Câu chuyện
Cô gái tên là X., 16 tuổi, ở với
bố, một bà mẹ mù và ba đứa em. Ngôi nhà của họ biệt lập trên một quả đồi vùng
cao huyện M. Tây Bắc. Một lần đi đường, ông bố không kìm được thú tính đã hiếp
X. Cô gái phẫn uất, dùng rìu giết chết ông bố, sau đó quay yề khóa cửa lại đốt
nhà. Ba đứa em cô bị thiêu sống… Bà mẹ mù đi hái lá thuốc, thoát. Cô gái ra đầu
thú, ít lâu sau treo cổ tự tử trong nhà giam.
Đoạn kết
Cô gái phạm tội giết người trước
hôm chết ít hôm có nói với tôi: “Chú ơi, cháu có chết cũng chẳng ai thương.
Cháu xin chú hai việc, chú mua cho cháu một vòng hoa, chú đọc cho cháu một bài
kinh sám hối. Cháu muốn được chết như mọi người. Xuống âm phủ, cháu chẳng quên
ơn, cháu sẽ phù hộ cho chú suốt đời”. Tôi đã nhận lời. Tôi đã đọc bài kinh ấy
bên mộ cô gái. Tôi cũng đã dọc bài tụng “Vô tướng” của Lục tổ Huệ Năng cho
chính bản thân mình nữa, cũng là để cho bạn đọc đã bớt chút thời giờ đọc thiên
truyện buồn tẻ này của tôi.
Bài tụng như sau:
Thuyết thông với tâm thông
Mặt trời chốn hư không
Diệu pháp giúp thấy tính
Ra đời dẹp tà tông
Pháp vốn không lâu chóng
Mê tỉnh có chậm nhanh
Những pháp môn kiến tính
Phàm phu chẳng hiểu rành
Thuyết pháp dẫu muôn cách
Quy một lại, chẳng ngoài
Nhà âm u phiền não
Vầng tuệ nhật sáng soi
Nghĩ tà, phiền não đến
Nghĩ chính, phiền não trừ
Chính tà đều chẳng thiết
Thanh tịnh đến vô cùng
Bồ đề chân giác ngộ
Tham cầu là hư vọng
Tịnh ngay trong vọng tâm
Chính niệm hết ba chướng
Người đời tu đạo Phật
Pháp môn chẳng ngại đường
Thường tự mình xét lỗi
Tức cũng Phật một đường
Sắc thân tuy khác loại
Tự tu chẳng trái nhau
Lìa đạo mà cầu đạo
Suốt đời chẳng thấy đâu
Gió bụi bôn ba mãi
Chỉ chuốc toàn buồn não
Muốn thấy đạo chân thực
Ngay chính: ấy đạo màu
Không có lòng cầu đạo
Mò mẫm chẳng tới nơi
Người tư đạo chân chính
Chẳng trách lỗi người đời
Thấy người khác có lỗi
Tự trách đường lối mình
Người sai ta chẳng chê
Ta sai tự trách mình
Phải bỏ ý chê bai
Phiền não trừ hết thảy
Yêu ghét chẳng để tâm
Khểnh chân nằm thoải mái
Muốn giáo hóa người đời
Phải tự có phương tiện
Chớ để họ sinh ngờ
Tự tính liền ờiêủ hiện
Phép Phật ở thế gian
Vì thế gian giác ngộ
Lìa thế gian cầu đạo
Tìm sừng thỏ khác nào
Chính kiến là xuất thế
Tà kiến ấy thế gian
Chính tà đều quét sạch
Tính Bồ đề huy hoàng
Tụng này phép Đốn giáo
Gọi tên Đại Pháp thuyền
Mê thì chìm kiếp kiếp
Tỉnh chỉ một chớp sao!
Ý nghĩa của bài tụng cầu cho người
viết sách (nhà văn) và người đọc sách. Giác ngộ đến mức nào là ngoài sự kiểm
soát của tôi. (Trích: Tội ác và trừng phạt -
Nguyễn Huy Thiệp)
VÔ TƯỚNG
TỤNG.
DỊCH NGHĨA
* * *
Này Thiện tri thức, tôi (nguyên
chỉ Lục tổ) có một bài tụng Vô Tướng, mỗi người phải tụng lấy, người tại gia,
người xuất gia chỉ y đây mà tu, nếu không tự tu, chỉ ghi nhớ lời của tôi thì
cũng không có ích gì. Nghe tôi tụng đây:
Thuyết
thông và tâm thông,
Như
mặt trời giữa không,
Chỉ
truyền pháp kiến tánh,
Ra đời
phá tà tông.
Pháp
thì không đốn tiệm,
Mê
ngộ có mau chậm,
Chỉ
pháp kiến tánh này,
Người
ngu không thể hiểu.
Nói
tuy có muôn thứ,
Trở
về lý chỉ một,
Phiền
não trong nhà tối,
Thường
sanh mặt trời tuệ.
Tà đến
phiền não sanh,
Chánh
đến phiền não dứt,
Tà
chánh đều không dùng,
Thanh
tịnh mới hoàn toàn.
Bồ-đề
vốn Tự tánh,
Khởi
tâm tức là vọng,
Tâm
tịnh ở trong vọng,
Chỉ
chánh không ba chướng.
Người
đời nếu tu hành,
Tất
cả trọn chẳng ngại,
Thường
tự thấy lỗi mình,
Cùng
đạo tức tương đương.
Sắc
loại tự có đạo,
Đều
chẳng chướng ngại nhau,
Lìa
đạo riêng tìm đạo,
Trọn
đời không thấy đạo.
Lăng
xăng qua một đời,
Kết
cuộc tự sanh não,
Muốn
thấy đạo chân thật,
Hạnh
chánh tức là đạo.
Nếu
không có tâm đạo,
Hạnh
tối không thấy đạo,
Người
chân chánh tu hành,
Không
thấy lỗi thế gian.
Nếu
thấy lỗi người khác,
Lỗi
mình đã đến bên,
Người
quấy ta chẳng quấy,
Ta
quấy tự có lỗi.
Chỉ
dẹp lỗi nơi tâm,
Phá
trừ các phiền não,
Yêu
ghét chẳng bận lòng,
Duỗi
thẳng hai chân ngủ.
Muốn
nghĩ giáo hóa người,
Tự
phải có phương tiện,
Chớ
khiến người nghi ngờ,
Tức
là Tự tánh hiện.
Phật
pháp nơi thế gian,
Không
lìa thế gian giác,
Lìa
thế tìm Bồ-đề,
Giống
như tìm sừng thỏ.
Chánh
kiến gọi xuất thế,
Tà
kiến là thế gian,
Tà
chánh đều dẹp sạch,
Tánh
Bồ-đề hiện rõ.
Tụng
này là đốn giáo,
Cũng
gọi thuyền đại pháp,
Mê
nghe trải nhiều kiếp,
Ngộ
trong khoảng sát-na.
Tổ lại bảo: “Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp đốn giáo này, khắp nguyện cả pháp giới chúng sanh ngay lời nói này đều được thấy tánh thành Phật.”...
* * *
NGUYÊN ÂM
* * *
Thuyết
thông cập tâm thông,
Như
nhật xử hư không,
Duy
truyền kiến tánh pháp,
Xuất
thế phá tà tông.
Pháp
tức vô đốn tiệm,
Mê
ngộ hữu trì tật,
Chỉ
thử kiến tánh môn,
Ngu
nhân bất khả tất.
Thuyết
tức tuy vạn ban,
Hợp
lý hoàn qui nhất,
Phiền
não ám trạch trung,
Thường
tu sanh tuệ nhật.
Tà
lai phiền não chí,
Chánh
lai phiền não trừ,
Tà
chánh câu bất dụng,
Thanh
tịnh chí vô dư.
Bồ-đề
bản Tự tánh,
Khởi
tâm tức thị vọng,
Tịnh
tâm tại vọng trung,
Đãn
chánh vô tam chướng.
Thế
nhân nhược tu đạo,
Nhất
thiết tận bất phòng,
Thường
tự kiến kỷ quá,
Dữ đạo
tức tương đương.
Sắc
loại tự hữu đạo,
Các
bất tương phòng não,
Ly đạo
biệt mích đạo,
Chung
thân bất kiến đạo.
Ba
ba độ nhất sanh,
Đáo
đầu hoàn tự áo,
Dục
đắc kiến chân đạo,
Hạnh
chánh tức thị đạo.
Tự
nhược vô đạo tâm,
Ám hạnh
bất kiến đạo,
Nhược
chân tu đạo nhân,
Bất
kiến thế gian quá.
Nhược
kiến tha nhân phi,
Tự
phi khước thị tả,
Tha
phi ngã bất phi,
Ngã
phi tự hữu quá.
Đãn
tự khước phi tâm,
Đả
trừ phiền não phá,
Tắng
ái bất quan tâm,
Trường
thân lưỡng cước ngọa.
Dục
nghĩ hóa tha nhân,
Tự
tu hữu phương tiện,
Vật
linh bỉ hữu nghi,
Tức
thị Tự tánh hiện.
Phật
pháp tại thế gian,
Bất
ly thế gian giác,
Ly
thế mích Bồ-đề,
Kháp
như cầu thố giác.
Chánh
kiến danh xuất thế,
Tà
kiến thị thế gian,
Tà
chánh tận đả khước,
Bồ-đề
tánh uyển nhiên.
Thử
tụng thị đốn giáo,
Diệc
danh đại pháp thuyền,
Mê
văn kinh lụy kiếp,
Ngộ
tắc sát-na gian.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét