Tôi nhận ra, ngoài tính cách phóng khoáng, đời sống sinh hoạt của cư dân đầu sông và cuối sông Mekong cũng bao phần giống nhau. Điệu hát của người Tạng chon von núi non, chỉ một âm tiết cũng đủ ngân dài mấy núi. Giọng ca tài tử người Nam Bộ lãng du sông nước, vài tiết điệu buồn dâng lên là biển cả thấy mênh mông. Và kiểu cách ăn ở, người Cửu Long giản đơn vài ba mái chòi, một chiếc màn rộng của mẹ là căng đủ giấc ngủ cho mấy chục cháu con say sưa giống túp lều vải đơn sơ hay mái nhà đất mộc người Tạng che chở cho núi ngủ người say. Rồi rượu! Gái trai Tây Tạng ngấm rượu Tsampa từ thuở da thịt chưa rám nắng thì miền Cửu Long, gái trai cũng chẳng nề hà hơi men!
TÂY TẠNG GIỌT HOA TRONG NẮNG
2. Sợi lông nách của hành tinh xanh
Văn
Cầm Hải
Rằng tin, tên tuổi là nơi trú ẩn danh
tính của một đời người thì kể từ lúc nhận tấm giấy thông hành đặc biệt của cơ
quan an ninh Trung Quốc vào rạng sáng ngày 18 tháng 9 năm 2003, nơi chốn nương
thân gần 30 năm của đời tôi đã thay đổi!
Bâng khuâng.
Tôi
Tia nắng non ngoi lên
Nét chữ khiêu vũ
Từng dây lửa réo rắt tấm
giấy thông hành.
Tên tuổi mình mà cứ ngờ cầm một cuộc đời
khác lạ nào đó vừa rơi qua tay!
Đây là lần đầu tiên, tôi không thể đọc
tên tuổi mình trong dòng chữ múa lượn ánh lửa mang dáng hình “văn sấm” thời Ngưỡng
Thiều Trung Quốc hoà quyện với điệu “brahmi” Ấn Độ cổ xưa.
Trong khói sương mịt mùng bình minh
Thành Đô, tôi ngắm nhìn tấm giấy thông hành và thầm đoán, dòng chữ mềm ánh lửa,
buông thả nhưng không mất vẻ bí ẩn, chuyển thức tâm trạng theo đường nét tuỳ hứng
khi đang chuẩn chu bỗng nhiên sổ dài sâu thẳm rồi đột ngột móc lên cao vời khó
lường, ắt hẳn phải sinh từ vùng đất giàu ánh sáng và tự do!
Các vị tu sĩ đang dìu bà già gần 100 tuổi lên núi Hồng Sơn
Bỏ lại Thành Đô và ngôi mộ Lưu Bị đượm màu khói súng thuở ba quân chống Tào còn hận đắm thời gian, tôi bay lên Himalaya nắng tuyết. Càng tươi bay lên cao nắng càng hưng phấn ánh mắt. Một buổi sáng chưa đầy mà tôi đã bay qua hai sắc màu thế giới sương mù Thành Đô và ánh sáng Himalaya.
Quả nhiên, miền đất nằm giữa vòng tay
Trung Quốc và Ấn Độ, nơi sinh ra dòng chữ lửa khiêu vũ kia thật là phì nhiêu
ánh sáng, ngay cả trong giấc ngủ, những đường mơ vẫn lung linh nắng vàng. Thế
giới chỉ có một miền đất diệu kỳ như vậy, đó chính là Tây Tạng!
Có lẽ, sự ám ảnh sâu sắc với dòng chảy
của ánh sáng lượn quanh co trên những đỉnh núi tuyết đã trở thành dòng chữ qua
mười ngón tay người. Tôi nhìn tấm giấy thông hành, tên tuổi hoa mắt tôi. Chữ
không còn là chữ. Chữ bây giờ là lửa thắp lên cơn say nồng nàn. Bằng tâm thế của
miền mưa bụi bên bờ biển Đông, tôi bắt đầu tan chảy trong nguồn sáng Himalaya!
Himalaya!
Nhờ say, nhân loại vượt ra ngoài trạng
thái bình thường! Tôi không có rượu để say, chỉ có ánh nắng tràn đầy huyết quản.
Tôi uống ánh sáng, uống rồi lại uống, như người Tạng nói, rồi uống nữa cho đến
khi ngã xuống đất, lại đứng lên, lại bắt đầu uống nữa, tôi dường như thoát khỏi
vòng luân hồi.
Được nuôi dưỡng trong nguồn sáng
Himalaya, Tây Tạng không bao giờ thiếu vắng ánh nắng. Nắng chiêu đãi cả những gốc
cây cọng cỏ, nắng trải thảm trên hàng mi, nắng hoen men môi má, nắng bao dung cử
chỉ nhưng tôi không cảm thấy mệt lòng vì sự tù túng, ngược lại trong nguồn sáng
bao la của nắng, lần đầu tiên tôi nhìn thấy vẻ đẹp kịch tính con người nguyên
thuỷ trong một thế giới phi hình thể. Mọi khái niệm và cảm giác bỗng nhiên tan
biến nhường lại cho đôi mắt tha hồ say ánh nhìn tự do!
Khi đã say ánh sáng, làm sao tôi có thể
nhớ nỗi mình là là một thực thể cơm gạo bao năm.
Rượu say, da thịt còn tỉ tê cơn lịm ngủ.
Say ánh sáng, càng say càng tỉnh táo. Cả thân hình rực rỡ với hàng tỷ tế bào
lung linh mọi điểm nhìn, dẫu có dấu kín từ muôn kiếp cũng hiện về trong veo!
Trời Tây Tạng vào thu nhưng không nhu
mì mà tươi xanh màu mắt con gái đêm đầu tiên dậy thì. Bởi trên ngôi cao mặt trời
có ngủ quên sau mây thì dãy Himalaya với những ngọn núi như bầy vú linh lang,
căng đầy hàng triệu năm ánh sáng và băng tuyết đủ tiết ra nguồn sáng tràn trề
không gian.
Đó là lý do, vì sao người Tây Tạng
kính núi. Núi không chỉ là con đường dẫn lên chốn thần thánh ngụ cư, núi còn có
linh hồn! Rigonlanxi! Núi có linh hồn. Núi là người Mẹ sinh nở nguồn năng lượng
hữu hình và vô hình cho tự nhiên dồi dào muôn màu số phận.
Ngày thơ ấu, theo chân Mẹ qua núi. Một
mình mẹ cặm cụi nhát cuốc. Một mình tôi chín tuổi thơ trong lửa muộn rừng chiều
Trường Sơn. Mẹ chẳng giống núi. Mẹ gầy yếu giọt mồ hôi. Núi đồ sộ hơn chuyện cổ
tích. Nhưng mẹ bảo, con hư hay ngoan cũng là con của mẹ như núi kia đêm qua
sinh mầm xanh thì sáng nay nhận lá vàng. Như núi kia che chở tiếng côn trùng
mưa rơi nhưng không ngần ngại tiếng gầm mãnh thú. Núi sinh ra sông nhưng chẳng
buồn giận đại dương lấy hết nguồn nước bởi tất cả là con của núi!
Tuổi thơ tôi không hiểu lời mẹ nhưng dần
theo tháng năm, tấm tình sẻ chia với núi lớn dần lên bước chân. Mỗi khi viếng mộ
tổ tiên, nhìn núi, lòng tôi bỗng phiêu linh tương lai quê nhà. Vậy thì có gì
đâu mà sợ núi, có gì đâu yếu vía mong bóng núi trùm lên bóng mình mới cảm hứng
được tâm thức thiêng liêng.
Núi đã có linh hồn thì có sự chia sẻ
và đương nhiên núi cũng đầy số phận lạ lùng!
Kailâsa là một số phận lạ lùng và linh
thiêng nhất trên rặng Hymalaya. Khi thế giới còn côi cút tâm linh, người Ấn độ
ví Kailâsa là trục vũ trụ với tên gọi Tu-di hay Meru. Tu-di là ngôi nhà của thần
Shiva, và con người, một hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ nên Tu-di biểu tượng cho cột
xương sống dựng nên sự sống thân thể. Rồi đến Phật ra đời, Kailâsa là một đàn
tràng linh phù mandala của các vị Thiền Phật.
Dòng sông Yarlung Tsangpo
Trong lòng dân Tây Tạng, trung tâm của
Nam thiện bộ châu - thế giới loài người nằm ở Kailâsa giống hình ảnh ngọn núi
Olympe trong mắt văn minh Địa Trung Hải và ngọn núi Qaf của đạo Hồi Trung Đông
dẫu Kailâsa không phải là ngọn núi cao nhất trên Himalaya.
Qomolangma cao 8848,13 mét. Kailâsa
cao 6.666 mét. Sau lần dịch chuyển thứ nhất làm nên cơn hồng thuỷ, bầu trời và
cây cối tuyền màu đỏ ối, theo tiên đoán của Ernest Muldachev, đúng 6666 năm
sau, trái đất lại lâm vào đại nạn, bầu trời và cảnh vật chuyển sang màu xanh thẩm
lá cây khi trục trái đất dịch chuyển về Kailâsa! Không biết lúc ấy ai sẽ là
Noeh hay tất cả nhân loại đã yên bình trên sao Hoả - nơi người Mỹ tin rằng có
hoạt chất kết tinh và khoáng chất sắt thường sinh ra từ nước như bằng chứng về
sự sống từng hiện hữu, có thể cho con người lưu trú trong tương lai! Không biết
ngày nào sẽ diễn ra cuộc hoán chuyển kinh hoàng ấy nhưng ngay từ bây giờ, bất cứ
lúc nào nếu ta có một chiếc compa khổng lồ đặt ở cực bắc trái đất, mở rộng 60 độ,
đầu còn lại của compa sẽ điểm ngay vào đỉnh Kailâsa!
Thôi thì tương lai hãy còn đó 4662 năm
nữa cho các chà khoa học mặc sức suy đoán và chiêm nghiệm còn tôi, một bình thường
trời xanh quyết liệt tin vào sự linh thiêng của tạo hoá, tôi chỉ biết bao nhiêu
ngàn năm qua Kailâsa có một số phận quá đỗi linh thiêng khi được trao quyền làm
Mẹ năm nguồn nước vĩ đại. Băng tuyết giao hoan cùng ánh sáng sinh ra nguồn nước
chảy xuống hồ Manasarovar. Sau khi chảy bảy vòng quanh ngọn Kailâsa theo lễ
pradaksina - đi vòng quanh đền thờ của người Tây Tạng, nguồn nước toả thành năm
dòng sông. Trong đó có bốn dòng sông mang tên bốn loài thú thiêng Phật cưỡi
trên toà sen. Sông Sutlej xuất phát từ phía Tây, Tạng ngữ gọi là Langschen -
Khambad “chảy từ miệng voi” hợp lưu cùng sông Indus ở phía Bắc là Senge -
Khambad “chảy từ miệng sư tử” tạo thành dòng sông Ấn cuộn về biển ả rập. Sông
Karnali ra đi phía bình nguyên Gogra là Magtscha- Khambad “chảy từ miệng chim
công” bay tới Patna gặp sông Hằng thiêng liêng. Phía Đông, sông Brahmaputra là
Tantschog-Khambad “chảy từ hàm ngựa” phi qua 2057 km, lúc ngược lên cao 4500m,
khi xoáy sâu gần 5500 m, dòng sông như
vũ điệu hoành tráng của thiên nhiên ban tặng cho miền đất Tây Tạng.
Sông Brahmaputra, dòng sông cao nhất
thế giới, cũng có tên gọi Yarlung Tsangpo chính là dòng nước chấp chới đàn bướm
ánh sáng đang rập rờn chảy qua trước mắt tôi.
Dòng sông cũng như một khái niệm triết
học. Nhờ sông, trẻ thơ được trở mình lớn dậy và người già lại hồn nhiên trở về
những ngày tinh khiết khi tâm linh chưa hề nhám bụi trần ai.
Và tôi, một tế bào nhẹ nhàng hơn hư
không đứng say mình bên dòng Yarlung Tsangpo chợt thấy nơi này, trên đỉnh cao
thế giới, lòng hoài nghi của ý thức, sự thê thảm đến tận cùng thân xác hay niềm
hứng khởi tâm linh cũng trở nên: mờ bay từng sợi không khí.
Trong ánh mắt say ánh sáng, dòng sông
Yarlung Tsangpo làm tôi nhớ sợi lông nách người thiếu nữ Digan nuôi dưỡng một đời,
xanh biếc, mơ màng và lao xao trên da thịt âm thầm.
Đêm mùa đông Bruxelles, trong căn lều
lang thang, Nilavek hồn nhiên khoe áo, xoa nước thơm lên tay, vuốt nhẹ từng sợi
lông nách bằng thái độ một người nông phu tận tuỵ với cây lúa.
-
Em người Digan, em không có dòng sông nào nên rất yêu những sợi lông
nách của mình! - Năm ngón tay búp măng màu tuyết xứ Nga trong nách Nilavek đâm
chồi lên tôi - Khi nhìn những sợi lông nách là thấy những dòng sông, tuy nhỏ
nhoi nhưng không ngừng vươn lên của thân xác!
Yarlung Tsangpo, Trường giang, Hoàng
Hà và còn biết bao dòng sông thế giới đều bắt nguồn từ trong đất đá, thoát thai
từ những nơi bí hiểm nhất của núi non trên cao thượng giới, nó cũng như sợi
lông được sinh thành từ nách ngực, kề bên trái tim cao quý con người.
Sợi lông nách Yarlung Tsangpo không
nâu đen màu đêm Bruxelles trong nách người con gái Digan. Sợi lông nách Yarlung
Tsangpo là dòng ánh sáng của Tây Tạng. Núi điệp trùng dựng lên mê cung nhưng
dòng sông vẫn di ảo theo đường vận hành ánh sáng trở ra với biển, không khác gì
sợi chỉ người con gái của Minos trao cho Thésée ra khỏi mê hồn trận sau khi giết
quái vật Minotaure.
Dòng sông ánh sáng Yarlung Tsangpo
Di ảo là đức tính của sông! Yarlung
Tsangpo! Bốn mươi triệu năm cũng chỉ là thoáng chốc mơ hồ. Thoáng chốc mơ hồ
cũng là chuỗi dài bốn mươi triệu năm cho tôi hái lượm bao nhiêu mơ ước, ý niệm
và hành động, sinh tử nối tiếp nhau theo từng bước chảy. Sông chảy dưới lòng đất,
sông chảy trên trời cao, sông chảy vào lòng người, sông nhắc nhớ cho tôi hay rằng,
tất cả mọi hình hài vũ trụ đều thoát thai và sẽ trở về với nước, nữ chúa của những
điều kỳ diệu mà không cần bất kỳ một thứ ngôn ngữ nào giải thích.
Vì không giải thích nên vào năm 313
trước công nguyên, khi vượt qua dãy núi Himalaya, vị vương tử giang hồ của triều
đại Chandragupta Maurya ở Ấn Độ đã chỉ tay lên trời thay cho câu trả lời từ đâu
đến trước ánh mắt thăm hỏi của người dân Tây Tạng. Không ngờ, cử chỉ bất đồng
ngôn ngữ ấy đã làm cho người Tây Tạng nghĩ rằng ông là người của trời nên được
tôn vinh lên làm vua. Đó chính là Nyatri Tsenpo - vị vua đầu tiên xứ Tạng như ý
trời mong muốn ông đưa văn minh Ấn độ vào khai sáng Tây Tạng với sự khởi đầu là
xây dựng kinh thành ở thung lũng Yarlung bên dòng Tsangpo có độ cao ba ngàn bảy
trăm mét!
Bởi chỉ đứng dưới thung lũng, nhà vua
mới được tiếp nhận dòng nước trên cao đổ xuống hang sâu thiên hạ, chứa đầy cảm
nhận sức mạnh siêu nghiệm lan tràn trong trung gian trời đất! Tôi nghĩ, chính kẻ
giang hồ trong thiên hạ, yêu tự do như yêu cảm xúc huyền bí mới được hưởng ân sủng
trời ban như vậy! Tiếc thay, dòng Yarlung Tsangpo vẫn còn chảy đó nhưng nhân loại
ngày càng vơi bóng giang hồ trên mặt đất. Dù kính trọng giang hồ mà lòng sợ hãi
sự đau khổ, không cảm ơn đau khổ thì làm sao trở thành giang hồ như người Tây Tạng
nói Trotung tro ma tung na, Gesar ge mi sar - nếu Trotung không mưu ma quỷ quyệt
thì Gesar đã không trở thành anh hùng! Cái anh hùng của Tây Tạng thể hiện ở
tinh thần chiến sỹ tâm linh chứ không phải là tinh thần chiến sỹ trên sa trường!
Với tinh thần chiến sỹ tâm linh nên
Nyatri Tsenpo, khi chết đã theo một sợi dây lên trời, sáu đời vua hậu duệ của
ngài cũng được sợi dây ấy đưa lên cõi trời. Sợi dây ấy phải chăng là Yarlung
Tsangpo! Dòng sông chảy vào lòng Nyatri Tsenpo sức mạnh nghiệp đế và cho ông một
khả năng siêu thoát lên cõi Nirvâna-Niết Bàn!
Tsangpo vẫn mặc nhiên dòng chảy không
trả lời tôi. Nyatri Tsenpo và bao nhiêu nấm mồ con cháu ngài cũng im lìm trong
thung lũng Yarlung. Nhưng tôi tin, bên dòng sông, cũng như tôi bây giờ, truyền
thuyết Nyatri Tsenpo không bao giờ mọc cỏ dại, linh hồn chiến sỹ tâm linh ấy
đang soi mình đâu đó dưới bóng Yang vàng. Từ dòng sông này ông đã ra đi thì nhất
định ông cũng sẽ trở về như mọi vật sinh ra và quay về với ân huệ trời ban.
Trời ban cho Nyatri Tsenpo cao nguyên
Tây Tạng hùng vĩ và trời ban cho tôi được sống với nhiều dòng sông rạt rào ký ức
như tiếng đàn của người bạn Casanova hát rong lòng đất Paris, dưới dòng chảy
sông Seine! Vient la nuit sonne lõheure... les jours sõen vont je demeure....
Những câu thơ Appollinaire bước say trên cầu Mirabeau đêm nào rơi rớt bay về từng
giọng sóng Yarlung Tsangpo. Casanova! Đêm đến giờ đổ, ngày trôi qua, tuần trôi
qua, cùng những mối tình xưa không trở lại nhưng tôi vẫn còn đây, Yarlung
Tsangpo miệt mài chảy! Chảy tôi đi từ sông Seine qua sông Mass, ngắm bầy chim
mòng biển bơ vơ hải cảng Rotterdam thương dáng hình Muhammad Khan và Mary lưu lạc
quê hương. Palestine, quê nhà của Khan cũng có dòng sông vũ trụ, dòng Jourdain
linh thiêng sao không mang lại ân huệ cho đôi vợ chồng Palestine-Israel để họ
phải chia lìa, không dừng bước lưu vong đầy máu và nước mắt. Không biết bao giờ,
tôi sẽ trở lại dòng sông Maas, thu lu khói thuốc trước cửa biển rộng, nghe tiếng
còi tàu muôn phương ghé lại lọc rửa một âm thanh quê nhà cho tôi, cho Khan và
Mery, những người bạn Trung Đông không chốn nương thân!
Nhớ con sông thứ năm chảy ra từ nguồn
nước ngọn núi thiêng Kailâsa! Sông Langcang - sông Lan Thương, sông dài 4220 km
không chảy ra từ miệng một linh vật nào cả nhưng sức mạnh của nó không kém
Yarlung Tsangpo. Trong lòng nó vẫn dồi dào sức mạnh của mẹ núi Himalaya truyền
chảy qua Miến Điện, Thái Lan, Lào, Căm Pu Chia và cuối cùng biến thành chín con
rồng cuốn nước ra biển Đông. Đó là dòng sông Mè Khoỏng-sông Mẹ theo tiếng Lào,
người Việt đọc là Mê Kông. Chín dòng nước chảy ra biển Đông là Cửu Long giang
miền Tây Nam Bộ hào sản.
Chân dung Văn Cầm Hải bên dòng Yarlung Tsangpo
Ngày đặt chân đến mũi Cà Mau, nhìn lớp
phù sa mỡ màng tấm lưng trần châu thổ, cứ một đêm theo sông đẩy sóng ra đại
dương cho đất nước rộng mở, tôi không hề hay có một ngày sẽ lên thăm tổ tiên của
những hạt phù sa ấy và thấy rằng, trong tính cách phóng khoáng của hạt lúa miền
Nam quê hương có mầm uy nguy chắt chiu hàng triệu năm ánh sáng của những đỉnh
núi tuyết đang huyền thoại trước mắt tôi!
Không có sức mạnh của người mẹ
Himalaya, làm sao Mê Kông chuyển về Cửu Long 100 triệu tấn phù sa/năm với tốc độ
34.000 mét khối/giây! Tôi là ai trong khoảng khắc trong 34.0000 m3/giây ấy. Liệu
từng sátna đời tôi có chuyển tải một hạt phù sa nào về khoả lấp vết thương do
lưỡi kiếm Lửa Sadet bỏ lại dưới đáy sâu Cửu Long.
Tôi nhận ra, ngoài tính cách phóng
khoáng, đời sống sinh hoạt của cư dân đầu sông và cuối sông Mekong cũng bao phần
giống nhau. Điệu hát của người Tạng chon von núi non, chỉ một âm tiết cũng đủ
ngân dài mấy núi. Giọng ca tài tử người Nam Bộ lãng du sông nước, vài tiết điệu
buồn dâng lên là biển cả thấy mênh mông. Và kiểu cách ăn ở, người Cửu Long giản
đơn vài ba mái chòi, một chiếc màn rộng của mẹ là căng đủ giấc ngủ cho mấy chục
cháu con say sưa giống túp lều vải đơn sơ hay mái nhà đất mộc người Tạng che chở
cho núi ngủ người say. Rồi rượu! Gái trai Tây Tạng ngấm rượu Tsampa từ thuở da
thịt chưa rám nắng thì miền Cửu Long, gái trai cũng chẳng nề hà hơi men!
Bao nhiêu năm rồi loanh quanh bóng
mình! Tiếng hát của Thảo tặng tôi đêm rượu Hậu Giang vang lên trời Tây Tạng một
bóng hình quê nhà cô đơn bên dòng Nhật Lệ trong buổi sáng mai tiển đưa linh hồn
chết trong làng qua sông sang núi. Chiếc bóng của những ngày rong chơi đốt nhà
hàng xóm chuốc lấy tiếng khóc ngộ dại thả dọc triền sông quê chảy dưới núi Thần
Đinh - ngọn núi duy nhất nước Việt chảy ngược về phía Bắc - bây giờ là tôi thả
dọc tâm linh bên dòng sông Yarlung Tsangpo.
Nhờ dòng sông này tôi sẽ quên chiếc
bóng của mình hay lại rơi vào thế giới ma quỷ bởi dòng sông này có ẩn chứa hai
nguồn nước chảy từ hồ Manasarovar hình tròn mặt trời biểu tượng cho manas xứ sở
của ánh sáng giác ngộ và Rakastal hình lưỡi liềm mặt trăng là rakas, ứng với
cõi vô minh nằm dưới ngọn Kailâsa! Hai hồ nước mặt trời và mặt trăng này giống
hai nguồn năng lực chảy dọc hai bên phải trái cột sống hợp thành nguồn lực
trung tâm đưa con người đến cõi đại toàn thiện. Cầu mong cho tôi được thanh lọc
trong nguồn nước Manasarovar như hoàng hậu Maya, đêm mơ được nhúng vào hồ, tẩy
rửa mọi ô nhiễm để chào đón vị Phật tương lai bước vào trú thân trong tử cung của
bà dưới dạng một con voi trắng.
Người ta bảo Yarlung Tsangpo và dòng
Indus là vòng tay mở rộng ôm lấy Himalaya và bán đảo Ấn Độ. Ngọn Kailâsa, đứng
độc lập giữa miền cao nguyên, là đỉnh trời linh thiêng song song với ngọn tháp
chín tầng Kõouen louen, nơi sinh ra Dương Tử, Hoàng Hà. Kailâsa và Kõouen Louen
là hai đầu tao nôi ru cao nguyên Tây Tạng bay lên bát ngát trời xanh huyền bí bằng
tiếng hát văn hoá của những dòng sông nối liền Trung Quốc và Ấn Độ.
Một góc nhìn Potala
Nhưng tại sao, có những đứa con sinh
ra trong chiếc nôi ấy lại bỏ đi như 2.500 trước thái tử Siddhartha bỏ lại hoàng
cung trong đêm vắng ra đi!
Mười thế kỷ trôi qua, chưa một lần nào
tổ tiên Nilavek trở về thăm cố hương miền châu thổ sông Hằng. Nilavek, hôm nay
tôi ngồi đây trên đất đầu nguồn sông Hằng và nhớ bạn, chiếc lông nách lang
thang.
Từ kẻ có quê thành kẻ vô quê, Nilavek
từng nói với tôi, nơi nào cũng là đất đai của tạo hoá thì con người làm gì có
quyền sở hữu vì vậy nơi nào cũng là quê hương của người Digan. Tổ tiên Nilavek
không chỉ có sợi lông nách sông Hằng mà tất cả mọi dòng sông trên thế giới đều
là lông nách người Digan. Cũng giống đất, không sở hữu dòng sông nên người
Digan có quyền gọi dòng sông nào cũng là của mình! Người Digan không muốn ràng
buộc bất cứ điều gì!
Nilavek! Sau bao ngày chia tay, hôm
nay, trước dòng sông Yarlung Tsangpo, tôi hốt nhiên hiểu ra lời bạn! Chúa Trời
cũng không lấy mất tự do thì hà cớ gì những huyền thoại đầu nguồn sông Hằng,
trên ngọn Kailâsa và Kõouen louen lại ràng buộc người Digan! Nilavek, lời của bạn
là một tantra, một công thức thần chú tuyệt diệu truyền vào tôi tiếng nói tự do
đích thực!
Tưởng chia lìa thực tại áo cơm, sống
trong huyền thoại hoá tâm linh là được tự do nhưng thêm một lần nữa, con người
lại nâng lên cấp độ nô lệ bởi chừng nào còn vướng bận giáo điều, sở hữu cả huyền
thoại thì chừng đó con người vẫn chưa trở thành Thân Hư Không!
Tôi không cần xin bóng mát dưới tán
cây jambu trên hồ.
hồ Manasarovar |
Manasarovar. Trước mắt tôi đang là thực
tại dòng sông Yarlung Tsangpo cuộn chảy. Trước mắt tôi là mùa thu đang chín tới
trên bóng Yang vàng rực rỡ, và đâu đó mùa hè còn sót lại bóng phong đỏ lập loè
thắp sáng cồn đất nằm yên ả giữa dòng Yarlung Tsangpo. Cây Yang vàng Lhasa! Phải
chăng vì không chịu nổi mùi hương kinh kệ mà trút bỏ màu áo diệp lục rời Lhasa
lội ra tắm mát ánh sáng tự do giữa dòng sông!
Cùng hướng về thực tại dòng sông, còn
có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và nữ thần Tarâ trắng xanh trên vách núi cao sau
lưng tôi.
Thân ngài vàng đồ sộ, tóc ngài xanh
thiên thanh, mắt ngài đượm diệp lục. Phật tạc vào đá mà không tù trong đá. Ngược
lại, với màu sắc sống động tư duy mỹ thuật Mật tông, Đức Phật đã nâng khối núi
thanh thoát bay theo đàn cờ phướn tưng bừng như chim mang tin lành của ngài lên
cao.
Ngài nhìn.
Núi nhìn ra sông Yarlung Tsangpo.
Cái nhìn vĩnh hằng của đá và sự sâu sắc
Phật Pháp không hề bận tâm những đường dây điện của người Trung Quốc cắt ngang
không gian, không hề bận nghe tiếng kêu be be những chuyến xe ngược xuôi trên
đường về thủ phủ Lhasa. Đôi mắt mang đến cho dòng sông một cái nhìn thản thiên
lạ lùng!
Dòng sông miệt mài nhìn.
Núi miệt mài tĩnh lặng.
Đức Phật miệt mài trôi.
Cả ba cùng chảy trong ánh sáng thanh tịnh.
Sông không nói. Phật không nói. Núi không nói. Nắng không nói. Tất cả đều trong
trạng thái thiền định ánh sáng. Chỉ có người đang nói trong tôi.
Bao giờ tôi không nói. Bao giờ tôi được
tự do.
Nilavek quá xa xôi không trả lời. Cho
đến một đêm về sau trong căn buồng trên gác nhà thổ Lhasa, tôi đã thấy tôi
không còn nói nữa khi người kỹ nữ Tây Tạng cho tôi một bất ngờ lạ lùng. Bên
thùng nước hồng cảnh thiên, như Nilavek đêm nào, kỹ nữ cởi áo chỉ vào nách dạy
tôi:
-
Nếu ngủ với tôi, anh không được nhổ bất kỳ một sợi qiangkong nào! Lông
nách không là tóc của thần Shiva. Nó là một dòng sông chảy ra từ núi ngực. Im lặng
trong nách, im lặng sống với trái tim như núi nhìn dòng sông!
Kẻ ở trong nhà thổ cao ba ngàn bảy
trăm mét, người lang thang Âu châu thấp hơn mức nước biển. Kẻ đã ra đi mười thế
kỷ, người mới có mặt trên Himalaya gần hai mươi năm. Sao lưu lạc nơi đâu, họ
cũng cảm thấy chân lý bao hàm tất cả, sự sống cô lập hoàn toàn thì không thể được
và có một con đường độc nhất để đạt tới chân lý là tự mình hoá thành với tất cả
hiện hữu! Targore, một người đồng hương với Nilavek đã nói với nhân loại như thế.
Tượng Phật thích ca mâu ni bên dòng sông Yarlung Tsangpo
Tôi bàng hoàng!
Sau cuộc hành trình 100 km từ sân bay
Gongkhar, chưa đầy 20 km nữa là được nghỉ ngơi ở thủ phủ Lhasa, nhưng người Tây
Tạng lại cho du khách dừng chân trước ngọn núi tạc tượng Đức Phật. Không phải
là sự nghỉ ngơi thuần tuý mà để cùng Đức Phật ngắm nhìn dòng sông Yarlung
Tsangpo miệt mài chảy trong cái nhìn tĩnh lặng ánh sáng!
Như biển cả rót vào giọt sương mai. Sự
tĩnh lặng là một nghi lễ lớn.
Đó là lúc, Tự Do hoá thân trong khuôn
mặt Chúa Trời hiện ra trong lòng ai đạt đến cõi tĩnh lặng!
Bức thông điệp đầu tiên mà Yarlung
Tsangpo, sợi lông nách chảy ra từ vùng đất chư thiên gửi đến cho tôi khi mới đặt
chân lên mái nhà thế giới Tây Tạng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét