối ngôi mới có 11 tuổi, Thái hoàng thái hậu (vợ
của An Tôn, bà nội của Triết Tôn) thính chính, niên hiệu là Nguyên Hựu. Bà là
người tốt, nhưng thủ cựu, bỏ tân pháp, dùng Tư Mã Hoang trong Cựu đảng làm tể
tướng, nhưng cựu đảng cũng không cứu nguy được, mà chia làm ba phe khuynh loát
nhau, phe của Trình Di, phe của Tô Thức (Tô Đông Pha) và phe của Lưu Chi.
Khi Triết Tôn trưởng thành, đích thân cầm quyền (1093), vốn ghét
cựu đảng, lại dùng bọn Lữ Huệ Khanh, Chương Đôn... Tư cách Triết Tôn đã tầm
thường (hiếu sắc), mà bọn Lữ, Chương không lo việc nước, chỉ tìm cách diệt Cựu
đảng, hoặc đày, hoặc giết các quan lớn nhỏ trong cựu đảng thời Nguyên Hựu,
trước sau trên 800 người, hồ sơ trên 142 quyển. Mấy chục người tự tử để khỏi bị
nhục. Thật là chưa từng thấy trong lịch sử Trung Hoa. Không còn tranh nhau về
chính kiến như thời Vương An Thạch nữa, mà chỉ lo báo thù riêng thôi. Vì vậy,
tân pháp càng thi hành thì nước càng nghèo, càng suy, triều đình càng chia rẽ.
Triết Tôn chết (1099), em là Huy Tôn lên, hoàng thái hậu thính
chính. Bà là người tốt, dụng cựu đảng trở lại (Phạm Thuần Nhân...) và muốn điều
hoà cả hai đảng mà không được. Huy Tôn có óc nghệ thuật, chữ đẹp, vẽ khéo (hoa
điểu), dâm lạc dẫn theo chính sách của vua anh. Chương Đôn tiếp tục thanh trừng
cựu đảng, năm 1103 sai dựng ở khắp nơi hàng trăm tấm bia khắc tên 309 người
trong cựu đảng Nguyên Hựu mà người đứng đầu là Tô Đông Pha. Những người có tên
trên bia sẽ vinh viễn bị nhục, hậu duệ dù mấy đời cũng không được làm quan,
hoàng thất không được thông gia với bọn họ. Nhưng chỉ ba năm sau (1106), có
lệnh huỷ bỏ các tấm bia đó khi tân pháp hoàn toàn thất bại, và hiện nay, ở trên
các đỉnh núi cheo leo, có thể còn được vài tấm.
Trong thời quân chủ, lần này là lần duy nhất có hai chính đảng
do vua chỉ định, thay nhau lên cầm quyền, mỗi đảng có một chính sách rõ rệt,
trái ngược nhau.
Tân pháp của Vương An Thạch có màu sắc chủ nghĩa xã hội, là một
thứ tư bản quốc gia, công bằng mà có thể làm cho nước mau mạnh. Theo nhiều học
gia, nó thất bại do nhiều nguyên nhân:
- Dân chúng vốn sợ sự thay đổi vì có óc bảo thủ, họ ghét nhất là
phép bảo giáp, bảo mã.
- Bị cựu đảng đã kích, nhất là đại địa chủ phá hoại, mà uy thế
của hai giới đó rất mạnh.
- Tân pháp thi hành gấp quá, không chuẩn bị kỹ, không đào tạo đủ
cán bộ, không kiểm soát được chặt chẽ, bọn thừa hành làm bậy và báo cáo láo,
một mặt bóc lột dân chúng, một mặt che mắt triều đình, thành thử lợi cho quốc
gia không bao nhiêu mà phí tổn về lương cho cán bộ rất nặng. Vương đã không tự
lượng sức, đánh Tây Hạ mà tiêu hao quân lính, tiền bạc, sau lại thua Việt Nam,
dân chúng càng thấy đảng của ông bất lực.
Theo tôi còn một nguyên nhân nữa, Trung Quốc thời đó đất đai quá
rộng, tình hình quá suy nhược, tài của Vương không cứu vãn được. Ông lại quá tự
tin, cố chấp, nên những người có uy tín không chịu hợp tác với ông, mà bọn tay
chân của ông hầu hết là nịnh bợ, đầu cơ.
Vương mất rồi, lại trên 800 năm sau mới có cuộc cách mạng xã hội
nữa, lần này là lần thứ tư, và có một chương trình hấp dẫn, một tổ chức tinh
vi, một kỹ thuật hiệu nghiệm, hiện đã đứng vững được trên ba chục năm, đã thực
hiện được một số công trình, nhưng dân vẫn nghèo khổ, có lẽ còn lâu mới đạt
được mục đích.
7. Rợ Kim mạnh lên, chiếm trọn miền bắc Trung Quốc.
Cầm quyền đã trên 100 năm, nhà Tống chưa giải được hai cái hoạ
Liêu và Tây Hạ thì lại thêm cái hoạ rợ Kim.
Ở hai miền thượng du Hắc Long Giang có một bộ lạc người Trung
Hoa gọi là Nữ Chân (tên này chắc là phiên âm), cùng một bộ tộc với Mãn Châu. Họ
lạc hậu, chất phát, chưa đúc được sắt, mà tính tình hung hãn. Thế kỷ XI họ lệ
thuộc nước Liêu, qua thế kỷ XII họ mạnh lên, nhân vua Liêu vô đạo, họ cử binh
đánh, chiếm được một phần đất của Liêu, năm 1125 đời Tống Huy Tôn, thủ lãnh của
họ là A Cốt Đả xưng đế đổi quốc hiệu là Đại Kim.
Bấy giờ Liêu đương suy. Tống thừa cơ đánh thì tất thắng, vậy mà
Huy Tôn nghe một hoạn quan là Đồng Hoán bài mưu, muốn mượn sức của Kim, sai sứ
qua liên minh với Kim để diệt Liêu. Hai bên ước với nhau:
° Kim, Tống cùng tiến quân đánh Liêu, một bên từ Bắc, một bên từ
Nam.
° Thành công rồi thì Tống lấy lại đất Vân, Yên mà Liêu đã chiếm
từ đầu đời Tống, đất còn lại thuộc về Kim.
° Tống mỗi năm nộp cho Kim 200.000 lượng bạc và 300.000 tấm lụa.
Vua Kim dẫn ba đạo quân tiến vào đất Liêu, tới đâu thắng đấy một
cách dễ dàng, trái lại quân Tống do Đồng Quán điều khiển (Tống hết tướng rồi ư?)
Thua Liêu luôn mấy trận, sau đánh Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) cũng không xong.
Quán phải xin Kim giúp sức. Kim hạ được Yên Kinh rồi hạ luôn mấy kinh đô nữa
của Liêu. Vua Liêu mất nước rồi, muốn đầu Tống, nhưng giữa đường bị Kim bắt
được. Liêu vong năm đó là năm 1125 cuối đời Huy Tôn.
Vậy là chỉ một mình Kim có công diệt Liêu, Kim viện lẽ đó để yêu
sách thêm, bắt Tống mỗi năm phải nộp một triệu quan làm tiền thuế đất Yên Kinh,
rồi mới chịu giao lại đất đó.
Sử gia trách nhà Tống đổi nước Liêu là kẻ hào hảo với mình trên
trăm năm để kết thân với một nước mới hưng vượng, còn nhiều nhuệ khí. Vì vậy để
rước thêm cái hoạ rợ Kim lớn hơn hoạ rợ Liêu nữa.
Hoạ xảy ra ngay tức thì. Tống chưa kịp nộp một triệu quan
"thuê đất" thì Kim đã đem quân vào đánh, hãm Yên Kinh, Huy Tôn thấy
nguy, mộ thêm quân, nhường ngôi cho thái tử, tức vua Khâm Tôn (1126). Dân chúng
ở kinh đô phẫn uất đòi Huy Tôn phải giết Tướng quốc Thái Kinh và Đồng Quán vì
đã làm cho quốc gia bị suy nhược, bại trận, bị xâm lược. Huy Tôn phải nghe, rồi
trốn giặc xuống Giang Nam.
Chiếm Yên Kinh rồi, giặc Kim hãm Biện Kinh. Khâm Tôn muốn bỏ
kinh đô trốn nữa. Lý Cương giữ chức binh bộ thị lang, khóc can, nguyện tử thủ
xã tắc. Khâm Tôn phải ở lại. Lý Cương tận lực chống giữ kinh thành, nhưng rồi
Khâm Tôn nghe lời tể tướng Lý Bang Ngạn, sai sứ cầu hoà. Người Kim đòi vàng 500
vạn lạng, bạc 5000 vạn lạng, lụa 100 vạn tấm, ngựa bò 1 vạn con, và cắt đất Hà
Bắc ngày nay. Lại bắt vua Tống phải tôn vua Kim làm bác, gởi thân vương, tể
tướng làm tin mới chịu hoà. Khâm Tôn phải chấp nhận hết, nhưng chỉ thâu góp của
nhân dân được 20 vạn lạng vàng và 400 vạn lạng bạc thôi.
Dân chúng phẫn uất, quân cần vương nổi lên, do Diêu Bình Trọng
thống suất, đánh trại quân Kim không thắng. Vua bãi chức Lý Cương để lấy lòng
rợ Kim, nhưng mấy vạn dân quê do một thái học sinh1 là Trần Đông cầm đầu đến tận cửa khuyết dâng thư xin dùng
lại Cương, và mạt sát tể tướng Lý Bang Ngạn kẻ chủ hoà.
Quân Kim vây Biện Kinh đã được một tháng, không đợi nổi đủ số
vàng bạc, rút về hết. Huy Tôn trở về Biện Kinh. Ai cũng tưởng hoà nghị đã xong,
trên dưới an lòng, không lo phòng bị nữa. Không ngờ, không đầy một năm, Kim lại
đem quân hãm kinh thành. Vua Khâm Tôn phải ngự tới trại Kim xin hoà nữa. Kim
đòi vàng 1.000 vạn lạng, bạc 2.000 vạn lạng, lụa 1.000 vạn tấm, nặng hơn gấp
hai lần trước. Khâm Tôn không sao nộp đủ số được, phải đến nói lại. Kim bàn lập
Trương Bang Xương (viên thiếu tể đã qua Kim làm con tin) làm Sở đế rồi bắt vua
Khâm Tôn, thượng hoàng Huy Tôn, thái tử, các hậu phi và hoàng tộc, tất cả 3000
người, lại cướp vàng bạc, con gái trong thành đem về bắc (1127). Bọn họ vừa
buồn, khổ, vừa không chịu được khí hậu miền Bắc, lần lần chết hết.
Chưa bao giờ dân tộc Trung Hoa bị nhục như vậy. Đời Bắc Tống tới
đây chấm dứt.
Chúng ta thấy, rợ Kim tiến như vũ bão, trong có mấy năm chiếm
được gần hết miền Bắc (chỉ trừ đất Tây Hạ chưa có rợ nào thành công dễ dàng,
mau như vậy. Nguyên nhân là đời Tống rất yếu về võ bị, nhất là dưới triều Huy
Tôn, Khâm Tôn, từ vua tới đại thần điều khiếp nhược. Nhưng cũng có nhiều nhà ái
quốc, nhất định chiến chứ không chịu hoà, như Lý Cương, Diêu Bình Trọng, Trần
Đông (đời sau Nam Tống có Thục Thi còn anh hùng hơn nữa và dân chúng đứng về
phe họ, rất ghét rợ Kim, chúng ương ngạnh, tham lam, tàn bạo, tới đâu chỉ lo
chiếm ruộng đất, cướp bóc của cải để hưởng. Bất kỳ người Kim nào cũng là công
dân hạng nhất, được miễn mọi thứ thuế, chỉ phải tòng quân thôi. Chúng có quyền
chiếm bao nhiêu đất thì chiếm, chẳng kể là đất công hay đất tư, thành thử chủ
điền và nông dân Trung Hoa đều ghét chúng, lần lần toàn dân Trung Hoa đoàn kết
thành một mặt trận duy nhất để chống Kim. Đó là nguyên nhân khiến cho Kim sau
này sẽ sụp đổ rất mau.
Lại thêm, khi đã chiếm được Biện Kinh, chiếm được hết đất cát,
của cải rồi, chúng tranh giành, chém giết lẫn nhau. Mà chúng cũng không như các
rợ khác, thoả thuận với một phần dân Trung Hoa để được phần đó hợp tác với
chúng. Trước sau, chúng chỉ là một bọn xâm lăng, một bọn cướp.
Chân dung Thiền sư Trung Quốc Vô Chuẩn Sư Phạm, được vẽ vào năm 1238. |
B. CHIA HAI NAM BẮC - NAM TỐNG (1127-1279)
1. Cao Tôn lên ngôi, dời đô xuống Nam.
Chiếm được kinh đô, bắt hết được hoàng tộc của Tống rồi, Kim rút
quân về sau khi lập Trương Bang Xương làm Sở đế, chứ không chiếm hết luôn giang
sơn của Tống vì Kim thiếu quân, thiếu người để cai trị và biết rằng người Hán
không chịu hợp tác với họ, cứ để cho Tống làm một nước đàn em mỗi năm nộp cống
vàng, bạc, lụa và hễ có dịp thì bắt cắt thêm đất, như tằm ăn dâu mà lại hơn.
Quần thần và dân chúng không phục Trương Bang Xương, ông ta biết
thân phận khó làm bù nhìn được, nên mời bà phế hậu của Triết Tôn (lúc đó đã về
ở với cha mẹ nên không bị Kim bắt) ra dự bàn việc nước, rồi cùng tôn một thân
vương lên ngôi ở Quý Đức (Hà Nam ngày nay) tức vua Cao Tôn.
Cao Tôn mới đầu cũng muốn khôi phục lại các đất đã mất, nên dùng
lại Lý Cương, vị danh thần đã tận lực chống giữ kinh thành, nhưng rồi nghe lời
bọn gian thần chủ hoà, bãi Lý Cương mà chỉ nghĩ đến việc bôn đào, dời xuống
Dương Châu, sau cùng đóng đô ở Lâm An (Hàng Châu, tỉnh Triết Giang ngày nay),
từ đó sử gọi là Nam Tống.
2. Tống, Kim ghìm nhau
Xuống miền nam, nhà Tống còn kéo dài thêm được trăm rưỡi năm
nữa, một trăm rưỡi năm không vẻ vang chút nào cả.
Thời Nam Tống là thời Tống và Kim ghìm nhau, không nước nào
quyết tâm diệt nước kia cả, Kim vì lẽ tôi mới trình bày ở trên, Tống vì sáu,
bảy ông vua đều tầm thường nếu không nhu nhược thì do dự, nghe lời bọn đại thần
chủ hoà, làm lơ trước sự phẫn nộ, thoá mạ của dân chúng, chỉ muốn rửa cái nhục
mất nước, tệ hơn nữa, có vua như Cao Tôn còn để cho gian thần hãm hại tôi trung
nữa, y như triều Tự Đức ở nước ta khi bị Pháp xâm chiếm. Thực ra họ cũng muốn
khôi phục những đất đã mất, muốn khỏi phải nộp thuế cho Kim đấy, nhưng nhút
nhát không dám.
Thành thử cả hai bên đều chờ cơ hội, hễ thấy địch suy yếu hoặc
chia rẽ nội bộ thì đem quân đánh, đánh mà thua thì xin hoà, chịu bỏ ít nhiều
quyền lợi, nếu thắng thì yêu sách, đòi thêm quyền lợi, bạc, lụa, đất đai
(trường hợp Kim), hoặc đòi rút bớt thuế hàng năm, trả lại ít đất đã chiếm
(trường hợp Tống).
Trước sau ba bốn lần đánh rồi hoà, hoà rồi đánh như vậy. Xét
chung thì Kim vẫn lấn Tống dần dần, Tống vẫn mất đất thêm. Chép lại những cuộc
chiến nho nhỏ đó là điều vô ích, tôi chỉ kể qua ba hoà ước Tống ký với Kim.
° Cao Tôn (1127-1162) vì nghe lời gian thần Tần Cối kẻ nhất định
chủ hoà (coi ở dưới) nên 1141, kí hoà ước với Kim chịu Kim phong chức cho (nghĩa
là chịu xưng thần với Kim) Khang Vương phải cắt đất ở phía Bắc Hoài Thuỷ và Đại
Tán Quan nhường cho Kim, mỗi năm phải nộp 25 vạn lạng bạc và 25 vạn tấm lụa cho
Kim. Kim cho chở quan tài của Huy Tôn và Thái Hậu về Tống.
° Hiếu Tôn (1163-1189) năm 1165 định lại hoà ước, gọi vua Kim
bằng chú, số tiền hằng năm tế tuệ phải nộp được giảm, bạc, lục mỗi thứ 50 vạn
chỉ còn 20 vạn, địa giới như cũ. Lần này Tống không thắng nhưng Kim cũng nhường
một chút.
° Nhưng đến năm 1208, đời Minh Tôn (1196-1224), Tống thấy Kim có
nội loạn đem quân đánh, chẳng dè thua to, phải xin hoà, tăng tuế tuệ lên 30 vạn
lạng bạc, 30 vạn tấm lụa.
Vậy trước sau Tống vẫn bị áp bức, mất thêm đất, thêm tiền, và
chỉ còn giữ được lưu vực sống Dương Tử với vài tỉnh giáp biển ở miền Nam (coi
bản đồ trang 321 tập một).
3. Phe chủ chiến.
Dân chúng bất bình nhất về hoà ước 1141. Lần đó Kim đưa binh vào
đánh quyết lấy Hà Nam, Thiểm Tây. Ba tướng Tống là Lưu Kỳ, Hàn Thế Trung, Nhạc
Phi hết sức kháng chiến. Anh hùng nhất là Nhạc Phi, ông rất phẫn uất vì rợ Kim
xăm vào lưng bốn chữ "Tinh trung” (nghĩa như tận trung báo quốc). Ông khéo
khuyến khích tướng sĩ, giữ quân luật nghiêm minh, đánh bại được Kim nhiều trận,
người Kim rất sợ, đã núng thế, muốn xin hàng. Nhưng tại triều có Tần Cối trước
bị Kim bắt về phương Bắc, rồi được vua Kim thả ra, cho về với Cao Tôn làm nội
ứng, không hiểu sao Cao Tôn dùng hắn làm tể tướng. Hắn nhất định chủ hoà, Cao
Tôn nghe theo. Nhạc Phi đang hăng hái đuổi quân Kim gần tới Biện Kinh thì một
ngày liên tiếp nhận được 12 đạo kim bài (tín bài bằng vàng) triệu về. Nhạc Phi
ức quá, khóc: "Công mười năm, một sớm phải bỏ cả", rồi hạ lệnh lui
binh, nhân dân níu ngựa ông lại, chùi nước mắt, van ông ở lại. Tướng ở chiến
trường có quyền không tuân lệnh triều đình, ông quá trung với vua mà không báo
quốc được, thật đáng hận biết bao. Về tới triều đình, ông bị Tần Cối bỏ ngục
liền rồi chẳng xử tội gì cả, giết ông. Có sách chép là thắt cổ ông. Đời ông
được đời sau chép trong truyện "Nhạc Phi". Hiện nay ở Hàng Châu, kinh
đô Nam Tống, còn một ngôi đền lộng lẫy thờ ông. Quỳ trước mộ ông là hai tượng
bằng sắt, tức vợ chồng Tần Cối. Cửa đền có đôi câu đối:
Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt
Bạch cốt vô cô chú nịnh thần
Nghĩa là:
Núi xanh may mắn được chôn xương bậc trung quân
Sắt trắng vô tội mà phải đúc bọn nịnh thần
Thời đó khiếp nhược chủ hoà đầy triều đình nhưng hạng anh hùng
cũng đông, quyết sống mái với Kim. Trước Nhạc Phi, Hàn Thế Trung có Lý Cương
(đã chép ở trên), Diêu Bình Trọng đốc suất quân cần vương đánh trại quân Kim.
Tôn Trạch chiêu mộ nghĩa sĩ và hảo hán bốn phương, tích trữ lương thực đủ dùng
trong 6 tháng, quyết ý chống với giặc, nhưng Cao Tôn không cho, ông buồn hận mà
chết ...
Về cuối đời Nam Tống còn nhiều anh kiệt hơn nữa, tôi sẽ chép ở
sau.
4. Các đảng nghĩa quân.
Dân chúng tinh thần cũng rất cao, vì thâm oán Kim cướp đất của
họ, ngạo mạn, hách dịch.
Ngay từ 1121 (gần đời Huy Tôn) đã có một bạo động mà người cầm
đầu là Tống Giang căn cứ địa là Lương Sơn Bạc (ở Sơn Đông ngày nay), khẩu hiệu
là "Thế thiên hành đạo" chống lại triều đình, quan quân phải sợ,
thanh thế rất lớn, khu vựa hoạt động rộng, từ Sơn Đông tới Hà Bắc, dân chúng
theo rất đông, đủ các giới từ quan lại nhỏ, quân dân, nông dân, ngư dân, nhà
sư, tiểu thương... Cuộc bạo động đó được nhân gian truyền khẩu cho nhau nghe,
sau một nhà văn đời Minh, Thi Nại Am chép lại trong bộ kiệt tác Thuỷ
Hử mà hồi nhỏ chúng ta say mê đọc.
Từ đó cuối đời Nam Tống, không biết có bao nhiêu cuộc nông dân
nổi dậy, vạch tội triều đình, bỏ đất, bỏ dân, chống lại quân Kim, nhỏ thì dăm
ngàn, lớn thì hàng vạn, có khi cả chục, cả trăm vạn người như đảng "Bát Tự
Quân" mà khẩu hiệu là tám chữ (bát tự xăm trên mặt: "Xích tâm báo
quốc, thệ sát Kim tặc", đảng "Hồng cân quân" đội khăn đỏ, thường
đánh du kích quân Kim.
Những đảng nghĩa quân đó không tỉnh nào không có, y như nước ta
hậu bán thế kỷ trước. Giá triều đình Tống biết giúp đở họ một chút và khuyến
khích họ thì quân Kim chắc phải trả lại Biện Kinh mà rút về phương Bắc.
5. Phong trào học sinh dâng thỉnh nguyện.
Một điểm đáng ghi nữa, rất mới trong lịch sử Trung Hoa là đời
Nam Tống có phong trào học sinh đại diện cho dân dâng thỉnh nguyện lên vua.
Người đầu tiên có lẽ là Thái học sinh Trần Đông cầm đầu mấy vạn dân quê lại cửa
khuyết xin vua Khâm Tôn dùng lại Lý Cương như trên tôi đã chép. Rồi hò hét,
chửi rủa Bang Ngạn khi hắn vô triều. Triều đình sợ binh biến, miễn cưỡng chấp
nhận hết thỉnh nguyện của dân, vậy mà mấy chục tên nội thị cũng bị dân chúng
hành hung cho tới chết.
Từ đó học sinh ở nhiều nơi khác noi gương, cũng dâng thỉnh
nguyện "thu phục đất đã mất", “tổ chức nhân dân võ trang",
"khai phóng ngôn luận", phong trào đó nổi lên là do đạo học sinh đời
Tống phát triển, học sinh chịu ảnh hưởng của họ Trình, họ Chu (coi tiếp sau).
Đời Hiến Tôn (1163) thái học sinh trường Quán gồm 72 người dâng
thư đòi chém bốn đại thần chủ hoà. Họ không có hậu thuẫn của dân chúng mà yêu
sách hăng quá, triều đình phản ứng mạnh, cấm làm việc dâng thư ở cửa khuyết.
Đời Lí Tôn, khi Mông Cổ xâm lăng (1235) tất cả trường Thái học
(như Quốc Tử giám đời sau), Vũ học (dạy võ bị), Kinh học (dạy các kinh của lão
Nho, Lão...) nối tiếp nhau bài khoá, dâng thư đòi đuổi bọn đại thần hại dân hại
nước, bị triều đình đàn áp. Lần đó là lần cuối, phải đợi tới cuối đời Thanh,
hạng thanh niên trí thức Trung Hoa mới lại đóng vai trò như vậy.
6. Tống, Kim và Mông Cổ ở cuối thế kỷ XII
Tống, Kim đều suy
Sự ghìm nhau của Tống và Kim đến cuối thế kỷ XII đã giảm đi ít
nhiều. Tống cắt thêm ít đất cho Kim, Kim rút bớt tiền nộp mỗi năm cho mươi vạn,
hai bên đều xưng đế, vua Tống gọi vua Kim là chú, nghĩa là vẫn tự nhận là nước
phụ dung của Kim. Sở dĩ vậy vì cả hai bên đều suy rồi.
Kim suy vì quốc gia đã phong kiến hoá, nhân dân đã Hán hoá, họ
mô phỏng theo chữ Hán mà tạo ra một thứ chữ riêng, mở trường học, đã có một số
người thông ngũ kinh, tứ thư, làm thơ văn như người Hán, vốn lại là bớt hung
hãn.
Tống suy vì dân chúng thất vọng, cứ phải đóng thuế mỗi năm một
nhiều, nỗi lên cướp bóc, trong lịch sử chỉ thấy ghi: "Tứ Xuyên nhiều
giặc", "Giang Tây nhiều giặc"....đâu đâu cũng có giặc.
Trong khi đó thì mọi rợ ở phía Bắc Hắc Long giang, rợ Mông Cổ,
thịnh lên rất mau và như một cơn lốc, tới đâu quét sạch tới đó, mới đầu diệt
Kim, sau diệt Tống, sự tranh chấp giữa Tống, Kim do đó mà chấm dứt.
Mông Cổ mạnh lên.
Rợ Mông Cổ tự xưng là giống Thát Đát, gồm nhiều bộ lạc Hung nô,
Thổ (Đột Quyết), Mông Cổ (nhiều nhất), sống bằng du mục, ở thế kỷ XI mà vẫn như
rợ Hồ ở đầu đời Hán, có hàng triệu con ngựa cứ mùa đông miền Bắc cỏ chết hết
thì dời xuống miền Nam rồi đến mùa hè lại trở lên miền Bắc. Họ ở lều, thức ăn
chính là thịt và sữa ngựa, săn bắn và chiến đấu với các rợ khác, rất giỏi phi
ngựa bắn cung, hung hãn, tàn bạo.
Thế kỷ XII họ lệ thuộc nước Kim, học được của Kim những chiến
thuật mới. Có một sự trùng diễn ngẫu nhiên của lịch sử: Kim trước lệ thuộc
Khiết Đan, bị một vua Khiết Đan tàn bạo, đàn áp quá mà nổi loạn, diệt được
Khiết Đan, thì Mông Cổ cũng bị Kim ức hiếp quá mà qua thế kỷ XIII đánh lại Kim,
Kim thua nhiều trận phải cắt đất, nộp bò, dê, đậu, gạo ..., phong cho tù trưởng
Mông Cổ tước vương, họ không thèm nhận, tư xưng là Đại Mông Cổ quốc.
Đến đời Thiết Mộc Chân (Témoudjie), Thái Tổ nhà Nguyên Mông Cổ
lại càng mạnh, diệt được nhiều bộ lạc ở Tây Vực, năm 1206 lên ngôi Đại Hãn
(Hoàng đế). Hiệu là Thành Cát Tư Hãn (Genges Khan).
Năm 1210 Thành Cát Tư Hãn lại đánh Kim, chiếm được Tây kinh của
Kim, Kim lại xin hoà, nộp vàng lụa, phụ nữ và dâng một công chúa cho Thành Cát
Tư Hãn làm thiếp. Mông Cổ rút quân về để chuyển qua đánh phía Tây, chiếm được miền
Tây Vực, thẳng tiến tới bờ phía bắc Hắc Hải, chiếm hết các nước lớn nhỏ trên
đường hành quân, cuối cùng là Kiev của Nga. Sử chép rằng họ tới đâu thắng tới
đó như vào chỗ không người vì họ tàn bạo, khát máu vô cùng, hễ thành nào chống
cự lại thì họ sang phẳng, giết hết dân, không chừa một đứa con đỏ, sọ người
chất cao như núi, điều đó đúng nhưng không phải chỉ vì vậy. Theo nhiều sử gia
châu Âu gần đây thì Mông Cổ rất giỏi về chiến thuật, không một nước châu Âu nào
thời đó bì kịp; trước khi tấn công họ chịu tìm hiểu kỹ tình hình chính trị của
địch, địa thế, sức mạnh của địch, có lẽ họ biết dùng súng nữa mà Trung Hoa thời
đó đã chế tạo được.
Tới Nga rồi, Thành Cát Tư Hãn trở về Trung Hoa đánh Tây Hạ, chưa
xong thì chết. Tây Hạ hàng (1227). Thành Cát Tư Hãn chia những đất đã chiếm
được cho bốn con, lập thành bốn hãn quốc.
Bọn nối ngôi đó sau còn Tây tiến hai lần nữa; lần thứ nhất chiếm
Hồi Quốc, Đông Âu, Nhật Nhĩ Man......(1234), lần thứ ba chiếm Tây Bộ Á Tế Á
(1251). Tôi chép lịch sử Trung Hoa nên không ghi lại dù vắn tắt những chiến
công đó của họ; chỉ xin nói qua rằng khi họ chiếm được trọn Trung Hoa vào khoảng
năm 1280 thì đế quốc của họ - đế quốc của Mông Cổ- lớn nhất trong lịch sử cổ
kim.
Việc chiếm trọn Trung Quốc là công của Oa Hoạt Đài (con của
Thành Cát Tư Hãn) và Hốt Tất Liệt (Khoi Lai Khan) tức Nguyên Thái Tổ.
Oa Hoạt Đài 2 (Ogodei) đem quân đánh Kim, vây Biện Kinh
16 ngày không lấy được. Mông Cổ sai sứ vào xin Tống (vua Lí Tôn) hợp binh đánh
Kim. Vua tôi nhà Tống muốn thừa diệp đó, diệt Kim để rửa nhục, mà quên rằng
trước kia Tống giúp Kim diệt Liêu, sau bị Kim phản, trở lại hại Tống. Lần này
cũng vậy, Tống giúp Mông Cổ diệt Kim (vua Kim phải tự ải - có sách nói nhảy vào
lửa chết năm 1234) rồi cũng bị Mông Cổ phản trở lại hại Tống.
Kim làm chủ miền Bắc 120 năm, khi bị diệt, xin Mông Cổ trở về
Mãn Châu sống đời du mục trở lại dưới quyền của Mông Cổ và tới thế kỷ XVI, họ
mới trở lại làm chủ Trung Quốc, với tên Mãn Thanh.
Sau đó Oa Hoạt Đài đánh Cao Li ở phía Đông, Hốt Tất Liệt đánh
Vân Nam, Thổ Phồn, Nam Chiếu ở phía Tây và Nam.
Năm 1260 Hốt Tất Liệt lên ngôi, tức vua Thế Tổ nhà Nguyên, năm
1264 dời đô từ Karakorum lại Yên Kinh (Bắc Kinh), năm 1268 vây Tương Dương,
Tương Dương cố thủ 5 năm rồi mất (1273). Thế của Tống lúc này rất nguy. Đầu đời
Cung đế, năm 1275 Mông Cổ đem quân theo Giang Đông tiến xuống, thừa tướng Tống
là Giả Tự Đạo sai hai viên tướng đốc suất 13 vạn tinh binh, 2500 thuyền chiến
cự địch, nhưng chưa xáp chiến quân Tống đã vỡ, Tống mất liên tiếp các đất Lưỡng
Bồ, Kiến Khang, Trấn Giang, Thái Bình, Dương Châu, rồi Lâm An bị bức. Cung đế
chiêu mộ quân cần vương. Văn Thiên Tường và Trương Thế Kiệt hưởng ứng, bàn kế
chặn địch, nhưng tể tướng là Trần Nghi Trung chỉ muốn hoà, ba lần sai sứ xin
nhường đất để Mông Cổ lui binh, lần cuối cùng chỉ xin giữ một tiểu quốc để tế
tự, mà cũng bị cự tuyệt. Triều đình khiếp nhược như vậy mà dân chúng thì quyết
chiến. Theo Will Durant trong sách đã dẫn, thì ở "Juining-fu" một vị
thủ lãnh cố cầm cự cho đến khi tất cả những người già cả, các người tàn tật bị
người trong thành ăn thịt hết, còn các người khoẻ mạnh thì chết vì chiến tranh
hết, chỉ còn lại đàn bà để giữ thành, lúc đó ông mới cho nỗi lửa đốt thành và
ông chết thiêu trong dinh của ông.
Tống vong tam kiệt
Quân Mông Cổ vào được Lâm An, bắt được Cung đế, thái hậu và mấy
ngàn người đưa lên phương Bắc (1276)
Bọn di thần là Lục Tú Phu (tể tướng), Trương Thế Kiệt tôn vua
Đoan Tôn lên ngôi, đưa xuống Phúc Kiến. Văn Thiên Tường đốc suất nghĩa quân
chống Mông Cổ, mấy lần đều thua.
Năm 1277 Trương Thế Kiệt dắt Đoan Tôn xuống Quảng Đông, năm sau
Đoan Tôn chết ở Can Châu (Quảng Đông). Văn Thiên Tường, Trương Thế Kiệt và Lục
Tú Phu lại lập em là Quảng Vương lên thay, đưa ra đảo Nhai Sơn (Quảng Đông).
Mông Cổ bắt được Văn Thiên Tường rồi, tiến đánh Nhai Sơn. Không thể chống cự
được nữa. Lục Tú Phu cầm kiếm xua hết cả vợ con phải gieo mình xuống biển, rồi
cõng vua nhảy xuống theo (1279). Theo một học giả Nhật là Trung Sơn Cửu Tú Lang
làm thống kê thì số trung thần nghĩa sĩ tử tiết là 274 người. Có người còn bản
rằng hàng trăm người Trung Hoa noi gương đó cũng tự trầm mình chứ không chịu
hàng Mông Cổ.
Trang sử cuối cùng của nhà Tống đó bi thảm nhất mà cũng vẻ vang
nhất. Có thể nói là trang sử vẻ vang duy nhất của triều đình nhà Tống.
Văn Thiên Tường bị bắt về Yên Kinh, Trương Thế Kiệt vẫn chưa
tuyệt vọng, dò đường thuỷ qua Việt Nam, mưu sự khôi phục. Nhưng giữa đường gặp
bão, thuyền chìm, chết.
Văn Thiên Tường bị giam bốn năm ở Yên Kinh, Hốt Tất Liệt dụ dỗ
ông, ông nhất định không chịu nhận uy quyền của vua Nguyên. Tôi chép lại dưới
đây đoạn Will Durant khen khí tiết của ông.
"Trong một đoạn văn vào hàng nổi danh nhất của Trung Hoa,
Văn Thiên Tường viết: "Ngục của tôi chỉ có hai con ma trơi chiếu sáng,
không một ngọn gió nào thổi vào chỗ tối tăm, tịch liêu này cả... Sống trong
sương mù và trong không khí ẩm thấp, tôi thường nghĩ rằng sắp chết tới nơi, vậy
mà trọn hai năm, bệnh tật hoài công lảng vảng chung quanh tôi. Riết rồi tôi
thấy cái ngục nền đất ẩm thấp, hôi hám này là một cảnh thiên đường. Vì thế mà
tôi giữ vững được ý chí, ngắm mây trắng trôi trên đầu mà lòng buồn mênh mông
như vòm trời vậy"
"Sau cùng Hốt Tất Liệt sai người dẫn ông tới trước mặt mình
hỏi: "Ngươi muốn gì" Văn Thiên Tường đáp: "Thiên Tường này đội
ơn nhà Tống mà được làm tể tướng thì sao có thể thờ hai nhà được, ta chỉ xin
được chết thôi". Hốt Tất Liệt chấp nhận. Khi lưỡi búa của tên đao phủ hạ
xuống, ông quay mặt về Nam Kinh, như thể vua Tống còn ở đó, mà vái dài".
Will Durant chê hành động đó của Hốt Tất Liệt là "man
rợ". Mấy hàng "nổi danh nhất" của Văn Thiên Tường. Will đã dẫn ở
trên ít người được biết, nhưng bài chính khí ca của ông "tráng liệt như
cầu vồng vắt ngang trời, mỗi lần ngâm lên thấy máu sôi trong lòng", nghe
như một bài tiến quân ca, thì nhà nho Trung Hoa, Việt Nam thời xưa không ai
không thuộc nó các vị như Phan Đìng Phùng, Hoàng Diệu, Nguyễn Trung Trực... của
ta tất đã nhiều đêm vung bảo kiếm, nhìn ngân hà mà ca:
Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lưu hình
Hạ tắc vi hà nhạt
Thượng tắt vi nhật tinh......
(Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dưới đất là sông núi
Trên trời là nhật, tinh......)
Bài đó tôi đã trích dịch trong Đại cương văn học sử Trung Quốc,
cuốn III, trang 58
Văn Thiên Tường, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu được đời sau gọi là
Tống vong tam kiệt (Ba hào kiệt thời Tống mất nước). Có ba vị đó với Nhạc Phi,
Tống cũng đỡ tủi.
C. KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Nông nghiệp.
Chúng ta đã biết thời đầu nhà Tống, cũng như mọi thời đầu của
các nhà khác (Hán, Đường) nông nghiệp phát triển nhờ chính sách phát ruộng cho
dân và nhờ dân được yên ổn làm ăn. Còn nhiều nguyên nhân nữa; công việc thuỷ
lợi, đào kinh, đắp đê ở hạ lưu sông Dương Tử phát triển, người ta biết dùng
những giống lúa mới thứ lúa sớm ở Chiêm Thành - (Theo Lombard)- và mỗi địa
phương chuyên trồng một vài loại, số thu hoạch tăng lên, dân số tăng theo.
Nhưng vì chính sách thuế má bất công, dân nghèo thì phải đóng
góp nhiều, kẻ giàu thì được miễn nhiều thứ thuế mà lại giỏi trốn thuế, nên kẻ nghèo
càng nghèo, người giàu càng giàu, nhất là thuế mỗi ngày một tăng, nên dân chúng
đói quá phải nổi loạn, mỗi khi lụt hoắc mất mùa. Như 1075, ở Hồ Châu lụt, mùa
màng hư hết, nữa triệu người chết đói, mặc dù triều đình đã phát chẩn 1.250.000
hộc lúa cho dân nghèo.
Nạn đói vì thiên tai là nạn lớn nhất của dân Trung Hoa. Có người
đã làm thống kê thấy rằng trong 2.300 năm từ thế kỷ thứ VIII trước T.L tới cuối
đời nhà Minh, chỉ có 720 năm là Trung Hoa không bị thiên tai còn những năm
khác, trước sau họ bị 1057 cơn nắng hạn và 1030 vụ lụt, ấy là chưa kể nạn chiến
tranh. Tân Pháp của Vương An Thạch có thể làm cho quốc khố khá hơn nhưng dân
chúng lại khổ hơn: từng đoàn người đói rách rời bỏ quê hương, kéo lên kinh đô
xin ăn, khám đường nhiều nơi chật những người thiếu thuế. Tô Đông Pha trong cựu
đảng chán nản, lấy làm xấu hổ rằng giới sĩ như ông đọc biết bao nhiêu sách mà
không tìm được một phương cứu đói cho dân được.
Giới đại điền chủ trái lại vẫn sống trong cảnh xa xỉ. Theo
Eberhard, cuối Nam Tống (đời Độ Tôn), một người tên là Kia Sseo-tao, em một quý
phi, có địa vị khá ở triều, đề nghị triều đình hạn chế số ruộng đất tối đa mà
mỗi người được có, quá số đó phải bán cho nhà nước, nhà nước mua rồi di dân lại
cho làm, để thu thuế. Ông áp dụng ngay vào miền phía nam của Nam Kinh, nơi các
đại thần có nhiều ruộng đất, nhưng bọn đại địa chủ giết ông và chính sách đó
phải bãi bỏ (1295)
Liễu ấm cao sĩ đồ, tranh Trung Quốc thế kỷ 11. |
2. Công Nghiệp
Có ba ngành phát nhất
a. Nuôi tằm, dệt lụa Tô Châu, gần Hàng Châu có nhiều xưởng dệt
dùng cả ngàn người thợ.
b. Thuật in phát sinh trong các tu viện (Phật Giáo và Đạo Giáo)
để in hình phật, bùa chú... rồi tới thế kỷ IX, X mới phát triển ở ngoài đời từ
Tây Tứ Xuyên xuống đến hạ lưu sông Dương Tử: lịch, sách coi số, từ điển nho
nhỏ. Giữa thế kỷ thứ X mới xuất hiện những kinh, thư của Khổng giáo in bằng mộc
bản do lệnh của triều đình, trước đó người ta phải dùng giấy vỗ lên các tấm bia
bằng đá rất hiếm, chỉ có ở kinh đô. Từ 960, người ta in nhiều kinh phật. Cũng
vào khoảng đó đã có người dùng hoạt tự bằng đất nung, gỗ hay thiếc, nhưng phải
dùng khoảng 7000 chữ, rất bất tiện, mà in như vậy ko đẹp, nên thuật đó lần lần
không ai dùng.
c. Đáng kể nhất là đồ gốm, đồ sứ. Đồ sứ đạt đến tuyệt đích ở đời
tống và nổi danh khắp thế giới. Có rất nhiều lò ở khắp nơi. Tại Bắc là lò Định
Châu, Từ Châu, tại Trung Nguyên là lò Nhữ Châu, Quân Châu... tại Nam là lò Long
Tuyền (nổi danh nhất), Tu Hội ...
Đồ sứ là những đồ gốm gần như pha lê, khoáng chất dùng là cao lanh
(kaolin) và một thứ thạch anh trắng gọi là "bạch đôn tử" (quartz).
Người ta nặng thành đồ, phủ lên một lớp men trắng rồi mới bỏ vô lò nung, có khi
người ta vẽ, sơn lên men rồi nung lại. Có những người thợ chuyên môn vẽ hoa,
loài vật, phong cảnh, tiên, thánh...
Các nhà chuyên môn, sành nhất về đồ sứ cho rằng không đồ sứ cổ
nào hơn được đời Tống; đời Minh, Thanh điều kém. Từ vua tới dân ai cũng thích
đồ sứ, nó tràn ngập trong nước: chén, đĩa, bình, vại, chúc đài, bàn cờ ... Lần
đầu tiên người ta thấy xuất hiện những đồ sứ xanh như ngọc thạch, gọi là Đồng
Thanh (céladon) (mà bao lâu nay các nhà đồ gốm vẫn ước ao chế tạo được), còn
các nhà sưu tập đồ cổ thì tranh nhau mua. Vua Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư đều sưu
tập nó. Những đồ sứ màu huyết bò hoặc trắng tinh (Bạch ngọc) cũng rất quý. Nghề
làm đồ gốm lan qua Nhật, Việt Nam, Xiêm nhưng nghệ thuật kém xa.
Cũng gọi là Long tuyền diêu (diêu mới đầu chỉ các lò nung đồ sứ,
sau chỉ các đồ sứ) còn có tên nữa là Tống ngọc (ngọc đời Tống).
3. Thương Mãi.
Rất phát đạt. Bọn thương nhân họp nhau lại, càng ngày càng mạnh
lên. Ngay giới quan lại lớn nhỏ cũng muốn kết thân, làm thông gia với họ và hùn
vốn với họ làm ăn. Thời nào cũng vậy, hễ phú thì thành quý.
Nội thương phát triển nhất ở miền lưu vực sông Dương Tử và miền
Nam nhờ sông đó đưa lên tới Tứ Xuyên được, mà hạ lưu lại rất nhiều kinh rạch
thuận lợi cho sự chở chuyên. Cũng nhờ lưu vực đó phong phú nữa.
Ngoại thương phát đạt nhất ở miền bờ biển từ Phúc Kiến đến Quảng
Đông. Các vua Tống rất quan tấm đến việc thông thương đường biển, khuyến khích
các nước Nam Dương đến mua bán. Trung Quốc đã có những thuyền lớn chở được ngàn
người, trọng tải 300.000 (cân khoản 150 tấn), và dùng la bàn để chỉ phương
hướng, nhờ vậy mà thương thuyền đi biển khá nhiều, phía Đông đến Nhật Bản, Cao
Li, phía Nam đến Chiêm Thành, quần đảo Nam Dương, phía Tây đến Ấn Độ, Ba Tư.
Trong số người ngoại quốc đến buôn bán ở Trung Quốc thì người Ả Rập đông nhất,
vì Hồi giáo được truyền bá ở Trung Quốc nhiều hơn các tôn giáo khác (trừ Phật
giáo), người Nam Dương theo Hồi giáo đến Trung Quốc cũng đông, họ bán hương
liệu, ngà voi, tê giác, đồi mồi, san hô, các đồ châu báo, và mua trà, tơ lụa,
đồ sứ, sơn, vàng, bạc, đồng, thiếc. Ở Quảng Châu, Tuyên Châu, Lưỡng Chiết có
đặt những ti Thị bạc để thu thuế quan. Đời Huy Tôn (đầu thế kỷ XII số thuế thu
được lên đến 10.000.000 quan tiền. Theo Eberhard thì giữa thế kỷ XII, số thuế
ngoại thương bằng 7% số lợi tức quốc gia (không kể thuế đất ruộng), ngang với
số thuế đánh vào trà, mà kém số thuế đánh vào rượu: 36%, vào muối 50%.
Để tăng lợi tức, chính phủ mở rất nhiều khách sạn và ti bán
rượu.
Các thương nhân họp nhau lại lập các thương hàng, tập hợp lại
thành khu vực, các thương nhân đồng nghiệp (cùng bán một loại hàng đoàn kết với
nhau để định giá, độc chiếm, lũng đoạn thị trường.
Đời Tống (thế kỷ XII dùng bốn thứ tiền: Tiền đồng, tiền sắt,
tiền bạc, tiền giấy, làm thiệt hại dân chúng rất nhiều. Nguyên là do thời Bắc
Tống ở khu vực Tứ Xuyên, tiền sắt chuyên chở khó khăn, mới tạo ra một thứ tiề
giấy gọi là giao tử. Một giao tử ăn một quan, ba năm đổi một lần, giao cho nhà
giàu biện lý, đến đời Nam Tống trở thành một thứ tiền giấy quốc gia phát hành.
Số tiền thời đó là 10 triệu quan.
4. Đời sống thành thị
Thương mãi phát đạt thì thị trấn thành thị cũng phát triển.
Trung tâm kinh tế đã từ miền Bắc chuyển xuống miền Nam. Kinh đô đã không còn ở
trung lưu sông Hoàng Hà nữa; nó từ Trường An chuyển lại Lạc Dương, rồi từ Lạc
Dương đến Biện Kinh (Khai Phong ngày nay), đời Nam Tống nó xuống Hàng Châu. Năm
1170 Hàng Châu đã có nửa triệu người. Chợ búa phố xá rất đông đúc. Miền Nam khí
hậu ấm áp hơn miền Bắc, cây cỏ xanh tươi nhiều hồ, nhiều sông, đời sống dễ chịu
nên tính tình của con người cũng thay đổi, bớt khắc khổ, đạm bạt, nghiêm ngặt
mà phóng khoáng hơn, vui vẻ, ham hưởng lạc, lãng mạn hơn.
Giới thương gia ở kinh đô sống trong những dinh cơ rộng: phía
trước là ngôi nhà lộng lẫy tiếp khách, có nhà thờ tổ tiên, phía sau là khu cho
phụ nữ, trẻ con, chung quanh là vườn rộng có cây cảnh, cây ăn quả, non bộ. Họ
có nhiều cao lâu, tửu quán, trà thất để ăn tiệc, chơi bời, ngắm trăng, nước,
nghe hát. Muốn biết đời sống của họ, chúng ta có thể đọc những truyện Thuỷ Hử,
nhất là Kim Bình Mai, hoặc cuốn La vie quotidienne en Chine la veille de
l'invasion mongole của Jacques Gernet. Truỵ lạc là giới thương nhân đó và giới
quan lớn mà hầu hết là đại điền chủ. Ở Trung Quốc, thời xưa các quan đều ăn hối
lộ không nhiều thì ít, vì lương của họ thấp quá mà họ lại có nhiều vợ, nhiều
con, nhiều kẻ hầu người hạ, có khi phải giúp đỡ cho anh em, họ hàng nữa. Một
người làm quan thì cả họ được nhờ. Vua Cao Tôn hiểu vậy tăng lương cho họ,
không rõ bao nhiêu nhưng có tăng gấp đôi, gấp ba cũng không đủ. Cho nên ông
quan nào cũng không có di sản của tổ tiên, hoắc vợ giàu, đảm đang, mà ráng giữ
đức thanh liêm thì phải sống đạm bạc như Phạm Trọng Yêm: Vợ con không được bận
đồ tơ lụa, bữa cơm chỉ dọn một món thịt, trừ khi có khách mà ông là một đại
thần ở triều Nhân Tôn đấy. Còn Tô Đông Pha hồi còn làm chức quan nhỏ, thất phẩm
ở Mật Châu (lúc đó triều đình đã giảm lương quan lại), phải chịu mọi cảnh thiếu
thốn, con cái nheo nhóc, không đến nỗi chết đói, nhưng có lúc cùng một bạn đồng
sự, phải đi hái cúc trong các vườn hoang để ăn cho đầy bao tử. 3
Nhưng đời Tống có điểm đáng khen là nhờ đạo học của các triết
gia họ Chu, họ Trình, tinh thần nhà Nho chân chính rất cao, nhiều kẻ sĩ biết
trọng khí tiết. Âu Dương Tu, Tư Mã Quang, Trình Hạo, Trình Di, Tô Thức, Tô
Triệt, Vương An Thạch đều có đức cả. Nhờ họ mà học sinh thời đó, nhất là học
sinh trường Thái học, đa số có tinh thần ái quốc, dám dâng thư vạch lỗi lầm của
triều đình như trên tôi đã kể. Xét chung thì sĩ phong thời đó đáng khen, cho
nên khi triều đình Tống nhảy xuống biển tự tử, không chịu cái nhục để cho quân Mông
Cổ bắt sống, trong nước có cả ngàn người tuẫn tiết theo, đàn bà cũng như đàn
ông.
5. Hàng Châu - Đời sống các giới.
Khi rợ Kim chiếm biện kinh rồi, vua Cao Tôn đầu đời Nam Tống lưu
lạc hai ba nơi rồi sau lại Hàng Châu lúc đó chỉ là một cái phủ ở ngay tỉnh lị,
tỉnh Chiết Giang. Mới đầu triều đình chỉ tính ở tạm tại đó, coi đó là một
"hành tại" (người Âu phiên âm là Quinsay) cũng như hành cung vậy
thôi. Sau thấy phong cảnh nơi đó đẹp đẽ, khí hậu mát mẽ, cây cối xanh tươi,
nhất là miền đó có nhiều đồi, nhiều hồ, sông rạch và chằm, rợ Kim quen chiến
đấu ở miền Bắc, phi ngựa trên những đồng cỏ mênh mông, gặp những sông rạch,
chằm đó sẽ bất lợi, nên triều đình Nam Tống lựa Hàng Châu làm kinh đô.
Nó nằm trên bắc ngọn sông Chiết Giang- khúc đó cách bờ biển không
xa, còn có tên là Tiền Đường (nơi nàng Kiều gieo mình xuống để chấm dứt 15 năm
đau khổ), phía nam nó dựa lưng vào núi Ngô Sơn, phía tây nó soi bóng trên Tây
Hồ, nổi danh là nơi linh tứ bật nhất của Trung Hoa nhờ cảnh đồi núi, hồ biển
tuyệt đẹp, nhờ khí hậu ấm áp, nhờ dân trong miền tính tình vui vẻ, nam thanh nữ
tú, tiếng ca hát ngâm thơ vang lên trong các vườn hoa, các trà thất, bên bờ
nước, dưới các hàng liễu.
Đầu Nam Tống, nó (Hàng Châu) chỉ độ 200.000 dân, cả Nam Tống
được độ 60 triệu dân, Bắc Tống được độ 40 triệu nữa. Nhưng nó phát triểu rất
mau vào cuối đời Nam Tống, đầu đời Nguyên, nó đã có một triệu dân, thành thị
trấn đông dân nhất, giàu có nhất thế giới. Mà coi trên bản đồ chúng ta thấy rất
hẹp. Nó có hai vòng thành, vòng trong xây vào thế kỷ VII. Thị trần ở vòng
trong: từ Nam tới Bắc độ bảy cây số, chiều ngang độ 2 cây số. Thành trong đắp
bằng đất, đá và gạch cao chín thước, dưới chân dày ba thước, có 13 cửa mà 3 ở
phía đông quan trọng nhất, xây cất rất vững chắc, canh gác suốt ngày đêm. Từ
năm 893 người ta bắt đầu xây thêm vòng ngoài. Dưới chân thành có hào rộng.
Có một con đường chính rộng trăm bước chân từ Bắc tới Nam, nơi
có cung điện, tôn miếu và đàn Nam giao. Có nhiều đường từ Đông qua Tây cắt
ngang đường chính đó, và nhiều kinh chạy song song với đường chính. Không biết
ngoại ô lan tới đâu. Và người ta chỉ đoán rằng vào khoảng 1274. Thị trấn rộng
trên 20 cây số vuông, mà chứa 1.000.000 người 4 cho nên rất chật chội.
--------------------------------
Như học sinh Quốc tử
giám đời sau. |
|
có sách ghi là A
Hoạt Đài. |
|
Ở nước ta thời
Nguyễn cũng vậy. Một quan huyện liêm khiết ngày 25 tết đóng cửa huyện đường
mà trong nhà không còn gạo. Nhiều ông làm chức đốc học mà khi chết chỉ có
được vài sào ruộng, vài căn nhà lá, từ đường do môn sinh góp tiền cất cho. |
|
con số này tin được
vì cứ 2,3 năm một lần, vào những năm nhuận, triều đình kiểm tra lại dân số.
Hơn nữa, từ năm 1276 nhà nào ở Hàng Châu cũng phải ghi tên những người trong
nhà, kể cả trẻ con, vào một tờ khai dán ở cửa. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét