Mùi
Hương Trầm
Nguyễn Tường Bách
"Mùi hương trầm" là ký sự du hành tại Ấn Độ, Trung
Quốc và Tây Tạng của tác giả TS. Nguyễn Tường Bách. Tác giả vừa là nhà khoa học
(tiến sĩ Vật lý tại Đức) vừa là một doanh nhân, vừa là một Phật tử mộ đạo. Vì vậy
được hành qua các địa danh lịch sử của Phật giáo làm niềm mơ ước của tác giả.
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời
nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của
ông về thế giới hiện đại.
Có thể nói "Mùi hương trầm" là một quyển sách hay,
nhẹ nhàng giúp độc giả cảm thấy thư thái và như cùng được tác giả lãng du qua
những miền đất thánh của đạo Phật.
(Trích phần viết về Trung Quốc)
PHẦN THỨ BA
TRUNG QUỐC, XỨ SỞ CỦA BỒ-TÁT
Chương
12: Ánh Sáng Đến Từ Phương Tây
Dưới cánh máy bay là một vùng sa
mạc trắng xóa. Máy bay tôi đi đang bay từ phía tây đến Trung Quốc, vùng đó
chính là sa mạc Gobi mênh mông. Trong vùng đất tưởng như không người đó có một
con đường nhỏ được thiết lập từ đầu công nguyên, đó là một trục lộ mệnh danh là
"Con đường tơ lụa".
Đó là một con đường của thương
nhân nối liền đông tây hai phía. Nhưng tại sao là "tơ lụa"? Người
Trung Quốc có hân hạnh là kẻ đầu tiên tìm ra phép trồng dâu nuôi tằm lấy lụa từ
thế kỷ thứ ba trước công nguyên và xuất khẩu món hàng mượt mà này qua phía tây
cho các bà mệnh phụ vùng Địa Trung Hải.
Con đường tơ lụa được xây dựng
khoảng trong thế kỷ thứ nhất, bắt đầu tại Trường An. Tại Trung Quốc thì nó được
nối thêm đến Bắc Kinh và Thành Đô còn về phía tây thì nó chạy ngang Lan Châu,
Vũ Uy, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, Ngọc Môn quan. Sau Ngọc Môn thì nó chia làm hai đường
nam bắc mà người Trung Quốc gọi là bắc Tây Vực và nam Tây Vực. Đường phía bắc
chạy ngang Turfan, Korla, Kutscha. Đường phía nam chạy qua Charchan, Chotan.
Hai đường nam bắc rẻ ra nhằm tránh sa mạc Takla Makan, lại gặp nhau tại
Kaschgar (Sơ Lặc), ngày nay nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Đặc biệt con đường
phía nam có một nhánh đi về phía nam hướng Ấn Độ. Đó là một nhánh đường thú vị
sẽ nói đến sau. Sau đó đường lại chạy qua Tadschikistan, Kasachstan, Usbekistan
để đến Merv (ngày nay thuộc nước Turkmenian) và chạy về hướng Iran, Irak,
Syrie, cho đến Địa Trung hải.
Thương lái đường dài ngày xưa đi
từ Trung Quốc, mang theo tơ lụa đi bán và mang về lại hột giống, hương liệu, đá
quí và cả ngựa từ Á-rập. Họ đi một chuyến như thế mất đến sáu tới tám năm mới về
đến nhà. Trên đường về nhà họ còn mang một vài thứ kỳ lạ, trong đó có kinh
sách, nói về Phật giáo, Hồi giáo…
Khoảng suốt mười thế kỷ sau công
nguyên, con đường tơ lụa này bị chiến tranh của các nước Bắc Á đe dọa nên mất
vai trò quan trọng nhưng đến thời Mông Cổ trong thế kỷ 12, 13 nó lại được phục
hồi nên Marco Polo mới đi được từ Venedig đến Trung Quốc trong thế kỷ 13.
Trên con đường tơ lụa đầy hiểm
nguy đó không phải chỉ có thương nhân và kẻ thám hiểm mà còn có một số người
khác mà Trung Quốc gọi là "Phạm Tăng". Ngày nay lịch sử truyền bá Phật
giáo từ Ấn Độ qua Trung Quốc đã nằm trong bóng tối của lịch sử, nhưng điều xem
ra chắc chắn nhất là có hai "Phạm tăng" tên là Ca-diếp Ma-đằng và
Trúc Pháp Lan theo con đường tơ lụa này đến Trung Quốc năm 67 sau công nguyên.
Hai vị này mới đi nửa đường đã được sứ giả tiếp đón trọng hậu.
Sứ giả đó là một đoàn 18 người của
nhà vua Hán Minh Đế, vị này nằm mộng mà thấy "người vàng" đầy ánh
sáng từ phương tây tới. Hán Minh Đế cho đoán mộng thì mới hay có thánh nhân xuất
hiện ở phía tây. Vua sai sứ giả qua Tây Vực để cung thỉnh tượng Phật, không ngờ
gặp cả tượng lẫn kinh do hai vị tăng sĩ đó tải bằng ngựa trắng. Vua cho lập chùa
để thờ, tên chùa là Bạch Mã tự để nhớ đến các con ngựa trắng và bộ kinh đầu
tiên được dịch ra là "Tứ thập nhị kinh". Bạch Mã tự là ngôi chùa đầu
tiên của Trung Quốc, kiến lập năm 68, ngày nay vẫn còn, cách Lạc Dương 9km về
hướng đông.
Sau Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp
Lan, nhiều phạm tăng cũng bằng con đường tơ lụa tiếp tục đến Trung Quốc như
An-thế-cao đến Lạc Dương năm 147, Cưu-ma-la-thập đến Trường An năm 401. Cũng
trong thời đại đó có một kẻ đi ngược từ đông sang tây để hành hương và tìm kiếm
kinh điển. Đó là Pháp Hiển, rời Trường An năm 399, đến Ấn Độ tham bái tất cả
các thánh tích và 15 năm sau mới chịu trở về cố hương. Về nhà Pháp Hiển dịch
kinh và viết tập ký sự "Phật quốc ký".
Pháp Hiển còn làm một việc nữa rất
khác thường là ông lấy đường biển trở về, đó là đường rời Calcutta, ghé thăm
Tích Lan, đi vòng xuống phía nam đảo Sumatra, ngược lên biển đông của Việt Nam,
lách giữa lục địa Trung Quốc và Đài Loan mà trở về Thanh Châu miền đông bắc.
Hơn hai trăm năm sau, như chúng ta đã biết, dưới thời nhà Đường thịnh trị, lại
có một thanh niên khôi ngô 26 tuổi tên là Huyền Trang nhắm con đường tơ lụa ra
đi về phía tây. Mười sáu năm sau, ông lại trở về bằng con đường bộ đó, đem theo
hơn 500 bộ kinh, về đến Đôn Hoàng cuối năm 644.
Tại đó ông viết thư thỉnh cầu Đường
Thái Tông [2] tha tội ngày xưa đã vượt biên ra đi không đợi phép vua. Vua tha lỗi
và Huyền Trang dùng hết 20 năm cuối của đời mình để dịch kinh. Cùng với
Cưu-ma-la-thập, Huyền Trang đã đi vào lịch sử Phật giáo Trung Quốc như những
nhà dịch kinh vĩ đại nhất với một trình độ văn chương tác tuyệt và nội dung
chính xác. Năm 664 đang dịch kinh Bát-nhã, thấy đã đến giờ từ biệt, ông đến
chùa lễ bái lần cuối rồi ngồi kiết già tịch diệt. Trước đó vài giờ ông nhận
linh ảnh sẽ sinh vào trời Đâu-suất nghe Di-lặc giảng pháp.
[2] Năm 598-649, vị vua
đời Đường rất có công với Phật giáo Trung Quốc. Ông đích thân viết bài "Đại
Đường tam tạng thánh giáo tự", là người giúp cho sự nghiệp dịch kinh của
Huyền Trang được thành tựu
Con đường tơ lụa! Ai đã nghĩ ra ngươi,
đó là thương nhân đi buôn bán kiếm lời hay có ai chủ tâm xây dựng ra nó đầu
công nguyên này để mở đường cho Ca-diếp Ma-đằng, Trúc Pháp Lan, An-thế-cao,
Cưu-ma-la-thập, Pháp Hiển, Bồ-đề Đạt-ma, Huyền Trang và vô số những tăng sĩ
khác, đưa Phật giáo vào Trung Quốc?
VẠN
LÝ TRƯỜNG THÀNH
Việc đầu tiên phải làm khi đến Bắc
Kinh là tôi đi xem Trường thành. Ngày nay du khách, thương nhân hay chính trị
gia ai đến thủ đô Trung Quốc cũng đều tham quan Vạn lý trường thành vì công
trình đồ sộ đó là biểu tượng của xứ sở vĩ đại này. May thay nó không nằm quá xa
Bắc Kinh, chỉ cách khoảng 80km nên du khách ai cũng đến được.
Theo nhiều tài liệu, công trình
này đã được bắt đầu xây dựng trong khoảng giữa thế kỷ thứ 8 và thứ 5 trước công
nguyên. Đến thời Chiến Quốc [475-221] nó được các nhà vua thời đó tiếp tục tu bổ
để phòng vệ chống "rợ Hung Nô" và các "bộ lạc Tây Vực".
Trung Quốc được Tần Thủy Hoàng thống nhất năm 221 trước công nguyên, ông là người
cho hoàn thành Trường thành thành một dãy liền lạc dài trên 5000km. Dưới thời
nhà Hán (khoảng 200 năm trước và sau công nguyên), Trường thành được phát triển
đến 10.000km, dài hơn "vạn lý". Trong đời nhà Minh (1368-1644], Trường
thành được tu bổ thêm và giữ hình thể đó đến ngày hôm nay. Qua thời gian, Trường
thành đã hư hại nhiều nhưng công trình to lớn này cho thấy ý chí ghê gớm của
các vương triều cũng như công lao đầy mồ hôi và xương máu của nhân dân Trung Quốc.
Ngày nay Trường thành dài khoảng
6700km, chạy qua Hồ Bắc, Thiên Tân, Bắc Kinh, Sơn Tây, Nội Mông, Ninh Hạ, Thiểm
Tây và Cam Túc. Gần Bắc Kinh có một chỗ dễ lên Trường thành, đó là Cư Dung
quan. Đây là chỗ Tần Thủy Hoàng kiến lập nhiều làng dân cư sau khi đã hoàn
thành Trường thành nhưng ngày nay các thị trấn đó không còn tồn tại. Tôi đến
đây, leo Trường thành và cảm nhận cái vĩ đại của một công trình lớn trong một xứ
sở lớn. Những bậc cấp ở đây thường cao hơn nửa mét, chỉ việc leo lên một đoạn của
Trường thành đã đủ mệt, không cần nói đến chuyện xây dựng chúng. Làm sao người
xưa có thể đưa những tảng đá to lớn lên những độ cao như thế và không phải chỉ
dài vài chục cây số như tại Vương Xá của Tần-bà-sa-la [3] mà cả vạn dặm trên những
sườn núi cao?
[3] Xem chương
"Vui đẹp thay thành Vương Xá" trong phần hai.
Về sau khi đi khắp Trung Quốc,
tôi hay nhớ lại cái vĩ đại của Trường thành để thấy một điều: đây là một nước lớn
và dân nước đó không chịu nổi những gì có kích thước nhỏ bé. Đó là một nước có
rặng Hy-mã với những đỉnh núi cao nhất thế giới, quanh năm tuyết phủ. Ngay tại
Tứ Xuyên mà núi của họ đã cao hơn 7000m. Núi non của Trung Quốc không phải chỉ
hùng vĩ, nó là suối nguồn của thơ văn, của nghệ thuật và của đạo giáo. Những bức
tranh thủy mặc chúng ta hay thấy không hề là sự hư cấu của các họa sĩ, chúng
đúng thực như thế, với mây, với núi và với những căn nhà tí hon trên đỉnh.
Sông của họ là những con sông với
nguồn chảy mãnh liệt, nước sông là "thiên thượng thủy", phát khởi từ
cao nguyên Tây Tạng, băng núi non chảy về đông hải. Dương Tử Giang (Trường
Giang) là sông dài nhất châu Á với 6600km, là nguồn sống của mấy trăm triệu dân
từ tây sang đông. Hồ của Trung Quốc kể chung thì lên đến 2000 hồ, từ các hồ nước
mặn ít người biết đến ở các vùng cao nguyên Tây Tạng, Thanh Hải cho đến các hồ
nước ngọt miền đồng bằng tiếng tăm như Động Đình Hồ, Đại Hồ. Đất của Trung Quốc
quá mênh mông nên tuy bờ biển của họ dài đến 20.000km nhưng thực tế toàn bộ đời
sống diễn ra trong vùng đại lục với sông và hồ. Đối với Trung Quốc thì
"tái xuất giang hồ" đã là hạ sơn về lại với thế giới rồi, họ không cần
nói tới biển.
Nền văn hóa Trung Quốc là một cái
nôi của văn minh loài người, đó là một quá trình năm sáu ngàn năm, người ngày
nay không sao dò tới đáy. Từ bốn năm thế kỷ trước công nguyên ở đó đã ra đời bộ
Kinh Dịch với tham vọng tìm hiểu và vẽ nên đường đi của tạo hóa. Cũng từ trước
công nguyên, có lẽ cùng thời với đức Thích-ca tại Ấn Độ và Heraclitus tại Hy Lạp,
hai thánh nhân vĩ đại ra đời, đó là Khổng Tử và Lão Tử, đại diện hai cực
âm-dương tiêu biểu của tư tưởng Trung Quốc.
Người thì luận về hoạt động và trật
tự xã hội, kẻ thì ám chỉ đường đi mầu nhiệm của đạo, tập hợp triết học Trung Quốc
trong một tổng thể lý tưởng "nội thánh ngoại vương chi đạo". Đó là một
đất nước với những con người có những giấc mơ kỳ lạ, dưới tay họ phải phát sinh
những công trình vĩnh viễn, những dự án xây dựng ngất trời, những cuộc phá hủy
tận gốc mà Tần Thủy Hoàng với Vạn lý trường thành và việc đốt sách, chôn sống học
trò chỉ là một thí dụ xưa cũ. "Ngu Công dời núi" không hề là một chuyện
đùa với họ, xưa cũng như nay, họ sẵn sàng làm nhiều điều đội đá vá trời. Và
trong thời đại ngày nay công trình tiêu biểu cho đầu óc đó là đập thủy điện tại
Trường Giang tam hiệp.
Trong lịch sử Trung Quốc có một
nhà du khảo nổi tiếng, đó là Từ Hà Khách[4] người đời nhà Minh. Suốt cuộc đời,
ông đi được "nửa nước Trung Quốc". Từ đời nhà Minh đến nay Trung Quốc
đã rộng hơn nhiều, Từ Hà Khách có sống lại cũng chỉ được được một phần. Ngày
nay nước Trung Quốc bao gồm một lục địa khổng lồ vươn dài từ đông hải đến phía
tây tận các nước cộng hòa của Liên Xô cũ, từ miền bình nguyên Hoàng hà đến cao
nguyên Tây Tạng. Trong đất nước này ngoài Hán tộc còn biết bao dân tộc khác như
Mãn Châu, Tây Tạng, Mông cổ. Bên cạnh các nền triết học của Khổng Lão, Trung Quốc
đã thu nhiếp Phật Giáo, biến tôn giáo này thành một hệ tư tưởng hầu như đặc thù
của họ.
[4] 1586-1641
Một dân tộc như thế thì còn lâu mới
chấp nhận một tư tưởng ngoại bang làm chủ đạo cho nền học thuật của mình. Làm
sao một triết học phương tây, dù mang màu sắc gì, có thể làm họ lung lay. Làm
sao một nước láng giềng phương bắc, dù nhất thời giàu mạnh hơn họ, có thể làm họ
chịu thua kém. Đầu thế kỷ hai mươi là thời kỳ đánh dấu một giai đoạn đáng đau
buồn của họ. Họ mở mắt và xấu hổ nhìn thấy một đất nước bị xâu xé, một ý thức hệ
xa lạ lên ngôi, một nền kinh tế nghèo nàn trì trệ, một nền khoa học kỹ thuật lạc
hậu.
Không còn nghi ngờ gì, hảo hán của
Trung Quốc sẽ đưa nước họ cất cánh trong thế kỷ 21. Nhiều hiện tượng đặc biệt
đang báo hiệu sự chuyển biến đó, trong đó có cả sự phục hưng của Phật giáo tại
Trung Quốc.
LINH
QUANG TỰ VÀ CHIẾC RĂNG CỦA PHẬT
Bắc Kinh là kinh đô của ba triều
đại Nguyên, Minh, Thanh từ thế kỷ thứ 13. Đó là ba triều đại tôn sùng đạo Phật
nên tại Bắc Kinh và các vùng phụ cận ta thấy còn vô số chùa chiền. Thế nhưng
trong các chùa đó có một nơi đặc biệt, đó là Linh Quang tự, nơi thờ một chiếc
răng của Phật.
Được xếp trong số Bát đại tự nằm
phía tây Bắc Kinh, Linh Quang tự chỉ là một ngôi chùa nhỏ với một ngôi tháp gạch
cao 51m. Trên tầng thứ hai của tháp là chỗ thờ một chiếc răng của Phật. Tôi được
lên chiêm bái bảo vật vô song này sau khi đi nhiễu nhiều vòng quanh tháp. Răng
được chứa trong một bảo tháp nhỏ bằng vàng, sau "cửa" của tháp là một
đóa sen cũng bằng vàng và trên đó là răng Phật. Dưới ánh sáng, chiếc răng nằm
trên hoa sen hiện ra huyền ảo, tôi thấy răng to hơn bình thường, dễ chừng phải
bằng ngón tay cái.
Linh Quang tự được kiến lập năm
1071. Trong thời nội loạn năm 1900 chùa bị quân đội nước ngoài phá hủy nặng nề.
Về sau, khi trùng tu, các nhà khảo cổ Trung Quốc tìm thấy một chiếc hộp gỗ, bên
ngoài ghi hộp chứa răng của Phật. Tháp mà ta thấy ngày nay mới được xây cách
đây có 40 năm để thờ chiếc răng đó. Ngày nay theo các tài liệu thì có nơi cho
là răng đến Trung Quốc trong thế kỷ thứ 5, nơi thì nói trong đời Tống
(960-1279]. Thế nhưng không ai biết được làm sao chiếc răng Phật từ Ấn Độ mà
qua đến Trung Quốc này được? Có lẽ chỉ có một người biết rõ, đó là một tăng sĩ
có tên Đạo Tuyên.
"Đức Thế Tôn dùng lực đại bi
làm nát thân kim cương thành vô số các hạt xá lợi nhỏ, chỉ có bốn răng nanh là
còn nguyên vẹn". Đó là một câu ta đọc được trong "Đại bát Niết-bàn
kinh" [5], phẩm Cúng dường xá lợi. Trong phẩm đó ta còn thấy thêm:
"Thiên Đế lấy một răng nanh xá lợi của Phật ở bên phải hàm trên, đem về
thiên cung xây tháp cúng dường…Lúc đó có hai con Quỷ La-sát ẩn thân sau lưng Đế
Thích, nên không ai nhìn thấy. Hai Quỷ lấy trộm được một cặp răng nanh xá lợi".
Khá khen cho Quỷ La-sát, chúng cũng biết quí trọng xá-lợi nên mới đi ăn trộm.
Thế nhưng chúng bị một vị tướng nhà trời rượt theo lấy lại, đó là Vi đà thiên.
Rồi hơn ngàn năm sau, Vi đà thiên đợi một vị tăng tên là Đạo Tuyên tu học xuất
sắc, giới luật trọn vẹn, sống trong đời Đường Trung Quốc để trao cho.
[5] - Việt dịch của
Thích Nhất Chân
Đạo Tuyên [596-667] là nhân vật lịch
sử, xuất gia từ năm 16 tuổi. Lúc Huyền Trang về nước ông được cử vào ban phiên
dịch kinh sách. Song song, ông là người nghiêm túc trì giới, truyền bá giới luật
nên được xem là khai tổ của Luật tông Trung Quốc, cũng được gọi là Nam Sơn Đại
sư. Giới hạnh của Đạo Tuyên cao tới mức mà ông luôn luôn có thần thánh hầu cận.
Theo Tống cao tăng truyện, ngày nọ ở chùa Tây Minh, thình lình ông trợt chân té
nhưng có người đỡ. Người đỡ ông là một thiếu niên không phải tầm thường, tự
xưng là thần hộ pháp Vi đà tướng quân, trao cho ông chiếc răng Phật. Đó là chuyện
"Vi đà thiên hoàn Phật nha" (Thiên tướng Vi đà trả lại răng Phật)[6].
[6] - Một chiếc răng Phật
khác hiện nay được thờ tại chùa Vô Úy sơn tại Tích Lan. Theo truyền thuyết thì
cuối thế kỷ thứ tư sau công nguyên, thời nhà vua Tích Lan Sri-Meghevanna, có một
vương tử của nước Kalinga, Ấn Độ tên là Danta Kumana đi lánh nạn tới Tích lan,
mang theo một chiếc răng bên trái của Phật
Vi đà thiên tướng là vị hộ pháp
ta hay gặp trong các chùa ở Trung Quốc. Thông thường chùa có một tiền điện thờ
Di-lặc, vị Phật tương lai. Xung quanh Di-lặc là bốn vị Thiên vương gồm Trì Quốc
Thiên vương, sắc trắng cầm đàn tì bà; Tăng Trưởng thiên vương, sắc xanh cầm bảo
kiếm; Quảng Mục thiên vương, sắc đỏ cầm rắn và Đa văn thiên vương sắc lục, tay
trái cầm lọng, tay mặt cầm ngân thử (chuột bạc). Sau lưng Di-lặc là tượng Vi đà
tướng quân, mặt rất trẻ trông như một thiếu niên nhưng hết sức oai phong. Tượng
Vi đà nhìn vào chính điện, tức là Đại Hùng bảo điện, nơi thờ các vị Phật. Hoạt
động của nhân thiên trong sân, giữa tiền điện và chính điện hẳn không lọt qua cặp
mắt của
Vi đà. Nhất là tiền cúng dường của
khách thập phương chắc không có Quỷ La-sát nào trộm cắp được, tôi tự nhủ khi thấy
các chùa Trung Quốc với vô số khách viếng thăm và cúng dường. Về sau khi đi Tây
Tạng, tôi thấy lại các vị hộ pháp trong các đền thờ Phật, dù nơi đây các vị được
trình bày khác hẳn. Thế nhưng nơi đây vắng bóng vị Vi đà tướng quân và tiền
cúng dường của thập phương thì nằm vương vãi khắp nơi, xem ra không ai dám trộm
cắp. Có lẽ trên cao nguyên Tây Tạng thiêng liêng này, trong một xứ sùng tín tuyệt
đối, Vi-đà không còn ngồi sau lưng Di-lặc để canh chừng chính điện nữa mà dưới
chân Ngài để nghe giảng pháp.
UNG
HÒA CUNG VÀ TIỂU TRUYỆN VỀ TRUNG QUỐC-TÂY TẠNG
Tại Bắc Kinh, đền thờ rực rỡ nhất
ngày nay phải là Ung Hòa cung. Nơi đây là chốn khách du lịch lúc nào cũng đông
như hội. Đây là nơi khách hành hương chủ ý đến lễ bái một pho tượng Phật Di-lặc
tuyệt đẹp. Điện thờ này chứa nhiều sự tích và ý nghĩa thâm trầm về mối quan hệ
Trung Quốc-Tây Tạng.
Đây là một cung điện hay một ngôi
chùa? Cả hai! Thời nhà Thanh (1662-1911] có một vị hoàng tử tên là Dận Chân.
Năm 1694 Dận Chân cho xây một cung điện. Về sau, năm 1723 Dận Chân lên ngôi
thành nhà vua Thế Tôn Ung Chính, về trị vì tại Tử Cấm thành. Từ đó cung điện cũ
của hoàng tử Dận Chân mang tên là Ung Hòa Cung và không ai được vào đó ở. Sau
đó nhà vua Thế Tôn tặng cung Ung Hòa cho Phật giáo Tây Tạng, thời đó được gọi
là Lạt-ma giáo. Lý do của sự hiến tặng đầy hào phóng đó là lòng nhiệt tâm tôn
giáo trộn lẫn với tính toán chính trị.
Tôi đến Ung Hòa cung và thấy một
rừng người vói khói hương nghi ngút. Đây là một tổng thể gồm năm điện, nằm
trong một khu vườn rộng lớn. Từ cổng vào, ta phải đi một đoạn xa mới tới được
điện đầu tiên với Di-lặc và các vị thiên vương. Điện thứ hai mang tên Ung Hòa
điện, thờ ba vị Phật tam thế, quá khứ hiện tại vị lai. Điện thứ ba mang tên
Vĩnh Hưu điện, thờ A Di Đà và Dược Sư Phật. Điện thứ tư là Pháp luân điện thờ đại
sư Tông-khách-ba [7], nhà cải cách trong thế kỷ 14 của Phật giáo Tây Tạng, thầy
dạy của các vị Đạt-lai lạt-ma và Ban thiền lạt-ma.
[7] Tsongkhapa,
1357-1419
Cuối cùng là Vạn phúc các, thờ
Di-lặc trong dạng một bức tượng cao 18m, đường kính 3m, làm từ một thân cây trầm
hương duy nhất. Tượng này được Đạt-lai lạt-ma thứ 7 tặng cho vua Càn Long[8].
Trong năm điện đó ta tìm thấy vô số tranh tượng diễn tả kinh điển, sự tích, các
vị thánh nhân, hộ pháp, núi Tu-di, các công trình nghiên cứu, trong đó có cả
các ngành khoa học và toán học. Trong Pháp luân điện có tượng của 500 vị
la-hán, hai bên vách chứa toàn kinh sách cổ.
[8] Càn Long là nhà vua
nối ngôi Ung Chính và được nhiều truyền thuyết cho là hậu thân của một thiền sư
Việt Nam.
Thế nhưng tất cả đều làm tôi sớm
quên khi thấy tượng Di-lặc. Tôi ngẩn người vì cái đồ sộ của tượng, tới dưới
chân ngẩng đầu nhìn cặp mắt xanh biếc của Ngài. Sau bao nhiêu lần thấy tượng
Di-lặc mập tròn thường có tại Trung Quốc, nơi đây tôi lại được thấy tượng Ngài
theo cách diễn tả của Tây Tạng với khuôn mặt vô cùng trí tuệ. Di-lặc là vị
"hóa thân thiên ngàn ức", có dạng là một hòa thượng mập tròn đùa dgiỡn
với trẻ con cũng có, làm kẻ héo hon đi ăn xin cũng có, làm trời, làm người, làm
kẻ hướng đạo, làm người hầu cận. Ngài mang mọi dạng hình, đi khắp bốn phương trời
để giáo hóa Tính Không.
"Thiện nam tử, hãy thức dậy!
Pháp tính là như vậy. Bồ-tát biết tất cả các pháp do nhân duyên kết tụ lại mà
hiện ra, tự tính (của chúng) là như vậy, như huyễn, như mộng, như ảnh, như
bóng, không có gì được thành tựu hết!" [9]. Ôi, chân lý đó của Phật giáo đại
thừa, dưới chân tượng, tôi thấy hầu như Di-lặc đang mỉm cười nhắc lại.
[9] Lời của Di-lặc nói
với Thiện Tài. Trích Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Nhập pháp giới, Việt dịch của Thích
Nhất Chân
Nhưng đó là chân lý tuyệt đối,
còn tại trần gian tương đối này, bức tượng này một sự thành tựu tuyệt vời, bàn
tay nghệ nhân nào đã tạc ra một khuôn mặt vừa trí tuệ vừa từ bi như thế. Bức tượng
này quả thật là một món quà vương tước. Nó đánh dấu một giai đoạn hữu hảo của
Trung Quốc và Tây Tạng mà ngày nay mối quan hệ giữa hai bên đã trở thành phức tạp.
Trong lịch sử Tây Tạng, đây là một
vương quốc trong thế kỷ thứ 7 sau công nguyên với nhà vua Tùng- tán Cương-bố
(Songten Gampo), trị vì khoảng từ 617 đến 649. Đó là một thời phát triển rực rỡ
của Phật Giáo, kéo dài suốt từ thế kỷ thứ 7 đến thứ 9[10]. Sau một thời gian bị
bức hại, khoảng thế kỷ thứ 11, Phật giáo lại được phục hưng nhưng lại rơi vào một
thái cực khác, nó trở thành một chế độ tăng lữ, trong đó các tăng sĩ đảm nhiệm
luôn việc điều hành đất nước.
[10] Xem thêm hai
chương đầu tiên của phần thứ tư
Qua thế kỷ thứ 13 tại Trung Quốc,
nhà Nguyên lên ngôi hoàng đế. Năm 1279 Hốt Tất Liệt thống nhất sơn hà Trung Quốc,
đem quân đánh luôn Tây Tạng bắt được giáo chủ Phát-tư-ba (Phagpa) của phái
Tát-ca (Sakya). Thế nhưng Phát-tư-ba không hề ở tù một ngày mà lại được Hốt Tất
Liệt trọng đãi như thần tiên. Người Mông Cổ Hốt Tất Liệt làm hành động đó vừa
do lòng sùng tín thuần thành vừa lại rất khôn khéo chính trị. Về sau Hốt Tất Liệt
đưa Phát-tư-ba về lại Tây Tạng và "ủy thác" việc cai trị xứ sở này. Kể
từ đó Tây Tạng thần phục Trung Quốc, ngược lại nhà Nguyên vì quá tôn thờ Lạt-ma
giáo mà mất đế chế. Cuối đời nhà Nguyên, nhân dân Trung Quốc đói khổ còn một số
lạt-ma lại quá lộng hành, có vị cho đào cả mộ các vua nhà Tống. Năm 1368 có một
vị tăng người Hán tên là Chu Nguyên Chương, dấy quân diệt nhà Nguyên Mông Cổ,
lên ngôi vua. Đó là Thái tổ nhà Minh. Nhà Minh trở lại với Phật giáo Trung Quốc
nhưng vẫn khôn ngoan tiếp tục bảo hộ lạt-ma giáo, ban vương tước cho các vị
tăng sĩ Tây Tạng. Qua đó ta thấy việc bảo hộ lạt-ma giáo vì lý do chính trị là
một chính sách nhất quán của các vương triều Trung Quốc.
Ba trăm năm sau, trong một bộ tộc
Mãn Châu, lại có một nhân tài xuất hiện, diệt nhà Minh, thống nhất sơn hà, lập
nhà Thanh năm 1662, trị vì thiên hạ cũng được khoảng 300 năm. Nhà Thanh lại là
dân ngoại tộc, có máu giang hồ nên lại hết lòng ủng hộ lạt-ma giáo. Cũng như
nhà Nguyên, nhà Thanh ủng hộ các vị lạt-ma vì lòng sùng tín, nhưng với chính
sách rất rõ, họ dùng các vị lạt-ma để thống trị Tây Tạng và Mông cổ. Nhà vua thứ
ba là Thế tổ Thuận Trị sai sứ thần đón Đạt-lai lạt-ma thứ 5 về triều, tặng danh
hiệu Quốc sư.
Sau Thế tổ, nhà vua Khang Hy cho
quân tiến vào Tây Tạng năm 1720. Và như ta đã biết, sau Khang Hy là Ung Chính tặng
Ung Hòa Cung năm 1723. Như thế là kể từ Hốt Tất Liệt cuối thế kỷ thứ 13, Tây Tạng
đã thần phục Trung Quốc. Cuối đời nhà Thanh năm 1911, lúc Tôn Văn lật đổ chính
quyền để lập thể chế cộng hòa, Tây Tạng tuyên bố tự trị. Thế nhưng, tuyên ngôn
độc lập đó đã quá trễ. Một năm sau khi Trung Quốc giành lại độc lập năm 1949, họ
đem quân chiếm đóng Tây Tạng.
Phải công bằng thấy rằng, kể từ gần
700 trăm qua, Tây Tạng luôn luôn là một xứ chư hầu của Trung Quốc. Dù nhiều đau
thương đã xảy ra cho dân tộc Tây Tạng, nhưng ta khó đòi một nước Tây Tạng độc lập
với đầy đủ chủ quyền. Nhìn lại lịch sử, ta thấy chính các vị lạt-ma, quá dính
líu với quyền lợi thế gian, đã đưa dân tộc mình vào chỗ bị lệ thuộc. Ngày nay,
vị Đạt-Lai lạt-ma thứ 14 cũng có lúc thừa nhận rằng dân tộc của ông đang trả nợ
với giá rất đắt cho chế độ tăng lữ ngày xưa, cho những vị lãnh đạo tinh thần
nhưng mang nghiệp tham ái quyền lực và danh vọng.
Tại Ung Hòa Cung, khi ngẫm nghĩ
những điều này, tôi chưa biết sẽ có một ngày mình sẽ đi Tây Tạng.
Chương
13: Bình Thành Và Động Vân Cương
Trong thế kỷ thứ hai sau công
nguyên có ba trung tâm phát triển Phật giáo, tại Trung Quốc và Việt Nam (Giao
Chỉ). Ngoài Lạc Dương được nhiều người biết, ta phải kể đến Bình Thành tại tỉnh
Sơn Tây Trung Quốc và Luy Lâu, ngày nay thuộc tỉnh Bắc Ninh Việt Nam.
Theo tài liệu lịch sử, Bình Thành
được xây dựng rất sớm, khoảng trong thế kỷ thứ 5 trước công nguyên. Thị trấn
này ngày nay là Đại Đồng, cách Bắc Kinh khoảng 350km về hướng tây, được Vạn lý
trường thành bao bọc hai mặt, là một vị trí chiến lược. Trong thời Hán Sở tranh
hùng trước công nguyên, Hạng Vũ diệt nhà Tần, đốt phá Hàm Dương (phía bắc Trường
An) và rút quân về đóng ở Bình Thành. Về sau Hạng Vũ bị Lưu Bang diệt. Khoảng
sáu trăm năm sau, thời mà lịch sử Trung Quốc gọi là Nam Bắc Triều [420-588],
Trung Quốc bị chia làm hai miền Nam-Bắc, mỗi miền lại chia ra nhiều nước nhỏ.
Trong các nước Bắc Triều có một nước gọi tên là Bắc Ngụy của nhà vua Đạo Vũ đế.
Đạo Vũ đế lấy Bình Thành làm kinh đô năm 398, thống nhất phương Bắc năm 439, trở
thành một nước có uy thế.
Đạo Vũ đế rất sùng tín đạo Phật.
Trong thời Bắc Ngụy có hàng ngàn tăng sĩ Ấn Độ, Tây Vực đến đây, tu sĩ lên đến
hàng chục vạn người, chùa chiền hơn 30.000 ngôi. Nhưng hình như sự vật lúc nào
lên đến đỉnh cao nhất lại bị hoại diệt nên cũng trong thời Bắc Ngụy, đạo Phật bị
pháp nạn. Đây là pháp nạn lần thứ nhất trong bốn pháp nạn [11] của Phật giáo tại
Trung Quốc.
[11] Bốn pháp nạn là
trong các thời vua Vũ Đế của Bắc Ngụy, một vị Võ Đế khác của Bắc Châu [574], Võ
Tôn đời Đường (840-847] và Thế tôn thời Hậu Châu (giữa thế kỷ thứ 10]. Bốn pháp
nạn này được gọi chung là "Tam Vũ Nhất Tôn pháp nạn"
Pháp nạn này do nhà vua Thái Vũõ
Đế gây ra. Thái Vũ Đế là con của Đạo Vũ Đế, mới đầu cũng tin tưởng đạo Phật. Thế
nhưng ngày nọ, ông thân hành đi dẹp loạn, thấy trong một ngôi chùa có vũ khí.
Chùa bị dèm pha, Thái Vũ Đế hạ chiếu chỉ dẹp bỏ đạo Phật, tàn sát vô số tăng
sĩ. Đó là năm 446. Sau đó không ai được chứa chấp tăng ni, chùa chiền tranh tượng
bị phá hủy. Thế nhưng Thái Vũ Đế lại có một người con tôn trọng đạo lý, đó là
thái tử Thác Bạc Hoảng. Vị thái tử mật báo tăng ni trốn lánh, đem kinh sách
tranh tượng đi cất giấu trong núi non gần đó và cũng vì thế mà bị mưu hại.
Sáu năm sau, Thái Vũõ Đế mất, ông
chỉ sống được 45 tuổi. Em của thái tử Hoảng là Thác Bạc Duệ lên ngôi là Văn
Thành Đế, lúc đó tăng ni trong núi mới dám trở lại hoằng pháp. Nhà vua Văn
Thành Đế là người trọng đạo lý, tạ lỗi cho cha bằng cách cho xây dựng "Vân
Cương thạch quật" ở sườn nam núi Ngô Châu, cách Bình Thành 16km. Nhà sư
Đàm Diệu là người khởi công xây dựng, để danh lại đến ngày hôm nay. Vân Cương
là một trong ba thạch động nổi tiếng nhất của Trung Quốc, hai nơi kia là Long
Môn và Đôn Hoàng.
Qua năm 494, triều Ngụy dời đô về
Lạc Dương, vì thế mà Bình Thành và Vân Cương chìm vào quên lãng. Hơn bốn trăm
năm sau, năm 907, đó là thời nhà Liêu bắt đầu trị vì một vùng miền Bắc bao la của
Trung Quốc, vương triều có đến năm kinh đô mà một là Bình Thành, lúc đó đã mang
tên Đại Đồng. Trong thời đó tại Đại Đồng, Hoa Nghiêm tự được xây dựng, Vân
Cương thạch động nhờ thế mà cũng được tu bổ thêm.
Tôi đến Đại Đồng từ Bắc Kinh bằng
xe lửa chạy đêm. Đại Đồng nằm trên độ cao khoảng 1200m, tàu chạy trên những cao
nguyên ngút ngàn vùng bắc Trung Quốc, qua những ruộng lúa mì, ngô, hướng dương.
Đi xe lửa mới thấy cái mênh mông của nước này, trên bản đồ hai nơi xa nhau
không bằng đầu ngón tay út mà tàu chạy cả đêm không thấy tới. Tàu đến ga Đại Đồng
lúc trời còn sáng tinh sương, đúng là lúc thợ thuyền hối hả đi làm. Họ là những
người thợ mỏ than, Bình Thành ngày nay đã trở thành kinh đô than đá của Trung
Quốc! Than đá xem ra quan trọng hơn kinh điển.
Nó làm ra điện để công nghiệp hóa
đất nước. Cũng đúng thôi! Đại Đồng là một thành phố kỹ nghệ, anh hướng dẫn du lịch
hãnh diện kể như thế, là thành phố lớn thứ 12 của Trung Quốc, với than đá vô tận
và công nghiệp chế tạo thiết bị cho ngành nông lâm nghiệp. Xe đi một vòng trong
Đại Đồng, trung tâm Phật giáo Bình Thành mà tôi hào hứng muốn tới thăm ngày nay
khắp nơi được phủ bằng một lớp bụi than mờ mờ. Tôi được đưa vào một khách sạn
ăn sáng lấy sức sau một đêm đi xe lửa, tên nó là khách sạn "Vân
Cương".
Đúng thế, tôi đến đây để thăm
công trình đồ sộ của Vân Cương thạch quật mà tiền nhân của các anh thợ mỏ này
đã tạo tác từ 15 thế kỷ trước. Cả những người thợ mỏ ngày nay lẫn những nghệ
nhân ngày xưa, họ cũng là những người vào núi đập đá, đục đẽo, chịu gian khổ từ
năm này qua năm khác, những con người chân cứng đá mềm, đem mồ hôi và cả xương
máu để làm nên sự nghiệp cho đất nước họ, dù đó là công trình văn hóa hay công
nghiệp.
Và như Blofeld đã từng ca tụng,
đây quả là một thạch quật vĩ đại. Công trình này có 53 động chạy dài khoảng 1km
từ đông sang tây, gồm 51.000 tượng Phật mà tượng lớn nhất cao 17m, tượng tí hon
nhất chỉ cao 2cm. Phần lớn tượng được tạc trong thời Bắc Ngụy, từ năm 460 đến
năm 494. Một ít tượng khác được hoàn thành trong thời nhà Đường [618-907].
Trong các động, ngoài tranh tượng ta còn thấy các Kinh được minh họa bằng các
tượng đá khắc nổi trên tường, đó là một nghệ thuật Phật giáo độc đáo mà ta hay
thấy tại Trung Quốc, được gọi là "biến tướng" của kinh. Tại Vân
Cương, biến tướng của Duy ma cật sở thuyết kinh [12] được trình bày. Về sau tại
các thạch quật Bảo đỉnh sơn hay Bắc sơn, tôi còn được thấy các biến tướng của
các Kinh khác.
[12]
Vimalakirtinirdesa-sutra
Trong nắng sớm tôi ngắm nhìn các
động cả thạch quật mà ngày nay chỉ còn khoảng 20 động có thể tham quan được. Mới
đầu công trình này để Văn Thành Đế sám hối cho vua cha, nhưng rõ ràng là cả chục
ngàn nghệ nhân đã sáng tạo nơi đây để cho giáo pháp trướng tồn với thời gian, để
lòng sùng tín của họ trở thành những tác phẩm nghệ thuật, để những gì trong tim
óc thành tháp tượng thấy được, sờ được. Vì nghệ thuật, nói cho cùng, là quá
trình biến những gì trừu tượng thành vật thể, đối tượng của năm giác quan, dùng
chúng mà diễn tả lại lòng cảm khái, sự rung động nội tâm.
Động số 3 là động lớn nhất với tượng
Phật và hai vị Bồ-tát. Sau đó là động số 5 với bức tượng lớn nhất của Vân Cương
cao 17m. Động số 6 chứa một cột đá cao 16m, trình bày cuộc đời đức Phật. Động
17 chứa tượng Di-lặc ngồi tréo chân, một thế ngồi thiền định ít thấy. Trong động
18 có tượng Phật Thích-ca mâu-ni mà trong vạt áo là vô số các vị Bồ-tát. Quá
nhiều động và quá nhiều hình tượng, khách tham quan có lẽ không mấy ai xem được
kỹ. Chỉ ngắm tượng thôi mà người ta đã hết sức, hãy nhớ đến gian khổ của người
xưa, tôi tự nhủ.
Cuối cùng là động 20, đó là động
chứa bức tượng Phật Thích-ca, cao 13,7m, đây là nơi được xem là biểu tượng cho
Vân Cương thạch động. Tiếng tụng kinh của Phật tử vang trong nắng và mùi hương
trầm quen thuộc của Trung Quốc làm tôi nhớ những ngày ở Ấn Độ. Hình ảnh của
"người con trai vĩ đại của Ấn Độ" [13] đã qua đến đây từ thế kỷ thứ
nhất và nghệ thuật tạc tượng của Gandhara (ngày xưa thuộc về Ấn Độ) cũng đã định
hình tại Trung Quốc, tại Vân Cương này trong thế kỷ thứ năm. Đó là nền nghệ thuật
tạc tượng của Phật giáo đại thừa, xem Phật là Ứng thân, là nhân dạng của Pháp
thân không sinh không diệt. Nền nghệ thuật đó gặp gỡ những đầu óc ưa làm chuyện
vĩ đại của người Trung Quốc để sinh ra những tượng Phật khổng lồ mà họ gọi là
"Đại Phật", những thạch quật đồ sộ mà Vân Cương mới chỉ là một.
[13] Cách dùng chữ của
W.Schumann
TỪ
HẰNG SƠN ĐẾN QUANG MINH ĐỈNH
Trung Quốc là xứ sở của núi non
hùng vĩ. Trong những rặng núi đó có nhưng ngọn đã trở thành thiêng liêng, là
"đạo trường" của Bồ-tát như Ngũ Đài sơn của Văn-thù, Nga Mi sơn của
Phổ Hiền, Cửu Hoa sơn của Địa Tạng và Phổ Đà sơn của Quan Âm. Đó là "tứ đại
danh sơn" mà về sau sẽ được nhắc tới.
Song song, Trung Quốc còn có năm
rặng núi thiêng khác được gọi là Ngũ Nhạc với trung tâm và bốn hướng đông tây
nam bắc. Đó là Tung sơn ở trung tâm, thuộc tỉnh Hà Nam; Thái sơn phía đông, thuộc
tỉnh Sơn Đông; Hoa sơn, phía tây thuộc tỉnh Sơn Tây; Hành sơn phía nam, thuộc tỉnh
Hồ Nam và Hằng sơn phía bắc thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngũ Nhạc là nơi "trời đất
giao nhau", nơi các đời vua chúa từ 2000 năm nay đến cầu đất nước thái
bình thịnh trị.
Trung Nhạc Tung sơn, cách Lạc
Dương khoảng 50km phía đông nam, đỉnh cao nhất là 1440m. Tại Tung sơn, Thiếu
Lâm tự được xây dựng năm 495, nó là quê hương của Thiền tông Trung Quốc, võ lâm
bắc đẩu. Đây là ngôi chùa mà khoảng năm 520 Bồ-đề Đạt-ma đã đến đây, quay mặt
vào tường chín năm và cuối cùng truyền tâm cho Huệ Khả.
Đông Nhạc Thái sơn được xem là rặng
thiêng liêng nhất, đó là rặng núi của Đạo giáo. Nằm về phương đông, phía mặt trời
mọc, Đông Nhạc là nơi vua chúa thân hành đến tế trời đất từ hơn 2000 năm nay.
Chỗ cao nhất của Thái sơn đo được 1545m. Thái sơn là nơi thờ thần Thái Sơn phủ
quân của Đạo giáo, vị thần thống lĩnh đời sống trần gian, chỉ nghe lệnh của Ngọc
Hoàng thượng đế. Đền cao nhất của Thái sơn là đền Ngọc Hoàng, cao 1524m.
Tây Nhạc Hoa sơn là rặng núi cũng
với năm đỉnh đông tây nam bắc và trung tâm, mà đỉnh cao nhất là Liên hoa đỉnh,
cao 2100m. Giữa năm đỉnh đó là con đường đá đi từ vách này qua vách khác mà cứ
mỗi bước chân là dẫn đến một phong cảnh khác lạ. Ngày nay trên Hoa sơn người ta
còn thấy một phiến đá phẳng. Huyền sử chép rằng đó là chỗ Triệu Khuôn Dẫn, thái
tổ nhà Tống, đánh cờ với Trần Đoàn, đạo sĩ trường sinh bất tử. Triệu Khuôn Dẫn
thua, phải nhường Hoa sơn cho đạo sĩ.
Nam Nhạc Hành sơn có đến 72 đỉnh
mà đỉnh cao nhất đo được 1290m. Tương truyền rằng trên đỉnh Tử Cái, một đỉnh
cao của Hành sơn, nhà vua thần kỳ Hoàng Đế đã hội nghị với các chư hầu miền
nam. Đến thế kỷ thứ 20 (trước công nguyên), có nhà vua tên Vũ, cháu năm đời của
Hoàng Đế, hậu duệ của Nghiêu Thuấn, là kẻ khai sáng đời nhà Hạ (thế kỷ 21-16].
Ông lên đây quan sát địa thế để vạch kế hoạch trị thủy, ngày nay còn để lại
danh thơm. Tại Nam Nhạc Hành sơn hiện còn có rất nhiều đền đài của Đạo giáo và
Phật giáo.
Bắc Nhạc Hằng sơn nằm cách Đại Đồng
khoảng 75km là một rặng núi mênh mông với đỉnh phía bắc cao 2017m. Trên đỉnh
phía bắc này ngày nay còn lại đền thờ lớn nhất của Hằng sơn, xung quanh là rừng
thông bao phủ. Trên sườn núi Hằng sơn có nhiều đền đài mà nổi tiếng nhất là Huyền
Không tự, tức là "chùa treo". Chùa này được tôn là một trong mười thắng
cảnh của tỉnh Sơn Tây. Huyền Không tự quả nhiên như treo cheo leo trên sườn
núi. Từ xa người ta tưởng là sườn Hằng sơn được vẽ tạc hình một ngôi chùa, tới
gần mới hay đó là một tổng thể khoảng 40 điện thờ nhỏ bé với rất nhiều tượng Phật,
Bồ-tát. Các điện này được xây dựng trong thế kỷ thứ sáu, nối với nhau bằng các
hành lang gỗ, nằm cheo leo trên sườn núi, được chống bằng những cột sắt.
Tôi đến Hằng sơn vào buổi trưa,
nghỉ trong một quán mang tên "Hằng sơn tửu điếm". Nghe tên Hằng sơn,
lòng tôi đã rộn rã, bỗng nhớ Kim Dung và Lệnh Hồ Xung của ông vô cùng. Cám ơn
Kim Dung, ông là người làm tôi biết và yêu mến một nước Trung Quốc trừu tượng
trong ký ức. Quá khứ tôi bỗng hiện về rõ mồn một, tôi nhớ những năm của đầu những
năm sáu mươi, khi truyện của Kim Dung còn đăng báo ngày và mình nằm dài trên nền
nhà đọc tờ Tiếng Vang, trong đó có Cô Gái Đồ Long.
Kim Dung đưa tôi đi khắp Trung Quốc
với các địa danh tuy xa lạ nhưng rất thú vị như Động Đình Hồ, Ngũ Nhạc, Thiếu
Lâm tự. Quan trọng hơn, ông khắc họa cho tôi về một xã hội Trung Quốc tuy xa vời
vợi như hoang đường nhưng hết sức gần gũi hầu như ta có thể tìm thấy mình trong
đó. Tôi vẫn nhớ Kim Dung trong mỗi bước đi tại Trung Quốc, trong mỗi dòng viết
về Trung Quốc. Vì thế tôi rất để ý tìm hiểu Khưu Xứ Cơ, Vương Trùng Dương,
Trương Tam Phong, những nhân vật có thật, tiền bối của Trương Vô Kỵ. Tôi thích
nhắc tới Chu Nguyên Chương không phải vì ông là thái tổ nhà Minh, cũng không phải
ngày trước ông là tăng sĩ, mà vì ông là nhân vật có thật trong Cô Gái Đồ Long,
được kể lại trong truyện lúc Trương Vô Kỵ bắt đầu sống đời nhàn nhã với Triệu
Minh.
Với Cô Gái Đồ Long, Kim Dung đã vẽ
nên một xã hội hiện thực của loài người, trong đó thiện ác lẫn lộn, ánh sáng và
bóng tối chồng lên nhau nhiều lớp, cái phải cái trái tồn tại song hành cùng một
lúc trong xã hội và trong tâm lý con người. Chính phái và ma giáo tưởng chừng
như hai thái cực đối lập với nhau đã hòa với nhau, trong chính phái có những
hành động hết sức đen tối và trong ma giáo có những con người đáng làm thầy của
những kẻ tưởng mình đi trên đường vương đạo. Và nhất là Kim Dung đã cho tình
yêu nảy nở giữa những con người mà quê hương chính tà của họ cách nhau vạn dặm,
cho thấy những giá trị thuộc đầu óc lý luận chưa bao giờ thay thế tiếng nói sâu
thẳm của trái tim.
Sau Cô Gái Đồ Long, Kim Dung còn
một kiệt tác, đó là Tiếu Ngạo Giang Hồ, bản thân ông đã già dặn hơn rất nhiều
sau các tác phẩm trước. Với Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung đã vẽ một toàn cảnh
đương đại với một khung xã hội và chính trị rộng lớn, trong đó con người vừa là
kẻ đạo diễn mọi điều xảy ra trên sân khấu, vừa chịu cảnh vui buồn của những gì
do mình bày ra. Tác phẩm này đã một thời làm tôi biết nhìn cuộc đời không phải
chỉ gồm hai màu đen trắng.
Thế nhưng cần nói thêm là, với số
tuổi ngày nay, tôi càng nhận ra rằng đó là một tác phẩm phản ánh sâu sắc kiếp
nhân sinh, xót xa thay số phận con người nằm trong mọi sự xô đẩy của những ngọn
sóng lành dữ khác nhau, những đam mê đầy nhân tính, những âm mưu Quỷ quyệt.
Cũng trong bức tranh đầy những mảng tối sáng đó, con người với tình yêu của nó
mới sáng lên tính cá thể của mình. Và ngay cả tình yêu tưởng chừng là một điều
rất riêng tư cũng không bao giờ trọn vẹn, Lệnh Hồ Xung của Kim Dung tuy hạnh
phúc hòa hợp với Doanh Doanh nhưng chàng vẫn tưởng nhớ đến một tình yêu vô vọng.
Với Tiếu Ngạo Giang Hồ, tôi biết
đến Ngũ Nhạc và ngày nay đến đây, lòng tôi sao khỏi có niềm rộn rã kính trọng.
Hằng sơn tửu điếm này nằm ngay dưới chân Hằng sơn của phái Nga Mi phải là nơi
giang hồ đã lắm người qua lại, nơi Lệnh Hồ Xung và Đào cốc lục tiên ghé ăn nhậu
còn nàng Nghi Lâm mà tôi yêu mến chắc không khi nào dám vào. Tiểu nhị đem bánh
bao ra! Thì ra bánh bao là một thứ người Trung Quốc hay ăn như ta ăn cơm, và ta
ăn cơm trắng thì bánh bao của họ trắng trơn không nhân.
Tôi thử chiếc bánh bao và công bằng
mà nói thì thấy nó nhạt nhẽo, không hiểu tại sao đại hán ngày xưa ăn "mấy
cân bánh bao" một lúc. Và rượu thì ngày xưa hẳn Đào cốc lục tiên uống
không bao giờ đủ, ngày nay người Trung Quốc uống bia. Như tại Việt Nam, ở đâu
cũng có bia, tỉnh nào cũng có hiệu bia, chai nào chai nấy to gần cả lít. Bia
Thanh Đảo nổi tiếng nhất, nhưng tại rặng Cửu Hoa sơn xa xôi cũng có bia Cửu
Hoa.
Nhớ chàng trai Trương Vô Kỵ tôi
không thể không nhớ đến Quang Minh Đỉnh. Đó là sào huyệt của Ma giáo mà chàng
đã lần mò theo một ông hòa thượng leo lên tới. Nhưng Quang Minh Đỉnh có thật
chăng?
Quang Minh Đỉnh là một đỉnh của rặng
Hoàng sơn. Hoàng sơn là đệ nhất danh sơn của Trung Quốc. Ngũ Nhạc đã đẹp nhưng
Hoàng sơn vượt xa Ngũ Nhạc.
(Hình trích của "Huangshan
in China", Publishing house of China National, Academy of fines Arts,
1994]
Hoàng sơn nằm trong tỉnh An Huy,
là một rặng núi có 72 đỉnh mà đỉnh cao nhất là Liên Hoa đỉnh (1860m) và sau đó
là Quang Minh Đỉnh (1840m). Huyền sử chép rằng nhà vua Hoàng Đế đến đây để luyện
linh đan sống ngàn năm nên núi có tên Hoàng sơn. Ngày nay dưới chân Hoàng sơn
là một thành phố có sân bay, đến từ Hàng Châu, Thượng Hải rất tiện.
Nhà du khảo nổi tiếng đời Minh, Từ
Hà Khách, là tác giả của "Từ Hà Khách du ký", một tác phẩm có giá trị
về văn hóa và khoa học. Ông đã đến đây và thốt lên:"Đến Ngũ Nhạc thì không
kể mọi danh sơn khác, đến Hoàng sơn thì không kể Ngũ Nhạc". Hoàng sơn thật
là một cảnh non bồng nước nhược với bốn đặc tính: sườn núi như vách dựng đứng,
rừng thông đầy hình thù kỳ dị, thế đá lạ lùng bí hiểm và cảnh mây bọc núi, núi
xuyên mây. Hoàng sơn là nơi thống nhất uy danh của các núi lớn: cái tôn quí của
Thái sơn, màu hoang dã của Hoa sơn, biển mây mênh mông của Hằng sơn, thác nước
cuồn cuộn của Lư sơn và phong thái thần tiên của Nga mi sơn. Hoàng sơn chính là
đối tượng sơn thủy của tranh thủy mặc từ nhiều ngàn năm nay. Trên sườn Hoàng
sơn vào mùa xuân người ta chỉ thấy một vùng trắng như tuyết nhưng không phải
tuyết, hỏi ra thì đó là Đào hoa phong, đỉnh chỉ trồng hoa đào.
Tôi đến Hoàng sơn để ngắm những
ngọn núi hầu như cổ tích này. Trung Quốc mênh mông và quá nhiều cảnh đẹp, nếu
chỉ thăm một núi thì đó là Hoàng sơn; nếu chỉ thăm một hồ thì đó là Tây hồ ở
Hàng Châu. Nằm dưới chân Hoàng sơn lại còn có một thị trấn còn giữ lại được từ
thời nhà Tống, thế kỷ thứ 9, thứ 10. Thị trấn này làm tôi nhớ đến Hội An, ngày
nay nó là cũng chỗ bán đồ lưu niệm nhưng nó cổ hơn Hội An khoảng 400 năm và
toàn bộ nhà cửa ngày xưa còn nguyên vẹn suốt cả một con đường dài vài km.
Hoàng sơn là đệ nhất danh sơn,
"đến Hoàng sơn thì không kể Ngũ Nhạc", đó phải là lý do mà Ma giáo đã
một thời chọn Quang Minh Đỉnh làm ngai vàng để muôn năm trường trị, thống nhất
giang hồ, chống lại các chính phái. Đến Hoàng sơn tôi hiểu thêm rằng, những gì
mình đọc Kim Dung ngày xưa là một sự phối hợp tài tình giữa lịch sử và địa lý
có thật của Trung Quốc, hòa trong nền tảng thực tế của đạo lý, tâm lý và xã hội
của đất nước này, cùng với tài hư cấu tuyệt vời để khắc họa những trong nhân vật,
sáng tạo những hành động và cảnh ngộ vừa hoang đường vừa hiện thực.
Cuộc ác chiến trên Quang Minh Đỉnh
không hề có thực nhưng Hoàng sơn, ngọn núi nằm tại hạ lưu sông Dương Tử, là kẻ
chứng kiến những trận chiến đẫm máu suốt trong lịch sử Trung Quốc. Trước công
nguyên tại vùng này đã xảy ra cuộc Hán Sở tranh hùng, cuối cùng Hạng Vũ thua, tự
tử tại Cai Hạ trên bờ Dương Tử. Trước đó, Ngô Phù Sai cũng bị Việt vương Câu Tiễn
tiêu diệt nơi đây. Đầu thế kỷ này, đây cũng là nơi Nhật và các nước phương tây
xâu xé Trung Quốc. Và, làm sao khác được, cũng chính đây là nơi phát sinh các
cuộc cách mạng vũ bão tại đất nước mênh mông này.
Tôi đến Hoàng sơn, hoa đào trên đỉnh
Đào hoa phong vẫn nở trắng trinh nguyên như ngày trời đất mới mở hội. Tất cả,
những gì hư cấu hay có thực, đã chìm trong lịch sử. Mầu nhiệm thay, thời gian.
Chương
14: Từ Tiểu Ni Cô Nghi Lâm Đến Nàng Lý Ngư
Dưới chân Hằng sơn tôi không thể
không nhớ đến một người con gái tên gọi là Nghi Lâm. Đó phải là một thiếu nữ
tươi đẹp, hoạt bát, đầy nhựa sống, ham hoạt động. Thế nhưng đồng thời, nàng là
một tiểu ni cô với hạnh nguyện nghiêm túc mà cuộc đời mãi mãi gắn liền nơi cửa
Phật. Những cuộc đấu tranh long trời lỡ đất trong Tiếu Ngạo Giang Hồ đưa đẩy
nàng xuống núi hành hiệp, nhưng cứ mỗi lần phạm chút lỡ lầm, nàng lại thầm cầu
mong bồ-tát tha tội.
Với tuổi tác và võ công non kém,
Nghi Lâm "hành hiệp" không hiệu quả lắm, nàng chỉ có một vai trò rất
phụ thuộc. Nàng chỉ "nổi" trong sự hoạt bát đầy thông minh của mình
và cũng với tấm lòng yêu cuộc sống đó, nàng cảm thấy gần gũi tự nhiên với Lệnh
Hồ Xung, một chàng trai dễ yêu. Theo đà câu chuyện, Kim Dung sáng tạo ra cả cảnh
Lệnh Hồ Xung phải miễn cưỡng làm cả trưởng môn phái Nga Mi của Hằng sơn, dẫn đầu
cả một đám nữ đệ tử trong đó có Nghi Lâm. Hay thay cái chính tà đan chéo lẫn lộn,
một kẻ bị trục xuất ra khỏi Hoa sơn vì "theo tà bỏ chính" mà lãnh đạo
Hằng sơn, các vị ni sư Hằng sơn dám phá chấp để gọi một chàng trai ham rượu chè
về núi để điều động đệ tử. Trong khung cảnh đó một tình cảm nẩy nở trong lòng
Nghi Lâm mà nàng không biết gọi tên.
Nghi Lâm không biết gọi nó là
tình yêu, thứ tình cảm mà nàng thấy thể hiện bằng sự quyến luyến Lệnh Hồ đại
ca. Nàng không tìm cách kềm chế nó như các vị sư trưởng của nàng mong đợi, vì đối
với nàng, tình cảm đó chưa có gì là tội lỗi. Các vị sư tỉ của nàng già dặn hơn,
biết đó là tình yêu và tìm cách ngăn cản một cách nhẹ nhàng, đầy từ bi như bồ-tát
của họ. Dễ thương biết bao, mối tình nhẹ nhàng này của tác phẩm, nó xuyên suốt
đến cuối câu chuyện để Nghi Lâm rốt cuộc trở thành một người chủ chốt, hạ thủ cả
Nhạc Bất Quần. Đáng thương thay cho nàng, nàng sẽ ân hận suốt đời vì hành động
mà người như Nghi Lâm sẽ cho là vô đạo đó. Và không ai rõ sau khi câu chuyện chấm
dứt, các vị sư nữ trở về núi tu hành tụng niệm, làm sao Nghi Lâm quên được lòng
"quyến luyến" của mình. Liệu sau đó nàng biết đó là tình yêu hay
không, đó là điều người đọc truyện tự trả lời.
Đến Hằng sơn, tiếc thay tôi không
còn thấy một tiểu ni cô nào cả. Đi nhiều nơi thăm nhiều tự viện tại Trung Quốc
ngày nay, tôi cũng không thấy một vị sư nữ nào, chứ đừng nói tới ni cô vai mang
kiếm đi hành hiệp. Tại nhiều chùa tôi nghe nói đến có sư nữ nhưng hình như
chúng tôi không được thăm viếng. Hẳn hình ảnh sư nữ Phật giáo đã biến mất khỏi
xã hội Trung Quốc ngày nay. Thế nhưng tại Bắc Kinh, tôi gặp một chuyện lạ. Tôi
được đi xem opera, tuồng "Truyện nàng Lý ngư" tại Nhà hát lớn ở Bắc
Kinh, cách quảng trường Thiên An môn không xa.
Tuồng kể có chàng thư sinh nọ,
gia đình nề nếp. Lúc nhỏ chàng đã được đính hôn với con gái của một ông quan. Về
sau cha mẹ chết sớm, gia đình sa sút, chàng thư sinh ngày càng nghèo, gia đình
ông quan nọ tỏ vẻ xa lánh chàng. Chàng thư sinh buồn bã không thiết gì đến việc
học hành, ngày đêm thở vắn than dài. Ngày nọ cô tiểu thư con ông quan đến thăm
thư sinh, bày tỏ vẫn yêu thương chàng, nhưng tại cha mẹ nàng sinh lòng rẻ rúng,
chứ nàng vẫn quyết một lòng chung thủy với chàng. Chàng thư sinh hết sức phấn
khởi, chăm chỉ học hành. Chàng có ngờ đâu người con gái đó là một nàng Lý ngư sống
trong hồ, tu luyện lâu năm, biết được hoàn cảnh của chàng, biến hiện thành tiểu
thư nọ đến khuyên nhủ để chàng yên tâm dùi mài kinh sử.
Ngày nọ đến hội hoa đăng, đôi
trai tài gái sắc đi hội, không ngờ gặp nàng tiểu thư thật! Chàng thư sinh lấy
làm kỳ thấy hai người giống nhau như hệt mà người nào cũng tự xưng là tiểu thư
cả. Ông quan nọ được vời đến để phân biệt ai là con gái mình, thế nhưng không
sao biết được cả, vì nàng Lý ngư có thần thông đã biết hết mọi chuyện riêng tư
của nàng tiểu thư. Nàng Lý ngư đã lỡ hiện hình tiểu thư, nàng phải làm cho trót
vai trò, nhưng còn thêm một điều thú vị, đó là nàng đã lỡ yêu chàng thư sinh mất
rồi. Ông quan nọ không biết làm sao nên đem cả hai nàng đến Bao Công nhờ phân xử.
Nàng Lý ngư có một ông anh sống tại
thủy cung, thần thông xuất chúng. Ông anh này liền biến mình thành Bao Công để
tìm cách bênh vực cho cô em gái. Thú vị thay khi thấy hai Bao Công và hai tiểu
thư giống hệt nhau trên sân khấu trong sự hoang mang hoảng hốt của ông quan nọ
và chàng thư sinh tốt số. Cuối cùng Bao Công thật mới dùng cái kế muôn đời là
đem thư sinh vô tội ra đánh đòn trừng trị để xem phản ứng của hai nàng tiểu
thư, qua đó mà biết ai thật ai giả. Cũng lụy vì tình mà nàng Lý ngư lộ bản chất
chỉ là con cá chép tu luyện ngàn năm. May mắn thay cho nàng, chàng thư sinh
không chê nàng mà đem lòng yêu thương, theo về đến thủy cung.
Tưởng như vậy là ổn, ai ngờ đây
là một chuyện sai đạo lý, người không thể chung sống với súc sinh! Và người thi
hành đạo lý đó là tướng nhà trời Dương Tiễn. Dương Tiễn đem quân đến thủy cung
bắt Lý ngư. Ngờ đâu Lý ngư cũng như chàng thư sinh yếu đuối nhất định đánh lại,
thà chết chứ không chịu xa nhau. Cuối cùng Lý ngư đánh không lại Dương Tiễn,
nàng cầu cứu Phật Bà Quan Âm. Bồ-tát Quan Âm hiện ra, cho nàng lựa chọn, nếu là
vì tình yêu thì được biến thành người, chung sống với thư sinh nhưng phải mất
công phu tu luyện, mất tuổi thọ mấy ngàn năm. Nàng Lý ngư thưa: "Nếu không
có tình yêu thì sống ngàn năm phỏng có ích gì". Xúc động thay lời nói của
nàng. Sau đó nàng chịu cho Dương Tiễn rút ba cái vảy thần, chúng là hiện thân của
kết quả tu luyện ngàn năm của mình và về sống làm người với cuộc đời dân giã.
Trong bóng tối, tôi thầm lặng cảm
nhận câu chuyện, nhận ra lòng mình nhiều cảm khái về opera của Bắc Kinh nổi tiếng
toàn thế giới mà ta tạm gọi là "hát bộ". Hay thay, giải pháp có tình
có lý đầy từ bi, đầy tính người của Quan Âm. Liều lĩnh thay, Lý ngư, dám bỏ
công phu tu luyện ngàn năm để làm kiếp nhân sinh nhiều rủi ro, đầy trắc trở; bỏ
thần thông để làm con người yếu đuối và bất lực trước mọi hoàn cảnh. Tất cả những
hy sinh đó chỉ để làm theo tiếng gọi của trái tim. Và lạ lùng thay, giữa Bắc
Kinh mà có những vở tuồng có tính phê phán xã hội và đầy tính tâm linh tôn
giáo, trong đó Bao Công thật và giả đấu tranh với nhau trước mắt người dân,
trong đó hình ảnh của Nam Hải Quan Âm được trình bày hết sức trân trọng và cuối
cùng giải pháp của Ngài đề ra là chung quyết, trọn vẹn cho con người.
Nghi Lâm và nàng Lý ngư đều là những
hình tượng tuyệt đẹp để tả tình yêu trai gái, một khía cạnh ưu việt của văn hóa
nghệ thuật Trung Quốc. Hai câu chuyện khác nhau xa về kết cục nhưng giống nhau ở
chỗ hai nàng đều xả thân, không tiếc mạng sống mình. Những điều đó làm rung động
đến tâm can người đọc người xem. Những mối tình nhẹ nhàng như của Nghi Lâm,
mãnh liệt như của Lý ngư đều có một nguồn gốc chung là tính người. Vì thế chúng
được thể hiện khắp nơi, có thể nằm trong một bộ trường thiên tiểu thuyết của
Kim Dung, cũng có thể ở trong một tích tuồng đầy màu sắc và tiếng thanh la não
bạt của opera Bắc Kinh.
NGŨ
ĐÀI SƠN ( Wutaishan)
Năm 67 sau công nguyên, Ca-diếp
Ma-đằng và Trúc Pháp Lan gặp Hán Minh Đế và sau đó như ta đã biết, Bạch mã tự
là chùa đầu tiên được xây dựng. Nhà vua người Hán còn hỏi hai vị Phạm tăng:
"Pháp Phật chỉ lưu truyền ở Thiên trúc, sao không thấy giảng giải tại
Trung nguyên". Hai vị đáp: "Có chứ, ngày nay có vị Bồ-tát Văn-thù
đang giảng pháp tại Thanh Lương sơn".
Thanh Lương sơn cũng là địa danh
được nhắc tới trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Bồ-tát trụ xứ: "Vùng Đông Bắc
[14] có núi Thanh Lương từ xưa đến nay các vị Bồ-tát thường trú ở đó. Hiện có Bồ-tát
Văn-thù Sư-lợi cùng quyến thuộc và các Bồ-tát khác nữa đông tới vạn người thường
thuyết pháp ở đây" [15].
[14] - "Đông Bắc"
vì dựa trên vị trí của Xá-vệ tại Ấn Độ, đó là nơi Phật giảng kinh Hoa Nghiêm
[15] Trích Từ Điển Phật
Học Hán Việt, Chủ biên Kim Cương Tử, Hà Nội 1994
Thanh Lương sơn là tên khác của
Ngũ Đài sơn, nằm tại tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Vì những lẽ trên mà từ xưa tới
nay, Ngũ Đài sơn được xem là trú xứ, là đạo trường của Văn-thù Sư-lợi. Theo
truyền thuyết, Bồ-tát Văn-thù là người cùng với A-nan kết tập bộ kinh Hoa
Nghiêm, sau đó trao cho Long Vương cất giữ rồi Long Vương mới trao cho luận sư
Long Thụ để phổ biến. Vì thế mà Kinh Hoa Nghiêm rất gần gũi với Văn-thù và Ngũ
Đài sơn là nơi các vị tổ của tông Hoa Nghiêm tu học.
Văn-thù Sư-lợi là vị Bồ-tát được
gọi là vị "đại trí". Ngài là một vị cổ Phật nhưng đóng vai trò Bồ-tát
để giáo hóa, nhiều vị thành Phật là cũng nhờ Ngài. "Văn-thù Sư-lợi vẫn thường
làm mẹ của vô lượng chư Phật. Ngài luôn làm thầy của vô lượng Bồ-tát. Ngài giáo
hóa vô lượng chúng sinh…Ngài trụ trong trí huệ thâm sâu, thấy biết được tất cả
các pháp đúng như thật, Ngài thông đạt thấu suốt tất cả cảnh giới giải
thoát" [16]. Đó là lời của Di-lặc nói với Thiện Tài và khuyên Thiện Tài
nên đi gặp Văn-thù Sư-lợi. Tại sao Thiện Tài phải tìm đến gặp Văn-thù? "Vì
từ trước đến nay, mọi thiện tri thức mà ông gặp để rồi được nghe hành bồ-tát, để
vào được cửa giải thoát, để được đầy đủ đại nguyện, đều do thần lực của Văn-thù
Sư-lợi"[17].
[16] - Trích Kinh Hoa
Nghiêm, phẩm Nhập Pháp giới, Việt dịch của Thích Nhất Chân
[17] - Kinh đã dẫn
Tôi từ Đại Đồng, xuống phía nam,
đến Ngũ Đài sơn đảnh lễ Văn-thù. Ngũ Đài sơn là một rặng núi cách Thái Nguyên,
thủ phủ tỉnh Sơn Tây khoảng 200km. Đây là một rặng núi với năm "đài"
mà đỉnh phía Bắc, Bắc đài, cao đến 3058m. Từ thời Hán Minh Đế ở đây đã có một tự
viện thờ Văn-thù, về sau nơi đây có hàng trăm đền chùa, bảo tháp. Ngày nay trên
núi có 54 đền chùa, nằm rải rác khắp rặng núi. Sau khi đi qua nhiều con đèo hiểm
nghèo, xe đến Đài Hoài trấn, đó là thị trấn nằm giữa lòng Ngũ Đài sơn và cũng
là nơi đi bộ leo lên nhiều tự viện chủ yếu của núi. Tôi đến Đài Hoài trấn buổi
trưa nhưng trời mát lạnh, ở đây có độ cao 1435m. Đường đèo dẫn đến Đài Hoài tuy
rất tốt nhưng hết sức vắng xe, có ai ngờ đến đây mới thấy đây là một thị trấn tấp
nập toàn cả khách hành hương tham bái. Đường đến Ngũ Đài sơn rất khó khăn và
cũng nhờ thế mà các tự viện ở đây thoát khỏi sự tàn phá trong thời cách mạng
văn hóa.
Từ làng Đài Hoài ta có thể đi bộ
lên phía bắc để đến Hiển Thông tự. Đây là ngôi chùa cổ nhất của Ngũ Đài, được
kiến lập trong thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Theo thời gian Hiển Thông Tự được
mở rộng để ngày nay có 7 tự viện nằm trên một trục và nhiều đền nằm xung quanh.
Tổng diện tích của Hiển Thông tự lên đến 80.000 m2. Hiển Thông tự là nơi mà
Thanh Lương Trừng Quán thời nhà Đường, tổ thứ tư của tông Hoa Nghiêm trụ trì và
dịch, chú giải kinh Hoa Nghiêm. Tại đây có câu đối nói về Pháp thân và Văn-thù:
Pháp thân vô khứ vô lai, trụ tịch
oai nghi bất động,
Đức tướng phi không phi hữu, ứng
tùy cơ dĩ hằng châu.
(Pháp thân không đi không đến, vững
yên oai nghi không động,
Đức tướng chẳng không chẳng có,
luôn luôn tùy cơ ứng hiện)
Phía bắc của Hiển thông điện là Bồ-tát
đỉnh, theo truyền thuyết từ thời Bắc Ngụy (386-534], đó chính là trú xứ của
Văn-thù. Tôi leo 108 bậc thang để lên Văn-thù đỉnh, lòng xúc động và cám ơn cơ
duyên vô danh nào đã ình cái dịp ngàn năm một thuở này. Những bậc thang này
chính là nơi mà hàng ngàn năm nay, kể từ đầu công nguyên tới nay, hàng vạn người
đã đến đây để đảnh lễ Văn-thù, từ các nhà vua đến các hàng thứ dân, từ các thiền
sư đến các cư sĩ, từ vị đại lạt-ma đến các tiểu tăng sa di. Người ta kể rằng, đến
Ngũ Đài sơn, ai có lòng tin tưởng thì thế nào cũng sẽ gặp Văn-thù trong một dạng
hình nào đó.
Tôi còn nhớ, trong tác phẩm Sư tử
tuyết bờm xanh[18], mình có biên dịch câu chuyện của một vị lạt-ma tên là
Yahden. Vị này mất sáu tháng để từ Tây Tạng đến Ngũ Đài sơn chiêm bái Văn-thù,
trên đường đi ông hết lòng tụng niệm và thiền định liên tục. Và cuối cùng ông
được "leo lên 108 bậc thang" để đến Bồ-tát đỉnh. Ông vừa lên gần đến
đỉnh thì gặp một người ăn xin cụt chân, người đó nói với ông: "Huyền diệu
thay, cái Một trong thiên hình vạn trạng". Yahden mở túi xách, lấy một ít
tiền cho kẻ ăn xin thì người đó nói tiếp: "Huyền diệu thay, cái Một trong
thiên hình vạn trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái Một. Thứ ít ỏi này ta
không thèm lấy của ngươi. Ta đòi ngươi cả trái tim!". Yahden vừa biết kẻ
đó là ai thì người đó đã biến mất. Yahden mở mắt thật lớn nhìn quanh và nhảy
như bay lên những bậc cuối và chỉ còn nghe chuông chùa đánh 108 tiếng.
[18] - Sư tử tuyết bờm xanh, Nhà
xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1999
Tôi lên đến Bồ-tát đỉnh, chỉ nghe
tiếng chuông vang ra từ Văn-thù điện xây trên đó. Trên Bồ-tát đỉnh này vua Càn
Long đời Thanh đã cho dựng một tấm bia đá cao 6m, với thủ bút của ông viết bốn
văn tự: Hán, Mãn Châu, Mông cổ và Tây Tạng, ca tụng trí huệ của Văn-thù. Cách
đó khoảng 1km, ta tìm thấy Thù Tượng tự, trong đó là bức tượng nổi tiếng của
Văn-thù cao 9m, ngồi trên lưng sư tử. Chùa này được kiến lập trong đời Đường,
nhưng bị hư hoại và được xây dựng lại năm 1487.
Yahden được Văn-thù "tùy cơ ứng
hiện", được Ngài đọc lại cho nghe yếu nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm. Đến đạo
trường của Văn-thù, tôi lấy lại kinh Hoa Nghiêm ra đọc, xem Ngài nói gì với Thiện
Tài, khi Thiện Tài vâng lời Di-lặc đi tìm Ngài.
"Lành thay, lành thay! Này
thiện nam tử, nếu lìa khỏi lòng tin thì tâm sẽ yếu kém, sẽ lo âu tiếc nuối, nên
công hành không tròn đủ, sẽ thối thất tinh cần, mà chỉ bám trước vào một thiện
căn. Với chút ít công đức ấy sẽ cho đó là đủ, thế nên sẽ không phát khởi được
hành nguyện, sẽ không được thiện tri thức nhiếp thọ, không được chư Như Lai ức
niệm, sẽ không biết được Pháp tính (…giảng Pháp tính), Pháp môn (…giảng Pháp
môn), công hành (…giảng công hành), cảnh giới (…giảng cảnh giới), sẽ không thể
nào biết hết, biết nhiều, biết đến tận cùng, biết rõ, hướng nhập vào giải
thoát, cũng như phân biệt, chứng biết và chứng đắc giải thoát. Mọi điều ấy sẽ
không sao có được" [19].
[19] Trích Kinh Hoa
Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới, Việt dịch của Thích Nhất Chân
Đến đây thì tôi hiểu. Vị đại trí
Văn-thù mà cũng cho rằng phải có "lòng tin" mới phát khởi được hạnh
nguyện và trí huệ. Chúng ta thường dễ cho rằng dùng trí là có thể hiểu được
pháp, thậm chí trí huệ ưu việt hơn lòng tin. Thế nhưng trí nào hiểu được
"cái Một trong thiên hình vạn trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái Một"?
Trí nào nắm bắt được cái nghịch lý đó? Tư duy logic thông thường của chúng ta
không thể hiểu Kinh Hoa Nghiêm, đó là điều tôi dám kết luận. Đó cũng là lý do
sau khi Phật thành đạo Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày nhưng không ai
hiểu cả, chỉ trừ các bậc đại bồ-tát.
Tư tưởng Hoa Nghiêm nói về Chân
Như tuyệt đối, trong đó không còn bóng dáng của sự phân biệt nhị nguyên nữa.
Còn tư duy logic của chúng ta lấy nhị nguyên, lấy ta-người làm cơ sở, nó không
thể vươn lên, với tới mức độ tuyệt đối. Như thế phải chăng không ai có thể hiểu
Hoa Nghiêm? Văn-thù chỉ cho ta một cách, đó là dùng lòng tin mà "phát khởi
hành nguyện". Lạ thay, Văn-thù mà cũng cần lòng tin! Lấy hành nguyện thật
lớn, "phát tâm bao la không cùng, khởi tâm vô ngại lìa bỏ tất cả các cõi,
rời xa tất cả các chấp"[20].
[20] - Kinh đã dẫn
Vì thân biến theo tâm nên với tâm
"bao la không cùng" đó hành giả sẽ có thân vô lượng, siêu việt lên
ta-người, bỏ tính cá thể và trực nhận Chân như tuyệt đối hiện lên trong "Một
trong thiên hình vạn trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái Một". Với
cách đó Thiện Tài đã siêu việt tâm thân mình, hiểu ngộ tất cả các pháp mà chúng
ta thấy là mâu thuẫn không sao hiểu được và đã thể nhập vào hạnh lớn mà kinh
sách gọi là thể nhập vào đạo trường của Phổ Hiền Bồ-tát.
Văn-thù là vị đại trí vì Ngài là
kẻ chỉ đường tu học cho chúng sinh. Nhưng muốn có trí thì phải dùng lòng tin mà
phát tâm học tập, đó là bài tôi học được hôm nay. Vì vậy mà có câu "Ta đòi
ngươi cả trái tim". Ngày trước khi biên dịch chuyện Yahden này, tôi chỉ nhớ
câu "Huyền diệu thay, cái Một trong thiên hình vạn trạng và cái thiên hình
vạn trạng của cái Một", còn "trái tim" tôi cho là phụ. Bây giờ
tôi hiểu, "trái tim" là tiên quyết, "nếu lìa khỏi lòng tin thì
tâm sẽ yếu kém", không có trái tim rộng lớn thì không thể hiểu được Văn-thù.
Còn Phổ Hiền là vị "đại hạnh",
vì nguyện lực cho hành động (hạnh) của Ngài là rộng lớn vô biên, cũng phải cùng
hành động như Ngài mới hiểu được đại trí của Văn-thù. Tôi chỉ là người học trò
nhỏ, dùng trí logic thông thường mà đoán mò về các điều nằm ngoài suy luận. Trí
huệ và hạnh nguyện của các vị bồ-tát quá to tát, quá xa vời đối với tôi, thế
nhưng tôi cũng sẽ đến đạo trường Phổ Hiền để đảnh lễ Ngài. Đạo trường đó nằm
trên đỉnh Nga Mi sơn, tỉnh Tứ Xuyên.
Chương
15: Còn Đâu Nước Thục
Tôi đến Tứ Xuyên, lòng bồi hồi. Tỉnh
Tứ Xuyên là tỉnh đông dân của Trung Quốc, ngày nay khoảng 120 triệu dân, có diện
tích hơn nửa triệu cây số vuông. Về dân số cũng như diện tích, Tứ Xuyên lớn gấp
rưỡi nước Việt Nam. Tỉnh Tứ Xuyên có địa thế rất hiểm trở, có hình lòng chảo, bốn
phía núi non bao bọc. Phía nam là cao nguyên Vân Nam, phía đông bắc tiếp giáp với
Thiểm Tây với các dãy núi cao trên 2500m, phía đông là rặng Vu sơn, phía tây là
Thanh Hải, Tây Tạng. Tứ Xuyên ngày xưa là một vùng biên cương của Trung Quốc, đời
sống khô cằn, đến thế kỷ thứ tư trước công nguyên mới được người Hán đến khai
khẩn, thường được mệnh danh là "biên địa hạ tiện".
Thế nhưng Tứ Xuyên là một vùng đất
được nhiều người yêu mến do ngày xưa nó chính là nước Thục của Lưu Bị, Quan
Công, Trương Phi, của Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Như ta đã biết đầu công nguyên
(năm 67] có một nhà vua tên là Hán Minh Đế là người đầu tiên cho truyền bá đạo
Phật. Đó là thời Hậu Hán, có khi được gọi là Đông Hán. Sau đó gần 200 năm, con
cháu của Minh Đế tên là Hiến Đế lên ngôi, bị Đổng Trác và Tào Tháo chuyên quyền
lấn hiếp. Trong giới tôn thất nhà Hậu Hán có một người tên là Lưu Bị [21], chỉ
làm nghề dệt chiếu, đóng dép, đau lòng vì cơ nghiệp nhà Hán, mới kết nghĩa cùng
Quan Công, Trương Phi dấy quân, phò vua giúp nước.
[21] - Sinh năm 161, mất
năm 222
Mới đầu cơ nghiệp không đi tới
đâu nhưng về sau Lưu Bị gặp một kỳ nhân, đó là Khổng Minh Gia Cát Lượng[22]. Khổng
Minh giúp Lưu Bị chiếm được đất Thục, nay là tỉnh Tứ Xuyên, đóng đô ở Thành Đô
[23], nay là thủ phủ của Tứ Xuyên. Nhờ tài thao lược của Khổng Minh mà nước Thục
mở rộng về phía đông, chiếm được Kinh Châu, nằm trên sông Dương Tử, nay có tên
là Sa Thị. Người trấn thủ Kinh Châu là Quan Công.
[22] - Sinh năm 181, mất
năm 234
[23] - Chengdu
Còn Tào Tháo [24]bị nhiều người
ghét vì tính "đa nghi" nhưng thật ra là một nhân vật xuất sắc. Ông là
người thao lược, giỏi cả văn lẫn võ. Ông giữ đất Trung Nguyên, gọi là nước Ngụy,
khi đó Lưu Bị đã chiếm đất Thục, Tôn Quyền dựng nước Ngô. Lúc Tào Tháo chết rồi,
con là Tào Phi lên thay mới phế bỏ Hiến Đế và chính thức xưng đế, hiệu là Văn Đế,
khai sinh nhà Ngụy. Đó thời Tam Quốc nổi tiếng (220-280].
[24] - Sinh năm 155, mất
năm 220
Ba nước này chia Trung Quốc ra thế
chân vạc, đó là ba vùng đất to lớn. Nước Ngụy nằm phía Bắc, xung quanh sông
Hoàng Hà; nước Thục phía Tây, dựa lưng vào Tây Vực và cao nguyên Hy-mã; nước
Ngô phía đông ở Giang Nam. Ba vùng đất này tự nó là ba nước cực lớn, nếu ta nhớ
lại thời Chiến quốc, Trung Quốc có hàng trăm nước. Tôi nhớ lại các vương quốc Ấn
Độ, tương đối nhỏ hơn nhiều nhưng họ sống hòa hoãn với nhau. Thế nhưng người
Trung Quốc có óc thống nhất quốc gia từ thời nhà Tần, họ đã quen nghĩ đến một
nước Trung Quốc mênh mông từ bắc xuống nam, từ đông sang tây.
Ba nước Ngụy, Thục và Ngô vì thế
mà đánh nhau liên miên, khi chiến khi hòa và để lại cho hậu thế tác phẩm Tam quốc
chí bất hủ. Tiếc thay lịch sử không đúng như mong ước của người đọc đời sau.
Lưu Bị, Khổng Minh bại trận, nước Thục mất. Lưu Bị thất bại hẳn cũng có số trời
như Khổng Minh đã nói, nhưng ông đã không nghe lời Khổng Minh, phạm sai lầm cuối
cùng của đời mình và là sai lầm quan trọng nhất. Chiến lược của Khổng Minh là
không đánh nước Ngô, liên hiệp với nước này mà đánh nước Ngụy. Lưu Bị cũng biết
thế nhưng khi Quan Công bị nước Ngô sát hại tại Kinh Châu thì Lưu Bị quên mọi
tính toán chiến lược, kéo quân đi dọc Trường Giang về đánh nước Ngô, báo thù
cho người em kết nghĩa. Thất bại, ông rút lui về thành Bạch Đế [25] trên sông
Trường Giang và chết tại đó.
[25] - Baidicheng
Tôi leo lên Bạch Đế thành, lòng đầy
xúc động. Ôi, tại ngọn núi vắng vẻ này mà đã từng diễn ra cảnh cả Lưu Bị chết,
giao con cho Khổng Minh để rồi nước Thục đi vào diệt vong thật chăng. Bạch Đế
thành nằm trên núi cao, nhìn xuống dòng Trường Giang, ngày nay người ta có thể
đi bộ hoặc xe cáp lên đỉnh. Thành này được Công Tôn Thuật xây năm 25 sau công
nguyên, ông là người xưng đế ở Thục (25-36] thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây
Hán. Truyền thuyết kể rằng ông thấy trên núi đó, từ một cái giếng thoát ra khói
có dạng như một con rồng trắng và nhân đó mà ông xưng là "Bạch đế".
Ngày nay giếng vẫn còn, trên miệng
giếng có dựng hình một con rồng. Tôi tìm tới cung Vĩnh An là nơi Lưu Bị chết.
Xúc động biết bao khi thấy tại chốn này cảnh diễn tả lại Lưu Bị nằm trên giường
bệnh, giao lại cơ nghiệp và con trai Lưu Thiện cho Khổng Minh. Quần thần đứng
nghiêm trang ngậm ngùi xung quanh, trong đó có đại tướng Triệu Vân. Hai người
anh hùng kia là Quan Công thì đã bị hại và Trương Phi đã bị ám sát trước đó hai
năm. Cảnh này được ghi lại bằng hình tượng có kích thước như người thật, vô
cùng sinh động. Đáng cảm khái thay được thắp một nén hương ngay chỗ 18 thế kỷ
trước đã có một nhà vua đã từ trần, người được bao thế hệ Trung Quốc đến ngày
nay vẫn còn thờ cúng.
Lý Bạch có bài thơ Há Giang Lăng
khi tạ từ Bạch đế thành:
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng sơn
Sớm rời Bạch đế rạng tầng mây
Nghìn dặm Giang Lăng tới một ngày
Tiếng vượn đôi bờ kêu chẳng dứt
Núi non thuyền nhẹ vượt như bay [26]
Từ tay Lưu Bị, Khổng Minh tiếp nhận
cơ đồ và Lưu Thiện. Nhưng Lưu Thiện chỉ là kẻ bất tài, còn Khổng Minh không còn
tướng giỏi. Ông đã sáu lần đem quân đi đánh nước Ngụy, cuối cùng sức quá suy
nhược, Khổng Minh mất ngay trong trại thọ 54 tuổi. Đó là năm 234, con người mưu
lược, thông thiên văn địa lý đó cũng không tránh khỏi số mệnh.
Đi đường dài mới thấy ngày xưa
Tam quốc phải là một thời kỳ kịch chiến tiêu hao sức lực của cả ba nước, từ
quân vương đến binh sĩ. Chỉ kể Thành Đô đến Bạch Đế thành là đã 600km, đường bộ
lẫn đường sông, tính đến Kinh Châu là thêm 300km nữa. Từ Bạch Đế thành hãy đi
ngược dòng Dương Tử để về Thành Đô, đó phải là đường ngày xưa người ta đưa thi
hài Lưu Bị về chôn cất. Đi khoảng 50km Lưu Bị sẽ chào từ giã Trương Phi, đó là
chỗ người em kết nghĩa này bị hại, ngày nay còn đền thờ trên bến sông. Sau đó
có lẽ đám ma của Lưu Bị sẽ đến Trùng Khánh và từ đó đi đường bộ về Thành Đô.
Tôi đến Thành Đô, ngày xưa là
kinh đô nước Thục, ngày nay là thủ phủ Tứ Xuyên. Tại đây khách không thể không
tham quan đền Vũ Hầu. Vũ Hầu là tên dành cho Khổng Minh nhưng đền này chính là
nơi thờ cả Khổng Minh lẫn ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi. Thật là một
ngôi đền xứng đáng với những công trình xây dựng hết sức nghiêm trang, những bức
tượng cực kỳ sinh động. Đáng chú ý nhất là bức tượng của Lưu Bị và Khổng Minh bằng
đất mạ vàng, mỗi tượng cao khoảng 3m. Đáng quí nhất là một bia đá cao 3,7m truyền
lại từ đời nhà Đường. Tả hữu dọc theo các điện thờ là 28 bức tượng của các công
thần nhà Thục, công trạng của các vị đó được ghi lại trên các bia đá.
Phía tây của các ngôi đền là một
gò đất cao khoảng 12m, chu vi khoảng 180m, trên đó cây cối mọc như rừng. Đó
chính là lăng mộ của Lưu Bị và hai bà hoàng hậu của ông. Tôi đi suốt một vòng
gò, nhưng không tìm ra cửa vào, có lẽ đó chính là điều phải giữ bí mật trong 18
thế kỷ trước. Trên gò tiếng chim hót vang lên trong tiếng gió thổi qua các cành
cây, hồn thiêng Lưu Bị hẳn đã tìm ra sự bình an.
Trong đền Vũ Hầu còn có một tòa
xây dựng rất đáng lưu ý mới được mở cửa năm 1984, đó là nhà triển lãm lịch sử của
thời Tam quốc. Khách vào đó sẽ được xem mọi chi tiết của những cuộc chiến long
trời lỡ đất của thời đại này cũng như những dấu tích còn lại của đời sống văn
hóa, xã hội và nghệ thuật của người dân hồi đó của cả ba nước Thục, Ngô, Ngụy.
Tại nước Ngụy thì viên tướng tài
chống lại được Khổng Minh là Tư Mã Ý. Về sau Ngụy diệt được nước Thục năm 265
nhưng ngai vàng lại bị cháu của Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm cướp, biến thành nhà Tấn.
Tư Mã Viêm là tay kiệt xuất, kéo quân diệt luôn nước Ngô năm 280, thống nhất
sơn hà, đời sau gọi là Tây Tấn.
Trên nước Trung Quốc thống nhất
mênh mông ngày nay, trong đó Tứ Xuyên không còn là biên địa nữa mà gần như nằm
giữa trung tâm, tôi thầm nghĩ ngày xưa dù ai thắng ai thì có lẽ bây giờ cũng thế
này thôi. Kẻ thắng người bại ngày nay đều chỉ là những nắm xương tàn mục. Thế
nhưng điều lưu danh với sử xanh là lòng trung liệt mà nổi bật nhất là Gia Cát
Lượng, Quan Công, Trương Phi. Lưu Bị mất, Lưu Thiện bất tài mà Khổng Minh không
có chút tơ hào vương tước, đúng là lòng "Cúc cung tận tụy, tử nhi hậu
dĩ" (hết lòng hết sức, đến chết mới thôi) như trong bài Tiền xuất sư biểu
của ông.
Còn Lưu Bị Quan Công Trương Phi,
điển hình kết nghĩa đó đã trở thành biểu tượng nhân nghĩa của xã hội Trung Quốc.
Trong trận đồ đẫm máu Tam quốc dài 60 năm, kẻ chiến thắng cuối cùng là Tư Mã
Viêm nhưng không ai thờ ông cả mà ngược lại ở đâu cũng có bàn thờ ba người anh
em kết nghĩa. Điều làm lòng người, bất cứ ở thời đại nào, xã hội nào, tôn thờ
khâm phục không phải là cơ đồ sự nghiệp mà là phẩm chất của con người, đó là điều
tôi rõ ra hơn bao giờ hết.
NHÂN
KIỆT KHÔNG ĐỜI NÀO THIẾU
Cách Thành Đô 16km về hướng tây
có một ngọn núi tên là Thanh Thành[27]. Đây là một ngọn núi với 37 đỉnh với rải
rác nhiều đền đài của Đạo giáo. Nơi đây, trong thời gian đầu công nguyên có một
đạo sĩ tên là Trương Đạo Lăng[28] đã thành lập Đạo giáo. Trương Đạo Lăng, tương
truyền là cháu bảy đời của Trương Lương, mới đầu học Nho giáo nhưng khi về già
học "Tiên thuật" của Lão giáo. Ông soạn ra sách "Đạo thư" gồm
24 thiên để làm cơ sở căn bản giáo lý của "Thiên sư đạo".
[27] - Qingcheng
Từ đó động của ông trong núi
Thanh Thành được gọi là Thiên sư động. Ngày nay tại đó có một đền thờ Trương Đạo
Lăng, trong đó còn lại một bức tượng của ông, đền kiến lập từ đời nhà Tùy
[589-618], nhưng được xây dựng lại cuối đời nhà Thanh (1644-1911]. Giáo lý của
Thiên sư đạo dựa vào tư tưởng của Lão Tử, phối hợp với bói toán chú thuật và lấy
phép phù thủy chữa bệnh giúp dân. Vì mỗi khi chữa bệnh, đạo sĩ được phần lễ tạ
năm đấu gạo nên đạo này còn được mệnh danh là "Ngũ Đẩu mễ" [29].
Trương Đạo Lăng phải là tiền bối của các đạo gia xuất chúng của Trung Quốc như
Vương Phù, Vương Khâm Nhã, Trương Quân Phòng, Lã Đồng Tân, Vương Trùng Dương.
[29] - Trích "Lịch
sử Phật giáo Trung Quốc", Thích Thanh Kiểm, Thành hội Phật giáo Tp Hồ Chí
Minh 1991
Trong số này có Lã Đồng Tân là
người sáng lập Toàn Chân giáo, điều hòa ba nguồn tư tưởng Khổng giáo, Lão giáo
và Phật giáo. Đến tận nơi, tôi mới thấy núi Thanh Thành quả là một ngọn núi
thâm u huyền bí, cảnh quan hầu như có thần. Tôi theo xe cáp leo tận đỉnh Thanh
Thành, nơi đó có hai cây Ginkgo, lá như cánh quạt, mỗi cây một ngàn năm tuổi đứng
chầu trước cửa đền. Đệ tử đạo giáo ngày nay không thiếu, họ mặc áo đen, đầu búi
tóc.
Tứ Xuyên còn hân hạnh được xem là
quê hương của Lý Bạch, một trong những thi hào vĩ đại nhất của Trung Quốc. Ông
sinh năm 701 tại Tây Vực, trong một vùng đất nào khuyết danh ở phía tây của Tứ
Xuyên, mẹ ông là người xứ đó. Nghe đến Lý Bạch suốt ngày ôm bầu rượu, cuối cùng
cũng vì rượu mà chết, ta dễ nghĩ ông là một thư sinh ốm yếu. Nhưng không phải,
do dòng mẹ là người Tây Vực, ông hết sức cường tráng, mười lăm tuổi đã rèn kiếm,
tự cho là "sức địch nổi muôn người".
Ông nhận Tứ Xuyên là quê hương,
viếng Thành Đô thăm đền Vũ Hầu, viếng Bạch Đế thành khóc Lưu Bị, lên núi Thanh
Thành đọc sách nhớ Trương Đạo Lăng. Ông lên cả núi Nga Mi bên bờ Mân Giang để
ngắm trăng, nghe Thục Tăng Tuấn đàn cầm. Nga Mi là ngọn núi cao hơn 3100m, trên
đó dưỡng khí đã loãng. Lên đó để ngắm trăng nghe đàn hẳn phải là người có sức của
lực sĩ. Nhưng Lý Bạch không phải nổi danh vì sức khỏe mà ông để lại cho đời một
nhân cách vô song và gần 20.000 bài thơ mà nội dung thì Đỗ Phủ cũng phải thán
phục "Bạch dã thi vô địch" [30].
[30] - Nhiều tư liệu
trong chương này được trích từ "Đường Thi tuyển dịch", Lê Nguyễn Lưu,
Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1997
Nếu Lý Bạch là "Tiên
thơ" thì Đỗ Phủ là "Thánh thơ" [31]. Đỗ Phủ cũng dùng bước rất
lâu tại Tứ Xuyên. Ông sinh năm 712, thua Lý Bạch 11 tuổi. Đời ông là đời đi
chơi, lấy chuyện đi chơi làm thú vị. Trên đường Tráng du [32] đó, năm 744 ông gặp
Lý Bạch tại Lạc Dương. Mùa thu năm sau hai người chia tay không bao giờ gặp
nhau nữa nhưng tình bạn gắn bó suốt đời. Đời ông khi làm quan, khi bị cách chức,
khi chịu loạn lạc, rất nhiều cay đắng. Ông nghèo tới mức có lúc phải đi lượm hạt
dẻ, đào hoàng tinh cho con ăn. Năm 48 tuổi, Đỗ Phủ đưa gia đình về Thành Đô, dựng
nhà trên hai mẫu đất hoang bên bờ Hoãn Hoa, viết thư xin bè bạn các loại hoa để
làm thành "Thành Đô thảo đường", nhà hướng về núi Nga Mi, đánh cờ với
vợ, câu cá với con, uống rượu với người hàng xóm.
[31] - Người thứ ba là
Bạch Cư Dị (772-846], được mệnh danh là "Sử thơ"
[32] - Đầu đề một bài
thơ của Đỗ Phủ
Thế nhưng đời ông vẫn không yên
vì sau đó lại xảy ra loạn lạc, ông chạy loạn một thời gian rồi năm 55 tuổi lại
về Tứ Xuyên, nhà ở gần Bạch Đế thành. Về sau ông cùng gia đình chạy loạn nữa và
chết trên thuyền năm 770. Ngày nay đến Thành Đô ta sẽ thấy một con sông nhỏ tên
là Hoãn Hoa, nó là một nhánh của sông Mân Giang. Trên bờ Hoãn Hoa, không xa miếu
Vũ Hầu Khổng Minh ta còn thấy "Thành đô thảo đường" xưa của Đỗ Phủ, kỷ
niệm ông sống ở đây bốn năm, từ 759 đến 763.
Tôi đến thảo đường cũ của ông,
ngày nay nó đã trở thành một khu vực nổi tiếng cho khách du lịch. Suối Hoãn Hoa
hầu như nước đọng không chảy, mơ màng dưới các cây cổ thụ. Bèo và lá vàng trên
suối được vớt thường xuyên cho nước được trong. Băng qua Hoãn Hoa là vài chiếc
cầu kiến trúc theo lối xưa, đưa ta đi từ tòa nhà này qua tòa nhà khác để giới
thiệu con người và thơ văn Đỗ Phủ. Tôi đến gần tượng của ông bằng đá đen. Bức
tượng này phải là một tác phẩm hết sức thành công. Đó là một khuôn mặt trí tuệ,
đồng thời có một nét bình dân gần gũi với quần chúng. Lạ thay, bức tượng đá mà
toát ra một chút đăm chiêu, một chút căm tức, đúng như con người của ông.
Thành Đô còn ghi dấu hài của một
nữ sĩ, đó là Tiết Đào (769-834]. Bà là người Trường An nhưng thân phụ làm quan
tại đất Thục nên bà lưu ngụ tại Thành Đô. Bà làm thơ từ năm lên tám lại xinh đẹp
lạ thường, giao du với những danh sĩ đương thời. Bạch Cư Dị, Vương Mục đều có
thơ xướng họa với bà. Phía nam Thành Đô ngày nay, bên cạnh đại học Tứ Xuyên, ta
còn lại một khuôn viên với một tòa lâu các gọi là Vọng Giang lâu, gồm bốn tầng,
cao 30m, là nơi có thể ngắm sông Mân giang. Tôi đến nơi thì Vọng Giang lâu đóng
cửa không còn cho khách lên lầu. Cách đó không xa có một cái giếng từ thời nhà
Đường, đó là nơi bà lấy nước để chế tạo thứ giấy hoa thông, một thứ giấy màu đỏ
thẫm, mang tên bà là "Tiết đào tiên". Miệng giếng rất lớn, đường kính
dễ chừng 5m, nay đã được nắp gỗ đậy kín. Thú vị nhất là ta tìm thấy trong công
viên này một vườn trúc với 140 loại được trồng tặng bà vì Tiết Đào là người yêu
trúc.
Khoảng 300 năm sau Tiết Đào có một
tăng sĩ kỳ dị tu trong chùa Chiêu Giác ở Thành Đô. Đó là Viên Ngộ Khắc Cần
(1063-1135]. Thầy của ông là Pháp Diễn. Ngày nọ Pháp Diễn nói chuyện xong với một
viên quan đề hình (cảnh sát thời nay) xong hỏi Viên Ngộ: "Thế nào là ý Tổ
sư sang?". Hỏi xong Pháp Diễn tự trả lời: "Cây bách trước sân, xem
xem". Tưởng Pháp Diễn nói chơi thế thôi nào ngờ Viên Ngộ nghe xong đại ngộ!
Về sau, Viên Ngộ trở thành thiền sư xuất chúng và với môn đệ của ông, dòng thiền
Trung Quốc phất lên một lần nữa trước khi tàn lụi. Viên Ngộ là người soạn tập
công án Bích Nham Lục và cuốn sách khó hiểu này trở thành tác phẩm quan trọng
nhất của Thiền tông.
Trong tác phẩm này Viên Ngộ lấy
nguồn gốc là những công án của Tuyết Đậu Trùng Hiển [33], thêm vào những bình
giải của mình. Những lời bình đó lại cực kỳ tuyệt hảo về văn chương đến nổi người
đọc dễ đâm ra mê văn chương hơn là nội dung công án, vướng vào chữ nghĩa, phản
lại tinh thần "bất lập văn tự" của thiền. Học trò của Viên Ngộ là Đại
Huệ Tông Cảo [34] thấy cơ nguy đó nên đem đốt Bích Nham lục. Mãi đến thế kỷ 14
có một cư sĩ trên là Trương Minh Viễn đi góp nhặt lại, tham khảo mọi nơi và xuất
bản lại nên ngày nay ai cũng có thể đọc Bích Nham lục. Thế nhưng đọc là một
chuyện, hiểu được là một chuyện khác.
[33] - 980-1052
[34] - 1089-1163
Thành Đô, thủ phủ nước Thục, tưởng
là một miền biên địa hạ tiện, không ngờ là chỗ ghi dấu của đạo sĩ, thi sĩ và
thiền sư. Thế nhưng điều đó không có gì là lạ tại Trung Quốc, vì đạo sĩ, thi sĩ
và thiền sư khắp nơi đều có trong xứ sở mênh mông này. Đạo, Thơ và Thiền, đó là
ba suối nguồn tâm linh quan trọng nhất của học thuật Trung Quốc và điều kỳ lạ
là chúng đan quyện vào nhau, ảnh hưởng chan hòa lên nhau.
Tư tưởng chủ yếu của Đạo là ngắm
nhìn thiên nhiên và trực nhận quy luật bao trùm trời đất, từ đó mà rút ra phép
hành động cho con người. Cái nhận thức của Đạo là tri kiến trực giác từ thiên
nhiên, cái hành động của Đạo là làm mà không tác ý. Vì những lẽ đó mà Đạo tìm
nơi thơ phú khả năng diễn đạt tuyệt vời nhất. Thi nhân Trung Quốc qua của bao
thế hệ thường là những người tìm cảm hứng nơi thiên nhiên, dùng thiên nhiên để
diễn tả nội tâm. Thơ của họ tuy ngắn nhưng là bức tranh sinh động về thiên
nhiên, tâm hồn của họ chính là tâm hồn của Đạo.
Còn ảnh hưởng của Đạo giáo lên
Thiền tông cũng là điều rất rõ. Thiền chủ trương trở về với tự nhiên, "tâm
bình thường là đạo" [35], vì vậy mà rất gần với Đạo giáo. Thiền Trung Quốc
là sự phối hợp hài hòa giữa giáo lý của các thiên tài tôn giáo Ấn Độ và cốt tủy
của văn hóa Trung Quốc để trở thành một tông phái độc lập, nhất là sau Lục Tổ
Huệ Năng. Với Huệ Năng thiền Trung Quốc dám từ bỏ cả Kinh Nhập Lăng Già của Đạt-ma
từ phương xa mang qua Trung Quốc, vì thế mà có chuyện Lục Năng xé kinh, Đại Huệ
đốt Bích Nham Lục. Schumann viết "Thiền tông có một người cha Ấn Độ nhưng
nếu không có người mẹ Trung Quốc thì đã không trọn vẹn"[36].
[35] - Lời của thiền sư
Nam Tuyền (738-835]
[36] - W.Schumann,
Mahayana-Buddhismus (Đại thừa Phật giáo), Eugen Diederichs Verlag 1995
Cuối cùng, nhiều thi sĩ cũng là
thiền sư như Vương Duy, được người đời mệnh danh là "Thi Phật", Tô
Đông Pha, cư sĩ đạt đạo, đồng thời cũng là một trong "bát đại gia" của
Trung Quốc. Truyền thống vừa tu thiền vừa làm thơ cũng thể hiện rõ nét trong
các thiền sư đời Lý, Trần của Việt Nam.
Ngày nay, tiếc thay ba suối nguồn
tâm linh Đạo, Thơ và Thiền hầu như đã tắt lịm tại Trung Quốc. Thiền tông, với
đúng nghĩa "dĩ tâm truyền tâm" đã tàn lụi từ đời nhà Tống. Đạo gia với
câu "Không ra khỏi cửa, mà biết được việc thiên hạ" [37] ngày nay đã
bị nền học thuật chính thống hiện đại của Trung Quốc coi khinh, chế giễu. Và
thơ, nhất là thơ Đường chắc chắn không bao giờ trở lại được thời kỳ vàng son của
mình. Thậm chí có người nói với tôi, khẩu âm Trung Quốc đọc thơ Đường cũng còn
chẳng hay nữa, chỉ còn khẩu âm Việt Nam mới may ra!
[37] - Đạo Đức Kinh:
"Bất xuất hộ, tri thiên hạ".
Chương
16: Nga Mi Sơn (Emeishan)
Lý Bạch, nhà thơ đã từng leo lên
Nga Mi sơn để ngắm trăng và nghe đàn cầm đã viết về ngọn núi này: "Nga Mi
cao xuất Tây Cực thiên, La phù trực dữ thanh minh tế" (Ngọn Nga Mi cao quá
trời Tây phương cực lạc, Bao la cây cỏ khoảng trời xanh).
Bao nhiêu năm tháng trước Lý Bạch,
Tạp Hoa Kinh (một tên khác của Hoa Nghiêm Kinh) cũng nhắc tới Nga Mi bằng những
dòng: "Phổ Hiền hóa nhân thiên đẳng chúng, hiện tướng hải ư Hoa Mi
sơn" (Phổ Hiền hóa người trời các loại, Hiện tướng nhiều như biển ở Hoa Mi
sơn). Huyền sử chép Nga Mi sơn là trú xứ của Bồ-tát Phổ Hiền, không những thế
nơi đây còn có cả một cái ao mà Phổ Hiền từng tắm cho con voi sáu ngà của mình.
Nga Mi sơn nằm ở phía nam tỉnh Tứ
Xuyên, cách Thành Đô 160km về phía tây nam, với đỉnh cao nhất là Vạn Phật đỉnh
đo được 3099m. Đường lên núi Nga Mi hết sức cheo leo với hai đường đèo, một
phía bắc dài 44km, đường kia phía nam dài 66km. Sau đó ta phải đi bằng dây cáp
mới lên được tới đỉnh. Tôi lên đỉnh gặp một ngày nắng tốt, thông thường ở đây
mây mùa bao phủ quanh năm vì Nga Mi sơn nằm không xa hai dòng Mân giang và
Thanh Y giang. Lên tới đây không khí đã loãng, đi vài bước ta đã hụt hơi.
Thật là một cảnh tượng sơn kỳ thủy
tú tôi chưa từng thấy. Đường đi quanh co, cứ qua khỏi một khúc quanh, cảnh vật
lại hiện ra khác lạ. Vách núi chập chùng cao như dựng ngược. Thác đổ nước trắng
xóa xuống những con suối sâu chảy lẫn trong lá. Đây là chốn thần tiên của kỳ
hoa dị thảo. Và khi lên đến nơi, tới Kim Đỉnh, ta đứng trên ngọn Đại Nga chót
vót với một độ cao 3077m, "bao la cây cỏ khoảng trời xanh". Đây hẳn
là nơi Lý Bạch ngắm trăng rồi viết bài thơ "Nga Mi sơn nguyệt ca" và
nghe Thục tăng Tuấn đánh đàn cầm. Ngày xưa hẳn ông phải đi bộ lên đây bằng những
bậc tam cấp đá xanh, tôi không rõ đi bao lâu thì tới, nhưng nếu không tới Kim Đỉnh
thì khỏi thấy "trời xanh" hay "trăng thu" vì dưới đó xung
quanh toàn là vách núi.
Lý Bạch không phải là người đầu
tiên lên đây. Từ thời Đông Hán (25-220] ở đây đã có Kim Đỉnh Phổ quang điện. Đến
khoảng đời nhà Đường, nhà Tống, tại Nga Mi sơn được xây dựng rất nhiều. Sau đó
đời Minh, Thanh là những thời cực thịnh của Nga Mi sơn. Rải rác trong rặng Nga
Mi sơn này là 200 đền đài tự viện, là chốn thiêng liêng của Phật giáo Trung Quốc.
Ngày nay trên Nga Mi sơn còn khoảng 20 ngôi chùa còn được bảo tồn và đang tu sửa.
Đến Kim Đỉnh tôi thăm được Hoa Tạng
tự. Đây là chùa xưa nhất và được trùng tu vào đời Thanh (1866]. Gần đó là Ngọa
Vân am, trong đó có một tấm bi đồng có xuất xứ từ đời nhà Minh. Tại Kim Đỉnh
người ta có thể thấy một hiện tượng gọi là "Phật Quang", là ánh cầu vồng
hình tròn gồm có bảy màu thường xuất hiện lúc giữa trưa khi người xem đứng trên
Đỗ Quang đài. Đó là một trong ba cảnh đẹp nhất của Kim Đỉnh: Phật quang, cảnh mặt
trời mọc và biển mây xung quanh Kim Đỉnh.
Tại Kim Đỉnh ta có thể đảnh lễ Phổ
Hiền và quán đại nguyện của Ngài mênh mông như bầu trời, như ánh dương vừa mọc,
như biển mây bao la, như cầu vồng ngũ sắc. Còn nếu muốn tham bái tượng Phổ Hiền
thì hãy đến chùa Vạn Niên tự nằm ở độ cao 1020m của Nga Mi, tương truyền Phổ Hiền
đã nghỉ chân tại đây. Chùa này được xây đời Tấn (265-420], bị hư hại nhiều lần,
đến đời nhà Minh được trùng tu lại. Năm 1946 chùa bị hỏa hoạn, nay chỉ còn
"Chuyên điện" (điện đá nung). Điện này được xây từ đời nhà Tống, có
hình vòm, không cần cột kéo chống đỡ. Trong điện có tượng Phổ Hiền bằng đồng
cao 7,3m, nặng 62 tấn và trên vòm tháp có khoảng 3000 tượng Phật nhỏ.
Nếu Văn-thù Sư-lợi cưỡi sư tử
xanh và đại diện cho trí huệ thì Phổ Hiền được trình bày ngồi trên voi trắng và
đại diện cho hành động. Văn-thù và Phổ Hiền là sự hợp nhất giữa trí huệ và hành
động, đại diện cho nguyên lý "tri hành hợp nhất". Vì thế mà hai vị Bồ-tát
này hay được thờ tả hữu bên cạnh đức Phật. Đại nguyện của Phổ Hiền trong hành động
thường được gọi là "Phổ Hiền thập nguyện" [38], được nhắc nhở trong
hai kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm.
Muốn có đại nguyện hành động như
Phổ Hiền, tức là "thể nhập hành Phổ Hiền", đó là điều không dễ, nó phải
có trí tuệ của Văn-thù. Nói theo văn chương thông thường, muốn hành động phải
có trí; muốn có hành động to lớn phải có trí to lớn, muốn có đại hạnh phải có đại
trí. Và ngược lại muốn có trí đích thực thì con người phải tự mình nếm trải, tự
mình hoạt động. Và muốn có đại trí vượt trên nhị nguyên để hiểu Tính Không thì
phải có đại hạnh bao la của Phổ Hiền, trong đó cái cá thể đã bị vượt qua. Cái
"tri" và "hành" nằm trong một thể thống nhất của hai mặt biện
chứng mà chúng ta có thể chứng ngộ trong phạm vi nhỏ.
Hãy trở lại với Thiện Tài, nhờ
nghe Văn-thù giảng các pháp môn mà Thiện Tài mới "thâm nhập được vào đạo
trường của hành Phổ Hiền" [39] và khi ở trong đạo trường đó, Thiện Tài tận
mắt trông thấy trong mỗi "hạt bụi nhỏ đều chứa đựng trọn vẹn công đức Phổ
Hiền". Đó chính là "tất cả trong Một, Một trong tất cả", cốt lõi
của Kinh Hoa Nghiêm, cái đại trí của Văn-thù Sư-lợi. Kinh sách Đại thừa nhắc đến
khoảng 200 vị bồ-tát và mỗi vị ra đời cũng vì hành động cho thế gian.
[38] - Đó là: 1.Kính lễ
chư Phật, 2. Xưng tán Như lai, 3. Rộng tu cúng dường, 4. Sám hối nghiệp chướng,
5. Tùy hỉ công đức, 6. Thỉnh chuyển pháp luân, 7.Thỉnh Phật tại thế, 8. Thường
theo học Phật, 9. Luôn thuận chúng sinh, 10. Hồi hướng cho tất cả
[39] - Trích Kinh Hoa
Nghiêm, Việt dịch của Thích Nhất Chân
Tại Trung Quốc năm vị được tôn
kính nhiều nhất, đó là Di-lặc, Phổ Hiền, Quan Âm, Văn-thù và Địa Tạng, mỗi vị
chủ đạo một hướng khác nhau trong việc giáo hóa và cứu độ. Thế nhưng trong các
vị thì hành động của Phổ Hiền, "hạnh" của Ngài, là to lớn nhất bao
trùm nhất, tổng kết tất cả mọi hoạt động khác. Vì thế mà Phổ Hiền được gọi là bậc
"đại hạnh" và cũng là vị cuối cùng trong Kinh Hoa Nghiêm mà Thiện Tài
gặp gỡ sau khi đi tìm gặp hơn 50 vị thiện tri thức khác. Với Phổ Hiền, Thiện
Tài cầu "Bồ-tát hành, nhất thiết trí" và đó chính là mục đích cuối
cùng của bồ-tát đạo của Đại thừa Phật giáo.
Nga Mi sơn xứng danh với hạnh
nguyện vô tận của Phổ Hiền với vách núi, biển mây, bao la như không gian, rực rỡ
như hoa lá. Đó là ngọn núi cao nhất của Trung Quốc mà tôi lên được tới đỉnh,
trên đó tôi thở dốc vì thiếu dưỡng khí. Tôi cũng hụt hơi vì đại trí của
Văn-thù, đại hạnh của Phổ Hiền quá cao xa, quá khó tới. Thế nhưng bài học tôi
ngẫm nghĩ được trên ngọn núi này là nhận thức và hành động phải đi đôi với
nhau, nó không phải là bài học luân lý đạo nghĩa mà là phương cách nhận thức.
Nó nói rằng nhận thức đích thực chỉ xuất hiện trong hành động. Nhận thức dẫn đường
cho hành động nhưng chỉ hành động mới đem lại tri kiến đích thực.
NHỮNG
KÍCH THƯỚC VĨ ĐẠI
Từ chân núi Nga Mi có con đường số
31 đi về phía đông, cách khoảng 30km là một thị trấn nhỏ tên gọi là Lạc sơn
(Leshan). Lạc sơn là chỗ tụ hội của ba con sông Mân Giang, Thanh Y giang và Đại
độ hà. Ba con sông này nhập lưu nơi đây nên chỗ này nước xoáy, sóng dữ, xưa nay
ghe thuyền bị đắm rất nhiều.
Ngày nọ có một tăng sĩ tên là Hải
Thông đi qua, thấy thuyền bè đi lại rất nguy hiểm, ông quyết xây nơi đây một tượng
Phật thật lớn mà người Trung Quốc gọi là "Đại Phật". Ông lựa một ngọn
núi đá nhìn ra hướng ba con sông, quyên tiền bạc của cải để bắt đầu công trình
xây dựng. Viên quan địa phương thời đó thấy ông có tiền của, đòi chia chác. Ông
khẳng khái từ chối, nói đó là tiền của bá tánh quyên góp, không phải là tiền của
ông và nói thêm, nếu của ông thì ông không tiếc gì cả. Viên quan nọ hỏi xin thử
mắt ông, nào ngờ Hải Thông móc mắt đưa ngay. Việc làm đó dĩ nhiên làm người thần
đều sợ, Hải Thông bắt đầu công trình xây dựng, đó là năm 713, đời nhà Đường.
Hải Thông xây dựng đến cuối đời
mình vẫn chưa xong, sau khi ông chết nhiều tăng sĩ tiếp tục công trình. Đến năm
803, chín mươi năm sau, Đại Phật Lạc sơn hoàn thành, ngày nay là tượng Phật đẽo
từ đá lớn nhất thế giới. Đó là tượng Phật Di-lặc cao 71m, đẽo từ một vách đá,
lưng dựa vào núi Long Vân, mặt nhìn ra sông, mắt ngang 3,3m, tai dài 7m, vai rộng
24m, trên bàn chân đứng được 100 người. Khí độ tượng Phật hùng vĩ, xứng đáng với
câu "Sơn thị nhất tôn Phật, Phật thị nhất tòa sơn" (Núi là một vị Phật,
Phật là một ngọn núi). Sau khi tượng hoàn thành tàu bè không còn bị đắm. Nhiều
người cho rằng lúc xây dựng, đá núi được đổ xuống sông và biến đổi lòng sông một
cách thuận lợi, chế ngự được các dòng nước xoáy. Nhiều người khác cho rằng Di-lặc
mà nhìn ra sông thì dòng sông là nguồn ân phước vô tận.
Lạc sơn thực ra là một thị trấn
nhỏ nhưng nhờ Đại Phật lớn nên ngày nay đã trở thành một đô thị phồn vinh với
nhiều du khách. Đây là nơi của trung tâm bảo tồn vùng Nga Mi-Lạc sơn, theo công
thức mà người Trung Quốc ưa nói "Lên Nga Mi đảnh lễ Phổ Hiền, xuống Lạc
sơn tham bái Di-lặc". Đến Lạc sơn tôi được biết thêm ngày xưa tượng Đại Phật
này có thêm một tòa lâu đài cao 13 tầng che chở bức tượng, gọi là Đại tượng
các, nhưng đã bị hủy cuối đời nhà Minh. Thế nhưng mưa gió bao thế kỷ không hề hấn
gì đến tượng Di-lặc bằng đá, có chăng là trên đầu, vai, tay áo của tượng rêu
phong đã bám xanh rì.
Hai bên tả hữu bức tượng có đường
đi từ dưới chân Đại Phật lên núi Long Vân, trên đó có chùa Linh Bảo với tháp gạch
cao 38m xây trong đời nhà Tống. Cũng tại đó ta có thể thấy tượng Hải Thông mà
khuôn mặt và điệu bộ cương quyết của ông hầu như còn truyền đạt ý chí sắt đá của
người xưa.
Rời Lạc sơn vài km là không còn
thấy du khách đâu nữa, chúng tôi đi hướng bắc để đến Bát long đảo. Trên dòng
Thanh Y Giang tôi lạc vào một "quốc độ" chỉ toàn là tháp tượng, đó là
"Thiên tháp Phật quốc" tại Tào Ngư Than. Nơi đây, tuy không đến ngàn
ngôi tháp như tên gọi nhưng con số cũng lên đến 108 ngọn tháp, không tháp nào
giống tháp nào, tất cả đều được tạc bằng "nhã thạch". Cảnh vật u tịch
ở đây làm tôi nhớ đến chùa Linh Mụ và điện Hòn Chén ở Huế. Cả hai nơi đều là cảnh
thanh sơn thủy tú, sông liền núi, núi ngăn sông. Điều khác biệt với xứ Huế bé
nhỏ là người Trung Quốc không ưa những con số nhỏ, những kích thước bé. Lẫn
trong 108 ngọn tháp đó là một tượng Phật nhập Niết bàn dài 45m, cao 12,5m. Giữa
núi rừng cô tịch, nhìn xuống là nước, nhìn lên là núi, giữa vô số tượng tháp và
trong mùi hương trầm quen thuộc, tôi bỗng nhớ thượng nguồn sông Hương tha thiết.
Những ngày xưa ấy hiện về rõ mồn
một với màu nước trong xanh, với lòng kính sợ khi đi thuyền qua trước điện Hòn
Chén. Đó là ngôi điện nằm đúng chỗ miệng con rồng vĩ đại, một nhánh của Trường
sơn, cúi mình hút nước sông Hương. Đó phải là nơi mà ngày xưa còn rất nhỏ, tôi
đã cảm thấy giữa trời đất này phải có cái gì thiêng liêng, nó không thể chỉ là
cát đá trơ trụi được. Thế giới không thể chỉ là vài hạt điện tử quay vòng vòng
xung quanh hạt nhân được, tôi tự nhủ khi lớn lên. Tuy thế nếu hỏi cái thiêng
liêng đó là gì, không ai trả lời được rõ ràng. Ngày nọ nghe Goethe, nhà thơ lớn
nói: "Giữa trời và đất hẳn phải có cái gì khác nữa", tôi thấy mình
không đơn độc lắm, nhưng nhà thơ và cũng nhà bác học người Đức đó cũng chẳng
nói gì thêm. Ông không biết hay biết mà không muốn nói?
Không phải chỉ Goethe, nhiều người
phương tây dường như cũng khắc khoải về "cái gì đó nằm giữa trời và đất".
Tôi nhớ đến câu chuyện của một phi hành gia. Ông ta tự hỏi, mình đi bao nhiêu tầng
trời rồi mà chẳng thấy Chúa đâu cả. Một nhà giải phẫu đáp lại, ông đã mổ bao
nhiêu cái đầu rồi mà cũng không thấy tư tưởng đâu cả. Xem ra, cái thiêng liêng
đó không phải là thứ để ta thấy, để ta có thể sờ mó được. Nó nằm ngoài năm giác
quan của ta nhưng nó thâm nhập và điều hành mọi sự. Đã bốn mươi năm trôi qua kể
từ lòng kính sợ ngày xưa tại điện Hòn Chén đến ngày nay được hân hoan đứng trước
tượng Đại Phật nhập niết bàn tại Hồng Nhã Tứ Xuyên, tôi cũng không biết rõ hơn
bao nhiêu cái thiêng liêng đó thực chất là gì. Thế nhưng điều tôi hiểu rõ là
câu hỏi nọ của mình ngày trước không hề là thắc mắc của trẻ con khờ dại mà là vấn
đề trọng đại nhất của con người.
ĐẠI
TÚC (Dazu), THẠCH ĐỘNG NGỦ QUÊN
Cách Trùng Khánh về hướng tây khoảng
100km có một vùng hoang dã ngủ yên trong rừng núi. Một ngày nọ trong năm 1939,
một giáo sư ngành kiến trúc tình cờ đến thăm và khám phá những tác phẩm điêu khắc
tuyệt đẹp nằm trong nhiều hang động. Nhiều người bắt đầu đến tham quan thì chiến
tranh thế giới nổ ra và Trung Quốc lâm vào cảnh nội chiến triền miên mà Trùng
Khánh là một trong những căn cứ địa của Quốc Dân đảng. Sau ngày hòa bình lập lại
nhiều người lại đến thăm nơi đây, thế nhưng lại có một loạt xáo trộn mới xảy
ra, mang tên cách mạng văn hóa.
May thay có một người cứu những
tác phẩm điêu khắc đó trong phút cuối cùng, trước khi chúng bị phá hủy. Người
đó là Chu Ân Lai, Thủ tướng thời đó của Trung Quốc và các hang động đó là Đại
Túc Thạch quật. Về sau tôi biết thêm ông đã cứu nhiều đền đài tượng tháp của đạo
Phật, trong đó có chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu. Có người không ngại gọi ông là một
vị hộ pháp. Có người phá hoại thì cũng có kẻ cứu hộ, điều đó xảy ra trong lịch
sử Trung Quốc rất thường.
Đại Túc không hề là một nơi hoang
dã như ta tưởng. Huyền sử chép rằng đức Phật đã đặt chân tại một hồ nước ở Bảo
đỉnh sơn tại Đại Túc, vết chân dài đến 2m, vì thế thị trấn xa xôi này có tên Đại
Túc (chân lớn). Sự thật lịch sử là cuối đời Đường, thời Đường Vũ Tông, Phật
giáo bị bức hại, nhiều tăng sĩ bỏ Trường An chạy về Tứ Xuyên đến Đại Túc. Về
sau khoảng cuối thế kỷ thứ 9, có một viên tướng tên là Vĩ Quân Tinh [40]chống lại
triều đình ở Thành Đô, ông rút về Đại Túc, núi Bắc sơn, cho quân đẽo núi đá tạc
hình tượng Phật để cầu nguyện.
[40] - Trích tư liệu do
chùa Khánh Anh, Paris phát hành
Trong khoảng 250 năm sau, trong
thời Ngũ Đại (907-960] và đời Tống (960-1279], ảnh hưởng Phật giáo trong vùng
này rất mạnh. Từ đó mà phát sinh vùng Đại Túc với khoảng 70 khu vực gồm 50.000
tượng Phật nằm rải rác, mà hai thạch động tại Bắc sơn và Bảo đỉnh sơn - hai bên
cách nhau khoảng 20km - là quan trọng nhất. Có xem Đại Túc rồi tôi mới thấy tầm
vóc của nó ngang hàng với Vân Cương thạch quật đã trình bày trong các chương
trước.
Tại Bắc sơn, cách Đại Túc khoảng
2km, ta thấy một động đá cao khoảng 7m, dài 500m, trong đó là vô số tượng đẹp. Ở
phía nam của động là các tượng tạc trong thế kỷ thứ 9, 10, hình vóc đầy đặn áo
quần giản dị, đó là nghệ thuật đời Đường và Ngũ Đại. Ở phía Bắc là các tượng đời
nhà Tống, thế kỷ thứ 12, vóc gầy nhưng nhiều trang sức, quần áo cầu kỳ. Nơi
đây, sau khi viếng Ngũ Đài và Nga Mi, tôi được gặp lại Văn-thù cưỡi sư tử và Phổ
Hiền ngồi voi trắng. Trong các tượng tại Bắc sơn thì tượng Nhật Nguyệt Quan Âm
có lẽ đẹp nhất. Về sau tôi mới biết mình sẽ còn đến đảnh lễ Quan Âm tại Phổ Đà
sơn.
Đi về phía bắc của Đại Túc ta đến
một nơi gọi là Đại phật loan nằm dưới chân núi Bảo đỉnh sơn. Nơi đây trong thế
kỷ thứ 12 có một danh tăng trên là Triệu Chí Phụng. Ông là người khởi công xây
dựng thạch quật này từ năm 1179. Suốt 70 năm nhiều thế hệ nghệ nhân đã lao động
nơi đây để ngày nay ta có khoảng 10.000 tượng Phật để chiêm bái.
Triệu Chí Phụng là một tăng sĩ Mật
giáo kỳ bí. Ông là người được truyền pháp Kim Cương đảnh của Du-già bộ Mật giáo
[41] từ Kim Cương Trí[42]. Kim Cương Trí là người Ấn Độ, là một trong ba đại sư
truyền bá Mật Tông tại Trung Quốc. Triệu Chí Phụng tự tay tạc nhiều tượng tại Bảo
đỉnh sơn, trong đó nhiều tượng Tì-lô-giá-na và nhiều vị bồ-tát rất lạ, trình
bày quan niệm về vũ trụ của Mật giáo [43]. Động quy mô nhất hẳn phải là động
Viên giác, trình bày ba vị Phật của ba thân: Pháp thân, Báo thân, Ứng thân. Hai
bên là 12 vị bồ-tát, mỗi vị có vẻ mặt và thế ngồi khác nhau.
[41] - Trích Phật Quang
đại từ điển, 1994
[42] - 671-741
[43] - Xem
"Kumbum", man-đa-la vĩ đại" trong phần thứ tư
Nhiều sách nước ngoài cho rằng bức
tượng quan trọng nhất là Quan Âm với 1002 cánh tay (có nơi ghi 1007], tỏa ra
chiếm một diện tích 88m2. Trong các động ở Bảo đỉnh sơn ta còn thấy rất nhiều
"biến tướng" của kinh sách Mật tông như Đại Bảo, Quảng bá lâu các,
Thiện trụ bí mật đà là kinh. Ngoài ra có các kinh hiển giáo như Kinh báo ân phụ
mẫu, diễn tả công dưỡng dục của cha mẹ. Nhiều sách nước ngoài không biết tích
kinh, cho rằng đó là thạch tượng mô tả "đời sống hàng ngày". Tranh Thập
mục ngưu đồ của Thiền tông cũng được đẽo trên vách đá, trông rất hóm hỉnh, sau
gần 1000 năm mà tương đối còn được bảo tồn.
Bảo đỉnh sơn là một công trình
nói lên sự hòa nhập hiếm thấy của hai tông phái Mật tông và Thiền tông tại
Trung Quốc. Lịch sử Phật giáo Trung Quốc thường hay trình bày Mật tông như một
tông phái cực đoan tả đạo. Tôi cho rằng, khi đã nhận là mật giáo, Mật tông cũng
chẳng cần ai hiểu và muốn hiểu Kim Cương thừa, hành giả cần phải được quán đỉnh
trong một môn phái nhất định. Giữa Mật và Thiền tông có những cái rất chung, mặt
dù mặt ngoài hai bên khác nhau rất nhiều, tôi tự nhủ. Tôi nhớ lại cuộc đời của
84 vị thành tựu giả của Ấn Độ, các vị đó sống trong thế kỷ thứ 8 đến 11, tức
cũng đúng là thời của nhà Đường nhà Tống, thời vàng son của Thiền tông Trung Quốc,
mà cũng là thời xây dựng các thạch động này tại Đại Túc. Kỳ lạ thay thời gian
đó, đó là thời kỳ của các thiền sư chủ trương "thấy tánh" là thành Phật,
của các vị thành tựu giả chỉ cần quán ngộ Tính Không là đủ nhập vào "cõi của
không hành nữ Dakini" [44]. Đó cũng là thời kỳ của Từ Đạo Hạnh, Không Lộ,
Giác Hải tại Việt Nam, những vị hít thở không khí của Mật và Thiền tông. Các vị
đó chính là những đại thành tựu giả của Việt Nam, những kẻ thong dong ra vào chốn
sinh tử, đã đạt "thần thông kiêm biến hóa"[45]. Các vị cũng là thiền
sư đạt đạo, đã siêu việt vượt trên chuyện có-không: "Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không" (Có thì muôn sự có, Không thì tất cả không)
[46].
[44] - Theo quan điểm của
Kim cương thừa, đó là nơi không còn sự tái sinh
[45] - Thơ của vua Lý
Nhân Tông khen Giác Hải
[46] - Kệ của Từ Đạo Hạnh
(mất năm 1115]
Bao giờ trở lại đồng Bương Trấn,
Lên núi Sài Sơn ngắm lúa vàng[47].
[47] - Trích Đôi mắt
người Sơn Tây, thơ Quang Dũng
Ngay giữa Trung Quốc mà tôi bỗng
nhớ chùa Thầy tại núi Sài Sơn tha thiết, biết bao giờ mới sống lại thời gian
tuyệt đẹp đó. Sài Sơn thuộc tỉnh Hà Tây chỉ cách Hà Nội có 25km. Cũng như Đại
Túc ghi dấu chân Phật thì Sài Sơn ghi dấu chân Từ Đạo Hạnh. Các bậc đắc đạo,
các vị tu Mật tông thường có dấu ấn của mình theo cách đó. Tôi yêu thích Phật
giáo Việt Nam thời Lý Trần vì đó là nơi dung hợp giữa Thiền và Mật tông, không
chút phân biệt. Cũng như Thiền tông có đức Thích-ca là sơ tổ môn phái mình thì
trong Mật tông cũng thế, Pháp thân, Báo thân của Phật đã truyền Mật giáo cho
Kim cương tát-đỏa và từ đó được mật truyền về sau. Thiền cũng như Mật tông chỉ
là hai môn phái trong vô số pháp môn của đạo Phật, ta không nên rơi vào cạm bẫy
thường tình của tư tưởng để phê phán so đo đúng sai, chúng tùy thuộc vào căn cơ
trình độ của hành giả, tôi tự nhủ.
Chương
17: Trường Giang Tam Hiệp
Trung Quốc có bốn biểu tượng lớn,
đó là Hoàng Hà, Trường Giang, Hoàng sơn và Vạn Lý trường thành. Hoàng Hà và Trường
Giang có cùng một quê hương là cao nguyên Tây Tạng, đó là suối nguồn của nhiều
con sông lớn khác của châu Á, trong đó có sông Cửu Long của chúng ta. Giữa Trường
Giang và Hoàng Hà thì Trường Giang có lẽ quan trọng hơn trong đời sống kinh tế
và xã hội, lịch sử và văn hóa của Trung Quốc.
Trường Giang (Changjiang) cũng
còn có tên là Dương Tử Giang với 6600km là con sông dài nhất châu Á, đứng hàng
thứ ba [36] trên thế giới, chảy qua tám tỉnh của Trung Quốc, chia sơn hà xứ này
ra hai miền nam bắc. Trường Giang quá rộng nên ngày xưa không có cầu nào bắc
qua nổi, người ta chỉ đi bằng thuyền. Người vượt Dương Tử nổi tiếng nhất có lẽ
là Bồ-đề Đạt-ma, ông qua sông bằng một chiếc lá con, đi từ Nam Kinh lên núi Thiếu
Lâm tại Tung sơn, sau khi truyền ý chỉ cho Lương Vũ Đế không thành. Đó là thế kỷ
thứ năm. Ngày nay tại Nam Kinh, Vũ Hán và Trùng Khánh đã có cầu bắc ngang sông.
[36] - Hai sông kia là Amazona và
Nil
Bắt nguồn từ một độ cao 5600m, vượt
qua bao thác ghềnh núi non để chảy ra biển ở Thượng Hải, sông Trường Giang dẫn
nước luồn lách đi qua bao nhiêu miền linh địa kỳ dị, là kẻ chứng kiến biết bao
điều đã nằm trong bóng tối của lịch sử, là nguồn cảm khái vô tận của các thi
hào. Từ Trường Giang sinh ra khoảng 700 con sông con mà tới nhìn tận mắt tôi mới
hay chúng chẳng nhỏ bé chút nào. Những sông hồ đó cũng rất nổi tiếng như sông Mịch
La của Khuất Nguyên, Tiền Đường của nàng Kiều, Động Đình Hồ của Lý Bạch.
Sông Trường Giang cũng là chứng
nhân của các cuộc chiến đấu trong lịch sử đầy nội chiến và ngoại xâm của Trung
Quốc, từ thời Tam Quốc xa xưa đến thời cận đại này. Con sông này với lưu lượng
khủng khiếp đã hòa máu của bao người trong dòng chảy của nó, nó đã ghi hình ảnh
đầy gió và lửa tại Xích Bích của đầu công nguyên này và với việc Trung Quốc dời
đô về Trùng Khánh trên, Trường Giang không quên một nước Trung Quốc suy nhược bị
Nhật chiếm cứ và xâu xé.
Thế nhưng vượt lên tất cả những uẩn
khúc của lịch sử là phong cảnh lạ lùng của Trường Giang vì dòng chảy từ tây
sang đông của nó đã dẫn dòng sông uốn lượn dưới những hẻm núi hiểm trở với những
vách đá hầu như dựng đứng tới mây. Đó là những vùng núi non trùng điệp của Vu
sơn mà Trường Giang đã tìm đường len lỏi dưới những hẻm sâu. Những đoạn sông nằm
giữa hai vách núi dựng đứng được gọi là "hiệp" và từ đó mà sinh ra
"Trường Giang tam hiệp", ba hẻm sông nổi tiếng xưa nay đã thu hút
hàng thế hệ đến viếng và ngày nay trên thế giới nó đã thành một điểm tụ hội của
du khách, chỉ đứng sau Vạn Lý trường thành. Đi qua tam hiệp này cũng là sống lại
một thời lịch sử của Trung Quốc, cũng là nơi đọc lại vài trang huyền sử và nhiều
bài thơ tuyệt diệu của các thi hào bất tử.
Muốn ngắm Trường Giang tam hiệp
ta không có nào khác hơn là đi tàu dọc đường thủy, đó là khoảng giữa Phong Đô
và Nghi Xương, đoạn sông dài khoảng 200km. Thế nhưng tôi lên tàu từ Trùng Khánh
và về đến Kinh Châu, đoạn dài hơn 500km để được ngắm Trường Giang nhiều hơn và
nhớ một thời của Tam Quốc Chí. Đây là con sông hiểm yếu của nước Thục, cả Lưu Bị,
Quan Công, Trương Phi đều chết trên bờ sông này cách đây 18 thế kỷ.
Dương Tử Giang! Con sông ghi dấu
trong tôi từ thời thơ ấu là đây. Sông rộng mênh mông, hai bờ xa lắc. Nước sông
chảy không mạnh như tôi tưởng, về sau tôi biết ở hạ lưu có đê đập để điều hòa
dòng chảy. Màu nước đục ngầu, nước đặc quánh phù sa, nhìn như nước sông Cửu
Long. Thế nhưng nếu sông Cửu Long đầy lục bình thì ở đây không có bèo củi trôi
sông, chỉ nước và nước. Dọc dòng sông này là vô số chuyện cổ tích.
Trùng Khánh là nơi hợp lưu của
hai sông Dương Tử và Gia Lăng, là cảng sông quan trọng, có một lịch sử khoảng
3000 năm. Xung quanh Trùng Khánh ngày xưa có địa danh là Quỳ Châu, nơi Khổng
Minh xếp đá lập Bát trận đồ, lạc vào đó thì khỏi ra. Lục Tốn, tướng nhà Ngô
cũng chẳng ra được, may nhờ có nhạc phụ của Khổng Minh chỉ đường mới thoát. Ra
khỏi Trùng Khánh khoảng hơn 100km ta đến Phong đô, ở đó có một ngôi đền được mệnh
danh là "Quỷ thành phong đô" nằm ở bờ bắc sông Dương Tử, được xây
cách đây 2000 năm. Tới đây ta sẽ thấy cầu Nại Hà, Quỷ môn quan, âm tào địa phủ.
Thần thoại Trung Quốc cho rằng hồn
phách con người sẽ đến đây sau khi chết, đi qua cầu và tái sinh lại làm người.
Sau Quỷ môn quan khoảng 100km, trên bờ bắc ta sẽ đến Thạch bảo trại. Đây là một
kiến trúc được xây trong thời Vạn Lịch nhà Minh, cách đây khoảng 400 năm. Bảo
trại là một đền 12 tầng xây trên núi đá, cao 56m, thờ Phật. Nơi đây từ trong một
lỗ đá có gạo chảy ra liên tục để nuôi tăng ni. Từ đó mà đền được mang tên
"bảo trại". Thế nhưng do tăng ni tìm cách đục đẽo cho lỗ đá rộng ra hầu
có thêm gạo, từ đó gạo hết chảy!
Trên bờ nam sông Dương Tử ta sớm
đến đền thờ Trương Phi. Đây là nơi vị đại tướng mặt đen bị ám hại năm 220. Đền
của ông được xây vào đời Tống (960-1127], nằm trong rừng núi xanh tươi với vô số
tranh tượng và bia đá. Xuôi dòng Dương Tử cách đó không đầy 80km nằm trên bờ bắc
là Bạch Đế thành, như ta đã biết, là nơi Lưu Bị từ trần hai năm sau khi Trương
Phi chết. Đó là chỗ Lưu Bị rút về chốn an toàn của nước Thục sau khi đánh Ngô
thất bại.
Vì thế xuôi dòng từ Dương Tử về
phía đông, thành Bạch Đế là cửa ngõ bước vào khu vực hiểm yếu của sông, vào
"hiệp" thứ nhất, Cù Đường hiệp. Cù Đường hiệp là hiệp hẹp nhất và
cũng là đẹp nhật, có nơi sông chỉ rộng 100m. Hai bờ núi đá có độ cao khoảng
500-700m tạo người đi trên sông trong hẻm núi một cảnh tượng vô song của thiên
nhiên hùng vĩ. Trong ba hiệp thì hiệp Cù Đường ngắn nhất, chỉ dài chừng 8km,
nhưng để lại ấn tượng to lớn nhất. Đỗ Phủ viết về Cù Đường hiệp:
Cù Đường giáp khẩu khúc giang đầu,
Vạn lý phong yên tiếp tố thu
(Cửa Cù Đường ở đầu sông Khúc,
Khói và gió thu liên tiếp muôn dặm)
Sau Cù Đường Hiệp, sông Dương Tử
đi vào địa phận của Vu sơn. Vu sơn là một miền núi non mênh mông với 12 đỉnh
núi quanh năm mây mù. Chảy dưới chân Vu sơn là Vu Hiệp, dài 46km. Đi trong hẻm
núi này khách rời địa phận Tứ Xuyên để qua tỉnh Hồ Bắc. Trong cảnh mây mưa của
Vu sơn đó có một chỏm đá cao 7m, đứng mãi với trời đất từ 2000 năm nay. Đó là đỉnh
Thần nữ phong. Ngày nọ cách đây cả hai ngàn năm, vua nước Sở lên Vu sơn để tìm
phương án trị thủy vì con sông Dương Tử tâm tư bất thường, thường hay nổi giận
dâng nước phá hoại mùa màng.
Trên đỉnh Vu sơn đó có một nàng
con gái đến với vua, không ai xa lạ, nàng là con gái của Tây Vương Mẫu.
"Thiếp ở phía nam Vu sơn, trên đá Cao Khâu, buổi sớm làm mây, buổi chiều
làm mưa, sớm sớm chiều chiều ở chân núi Dương Đài". Tại Cao Đường trên Vu
sơn, nàng chỉ cho vua cách trị thủy và hơn thế nữa, tặng vua nhiều đêm chăn gối.
Ngày nay Cao Đường còn đền thờ Thần nữ nhưng nay đã tàn phế. Đi tàu dưới sông,
tôi thấy được hình dáng nàng trên cao, nhỏ như ngón tay út, lòng nhớ đến cuộc
tình của nàng Lý ngư. Đi thêm một đoạn, tại Vu Hiệp này ta thấy một bia đá
tương truyền do Khổng Minh tự tay viết, nét chữ vô cùng mạnh mẽ.
Sau đó, tại một nơi trong Vu Hiệp
này có người quả quyết với tôi đây là chỗ trận Xích Bích đã diễn ra. Xích Bích
là trận đại thắng của Chu Du, dùng kế hỏa công mà phá "hơn tám mươi vạn"
quân Tào Tháo. Ngày nay không ai biết đích xác Xích Bích nằm ở đâu trên sông
Dương Tử vì có đến 4 địa danh mang tên này. Tôi nghe lòng ngẩn ngơ vì lúc đó
gió cực mạnh trên bong tàu, hai bên là vách núi. Xuyên qua các "hiệp"
ở đâu cũng thế, không nhất thiết chỗ này, gió mạnh đến nỗi người ta khó đứng
lâu trên bong tàu được, nó thổi thốc giữa các hẻm núi dài vài chục cây số như một
ống bệ khổng lồ.
Dùng kế hỏa công trong các hẻm
núi cỡ này thì thật là tàn khốc nhưng cũng thật lợi hại vì chỉ cần gió đổi chiều
thì đó mới là Quỷ môn quan. Đây phải là một cảnh tượng long trời lỡ đất mà tại
Bạch Đế thành tôi thấy được vẽ lại hết sức sinh động. Ghê gớm thay, mưu trí của
người xưa, biết kết hợp cả trời đất trong mưu đồ của mình. Ngày nay trên sông
không còn khói mù, cờ lệnh, khí giới, thuyền bè...Xích Bích đã chìm trong lịch
sử.
Sau Vu Hiệp ta đến Tây Lăng hiệp,
với 80km, là hiệp dài nhất trong cả ba, bắt đầu với Tỉ Quy và chấm dứt với Nghi
Xương. Hiệp này có nhiều đá ngầm, nước xoáy và là hiệp nguy hiểm nhất. Nơi đây
tương truyền là chỗ Khổng Minh dấu binh thư khi chưa tìm ra người kế vị xứng
đáng. Đến Tỉ Quy ta nhớ đến Khuất Nguyên [37], nhà thơ của thế kỷ thứ tư trước
công nguyên mà cảm động thay, đền thờ ông ngày nay vẫn còn. Đây là quê hương của
ông, người nước Sở, sống trong thời Chiến quốc. Đó là một con người có chí khí,
luôn luôn bị các nịnh thần và thế lực đen tối dèm pha hãm hại, nhưng bao giờ chịu
khuất phục.
[37] - Theo nhiều tài
liệu, ông sống từ 343-287 trước công nguyên
Một ngày 5.5 nọ, ông quá bi phẫn
nhảy xuống sông Mịch La tự tử, đó là một con sông nhỏ chảy vào Động Đình Hồ.
Ngày nay bài thơ Ly Tao của Khuất Nguyên vẫn còn được truyền tụng và ngày ông
chết trở thành tết Đoan Ngọ. Khoảng 250 năm sau Khuất Nguyên, Tỉ Quy lại sinh
thêm một người chịu cảnh oan ức bi thảm nữa, đó là một người đẹp tên là Vương
Chiêu Quân. Nàng hay giặt lụa trên bờ bắc của sông Dương Tử. Áo của nàng thơm đến
mức cả cánh sông cũng thơm theo. Người đẹp như nàng dĩ nhiên là được tuyển vào
cung của nhà vua Hán Nguyên Đế. Nhà vua này có quá nhiều "hậu cung",
lười đi xem mặt nên truyền họa sĩ vẽ hình cung nữ dâng lên cho dễ chọn.
Trong lúc các cung nữ đua nhau
đút lót cho họa sĩ để được vẽ hình đẹp thì Chiêu Quân quá nghèo không có khả
năng nên bị một tên họa công Mao Viên Thọ vẽ xấu. Và nhà Hán hồi đó chỉ lo chuyện
mỹ nữ nên hết sức suy nhược, bị "rợ Hồ" phía bắc uy hiếp, đòi cống nạp.
Chiêu Quân vì thế mà bị hy sinh cống Hồ, trước khi đi nàng vào cung bái biệt
thì nhà vua lười biếng nọ mới hay nàng có nhan sắc khuynh thành. Đó là năm 35
trước công nguyên. Chiêu Quân có tâm tư rất sầu thảm, nàng chỉ biết gửi trong
tiếng đàn tì bà và cuối cùng chết ở đất Hồ. Ngày nay tại Tỉ Quy còn Chiêu quân
đài tưởng nhớ đến nàng, thơ Đỗ Phủ còn nhắc đến nàng:
Nhất khứ Tử Đài liên sóc mạc,
Độc lưu thanh trũng hướng hoàng hôn
(Ra đi, cung Tử Đài liền sa mạc phía bắc,
Nay chỉ còn nấm mồ xanh trong bóng chiều)
Kinh Châu là trạm cuối cùng của
tôi tại Trường Giang. Thị trấn đó đánh dấu thời vàng son của nhà Thục, đó là
lúc nhà Thục bành trướng mạnh nhất về nước Ngô ở phía đông. Thế nhưng, như người
Trung Quốc cũng nói, sự vật lúc lên tới cực điểm cũng là lúc tàn lụi. Kinh Châu
là nơi Quan Công bị quân Ngô giết, cái chết đó làm Lưu Bị quên bài học chiến lược
của Khổng Minh, ông đem quân báo thù và thất bại rồi chết tại Bạch Đế. Ngày nay
Kinh Châu đã biến mất trên bản đồ, nó được nhập chung với hai thị trấn khác để
thành Sa Thị (Shashi).
Nơi đây người ta cũng không còn mấy
quan tâm đến Tam Quốc Chí ngày xưa mà đang xây lên một công trình vĩ đại bậc nhất
của Trung Quốc, đó "Tam Hiệp công trình", xây đập ngăn sông làm thủy điện
và điều hòa nước sông Trường Giang. Ghé Nghi Xương, tôi thấy một công trường khổng
lồ, từ cao nhìn xuống thợ thuyền làm việc tấp nập có lẽ cũng như những ngày của
Vạn Lý trường thành của 2200 năm trước. Nơi đây sẽ có một đập nước vĩ đại dài
2km, cao 185m ngăn dòng chảy của sông Dương Tử.
Toàn bộ công trình thủy điện sẽ
hoàn tất năm 2009 nhưng đến năm 2003 thì Trường Giang tam hiệp đã được ngăn nước,
mực nước sẽ dâng cao ít nhất 75m. Hơn hai triệu dân sẽ phải di cư, kể cả dân Tỉ
Quy, số phận của họ cũng bi thảm không kém Khuất Nguyên, Chiêu Quân. Thần nữ
phong, Bạch Đế thành chắc chắn không bị ngập vì nằm trên cao nhưng hầu như tất
cả những phong cảnh vô song của Trường Giang tam hiệp sẽ chìm trong biển nước.
Tôi là một trong những người cuối cùng được thấy tam hiệp. Sẽ không còn ai nhắc
đến Xích Bích nữa, nó đã chìm trong lịch sử, nay nó sẽ chìm trong đáy nước. Vị
thần nữ đứng trên núi cao nhìn xuống chắc không ngờ bài học trị thủy của mình
ngày xưa nay đã được ứng dụng triệt để như thế.
TRÊN
SÔNG KHÓI SÓNG CHO BUỒN LÒNG AI
Từ Kinh Châu tôi đi Vũ Hán
(Wuhan). Vũ Hán là thành phố nằm trên chỗ tụ hội của sông Trường Giang và một
con sông nên thơ khác tên là Hán Thủy. Ngày xưa chưa hề có tên Vũ Hán vì thật
ra Vũ Hán là do ba thị trấn hợp lại, đó là Vũ Xương, Hán Dương và Hán Khẩu.
Ngày trước chúng là ba thị trấn riêng biệt, cách nhau bởi sông Trường Giang rộng
mênh mông. Ngày nay chiếc cầu Trường Giang tại Vũ Hán nối chúng lại với nhau biến
thành một thị trấn phồn vinh, đồng thời khai tử tên Vũ Xương, làm nhiều người
yêu thơ tiếc nuối.
Đường đi của tôi từ Kinh Châu đến
Vũ Hán chính là đường xuyên qua Giang Châu, một vùng hoa gấm của thơ phú đời Đường.
Giang Châu là một vùng có tên từ thời đầu công nguyên. Thời nhà Hán Tuyên Đế
(năm 65], triều đình lấy một số vùng của Dương Châu, Kinh Châu mà lập ra Giang
Châu, thủ phủ là Vũ Xương. Đó là một vùng xanh tươi, nhiều sông hồ, gồm Nhạc
Dương, Động Đình Hồ, Lư sơn, Hán Thủy, Tầm Dương. Ngày nay tên Giang Châu đã biến
mất trên bản đồ, nó đã được chia vào hai tỉnh Hồ Bắc và Giang Tây.
Vũ Xương một thời là thủ phủ của
Giang Châu, là địa danh nổi tiếng. Hơn hai ngàn năm trước ở đây có người đánh
đàn hay tên là Bá Nha. Bá Nha hay đàn bài Lưu thủy cao sơn, bài này không ai biết
thưởng thức chỉ trừ một người. Người đó là Chung Tử Kỳ. Lã Thị Xuân Thu kể:
Ngày nọ Bá Nha gảy đàn, lòng nhớ tới núi cao, Tử Kỳ liền bảo: "Thiện tại hồ
cổ cầm, Nguy nguy hồ nhược Thái sơn" (Đánh đàn hay thay, Vòi vọi như Thái
sơn). Đến lúc Bá Nha nghĩ đến vực sâu, Tử Kỳ nhận ra ngay "Đăng đăng hồ
nhược lưu thủy" (Cuồn cuộn như nước chảy). Đến lúc Tử kỳ chết, Bá Nha đập
đàn không bao giờ gảy nữa. Tại Vũ Hán ngày nay có một cái lâu các với biển đề bốn
chữ "Lưu thủy cao sơn", bên cạnh đó là một phiến đá, đó là nơi Bá Nha
từng gảy đàn.
Phía đông Vũ Hán có Đông Hồ rộng
mênh mông, cũng trong thời Chiến quốc của Bá Nha Tử Kỳ có một thi hào đã đến
đây, đó là Khuất Nguyên mà ta đã nhắc đến. Ngày nay nơi đây có tượng của ông và
viện bảo tàng nghệ thuật nói về con người chí khí đó.
Miền linh địa của nhạc và thơ như
Vũ Xương cũng phải là chỗ lui tới của thần tiên. Tương truyền rằng có một đạo
sĩ tu thành tiên tên là Phí Văn Vi [38], cưỡi hạc vàng ngao du sông thủy. Tiên
hay cưỡi hạc. Trên núi Thanh Thành, quê hương của đạo sĩ, tiếc thay kẻ người trần
mắt thịt như tôi không gặp tiên cũng chẳng thấy hạc. Nhắc lại chuyện Đông Hồ
thì tiên và hạc bay ngang đây thấy một bên là Trường Giang hoành tráng, một bên
là Đông Hồ kiều diễm mới nghỉ chân trên mỏm đá Hoàng Hộc. Hậu thế mới xây một
lâu các ngay trên mỏm đá đó, đặt tên là Hoàng Hạc Lâu, tương truyền khoảng
trong thế kỷ thứ tư sau công nguyên. Bốn trăm năm sau có một nhà thơ tên Thôi
Hiệu [39] đến đây. Ông lên lầu ngắm cảnh Hán Dương bên kia sông, cảnh trời chiều
trên Trường Giang và sáng tác bài thơ Hoàng Hạc Lâu bất hủ:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư hoàng hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai? [40]
Đến Giang Châu thì làm sao tôi
quên được "Giang Châu tư mã". Đó là tên được đặt cho Bạch Cư Dị, nhà
thơ lớn của đời Đường. Cũng như Khuất Nguyên ngàn năm về trước, Bạch Cư Dị là kẻ
làm quan nhưng đầy chí khí, đời ông bị đám quan lại bất tài vùi dập. Năm 816,
lúc 44 tuổi, ông bị giáng chức đi làm tư mã [41] ở Giang Châu. Lúc này Giang
Châu đã dời thủ phủ từ Vũ Xương về Tầm Dương. Tầm Dương chẳng qua là một đoạn
sông của Trường Giang, địa danh đó cũng đã biến mất, ngày nay được gọi là Cửu
Giang (Jiujiang).
Tầm Dương lại nằm sát núi Lư sơn,
một thắng cảnh và núi thiêng của Phật giáo. Bạch Cư Dị về đó, "dựng một
mái nhà tranh bên chùa Đông Lâm, dưới ngọn Đông Lô thuộc dãy Lư sơn, dành phần
lớn thì giờ tu tiên học Phật"[42]. Thế nhưng Bạch Cư Dị là người hay có
lòng xót thương với phụ nữ. Mười năm trước đó, năm 806, ông đã viết bài Trường
hận ca thương khóc cho người đẹp Dương Quí Phi. Đó là một bài thơ để lại cho hậu
thế một tấm lòng cảm thông đầy nhân đạo với thân phận của hồng nhan bạc mệnh.
Năm 816, sau khi chứng kiến cảnh trôi nổi của chính đời mình, đêm nọ, bên bến Tầm
Dương hiu quạnh, ông nghe tiếng đàn tỳ bà trong một chiếc thuyền, "giọng
đàn lanh lảnh có tiếng ở kinh kỳ".
[38] - Có tài liệu chép
là Tử An, theo Lê Nguyễn Lưu, Đường thi tuyển dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa 1997
[39] - Sinh năm nào
không rõ, mất năm 754
[40] - Bản dịch của Tản
Đà, Ngày Nay số 80, 1937
[41] - Một chức quan nhỏ
coi việc hình pháp
[42] - Trích Lê Nguyễn
Lưu, sách đã dẫn
Hãy nghe lời tự sự của ông:
"Hỏi ra mới biết là một người xướng nữ ở Trường An thường học đàn ở hai
nhà thiện tài họ Mục và họ Tào; đến khi tuổi cả sắc suy mới gởi thân làm vợ một
người lái buôn. Liền bảo đặt rượu và gảy mấy khúc đàn chơi, gảy xong người ấy
buồn bã, tự kể khi trẻ trung thì vui thú chừng nào, nay phải lưu lạc tiều tụy ở
nơi giang hồ. Ta ra làm quan ở ngoài đã hai năm vẫn thường lẳng lặng, tự dưng
đêm ấy cảm mấy lời nàng nói mời để ý nỗi mình bị giáng trích, nhân làm bài ca
trường thiên để tặng. Cả bài có 616 chữ, đặt tên là Tỳ bà hành".
Ôi, nhà thi hào cùng khóc với
nàng kỹ nữ, có cảnh nào đáng cảm khái hơn? Vì thế mà tác phẩm Tỳ bà hành vang
danh muôn thuở, dưới núi Lư sơn mà sinh ra được bài thơ trác tuyệt của kiếp
nhân sinh. Mới đầu là:
Tầm Dương giang đầu hạ tống khách,
Phong diệp, địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty
Để rồi người nghe cảm thấy:
Đồng thị thiên nhai truân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức
Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Và lúc chia tay:
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa?
Giang châu tư mã thanh sam thấp.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu tư mã đượm mùi áo xanh [43].
[43] - Bản dịch của
Phan Huy Thực, trích Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử, giản ước tân biên, NXB
Đồng Tháp 1997
May thay cho Bạch Cư Dị, về sau
ông lại được vời về kinh, nhận nhiều nhiệm sở khác nhau. Thế nhưng ông cũng đã
chán ngán đường hoạn lộ, chỉ nhận những chức vụ không phải tranh giành với quan
lại trong triều. Ông tránh triều đình, chủ động xin công tác ở những vùng xa
nhưng tuyệt đẹp Hàng Châu, Tô Châu. Các đời vua thay thế nhau, vị nào cũng coi
trọng ông nhưng ông tìm cách xa lánh, nhận những chức tước ít thế lực. Năm 836
ông về hưu với hàm Hình bộ thượng thư, kết bạn với sư Như Mãn, tự xưng là Hương
sơn cư sĩ, "lòng nơi Thích Phạn, chân chốn Lão Trang". Bạch Cư Dị mất
năm 845, thọ 75 tuổi. Ông để lại khoảng 2800 bài thơ, đứng ngang hàng với Lý Bạch
và Đỗ Phủ nhưng nếu Lý Bạch phóng đãng giang hồ, Đỗ Phủ lăn lóc phong trần thì
ông là một nhà Nho hiển đạt, địa vị nghiêm túc, nghiêng về trí tuệ.
Chương
18: Cửu Hoa Sơn (Jiuhuashan)
Cửu Hoa sơn nằm trong địa phận tỉnh
An Huy, cách Vũ Hồ khoảng 160km về phía tây nam, đường đi đến đó rất khó khăn.
Cửu Hoa sơn không được nhiều người biết đến, có khi trong bản đồ cũng không thấy
ghi, nhưng đó là một đạo trường quan trọng của Phật giáo Trung Quốc, là trú xứ
của Địa Tạng bồ-tát.
Tôi đến Cửu Hoa bằng đường núi đi
từ Hoàng sơn, xuyên những dãy núi trồng toàn trà. Trên những sườn non này người
ta không còn thấy bóng dáng du khách, dân cư thưa thớt. Đây là những rẻo cao với
nước sông khe suối trong vắt như ngọc, khí trời dịu mát và khắp nơi là những cụm
trà tròn nhỏ, cây lá li ti nằm bên nhau ngút ngàn đón nắng. Những cụm trà này sống
trên sườn non, chúng có thể sống trên độ cao tới 2000m. Chúng sẽ cho những đọt
trà non, có khi người ta hái cả cành ngọn.
Trên Hoàng sơn và vùng núi Cửu
Hoa, tôi thấy từng bao bố đựng trà, đó là loại trà "xanh", các cọng
trà dài khoảng 1cm, nhìn qua như cỏ khô vô giá trị. Sản phẩm của trà thì không
thể kể hết, nhưng tại Trung Quốc tôi biết thế nào là mùi vị trà xanh. Đó là loại
trà không ướp bất cứ một loại thảo mộc, hoa cỏ gì khác, nó giữ nguyên dạng của
trà, giữ nguyên mùi vị của đất trời mà nó thu nhận.
Đi trên vùng núi rừng Chiết Giang
này thì làm sao tôi quên được Lục Vũ. Ông sống trong đời Đường, là người sành
pha trà, uống trà tới mức xuất thần nhập hóa, được tôn là "Trà
thánh". Oâng vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được một vị hòa thượng tên là
Trí Tích đem về chùa nuôi dưỡng. Vị hòa thượng này thực hành trà đạo nên từ nhỏ
Lục Vũ đã pha trà cho sư phụ. Nhà vua Đường Đại Tông nghe danh Trí Tích sành uống
trà, cho vời vào cung, sai cao thủ trà đạo pha một ấm trà để ông thưởng thức. Vị
hòa thượng lắc đầu chê "không ngon".
Nhà vua ngầm gọi Lục Vũ vào kinh,
bảo pha một ấm khác, đem tới cho Trí Tích. Trí Tích gật gù khen: "Lần này
pha trà không dở, không thua học trò ta là Lục Vũ". Về sau, Lục Vũ rời
chùa, đi du lãm vùng hạ lưu Trường Giang này, bổ sung tri thức và kinh nghiệm về
trà để trước tác bộ "Trà kinh" gồm 3 quyển, 10 chương. Tập kinh này
trình bày từ cách hái trà, sao trà, nấu nước đến cách pha trà, uống trà hết sức
tinh vi sâu sắc. Cuối đời, Lục Vũ về Hồ Châu tại Chiết Giang ở ẩn. Phải chăng
những rẻo cao trên sườn Hoàng sơn này đã lưu dấu vị trà thánh. Đất trời của 12
thế kỷ trước phải chăng vẫn còn giữ nguyên vẹn tính chất để cho những cụm trà
tròn nhỏ này mùi vị của ngày xưa mà Lục Vũ đã một thời thưởng thức?
Đất không phải chỉ cho trà mùi
thơm cao quí, đất đại biểu cho sự an nhiên bất động của bồ-tát, đồng thời là chốn
ẩn mật chứa bao điều sâu kín. Có một vị bồ-tát, tính chất của Ngài là "an
nhẫn bất động, giống như đại địa; vắng lặng sâu kín giống như kho sâu". Vị
ấy tên là Địa Tạng và tôi đang trên đường đi đến đạo trường của Ngài ở Cửu Hoa
sơn.
Địa Tạng là vị được xem là người
cứu hộ cho những ai không may rơi vào địa ngục. Vì thế Ngài còn có danh hiệu là
U Minh giáo chủ, người cứu vớt những kẻ nằm trong các chỗ thác sinh tối tăm,
đau khổ. Địa Tạng cũng được xem là người cứu độ trẻ con yểu tử và lữ hành
phương xa. Địa Tạng hay được trình bày như một tăng sĩ đầu tròn, tay cầm tích
trượng có sáu vòng, đại diện cho lục đạo. Có khi tranh tượng vẽ Ngài mang vương
miện, tay cầm gậy, ngồi trên lưng lân. Cũng như các vị bồ-tát khác, Địa Tạng ứng
hiện vô số hình tướng để đến với những ai cần mình. Tại sao Cửu Hoa sơn được gọi
là đạo trường của Địa Tạng?
Từ thời Tây Tấn (317-420], Cửu
Hoa sơn đã nổi tiếng là một cảnh núi đẹp với một cổ am do một nhà sư người Ấn Độ
tên là Bôi Độ xây năm 401. Cửu Hoa gồm chín ngọn núi mà đỉnh cao nhất là Thập
vương phong, đo được 1431m. Thật ra tên Cửu Hoa có từ ngày Lý Bạch đến đây, nhà
thơ lớn thấy chín ngọn núi như chín đóa hoa mới đặt tên là Cửu Hoa sơn. Cùng thời
với Lý Bạch có một vị hoàng tử xứ Triều Tiên, tên là Kim Kiều Giác [44]. Kiều
Giác nghe danh Huyền Trang tại Trung Quốc, quyết đến xứ này để tu học.
[44] - Sinh năm 695 trước
Lý Bạch 6 năm, mất năm 794
Năm 730, đó là thời kỳ của Đường
Minh Hoàng và Dương Quí Phi, Kiều Giác đến Trung Quốc, nghe nói đến Cửu Hoa
sơn, ông đến đó và tìm thấy ngôi cổ am nọ không người săn sóc. Kiều Giác xin gặp
chủ núi Hoa sơn thời đó là một vị có tên Mẫn Công, xin một miếng đất để xây cất
tự viện. Mẫn Công hỏi bao nhiêu đất, Kiều Giác chỉ xin miếng đất lớn bằng tấm
áo cà sa. Mẫn Công vừa gật đầu thì miếng áo cà sa tung lên đã phủ cả núi. Mẫn
Công được nhiếp phục và về sau cùng con trai trở thành đệ tử của Kim Kiều Giác.
Phép tung áo cà sa xin đất cúng dường thú vị và nhiều ý nghĩa này về sau được Tế
Điên hòa thương lặp lại tại Hàng Châu.
Từ đó về sau, tại Cửu Hoa sơn được
xây dựng rất nhiều chùa chiền tự viện. Năm 794, lúc đó Kiều Giác 99 tuổi, nghe
một tiếng gọi mơ hồ, ông biết thời điểm của mình đã tới, từ giã triệu tập đệ tử,
ngồi mà nhập tịch. Ba năm sau đệ tử mở áo quan ra thì nhục thân còn tươi, các
khớp xương kêu "rổn rảng nghe như tiếng xích vàng rung chuyển". Dựa
trên kinh sách người ta mới biết đó chính là Địa Tạng đã ứng hiện và xây dựng
"Nhục thân bảo điện". Vì có nhiều tháp xây lên trên điện, sau đó
không bao lâu không còn ai được thấy nhục thân của Kiều Giác được nữa.
Khoảng bảy tám trăm năm sau, có một
cao tăng tên là Vô Hà đại sư (1497-1623, thọ 126 tuổi), từ Ngũ Đài đến Cửu Hoa
đảnh lễ Địa Tạng. Lúc đó là đời nhà Minh, chùa chiền hoang phế, tăng chúng lưu
lạc, Cửu Hoa không còn một bóng người. Vô Hà ẩn tu 100 năm, đói ăn rễ cây, khát
uống nước suối, trích máu chép kinh Hoa Nghiêm. Ba năm sau khi chết người ta mới
khám phá nhục thân của ông, cũng không bị hư hoại. Nhục thân của Vô Hà được thờ
tại đây, trong Bách Tuế cung, cũng gọi là Vạn Niên tự. Người ta cho rằng Vô Hà
chính là Kiều Giác tái sinh, đến đây để lưu lại cho hậu thế nhục thân của mình
vì tại nhục thân của Kiều Giác không còn ai chiêm bái được nữa.
Ngày nay Cửu Hoa sơn được phục hồi
sớm nhất trong tứ đại danh sơn [45], hiện có khoảng 56 tự viện, chứa khoảng
1300 cổ vật như kinh sách, thư pháp, họa đồ. Theo phương trượng Cửu hoa sơn thì
người ta dự định xây dựng một bức tượng Địa Tạng cao 99m, đó sẽ là bức tượng
cao nhất Trung Quốc và thế giới. Con số 99m là để kỷ niệm 99 tuổi thọ của Kim
Kiều Giác.
[45] - Ngũ Đài, Nga Mi,
Cửu Hoa và Phổ Đà sơn
Cửu Hoa sơn là một rặng núi cao,
đường lên núi nằm trong một rừng cổ thông. Ở đây không có phương tiện cơ giới
lên núi, ta phải leo bộ, người già phụ nữ phần lớn phải đi cáng. Đoạn cuối cùng
lên đỉnh là một tầng cấp với 84 bực đá xanh. Leo lên tới đây, khi hơi thở mọi
người đều đã gấp rút mệt nhọc, tôi thấy một thiếu phụ bắt đầu vừa đi vừa lạy,
theo cách "nhất bộ nhất bái". Chị mặc áo quần đen làm tôi nhớ những
người đánh trống mà tôi gặp tại Lâm-tì-ni, Ấn Độ. Chị lạy theo kiểu Tây Tạng, tức
là chấp tay trên đầu, chấp tay trước ngực rồi mới cúi lạy. Khuôn mặt chị buồn
bã nhưng nghiêm trang, dáng điệu chị uyển chuyển và cao quí. Chị cầu nguyện
Ngài Địa Tạng điều gì, hỡi người thiếu phụ? Chị có người thân vừa mất, đọa sinh
địa ngục hay chị có con nhỏ trong cảnh thập tử nhất sinh.
Tôi leo hết 84 bậc thang để đến
Hóa Thành tự, đó chính là đạo trường của Địa Tạng, là chùa khai sơn của Cửu
Hoa. Sơn môn có bốn cột trụ treo hai câu đối:
Đại Thánh đạo tràng đồng nhật nguyệt,
Thiên thu cổ sát hộ đông tây.
Đạo tràng của bậc thánh như trời trăng,
Ngàn năm ngôi chùa bảo hộ đông tây.
Và:
Hoa ngạ phong tiền hương vân phiêu miễu,
Hóa thành tự lý hoa vũ tân phân
Trước ngọn Hoa Ngạ mây hương tỏa ngát
Trong chùa Hóa thành mưa hoa rực rỡ.
Nơi đây là hình tượng của Địa Tạng
với hai bên tượng họa Thập điện Diêm Vương mà Ngài là hóa thân. Trong Hóa Thành
tự ta còn thấy được kinh xưa khắc họa trên ống tre nay còn giữ được. Đến Vạn
Niên tự, tôi đảnh lễ nhục thân của Vô Hà đại sư ngồi trong lồng kính đã hơn 350
năm, sống mãi với thời gian, dù cho chùa bị một lần bị hỏa hoạn trong thời
Khang Hy, hay binh biến trong thời Hàm Phong. Sau đó là Kỳ viên tự được xây
trong đời nhà Minh thế kỷ thứ 16 với Đại hùng bảo điện cao 43m, trong đó có ba
bức tượng tuyệt đẹp của Thích-ca, A-di-đà và Dược Sư. Trên đỉnh Thiên Thai, một
ngọn núi cao 1325m của Cửu Hoa sơn người ta tìm thấy Địa Tạng thiền tự, nơi đây
còn dấu chân của Địa Tạng. Cao tăng Tông Quả đời Tống từng viết:
Đạp biến Thiên thai bất tác thanh,
Thanh chung nhất xử vạn sơn minh
(Dẵm nát Thiên Thai không tiếng động,
Một chày chuông sớm khắp núi nghe)
Tôi ra khỏi các chùa thì thiếu phụ
áo đen cũng vừa lên đến. Leo lên đỉnh núi này theo cách "nhất bộ nhất
bái" thật là phi thường nhưng bước chân chị vẫn vững vàng, dáng điệu đảnh
lễ của chị vẫn thành kính và cao quí. Mọi khách thập phương đều nhường chỗ cho
chị vào chùa, sau mỗi bước chị vẫn lễ, mắt nhìn tượng Địa Tạng trên cao, Ngài từ
bi im lặng nhìn xuống chị. Lòng thành kính của chị cộng với lòng đồng cảm của mọi
người xung quanh hẳn phải biến thành một sức mạnh, một ánh sáng tỏa rực trên ngọn
núi này, trong rừng cổ tùng này dưới ánh nắng mai. Aùnh sáng đó phải chiếu đến
các từng tâm thức đen tối mà người ta gọi là "địa ngục", để thức tỉnh
những ai lạc loài trong đó.
Thập điện u minh, địa ngục hay Quỷ
môn quan đều là những dạng của tâm thức chúng ta. Nếu sự giận dữ có thật thì địa
ngục có thật, nếu có ai đang hăm hở đem dao súng đi giết người thì kẻ đó đang mở
cánh cửa Quỷ môn quan. Địa ngục hay tất cả các ác đạo, nói chung là tất cả các
nẻo sinh tử, kể cả thiên giới không khác gì hơn là các trạng thái tâm thức nằm
chờ chúng ta trong chính mình. Chúng không hề là các nơi chốn có vị trí địa lý,
đừng đào xới tìm tòi vô ích. Con người chúng ta ngày đêm đang qua lại trong sáu
nẻo, đâu phải chờ đến chết mới nói mình thác sinh đi đâu. Cơn giận giữ biến thế
giới này thành hỏa ngục mà ta là thành viên trong đó. Sự tham lam vô độ biến ta
thành "Quỷ đói". Niềm vui hỉ lạc làm môi trường xung quanh thành
thiên giới.
Hãy quan sát một người đang giận
giữ hay tham lam. Nếu có ai muốn thấy ma Quỷ "cho biết" thì đây là dịp
tốt. Vì những lẽ đó "ma Quỷ" chỉ là những khuynh hướng nội tâm mà làm
người thực ra ai cũng có. Cái từ bi của đạo Phật là thấy nó chỉ là sự hiện thân
của những khuynh hướng xấu ác, trừ diệt nó đi thì tâm thức có chỗ cho tâm thiện.
Như bóng tối tan thì ta thấy rõ mọi vật xung quanh. Từ đó mà nói rằng Địa Tạng
cứu ta ra khỏi địa ngục là điều rất dễ hiểu, đó là khi giận dữ, ta hãy thử nghĩ
về Địa Tạng. Tôi tin rằng ta bớt giận được gần nửa. Ngài đã "cứu"
chúng ta theo cách là ta đã tự cứu chúng ta nếu biết mình đang giận dữ và thành
tâm muốn bớt giận. Thế nên cũng không nhất thiết phải nghĩ niệm đến Địa Tạng,
hãy nhớ tới những hình ảnh mà ta cho là thánh thiện, làm ta thoát được sức nóng
của giận dữ, như đức Chúa, như người mẹ, thậm chí một người bạn.
Điều khó nhất của mọi chuyện là
khi ở trong dạng địa ngục ta biết mình đang ở trong đó. Và nếu may mắn biết được
điều đó thì ta cần chút thành tâm muốn mình bớt giận dữ, nhớ nghĩ đến Địa Tạng
và ta sẽ bớt giận. Có nhiều người niệm Địa Tạng nhưng cũng có người nhớ nghĩ đến
những hình ảnh khác, những phương cách khác để chế ngự tâm. Từ trong kho báu
"vắng lặng sâu kín" đó ta có quyền lấy ra mọi thứ để sử dụng, không cần
phải gọi tên chúng là gì. Chúng ta ai cũng đã trải qua những cơn giận dữ nhưng
không mấy ai biết rằng tâm giận dữ, khuynh hướng muốn hành hạ làm khổ người
khác là một trong những tâm cơ bản nhất của sinh vật, trẻ con người già đều có,
đời kiếp nào cũng có, con người hay súc sinh đều có. Cũng vì thế mà tâm
"sân" là một trong ba động cơ trung tâm của sự tái sinh.
Liệu người thân của chị áo đen đó
có thoát khỏi địa ngục, hay con nhỏ của chị có tai qua nạn khỏi, điều đó chỉ có
Ngài Địa Tạng mới biết. Nhưng điều chắc chắn là với một tâm thức chân thành và
mạnh mẽ như thế, chị sẽ có thói quen nhắc nghĩ niệm đến Địa Tạng, có khả năng
thoát khỏi những cơn giận giữ dìm mình trong cõi tối tăm, có tình cảm chân thật
với những ai cùng đi một con đường phước thiện như mình, dễ sinh hỉ lạc với những
điều cao thượng và đó chính là cánh cửa mở ra hướng về phía thiên giới. Đáng mừng
thay cho những ai có một tâm thức phước thiện kiên cố như chị.
NGÀNH
SỨ TRUNG QUỐC VÀ CẢNH ĐỨC TRẤN
Khoảng thế kỷ thứ 16, tại châu
Aâu người ta thấy có nhiều vật dụng trang trí, tác phẩm nghệ thuật, bát đĩa,
bình chứa...làm bằng một chất liệu kỳ lạ. Đó là một chất "đất" đặc biệt
trắng như tuyết, nhẹ như bông, tuyệt đối không mùi vị, mang hoa văn nhiều màu,
không thấm nước, dễ lau chùi. Trong các vương triều thời Trung cổ và Phục hưng
xa xưa ngày trước vua chúa thường uống rượu bằng những ly tách làm bằng đồng
hay bạc, sắc "kim" của nó lạnh, cầm nặng tay và thô. Vì thế khi bát
đĩa làm bằng thứ đất trắng mà người Trung Quốc gọi chung là sứ, châu Aâu gọi là
porcelain tràn đến châu Aâu thì lập tức nó có chỗ đứng trang trọng trong hoàng
triều, trong các cung điện nhà vua. Trên tay các bà mệnh phụ là những chiếc
tách trắng toát mang màu sắc thanh nhã, chúng xem ra phù hợp hơn các ly cối bằng
đồng lạnh ngắt.
Thế nhưng các bà đó không mấy ai biết
cái chất đất màu trắng này mà cũng có một chiều sâu triết lý hẳn hoi. Người
Trung Quốc không mấy chuộng kim loại để làm vật dụng trong nhà. Đối với họ
"kim" là để chế tạo vũ khí, dụng cụ đồng áng, sắc của nó lạnh, khí của
nó cứng. Còn vách nhà, mái hiên, đồ đạc thì phải bằng đất ấm áp thân tình. Nếu
"thổ" mà được nung lên với "hỏa" thì càng tốt, chúng đi với
nhau trong thuyết ngũ hành tương giao. Và đó là nguồn gốc triết lý của sứ, nếu
ta muốn quy mọi chuyện về với triết học. May mắn cho Trung Quốc là trời sinh
cho họ có nhiều đất lạ.
Trong số đó có loại đất cực mịn
và rất trắng mà trong vô số ngọn núi của họ có một núi tên là Cao linh (Gaolin)
ở Giang Tây là chứa nhiều nhất. Đó là vật liệu để làm sứ. Cao linh trở thành
tên chung của mọi ngôn ngữ để đặt tên cho thứ đất kỳ dị này. Ngày nay nhiều nơi
trên thế giới thứ đất đó được khai thác. Việt Nam chúng ta gọi nó là
"cao-lanh" và không thiếu tại các vùng Phú Thọ, Thừa Thiên, Sông Bé.
Đồ sứ còn có một mối quan hệ mật
thiết với nghệ thuật hội họa và thư pháp. Nếu trong điêu khắc hay thơ phú người
ta còn có thể sửa chữa, thêm bớt trong quá trình hoàn thành thì trong hội họa
và thư pháp, nghệ nhân chỉ một lần sáng tạo và sau đó không thể chữa những nét
sai kém được. Đó là loại nghệ thuật nằm xa, nằm ngoài trí óc suy luận, không
cho phép gò ép, trau chuốt. Đồ sứ cũng thế, nó chỉ thành hình và lên màu sau
khi nghệ nhân đã nung sản phẩm của mình trong lửa.
Dĩ nhiên kinh nghiệm của nhà sản
xuất được trao truyền lại bao đời con cháu để tránh rủi ro, nhưng một tác phẩm
ngành sứ luôn luôn dành lại ình cái bí ẩn cuối cùng, ra khỏi lò nung là sản phẩm
trở thành chung quyết trong đó màu sắc, hình dạng phải độc đáo và hài hòa với
nhau. Do đó đồ sứ chứa một yếu tố của sự độc đáo bất ngờ nằm ngoài suy luận như
của tranh họa, thư pháp mà nếu nói cho sâu xa thì gốc của nó là Thiền tông.
Ngành sứ Trung Quốc được xem như
phát sinh trong đời nhà Đường [618-907] hay đời nhà Tống (960-1279]. Nhiều nhà
nghiên cứu Trung Quốc đi xa hơn, họ khám phá bên bờ Hoàng Hà nhiều mảnh gốm thời
thượng cổ để kết luận 6000 năm trước công nguyên, công nghệ sành gốm đã có mặt
nơi đây. Trong thời nhà Chu và Thương (đến năm 221 trước công nguyên) người ta
đã khám phá nhiều mảnh cao-lanh nung tới 1000 độ C. Tại viện bảo tàng Thượng Hải,
ta có thể thấy vài mảnh gốm sứ của đời nhà Thương.
Trong thời nhà Tần-Hán (đến năm
220 sau công nguyên) người ta biết tráng men, chính men là lớp phủ làm cho đồ sứ
không thấm nước. Đến đời nhà Đường, ngành sứ đi vào sự điêu luyện với màu sắc
và hoa văn trang trí. Qua đời Tống, ngành sứ có những chuẩn mực mà ngày nay còn
truyền lại. Trong đời này nhà Tống phải dời đô về Hàng Châu lánh nạn Hung nô và
đem theo nghệ nhân về Cảnh Đức Trấn (Jingdezhen), thuộc tỉnh Giang Tây ngày
nay.
Đến thời nhà Nguyên (1271-1368],
đó là lúc Trung Quốc bị Mông Cổ trị vì gần 100 năm, ngành sứ bất ngờ nhận thêm
nhiều yếu tố mới lạ. Đó là loại men sứ nền trắng, hoa văn xanh mà ta hay thấy.
Gốc của nó là công nghệ vùng Trung Đông. Ngoài ra trong thời nhà Nguyên, nhiều
hình dạng đặc biệt như vật dụng của dân du mục, của Thành Cát Tư Hãn hay mang
cũng được đưa vào trong ngành sứ.
Đến đời nhà Minh (1368-1644] thì
nghệ thuật ngành sứ lên đến tột đỉnh và Cảnh Đức Trấn trở thành trung tâm sản
xuất hàng sứ cho vương triều và xuất khẩu đi các nước. Tại Cảnh Đức Trấn thời
đó đã có khoảng 300 cơ sở sản xuất mà các lò sứ tốt nhất chỉ để dành cho triều
đình tại Bắc Kinh.
Thời nhà Thanh (1644-1911] là thời
mà "gu" ưa màu sắc sặc sỡ của dân Mãn Châu xâm lấn vào ngành sứ. Song
song, phương Tây đã biết đến đồ sứ, các bà mệnh phụ đòi phải tráng một vòng
vàng hay bạc trên miệng bát đĩa. Lúc này trình độ sản xuất đồ sứ đã lên rất
cao, hình dạng và màu sắc phong phú, nhưng đồng thời tính truyền thống của
Trung Quốc cũng bắt đầu phai mờ. Dần dần khi đưa công nghệ cơ giới hóa vào
ngành sứ, người ta có thể sản xuất hàng loạt nhưng tính độc đáo của tác phẩm
cũng mất theo.
Đến thế kỷ 20, Nhật xâm chiếm
Trung Quốc, phá hủy những lò nung, nghệ nhân đi tứ tán và sau đó là chủ trương
quốc doanh, chính sách hủy bỏ kinh tế tư nhân làm ngành sứ Trung Quốc tàn lụi.
Ngày nay, cũng như các truyền thống nghệ thuật và văn hóa khác của Trung Quốc,
ngành sứ được khôi phục lại, nhưng song song với việc chạy theo số lượng và do
"nghệ thuật" làm đồ giả mọc lên như nấm, ngành sứ không bao giờ trở lại
thời kỳ hoàng kim cũ.
Tôi đến thăm Cảnh Đức Trấn của thời
đại vàng son năm xưa. Trước thời nhà Tống đây chỉ là một cái làng nhỏ, tên gì
không rõ, nằm gần núi Cao Linh, chuyên sản xuất gốm sứ. Đến thời Tống Nhân Tông
[46], tức Cảnh Đức, nhà vua cho đổi tên thị trấn này thành Cảnh Đức trấn và mọi
sản phẩm ngành sứ nơi đây phải ghi nhãn hiệu là "sản xuất trong đời Cảnh Đức".
Nhà vua không ở lâu trên ngôi nhưng tên tuổi đó ngàn năm vẫn còn. Trong thời
nhà Minh, Cảnh Đức Trấn là một trong bốn trung tâm gốm sứ.
[46] - Làm vua từ năm
1004-1007
Ngày nay Cảnh Đức Trấn là một thị
trấn giàu mạnh, là trung tâm ngành sứ của Trung Quốc còn lại với thời gian. Hơn
một nửa dân cư ở đây hoạt động trong ngành sản xuất đồ sứ. Trong một vùng rộng
lớn, nơi đâu ta cũng thấy la liệt sản phẩm sành sứ, hàng giả xem ra chen chúc với
hàng thật. Nơi đây tôi nhận rằng bốn đặc tính của sứ cao cấp còn tồn tại với thời
gian: trắng như ngọc, mỏng như giấy, trong như gương, búng tay âm thanh phát ra
như tiếng khánh. Vào một gian hàng, cầm thử trên tay một sản phẩm, tôi chưng hửng
vì nó quá nhẹ. Những cái chén này nhất định không phải để ăn cơm, giá của nó đề
bán cũng không đắt. Về sau tại Hồng Kông tôi xem lại những chiếc chén đó thì
giá tại Hồng Kông đã vọt lên gần 20 lần.
Chương
19: Hàng Châu Và Tế Điên Hòa Thượng
Tên Hàng Châu gây trong lòng tôi
sự hâm mộ, hơn cả Bắc Kinh, Thượng Hải. "Trên có thiên đường, dưới có Tô
Hàng". Thiên đường thì của Ngọc Hoàng và Tây Vương mẫu, còn Tô Châu Hàng
Châu là của tất cả mọi người, vì thế ngày nay ai đến Trung Quốc là đến Tô Châu
Hàng Châu, còn thiên đường thì hạ hồi phân giải.
Ngày xưa trước công nguyên Hàng
Châu có tên là Tiền Đường, đó là tên của con sông chảy qua Hàng Châu. Mãi đến
năm 589 trong thời nhà Tùy, thành phố xinh đẹp này mới mang tên Hàng Châu, đó
là thời kỳ xây dựng kênh đào Đại vận hà dài 1800km từ Bắc Kinh về đây. Hàng
Châu là cố đô của nhiều triều đại mà phồn vinh nhất là đời Tống, lúc triều đại
này lánh nạn về phía nam trong thế kỷ thứ 12. Marco Polo, người đến đây trong
thế kỷ 13 cho rằng đây là thành phố "đẹp nhất thế giới" với 12.000
chiếc cầu. Đã từ xưa, Hàng Châu là một chốn đầy sông nước hồ núi.
Đến Hàng Châu là đến Tây Hồ với
núi Cô sơn, rộng gần 6 cây số vuông, ba phía là núi bao bọc. Cô sơn là một
trong bốn hòn đảo của hồ, cao 38m, nơi Lâm Bô đời Tống ở ẩn, nuôi hạc và trồng
mai. Ngày nay trên Cô sơn còn giống mai và nấm mồ của ông. Không chỉ Lâm Bô,
Tây Hồ ghi dấu chân của biết bao nhiêu thế hệ thi nhân văn sĩ, trong đó Bạch Cư
Dị đã từng làm thái thú tại đây và công trình xây đê điều của ông còn lại tới
ngày nay. Hàng Châu cũng là nơi yên nghỉ cuối cùng của Nhạc Phi (1103-1142], vị
tướng quân bị triều đình lên án tử hình một cách oan uổng. Sau khi được phục hồi,
thi hài của ông và con trai được đưa về đây. Người ta tin rằng những người
trung liệt như ông sẽ thành thần tiên mà trên nóc điện thờ còn khắc họa hình
chim hạc, loài chim chỉ dành cho những người bất tử.
Tôi đến đây để biết cảnh thiên đường
ra sao nhưng cũng để theo vết chân của một vị tăng sĩ kỳ dị, đó là Tế Điên hòa
thượng.
Tế Điên tên thật là Lý Đạo Tế, sống
trong đời Tống, tức là khoảng thế kỷ thứ 12. Ông là tăng sĩ nhưng ham uống rượu
ăn thịt chó nên người đời gọi ông là Tế Điên. Mới đầu Tế Điên ở núi Thiên Thai
nhưng ông sớm lên phía bắc khoảng 300km để đến Hàng Châu. Tại Hàng Châu có một
ngôi chùa rất cổ, một danh tự đã ghi dấu chân nhiều vị cao tăng, đó là chùa
Linh Ẩn. Tế Điên vào đó xin xuất gia.
Linh Ẩn tự được khởi xây năm 326,
nằm trong một khuôn viên cực lớn, là một trong những ngôi chùa danh tiếng nhất
Trung Quốc. Trong thế kỷ thứ 10 thì nơi đây có 300 tự viện và 3000 tăng sĩ.
Ngôi chùa này là đối tượng của nhiều sự tàn phá, nó đã bị phá hủy và xây dựng lại
đến nay tổng cộng 16 lần. Trong cuộc nổi loạn Thái Bình thiên quốc (1851-1864] chùa
bị phá hủy hoàn toàn và sau đó mới được xây cất lại. Năm 1953 thủ tướng Trung
Quốc là Chu Aân Lai ký giấy cho xây tượng Thích-ca cao 19,6m. Trong thời cách mạng
văn hóa, nếu không có sự can thiệp vào phút chót của ông thì chùa Linh Ẩn cũng
đã bị tiêu hủy. Ngày nay vào tiền điện ta gặp một bức tượng của Di-lặc và Vi đà
tướng quân của đời nhà Tống. Trong Đại hùng bảo điện cao 33,6m ta thấy lại tượng
Thích-ca đó, khuôn mặt dát vàng ngời sáng trong ánh đèn mờ ảo.
Linh Ẩn là nơi các vị đạo cao đức
trọng tu hành, trong đó có Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975]. Hồi còn trẻ ông làm
quan, lấy trộm tiền của vua phân phát cho dân nghèo. Vua thử lòng lên án tử
hình, xem thái độ ông ra sao. Xem ra ông vui vẻ chẳng sợ chết, vua tha tội, cho
xuất gia. Vĩnh Minh Diên Thọ lên núi Thiên Thai gặp thiền sư Đức Thiều ngộ đạo
tại đó. Năm 950, Trung Hiến Vương mời ông về trụ trì chùa Linh Ẩn. Vĩnh Minh
Diên Thọ là thiền sư, đạt đạo bằng tự lực nhưng ông cũng là người biết rằng căn
cơ con người không mấy ai đi được con đường Thiền tông nên cũng giáo hóa Tịnh Độ
tông, phép niệm Phật vãng sinh. Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Vĩnh Minh
Diên Thọ là một trong những vị ít ỏi giáo hóa cả Thiền tông lẫn Tịnh Độ tông.
Còn Tế Điên xem ra không mấy thắc
mắc về chuyện đó. Huyền sử kể rằng lúc Tế Điên đến Linh Ẩn Tự thì nằm mộng thấy
có một tai họa sắp xảy ra cho dân làng. Đó là ngọn Linh Thứu, chỗ Phật thuyết
Diệu pháp liên hoa, sẽ bay từ Ấn Độ về cực lạc và sẽ "nghỉ chân" ngay
trước Linh Ẩn tự. Tế Điên vội báo ngay cho dân làng tránh xa nhưng dân chúng
làm gì mà tin được một nhà sư ăn thịt chó nên chẳng ai nghe. Sắp đến giờ Linh
Thứu hạ cánh mà dân chúng vẫn nhởn nhơ, thậm chí họ còn lo tổ chức đám cưới cho
một cặp vợ chồng nọ.
Thấy ngọn núi đá vun vút bay lại
mà dân làng vẫn vui cười, không biết làm sao, Tế Điên nhảy vào lễ cưới, ôm cô
dâu chạy như bay. Dân làng đâu dễ để ột ông sư ăn thịt chó cướp cô dâu của mình
được liền đuổi theo thì đánh "rầm" một cái, một ngọn núi đá trên trời
rớt xuống, nằm ngay trước Linh Ẩn Tự. Khi đó dân làng mới biết Tế Điên đã cứu
mình. Ngọn núi đó là Phi Lai phong (đỉnh "bay lại đây"). Tế Điên giải
thích cho dân làng đây là ngọn núi thiêng từ Ấn Độ bay qua, nghỉ một thời gian
sẽ bay tiếp. Muốn đỉnh núi ở lại vĩnh viễn với xóm làng, hãy tạc lên núi đá 500
bức tượng Phật.
Ngày nay Phi Lai phong còn ở đó,
chưa bay đi. Phi Lai phong chỉ cách Linh Ẩn tự một con suối nhỏ, cao 168m, có
vô số hang hốc và khoảng 380 tượng Phật, có niên đại khoảng thế kỷ thứ 10. Tại
vách phía đông của Phi Lai phong có ba bức tượng khá cổ của năm 951, tạc đức
Thích-ca, Quan Âm và Dược Sư. Tượng lớn nhất của Phi Lai phong nằm trên vách
phía bắc, đó là tượng Di-lặc thuộc đời nhà Tống (960-1270], tay cầm xâu chuỗi.
Tôi leo lên Phi Lai phong, lòng nhớ về Linh Thứu, chỗ mà tôi yêu mến nhất trong
các chuyến du hành Ấn Độ. Đáng yêu thay những chuyện truyền kỳ, hiềm gì chúng
có thật hay không có thật.
Gần Linh Ẩn có một ngôi chùa
khác, đó là chùa Tịnh Từ, cũng là nơi có di tháp của Vĩnh Minh Diên Thọ. Tịnh Từ
là chỗ Tế Điên một thời hoạt động tích cực. Chùa này không may bị cháy, Tế Điên
liền lớn tiếng cho hay mình sẽ kiếm gỗ xây chùa mới. Nói thế nhưng Tế Điên
không đi đốn cây làm gỗ gì cả. Trong chùa có một vị tri sự tên là Quảng Lương
không ưa Tế Điên từ lâu, thấy thế muốn chế nhạo ông một phen nên làm ngơ không
nhắc nhở gì cả. Đến gần ngày khởi công xây chùa, Tế Điên lên núi Nghiêm Lăng
xin củi.
Ông lại áp dụng cái kế của Kim Kiều
Giác tại núi Cửu Hoa, chỉ nói xin chút rừng bằng miếng áo cà-sa mót củi. Nào ngờ
áo cà-sa của ông choàng hết núi, choàng tới đâu cây rạp tới đó. Tế Điên cho đem
thả cây xuống sông, tưởng cây trôi ra biển, nhưng cuối cùng cây trồi lên trong
giếng Hương Tích nằm ngay trong chùa Tịnh Từ và được 6 người lạ mặt vớt lên, đó
là thần Lục giáp. Quảng Lương hoảng hồn chịu thua, lấy cây xây chùa nhưng lòng
còn ấm ức về ông tăng ăn thịt chó. Lấy củi một hồi xong, Quảng Lương hô "đủ
số", thần Lục giáp biến mất, nhưng thật ra ông đếm lộn, còn một cây nằm dưới
đáy giếng. Vì lỗi đếm lộn mà Quảng Lương phải chịu đền cây thiếu, ông phải khổ
sở lắm mới kiếm ra một cây thế chỗ.
Tôi tới chùa Tịnh Từ, chiếc giếng
Hương Tích vẫn còn. Du khách tới đây ai cũng nhoài người xuống giếng để xem cây
gỗ sót lại từ thời xa xưa. Chiếc giếng nhỏ và sâu, đường kính chừng 1m, không
hiểu làm sao thần Lục giáp vớt được cây. Du khách không không thắc mắc về chuyện
đó, họ phải thấy cây củi trong chiếc giếng tối om nên người ta phải treo một
cây đèn dưới giếng để thấy được cây. Về sau Tế Điên có để lại bài kệ lúc từ trần:
Lục thập niên lai lang tịch,
Đông bích đả đảo tây bích,
Ư kim thu thập quy lai,
Y cựu thủy liên thiên bích.
Sáu mươi năm bừa bãi,
Vách đông đánh đổ vách tây
Đến nay thu nhặt quay về
Như xưa nước liền trời biếc
Nhưng Tế Điên sẽ không là Tế Điên
nếu ông chết thật. Về sau có vị tăng gặp ông ở chân tháp Lục Hòa, nằm bên sông
Tiền Đường cách đó không xa. Ông có gửi thư về, báo sẽ về lại núi Thiên Thai. Lục
Hòa bây giờ cũng là danh lam thắng cảnh của Hàng Châu. Đó là tháp xây năm 970
nhưng đến năm 1121 bị phá hủy và được xây lại năm 1899, ngày nay có chiều cao
khoảng 60m.
Tế Điên về lại Thiên Thai thì
ngàn năm sau Tịnh Từ lại bị hủy hoại, cách mạng văn hóa trong những năm sáu
mươi của thế kỷ này đã phá hủy ngôi chùa. Lúc tôi tới thì Tịnh Từ mới được xây
lại một phần, lầu trống đã có nhưng lầu chuông chưa ai xây. Tế Điên đã vắng
bóng. Đời này đâu còn chỗ ột con người đắc đạo và hóm hỉnh như thế xuất hiện.
Trong chùa Tịnh Từ ngày nay tôi tìm thấy tượng của
Tế Điên, tưởng Tế Điên cũng mập mạp
như Bố Đại hòa thượng, nhưng không phải. Ông gầy dơ xương, mặt mày vui tươi,
tay cầm quạt mo. Trong chùa người ta không tiện trình bày một Tế Điên ham rượu
thịt nên chỉ có quạt mo, nhưng ra khỏi chính điện trong các sạp bán đồ lưu niệm
là vô số tượng ông tay cầm đùi chó, tay kia quạt mo. Tôi khám phá cả một tượng
Tế Điên bị chó cắn gấu quần, lòng bỗng nhớ Tịch Thiên ở Na-lan-đà, Ấn Độ với
bài kệ:
Con nai trên bàn ăn,
chưa hề sống hề chết,
chẳng bao giờ vắng bóng.
Đã không gì là Ngã,
sao lại có thợ săn,
hay thịt của thú rừng?
Ngày nay nếu Tế Điên có tái sinh
thì có lẽ ông phải ăn thịt nai như Tịch Thiên vì loài chó đã biến mất trên nước
Trung Quốc. Cách đây khoảng vài mươi năm nhà nước Trung Quốc đã cho diệt loài
chó, vì lý do nào thì tôi không rõ. Đi khắp từ nam xuống bắc, từ tây sang đông
tôi không thấy bóng một tên cẩu tử nào cả. Họa hoằn lắm trên các vùng sơn cước
có lúc tôi mới thấy một chú chó ngơ ngác, cứ mỗi lần như thế tôi lại nhớ Tế
Điên hòa thượng.
Nhìn hình ảnh của Tế Điên, tôi nhớ
đến Bùi Giáng, nhà thơ mới xa chúng ta vài năm nay. Bùi Giáng cũng gầy gò như Tế
Điên, cũng bụi đời, cũng đi về cõi nhân sinh như Tế Điên. Tôi được gặp ông
trong nhà một người bạn thân tại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi vào khu vườn nhỏ bé
đó đúng lúc Bùi Giáng đã ngồi sẵn trong đó. Bên ngoài ông không khác mấy với một
người ăn xin đã già nhưng khuôn mặt tinh anh và cặp mắt sắc sảo làm tôi kính sợ.
"Đó, bồ-tát đó", người bạn nói để giới thiệu người tôi hâm mộ nhưng
trước đó chưa từng gặp. Tôi biết Bùi Giáng với tính cách là một người làm vua
trong cõi chữ nghĩa.
Ông có thể hiểu ngộ những văn hào
khó hiểu nhất của Đức, Pháp, Anh và dịch những tác phẩm của họ với một thứ văn
chương trác tuyệt, trung thành với nguyên bản nhưng không gượng ép miễn cưỡng.
Và với tiếng Việt thì ông vào ra như thiền sư vào chợ, ông phung phí, ông sử dụng,
ông chơi đùa như trẻ con nghịch cát. Ông sống triền miên trong cõi thơ ca của
ông để mỗi tiếng mỗi lời của ông có một chiều sâu, một ý nghĩa và chữ nghĩa của
ông tự chúng xếp lại thành thơ. Chúng ta cho rằng ông "làm thơ" nhưng
có lẽ ông không tự biết mình làm thơ.
Bùi Giáng cũng như một người
điên, cỡ Tế Điên. Ông cũng như Tế Điên hình như đến cõi đời này để dạo chơi, để
đùa giỡn và cũng để giáo hóa cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của
sắc thân, của chữ nghĩa, của tư tưởng, chúng đều là chuyện đáng để đùa giỡn.
Từ chân tháp Lục Hòa, Tế Công viết
thư:
Ức tích diện tiền dương nhất tiễn,
Chí Kim do giác cốt mao hàn
Chỉ nhân diện mục vô nhân thức,
Hự vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên
Mặt dạn xưa từng đón mũi tên,
Lông xương nay vẫn giỡn chưa yên.
Chỉ vì mặt thật không ai hiểu,
Về núi Thiên Thai lại một phen.
Tế Điên đùa trong cõi "lông
xương" như Tịch Thiên với thịt nai thịt chó. Đó là các vị giết hại sinh vật
nhưng "mặt thật" của họ là cái vô sinh vô tử. Cũng thế Bùi Giáng đùa
giỡn với chữ nghĩa, ông sử dụng những từ thô kệch nhất đến những ý tưởng ẩn mật
nhất chỉ để nhân sinh thấy cái biến hóa lường ảo của một cái duy nhất. Cũng thế
mà Vĩnh Minh Diên Thọ, ngay trong chùa Linh Ẩn cổ xưa này đã chỉ bày cho thấy
cái "tư tưởng" - cái quan trọng nhất của Descartes - cũng như thịt
nai thịt chó, cũng như chữ nghĩa dở hay, đều là "vọng thức cả, chẳng can
gì đến tâm".
Chúng ta thường lầm thức là tâm,
thậm chí hay gọi chung là "tâm thức". Vĩnh Minh Diên Thọ trả lời câu
hỏi về "tâm thức" của một vị tăng như sau:
"Như Lai Thế Tôn trên hội
Lăng Nghiêm vì ngài A-nan giản biệt rất rõ mà ngươi vẫn cố chẳng tin. Ngài
A-nan lấy cái suy xét theo đuổi làm tâm, bị Phật quở đó. Cái suy xét theo đuổi
đó là "thức"...Ý là nhớ, đối cảnh khởi vọng đều là vọng thức, chẳng
can gì đến tâm. Tâm chẳng phải có- không, có-không chẳng nhiễm. Tâm chẳng phải
cấu-tịnh, cấu-tịnh chẳng nhơ. Cho đến mê ngộ phàm thánh, đi đứng ngồi nằm đều
là vọng thức, chẳng phải tâm vậy. Tâm xưa chẳng sinh, nay chẳng diệt".
CÔ
TÔ THÀNH NGOẠI HÀN SƠN TỰ
Tô Châu không cách Hàng Châu bao
xa, nằm trong đồng bằng hạ lưu sông Trường Giang, thuộc tỉnh Giang Tô. Tô Châu
cũng được xem là thiên đường hạ giới như Hàng Châu, đã là kinh đô của nhiều triều
đại rất cổ, trong đó có nhà Ngô cách đây trên hai ngàn năm.
Thời Đông Chu liệt quốc có một
nhà vua nước Ngô tên là Ngô Hạp Lư. Năm 484 trước công nguyên, Hạp Lư lấy Tô
Châu làm kinh đô và xây một cái thành bao quanh Tô Châu, đặt tên là thành Cô
Tô. Theo một tài liệu cũ thì thành Cô Tô dài 23,5km và có 16 cổng thành. Ngày
nay thành Cô Tô không còn dấu tích gì nữa, chỉ còn hai cổng thành đã đổ nát.
Hạp Lư có con trai là Ngô Phù
Sai. Phù Sai là tướng giỏi, đánh tan và thu tóm nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn
phải chạy về miền nam, đóng tại Cối Kê, thuộc tỉnh Triết Giang ngày nay. Thế
nhưng Phù Sai là người mê gái đẹp nên bị rơi vào bẫy của Phạm Lãi. Lãi là người
của Câu Tiễn tìm kế phục hận Cối Kê. Thật ra Cối Kê là một nơi trù phú, nó
chính là Thượng Hải ngày nay nhưng hai ngàn năm trước Thượng Hải dĩ nhiên chỉ
là một làng đánh cá. Phạm Lãi đi tìm mỹ nhân và kiếm ra được hai nàng, đó là
Tây Thi và Trịnh Đán. Hai nàng này hẳn rất đẹp và cũng rất khỏe mạnh vì theo
Ngô Việt Xuân thu kể thì hai nàng đi "hái củi và ngày nào cũng đập sợi
trên sông".
Sau đó Tây Thi và Trịnh Đán khỏi
phải "đập sợi" nữa vì Câu Tiễn đem "trăm nén vàng" đến thôn
Trữ La, quê của hai người đẹp, rước về cho tập múa hát và dâng cho Phù Sai. Phù
Sai được cả hai người đẹp nhưng yêu Tây Thi hơn và cho xây một cái đài gọi là
Cô Tô đài.
Cô Tô đài được xây trên núi Linh
Nham, cách Cô Tô thành khoảng 12km. Núi Linh Nham chỉ cao có 82m nhưng đá núi
có hình thù kỳ dị, Tây Thi đi guốc lượn lên đó nghe tiếng "leng
keng". Cũng theo sách xưa kể lại, đài Cô Tô xây năm năm mới xong,
"cao năm trăm trượng, rộng tám mươi bốn trượng". Sau đó Phù Sai ở riết
trong đài Cô Tô với Tây Thi, bỏ bê chính sự, cuối cùng quả nhiên bị Câu Tiễn diệt.
Câu Tiễn lên ngôi vua thì Phạm Lãi thấy nên xa lánh triều đình, vì hoạn nạn thì
Câu Tiễn chia xẻ nhưng danh lọi thì chưa chắc! Cuối cùng Phạm Lãi, con người đầy
minh triết và nghệ sĩ đó, bỏ đi, cùng Tây Thi "giong chơi ngũ hồ rồi biệt
tích". Có thuyết nói Tây Thi bị vợ Câu Tiễn dìm chết tại sông Tiền Đường
nhưng tôi thích thuyết Tây Thi đi chơi với Phạm Lãi hơn.
Về sau Lý Bạch và Bạch Cư Dị đến
Linh Nham để sáng tác những bài thơ bất hủ về Tây Thi và mối tình khó kiếm đó.
Ngày nay trên núi Linh Nham không còn dấu vết gì của Cô Tô đài cả. Còn lại với
thời gian là chùa Linh Nham xây thời nhà Lương [502-519]. Qua bao nhiêu triều đại,
Linh Nham tự là đạo trường của tông Pháp Hoa, Luật tông. Thời gian đã nhiều lần
hủy phá Linh Nham tự, ngày nay du khách tìm thấy ngôi chùa mới xây lại năm 1919
và 1932.
Hãy trở lại thành Cô Tô, ngày nay
nó cũng đã bị phá hủy. Thế nhưng ở phía tây của thành, bên con kênh đại vận hà
nối liền nam bắc, có một ngôi chùa nhỏ trường tồn với thời gian. Đó là Hàn Sơn
tự. Một buổi tối nọ, trăng đã tàn, có người ghé đậu thuyền trên đại vận hà,
nghe một tiếng chùa của Hàn Sơn tự và làm bài thơ:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San [47].
[47] - Bản dịch của Tản Đà
Đó là bài Phong Kiều dạ bạc, tác
giả là Trương Kế, ông vốn là một vị quan coi sóc chuyện buôn bán, sống cuối thế
kỷ thứ 8. Bài thơ này đã trở thành giai thoại, Trương Kế lưu danh thiên cổ mặc
dù chỉ làm vài bài thơ. Người đời sau có nhiều câu chuyện về sự tích của bài
thơ này, nhất là thắc mắc chùa làm gì mà đánh chuông nửa khuya. Nhưng có thế mới
ra thơ, nếu chuông đánh buổi sáng sớm gặp lúc Trương Kế ngủ dậy lo đi coi sóc hợp
đồng mua bán ngành sắt và muối thì ngày nay đã không ai biết Hàn Sơn tự.
Tôi đến Hàn Sơn tự và tìm xem
Trương Kế đã đậu bến nào. Đó là một kênh sông nhỏ, chiếc cầu Phong kiều chính
là loại cầu vòm cong cong như ta thường thấy tại Hàng Châu, Tô Châu. Hai bên cầu
là bờ kênh trồng những cây phong, đó là "cây bến" của Tản Đà, loại
cây có gỗ màu sáng, có lá như hình cờ Ca-na-đa. Ngày nay cây phong cũng còn,
chen lẫn với nhiều cây khác để nơi đây ngày tôi đến có một phong cảnh xinh đẹp
lạ thường. "Lửa chài" của ngày xưa nay hẳn đã biến mất nhưng ngược lại
tiếng chuông chùa nổi lên dồn dập. Tôi vào Hàn Sơn Tự, ngay cửa vào là bài
Phong Kiều dạ bạc do Khang Hữu Vi đời Thanh viết chữ đại tự đứng mãi với thời
gian và mưa gió chào khách.
Hàn Sơn chỉ là một ngôi chùa nhỏ,
được xây năm 502. Trong loạn Thái Bình thiên quốc chùa bị phá hủy và được xây lại
năm 1905. Chiếc chuông mà Trương Kế nghe tiếng thời nhà Đường đã bị mất và được
thay thế bằng một chiếc mới. Chúng tôi may mắn được phương trượng chùa Hàn Sơn
tiếp. Ông chuyên viết chữ đại tự, trên tường treo đầy những bức thư pháp của
ông, chỗ viết là một chiếc bàn dài kê dọc đầy những mực. Ông nói chậm rãi:
"Chùa Hàn Sơn chỉ là một chùa nhỏ, nó lưu danh chỉ nhờ một tiếng chuông.
Thế nhưng, chúng ta là Phật Tử, chùa nhỏ chùa lớn không quan trọng, chúng đều
chỉ là danh tự".
Thanh nhã thay và cũng sâu sắc
thay! Chùa Hàn Sơn nhỏ nhưng tiếng chuông quá lớn nên ngày nay khách du lịch đến
đầy nơi đây. Gác chuông đầy kẻ lên người xuống. Tôi cũng sắp hàng lên gác
chuông gỗ nhỏ hẹp chỉ có chỗ cho vài người. Ôi tiếng chuông làm nao lòng Trương
Kế ngày xưa bây giờ nó vang lên loạn xạ, khi to khi nhỏ lẫn trong tiếng cười
đùa của các thanh niên thiếu nữ mặc quần sọt. Họ đánh một tiếng chuông lấy có rồi
vội lên xe đi chỗ khác, đâu biết rằng trong chùa có nhiều điều đáng trân trọng
nữa như kinh sách, bia đá của tiền nhân. Ít người trong họ không biết sau hậu
điện của chùa có hình vẽ của người xem như một gã điên mà tên người đó chính là
tên của chùa. Đó là Hàn Sơn, một cuồng sĩ của thế kỷ thứ 7, thường hay được nhắc
chung với Thập Đắc.
Ngày đó Hàn Sơn là một bần sĩ sống
trong hang đá trong núi Thiên Thai, là chỗ của Tế Điên hòa thượng. Trên núi
Thiên Thai có chùa Quốc Thanh nổi tiếng, bấy giờ do thiền sư Phong Can trụ trì.
Hàn Sơn hay lui tới chùa này, chơi với Thập Đắc. Thập Đắc (lượm được) cũng không
khá gì hơn, là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được Phong Can lượm đem về chùa. Thập Đắc
quí Hàn Sơn, hay thu góp thức ăn, đựng trong một ống tre, cho Hàn Sơn mang đi.
Thế nhưng Hàn Sơn không biết thân phận, đã không biết cám ơn chùa mà còn chửi đời.
Sách Tống cao tăng truyện viết:
"Hàn Sơn đi trong hành lang chùa, chốc chốc lại kêu gào chửi bới lăng mạ mọi
người, hoặc là ngẩng mặt lên trời mà chửi đổng. Các vị sư trong chùa không chịu
nổi các gậy đuổi đi thì Hàn Sơn lăn lộn, vỗ tay cười hà hà rồi bỏ đi, quần áo
rách bươm, mặt mũi hốc hác, đầu đội mũ bằng vỏ cây hoa, chân kéo lê đôi guốc mộc".
Hàn Sơn Thập Đắc thường bá cổ bá vai đi chơi với nhau và cũng thường lui tới
chùa Hàn Sơn hiện nay ở Tô Châu.
Ngày nọ có vị quan tên là Lư Khâu
Dẫn đến hỏi Phong Can, ở đây ai là người hiền. Phong Can là một thiền sư đắc đạo,
cảm hóa được cả cọp, đáp: "Có Hàn Sơn tức là Văn-thù, Thập Đắc tức là Phổ
Hiền, hình dạng như người nghèo, điệu bộ như người cuồng". Lư Khâu Dẫn đến
chùa gặp hai vị đó liền cúi lạy vái chào, các vị sư khác kinh ngạc hỏi:
"Ngài là quan to sao lại cúi lạy kẻ cuồng phu". Hàn Sơn, Thập Đắc cười
hà hà, nói "Phong Can lắm chuyện" rồi bỏ đi.
Về sau Lư Khâu Dẫn đến tìm thì
Hàn Sơn chỉ la lớn "Các ngươi hãy cố gắng" rồi biến mất trong hang, để
lại nhiều thơ ca. Còn Thập Đắc cũng bỏ đi đâu không ai biết. Ngày nay hậu thế
còn lại Hàn Sơn thi tập do Lư Khâu Dẫn đề tựa và Đạo Kiều ghi chép, phụ thêm cả
thơ của Thập Đắc và Phong Can, gồm hơn 300 bài, gọi chung là Tam Ẩn Tập. Sau
khi Hàn Sơn biến mất rồi thì chùa ở Tô Châu mang tên Hàn Sơn để nhớ đến vị cuồng
sĩ này, trong chùa còn tranh tượng của Hàn Sơn Thập Đắc.
Xem Thêm: (BBT TVHS)
Bài Thơ Phong Kiều Dạ Bạc của
Trương Kế
Đến Hàn San Tự Để Tìm Hiểu Bài
Thơ Phong Kiều Dạ Bạc
Thiền Sư Nhất Hạnh Nói Về Bài Thơ
Trên
Đọc Lại Phong Kều Dạ Bạc, Trần
Long Hồ
Trở Lại Với Phong Kiều Dạ Bạc, Hải
Đà Vương Ngọc Long
Đôi Bạn Chùa Hàn Sơn, Duyên Trường
Chương
20: Ninh Ba, Đầu Nguồn Của Thiền Tông Nhật Bản
Ninh Ba, nằm trên bờ biển nhìn ra
Nam Hải Quan Âm trên đảo Phổ Đà, là một vùng đất thiêng. Du khách ai cũng biết
Thượng Hải, nào ngờ cách đó 200km về hướng nam có một vùng đất đã phồn vinh từ
đời nhà Tần, cách đây 2300km, đó là Ninh Ba. Đến đời nhà Đường, Ninh Ba trở
thành một cảng biển quan trọng của Trung Quốc. Qua thời nhà Tống, năm 1127, khi
triều đình dời đô về Hàng Châu thì Ninh Ba đóng vai trò quan trọng như ngày nay
Thượng Hải đối với Bắc Kinh. Đến thế kỷ 16 thì Ninh Ba đã đầy những tàu thuyền
nước ngoài. Trong những người lữ khách lui tới đó có những tăng sĩ đến từ một
quần đảo tên gọi là Nhật Bản. Thế nhưng tàu bè đâu phải là thứ làm Ninh Ba trở
thành vùng đất thiêng mà từ rất xưa đây là nơi tụ hợp nhiều ngọn núi lạ lùng.
Như ta biết sau thời Tam Quốc là
thời Tây Tấn của Tư Mã Yêm. Năm 282 trong thời đó có một ẩn sĩ tên là Lưu Thái
Ha mộng thấy một vị tăng người Ấn Độ chỉ đường đi tìm xá lợi của Phật. Ngày nọ
Lưu Thái Ha đến núi Mậu sơn, nằm ở phía đông của Ninh Ba ngày nay, nghe dưới đất
có tiếng chuông khánh, đào lên thì thấy một bảo tháp, bên trong có một chung vàng
chứa xá lợi Phật. Vì hơn bốn trăm trước, A-dục Vương tại Ấn Độ cho xây
"tám vạn bốn ngàn tháp" thờ xá lợi Phật nên núi Mậu sơn ở Ninh Ba được
đổi tên thành A-dục vương sơn. Về sau Lưu Thái Ha trở thành tăng sĩ, có tên sư
Huệ Đạt, ông cất tinh xá thờ xá lợi. Năm 405, trong thời Nam Bắc triều, chùa
chiền bắt đầu được xây dựng. Nhà vua Lương Vũ Đế, người hân hạnh được Bồ-đề đạt-ma
giáo hóa, cũng cho xây thêm tự viện ở đây năm 522 và tặng tấm biển "A-dục
vương tự". Về sau, vua Tống Cao Tông tự tay đề biển "Phật Đảnh Quang
Minh chi tháp".
Theo bước các vị cao tăng như Tỉnh
Am đại sư, Hư Vân hòa thượng, tôi đến chùa A-dục đảnh lễ xá lợi. Kiến trúc của
chùa ngày nay là từ thời nhà Thanh, tháp đựng xá lợi bằng gỗ đựng trong một
tháp đá nằm trong xá lợi điện cao hơn 15m. Nơi đây trước khi mở tháp cho khách
thập phương đảnh lễ các vị sư trong chùa tụng kinh và thực hành nghi lễ rất
công phu. Ngẩng đầu nhìn xá lợi treo trong tháp, tôi nhớ lại mình đã đến ngọn đồi
con, chỗ làm lễ Trà tỳ (Lễ thiêu xác) đức Phật hơn 25 thế kỷ trước, nơi mà Huyền
Trang nói rằng, ai nhất tâm sẽ tìm thấy xá lợi. Ngày nay trên đất Trung Quốc
này của Huyền Trang, xa Câu-thi-na vạn dặm, tôi đã "tìm thấy" răng Phật
gần Bắc Kinh, xá lợi Phật tại Ngũ Đài sơn và đây là lần thứ ba tại Ninh Ba trên
bờ Nam Hải.
Sau chùa ta còn tìm thấy nhiều
bia đá mà bia xưa nhất là của năm 833 thuộc đời Đường. Qua nhà Tống, chùa A-dục
là đạo trường của Lâm Tế tông, các vị thiền sư như Tông Cảo, Đức Quang, Sư Phạm
đều đã giáo hóa nơi đây và trong giới đệ tử ngày đó có nhiều người từ Nhật Bản
qua học. Trong số đó có một người tên là Minh Am Vinh Tây (Eisai, 1141-1215].
Minh Am Vinh Tây chính là người khai sáng Thiền tông tại Nhật và truyền tông
Lâm Tế [48] qua Nhật.
[48] - Tiếng Nhật:
Rinzai
Mới 14 tuổi ông xuất gia, lên núi
Tỉ Duệ tại Nhật học Thiên Thai tông. Sau đó ông thấy phải trực tiếp đi Trung Quốc.
Năm 1168, ông lên đường đi Trung Quốc lần đầu, lúc đó chưa biết gì về Thiền
tông cả. Hai mươi năm sau, ông đến Trung Quốc lần thứ hai, lần này ông lên chùa
Vạn Niên ở núi Thiên Thai và được thiền sư Hư Am Hoài Sưởng ấn chứng, một vị
thuộc tông Lâm Tế. Về nước ông soạn bộï Hưng thiền hộ quốc luận, là người đầu
tiên truyền bá giáo lý Thiền tông tại Nhật.
Cách Ninh Ba 35km về phía đông,
không xa A-dục vương sơn bao nhiêu là một ngọn núi khác có tên là núi Thái Bạch.
Khoảng năm 300 có một vị tăng tên là Nghĩa Hưng lập thảo am tu trên núi đó.
Ngày nọ trên ngọn núi vắng người đó có một thiếu niên đến cúng dường củi lửa và
lương thực. Nghĩa Hưng hỏi tên tuổi thì thiếu niên đó tự xưng là Thái Bạch. Vì
thế núi được mang tên là núi Thái Bạch, am cỏ của Nghĩa Hưng có tên Thiên Đồng
(thiếu niên cõi trời). Đến đời Đường, năm 575 lại có một vị tăng khác tên là
Pháp Xán tu học ở đây cũng được vị thiếu niên này hầu hạ cúng dường nên núi
Thái Bạch càng được hâm mộ. Chùa trên núi Thái Bạch kể từ đời nhà Minh mang tên
Thiên Đồng tự. Ngày nay đến Thiên Đồng tự ta thấy ngôi chùa xây trong thời nhà
Thanh (1644-1911]. Trong chùa có tượng Phật tam thế, hiện tại quá khứ và vị
lai.
Chùa Thiên Đồng là nơi ghi dấu
chân của nhiều vị thiền sư Nhật Bản mà quan trọng nhất là vị Đạo Nguyên Hi Huyền
[49]. Đó là một trong những vị thiền sư quan trọng nhất của Nhật, người đưa
dòng thiền Tào Động [50] qua Nhật. Đạo Nguyên được tôn thờ là "đại bồ-tát"
và có tư tưởng "thâm sâu và quái dị nhất".
[49] - Tiếng Nhật:
Dogen Kigen (1200-1253]
[50] - Tiếng Nhật: Soto
Đạo Nguyên mới lên bốn đã đọc thơ
Đường, lên chín đọc A-tì đạt-ma [51]. Lên 15 tuổi, Đạo Nguyên học giáo pháp của
Thiên Thai tông nhưng không vừa ý. Đạo Nguyên tìm đến thiền sư Minh Am Vinh
Tây. Vinh Tây nói với Đạo Nguyên: "Chư Phật không ai biết mình có Phật
tính, chỉ có súc sinh mới biết mình có Phật tính". Câu nói khó hiểu đó mà
Đạo Nguyên nghe qua thì thấy có sáng sủa hơn đôi chút thì không may Vinh Tây chết
trong năm đó. Năm 1223 Đạo Nguyên quyết thân hành sang Trung Quốc.
[51] - Bộ luận căn bản
của Phật giáo
Đến chùa Thiên Đồng, ông nghe thiền
sư Như Tịnh [52] khai thị "hãy xả bỏ thân tâm", Đạo Nguyên đại ngộ.
Hai năm sau ông về nước, thành lập tông Tào Động tại đó. Học trò hỏi Pháp Phật,
ông chỉ đáp "với hai bàn tay trắng ta trở về cố hương, chẳng có chút gì gọi
là Phật pháp cả...mây tan núi hiện". Mặc dù "không có gì để nói"
nhưng ông để lại Chính pháp nhãn tạng (Shobogenzo), một tác phẩm đồ sộ với 95
quyển, một kiệt tác của Thiền tông Nhật Bản.
[52] - Thiên Đồng Như Tịnh
(1163-1228], học trò của Tuyết Đậu Trí Giám
Sau núi A-dục và Thái Bạch gần
Ninh Ba còn một ngọn núi huyền bí hơn nữa, đó là Thiên Thai sơn, cách khoảng
100km. Chúng ta thường nghe "Lưu Nguyễn lạc Thiên Thai" thì đó chính
là ngọn núi này. Huyền sử chép hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hậu Hán
(25-250] đi hái thuốc trong núi này gặp tiên. Hai chàng ở với tiên nửa năm, nhớ
nhà xin về thì hậu thế đã trải qua bảy đời rồi. Hai chàng trở lại núi thì không
còn thấy tiên đâu nữa. Ngày nay người ta đến Thiên Thai sơn chắc chẳng còn ai
được diễm phúc như hai chàng Lưu Nguyễn.
Thiên Thai sơn không chỉ là trú xứ
của tiên nữ, đó cũng là nơi ẩn tu của Tế Điên hòa thượng, của Hàn Sơn. Thiên
Thai sơn là nơi núi rừng u thúy, thâm sâu hùng vĩ mà trong thời đại hưng thịnh
nhất nơi đây có 72 ngôi tự viện, trong đó bốn ngôi được gọi là "tứ đại
danh sát": Quốc Thanh, Vạn Niên, Thiên Phong và Cao minh tự.
Thiên Thai sơn là tổ đình của
phái Thiên Thai tông do Trí Khải [538-597] sáng lập. Thật ra Trí Khải là tổ thứ
tư của Thiên Thai tông nhưng ông được xem là người thực sự sáng lập môn phái
này. Ông là người đầu tiên trong Phật giáo Trung Quốc hệ thống các trường phái
Phật giáo với các chủ trương khác nhau, trong đó Thiên Thai tông chủ trương lấy
Diệu pháp liên hoa kinh làm cơ sở. Năm 576 Trí Khải về giáo hóa tại núi Thiên
Thai và từ đó mà tông phái của ông có tên Thiên Thai tông. Trong số những người
theo học Thiên Thai tông lại có một vị cao tăng xuất sắc người Nhật, tên là Tối
Trừng [53].
[53] - Saicho, 767-822,
cũng được gọi là Truyền Giáo đại sư
Tối Trừng du học tại Trung Quốc
năm 804, nghiên cứu giáo pháp Hoa Nghiêm và cả Mật Tông nhưng ông tiếp thu
Thiên Thai Tông sâu sắc nhất. Tối Trừng đến núi Thiên Thai tham học với Đạo
Thúy, cao tăng đời Đường. Về lại Nhật Tối Trừng lập một thiền viện danh tiếng tại
núi Tỉ Duệ (Hiei) và mất năm 822 tại đó. Tối Trừng để lại cho hậu thế khoảng
200 tác phẩm.
Hiện nay tại Trung Quốc khách
chiêm bái tìm thấy núi Thiên Thai với ngôi cổ tự Quốc Thanh xây năm 598. Chùa gồm
có 14 điện, tượng lớn nhất là Thích-ca mâu-ni cao 6,8m từ đời nhà Minh. Ngoài
ra ta còn tìm thấy 18 vị La Hán đẽo bằng gỗ từ thế kỷ 13, 14, trong đó có Tế
Điên hòa thượng. Còn Thiền tông cũng như Thiên Thai tông đã suy tàn từ lâu. Tại
Nhật Bản, Thiên Thai tông do Tối Trừng sáng lập, Thiền Lâm Tế do Vinh Tây và
Thiền Tào Động do Đạo Nguyên khởi xướng đã bắt rễ nhanh chóng trong xã hội Nhật
Bản. Và bất ngờ thay, Thiền Trung Quốc tắt lịm trong thế kỷ 12 thì tại Nhật nó
bắt đầu có sức sống mãnh liệt.
Sau Vinh Tây và Đạo Nguyên là các
thiền sư Nhật Bản xuất sắc như Tâm Địa Giác Tâm (1207-1298], người đưa Vô môn
quan sang Nhật, Nam Phố Thiệu Minh (1235-1309], người được Nhật Hoàng ban hiệu
Đại Ứng quốc sư. Về sau vị thiền sư xuất chúng nhất của Nhật là Bạch Ẩn Huệ Hạc
(Hakuin Ekaku, 1686-1769], người đã giác ngộ bằng công án Triệu châu cẩu tử
[54], và cũng là người đã nêu lên công án "Thế nào là tiếng vỗ của một bàn
tay?". Bạch Ẩn là một thiên tài, ông đã phục hưng lại Thiền tông trong thế
kỷ thứ 18 và là một họa sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ tạc tượng xuất chúng.
[54] - Công án nổi tiếng
của Triệu Châu "- Con chó có Phật tính không? - Không!"
Gần đây nhất ta có D.T. Suzuki
[55], người Nhật, là thiền sư đầu tiên của châu Á giới thiệu một cách có hệ thống
Thiền tông đến với phương Tây mà tác phẩm hay nhất của ông phải là bộ Thiền Luận
[56]. Công trình của ông xuất sắc đến độ có người cảm phục nói "ông đã đưa
được nhiều người đến cửa". Nhiều người phương Tây chỉ biết Thiền tông qua
Suzuki, vì thế mà có kẻ lầm tông phái này bắt nguồn từ Nhật. Họ không ngờ rằng
suối nguồn đầu tiên của Thiền tông Nhật Bản là những họat động của Vinh Tây, Đạo
Nguyên cách đây hơn bảy trăm năm gần một thành phố mang tên Ninh Ba tại Trung
Quốc.
[55] - 1870-1966, tên
Hán Việt là Linh Mộc Đại Chuyết
[56] - Essays in
Zen-Buddhism, bản dịch Việt ngữ của Trúc Thiên-Tuệ Sĩ
Chương
21: Phổ Đà Sơn (Putuoshan)
Lên thuyền từ Ninh Ba về Nhật
không phải chỉ có Tối Trừng, Vinh Tây, Đạo Nguyên mà còn một vị khác mà tên tuổi
còn lưu truyền đến ngày nay. Đó là Huệ Ngạc. Vị tăng sĩ Huệ Ngạc này không học
Thiên Thai tông, cũng chẳng học Thiền tông mà đến tận núi Ngũ Đài sơn xa xôi
vùng tây Trung Quốc để cung thỉnh từ đó một bức tượng Quan Âm, đưa về Nhật. Đó
là năm 916 [57]. Ông mang được tượng về đến Ninh Ba và lên tàu đi về Nhật.
[57] - Có tài liệu ghi
là năm 858
Thế nhưng rời bờ không được bao
xa thì thuyền bị kẹt lại, dưới đáy biển bỗng trồi lên những bông hoa sen bằng sắt,
chận đường ông đi. Huệ Ngạc thấy vậy mới lập nguyện sẽ xây chùa thờ Quan Âm
ngay tại đảo gần nhất, bông sen liền biến mất. Huệ Ngạc cho thuyền tấp đến hòn
đảo lân cận, lên bờ xây am tu hành tại đó, thành thật đặt tên am là "Quan
Âm bất khẳng khứ" (Quan Âm không chịu đi). Hòn đảo đó là Phổ Đà sơn thuộc
quần đảo Chu sơn, đi tàu cánh ngầm từ Ninh Ba mất khoảng một tiếng đồng hồ.
Pho tượng Quan Âm linh ứng như thế
nên dần dần Phổ Đà sơn trở thành đạo trường của Ngài. Khách thập phương đến đây
chiêm bái bức tượng, tu bổ chùa Quan Âm bất khẳng khứ thành một tự viện to lớn
và khám phá thêm trên hòn núi này nhiều điều kỳ lạ.
Tìm hiểu kỹ nguồn gốc của Phổ đà
sơn ta mới biết một ngàn năm trước Huệ Khả đã có một người tu đạo tiên đến đây,
đó là An Kỳ Sinh thuộc đời Tần Thủy Hoàng. An Kỳ Sinh sống ở vùng ven biển,
chuyên chế thuốc trường sinh bất tử. Ông được Tần Thủy Hoàng mời nói chuyện
"ba ngày ba đêm" nhưng không chịu nhận chức tước, chỉ hẹn một ngàn
năm sau đến tìm ông trên một hòn đảo ngoài biển. Hẹn như thế thì ngay cả Tần Thủy
Hoàng cũng chịu thua, nhà vua cho Lư Sinh, Từ Sinh đi tìm nhưng sóng gió quá
đành trở lui [58]. Vài trăm năm sau An Kỳ Sinh còn Mai Phúc đời Hán và Cát Hồng
đời Tấn đến Phổ Đà tu tiên.
[58] - Theo Sử ký Tư Mã
Thiên, bản dịch Nguyễn Hiến Lê. Điều thú vị là theo truyền thuyết của Việt Nam
thì An Kỳ Sinh về sau đến núi Yên Tử, Quảng Ninh Việt Nam để tu tiên. Yên Tử là
tổ đình của Thiền Trúc lâm. Trên Yên Tử có một khối đá tự nhiên, nhìn giống như
tượng đạo sĩ mặc áo choàng. Gần tượng đá có động Dược am (am thuốc) và Thung am
(am luyện thuốc)
Năm 847 thuộc đời Đường Đại Trung
có một nhà sư người Ấn Độ tên là Thiên Trúc đến Phổ Đà, xuống một động đá nằm
sát nước biển mà ngày nay ta gọi là động Hải Triều Âm, đốt ngón tay để cúng dường
Quan Âm. Huyền sử chép rằng Quan Âm tu luyện tại một hòn núi gần đó, sau khi đắc
đạo Ngài nhảy một bước để đến Phổ Đà. Chỗ Ngài nhảy đến để lại một dấu chân lớn
trên đá, tới nay vẫn còn, gọi là "Quan Âm khiêu" (cái nhảy Quan Âm).
Từ thế kỷ thứ 10 đến 12, tại Phổ Đà sơn có 218 tự viện được xây dựng, trong thời
gian đó có 3000 tăng sĩ tu học nơi đây và trong thời cận đại có một cao tăng nổi
tiếng sẽ được kể đến sau.
Quan Âm là vị đại bồ-tát được Phật
tử châu Á thờ cùng nhiều nhất. Trong bốn vị Bồ-tát thì Văn-thù là vị đại trí,
chủ trí huệ, nằm trên bình diện trí thức, xa xôi với tâm lý dân giã. Vị Phổ Hiền
là vị đại hạnh, hạnh nguyện của Ngài quá mênh mông quá to lớn, người thường mấy
ai nối gót được như Ngài. Vị Địa Tạng là người chủ động cứu loài hữu tình trong
địa ngục, đối với ta thì xem ra cảnh này còn xa vời, có thể không bao giờ xảy
ra ình. Còn Quan Âm, Ngài là vị đại bi, chuyên cứu độ cảnh khổ nhân sinh, ban bố
niềm phúc lạc trên trần thế. Do lực niệm Quan Âm mà:
Xô mình vào lửa lớn,
Hầm lửa biến thành hồ...
Hoặc trôi giạt biển lớn,
Sóng gió không thể chìm...
Hoặc bị kẻ ác đuổi,
Mảy lông không tổn hại...
Hoặc giặc cướp vây quanh,
Giặc tức khởi tâm từ...
Bị xử sắp mất mạng,
Đao gẫy thành từng đoạn...
Hoặc tù ngục gông cùm,
Mở tung được giải thoát...
Bùa chú các độc dược,
Trở lại hành người hại...
Hoặc ác thú vây quanh,
Liền bỏ chạy tứ tán...
Quán Thế Âm tịnh thánh,
Chính là nơi nương tựa,
Trong khổ não chết chóc...[59].
[59] - Trích Diệu pháp
liên hoa kinh, Phẩm Phổ Môn thứ 28, Việt dịch của Thích Nhất Chân
Quan Âm là người đưa mắt nhìn
chúng sinh, lắng tai nghe mọi điều than thở để đi cứu giúp. Quan Âm không hề chỉ
có dạng nữ nhân "Phật Bà" như Trung Quốc Việt Nam hay trình bày, Ngài
là một vị đại bồ-tát phát tâm rộng như không gian nên thân Ngài cũng bao la vô
tận. Tranh tượng hay trình bày Quan Âm "nghìn tay nghìn mắt" để nói
lên khả năng ứng hiện của Quan Âm.
Tôi đến Phổ Đà để chiêm bái đạo
trường của vị bồ-tát rất thông hiểu tâm tư con người này. So với Ngũ Đài của
Văn-thù, Nga Mi của Phổ Hiền, Cửu Hoa của Địa Tạng, núi Phổ Đà sơn của Quan Âm
chỉ là một ngọn núi thấp nằm ngoài biển. Có ý nghĩa thay, vị trí của núi và đại
nguyện của Quan Âm muốn cứu độ quảng đại con người bình thường nhất. Biển cả tượng
trưng cho phiền não luôn luôn bao trùm đời thường của kiếp nhân sinh và ngọn
núi không quá cao nằm ngay giữa biển phù hợp tầm với của tất cả mọi người chịu
nghe tiếng rào rạt của "hải triều âm".
Trên Phổ Đà sơn, am cỏ Quan Âm bất
khẳng khứ ngày nay đã trở thành Phổ Tế tự, ngôi chùa lớn nhất toàn đảo, rộng
hơn 36.000 m2, diện tích xây cất khoảng 11400m2. Phổ Tế được xây dựng năm 1080,
ngày nay gồm có 7 điện, 12 tòa tháp và 16 các điện khác như Già lam điện, Tổ sư
điện, Tàng kinh các, La hán đường, Bạch vân lầu...Điện quan trọng nhất là Viên
Thông do vua Khang Hy cho xây dựng, thờ tượng Quan Âm cao 8,8m. Tôi đi dọc hai
bên tường, nhìn ngắm "Quan Âm tam thập nhị ứng tùy hình", đó là 32 dạng
tiêu biểu của bồ-tát tùy cơ ứng hiện.
Quan Âm có thể mang hình ông quan
văn, kẻ ăn xin, bà nội trợ, cô tiểu thư, vị võ tướng...Nét mặt của các vị đó diễn
tả những con người thông thường như ta hay thấy trong nhà ngoài ngõ, không có
nét gì của thần thánh cả. Những khuôn mặt người thường đó có một nét chung là
hiền hậu gây cho ta lòng thân cận với Quan Âm. Tôi bỗng nhớ đến Đạt-lai lạt-ma
mà tôi đã gặp tại Đức. Vị này cũng được xem là hiện thân của Quan Âm, ông cũng
có một khuôn mặt bình thường tốt bụng, có một tiếng cười sảng khoái và một tiếng
nói rất quen thuộc với tôi.
Sau Phổ Tế tự là Pháp Vũ tự, đó
cũng là một ngôi chùa rất lớn với 8800m2. Chùa này được kiến lập từ năm 1508,
đó là năm tăng sĩ Đại Trí từ Tây Thục đến Phổ Đà đảnh lễ, lập am gọi là Hải Triều
am. Trong chùa này có bức tranh đá nổi tiếng của họa sĩ Diêm Lập Bản đời Đường
[668] vẽ hình Quan Âm. Trên núi Phổ Đà còn Cửu Long Quan Âm điện và Cửu Long
bích, bức tường đá vẽ chín con rồng.
Hãy ra bờ biển để nghe tiếng sóng
hải triều âm, từ dưới vọng lên, từ trong các động đá vọng ra, từ những khe núi
mà nhìn lâu ta thấy dường như hình Quan Âm ẩn hiện. Ôi đây chính là Nam Hải
Quan ÂÂm, chỗ mà Tôn Ngộ Không hễ gặp hoạn nạn là đằng vân về xin cứu giúp. Nơi
đây là nơi cầu nguyện của biết bao thế hệ, từ những chuyện cao quí nhất đến nỗi
lòng thường nhật nhất. Tại chỗ này ta còn thấy bia đá kỷ niệm nhà sư Thiên Trúc
đốt tay cúng dường, cầu Quan Âm hiện tiền.
Ngoài khơi là một hòn đảo dài thấp,
nhìn như hình người nằm dưới biển nhìn lên trời cao, hòn đảo đó cũng được khách
hành hương xem là tượng Quan Âm thiên tạo để tập trung cầu nguyện. Bất ngờ
thay, tôi đến tảng đá có ghi dấu "Quan Âm khiêu" còn rõ dấu chân của
Ngài. Vị bồ-tát Quan Âm mà một chân co lại tượng trưng cho sự tĩnh lặng, một
chân duỗi ra biểu diễn lòng từ bi sẵn sàng đi cứu độ, phải chăng chân ấy đã ghi
lại nơi đây bằng một lõm đá có đầu có gót hẳn hoi. Không ai biết được điều đó,
điều chắc chắc là nếu có ai được Quan Âm cứu độ thì bản thân người đó cũng chẳng
hay biết, bồ-tát ở hay đi đâu cần lưu dấu.
Ngài có đủ hình tướng để xuất hiện
thì cũng có muôn cách để cứu độ, kể cả nhắc nhở bằng tư tưởng, bằng sáng kiến,
bằng trực giác. Người đời cứ đợi hoạn nạn xảy ra trước mắt mới trông chờ cứu độ,
đâu có ai ngờ cuộc đời bình thường không có biến cố trong lúc tai họa có khả
năng xảy ra, chính nó đã là một phép lạ. Tôi nhớ nước Đức của năm 1989 trong
quá trình biến động chính trị ở phía đông. Ngày nay một nhân vật cao cấp kể lại,
trong những ngày đó chỉ cần một tiếng súng duy nhất nổ ra là đã bắt đầu cuộc
chiến tranh thế giới thứ ba. Cả triệu người vận động trong mấy tuần liên tiếp
mà không có tiếng súng nổ. Ai dám cho là một sự bình thường? "Người đời,
trong sự vô minh của nó, nó cứ tưởng mình là người tạo tác duy nhất", tôi
nhớ tới câu đó của Aùo Nghĩa Thư của Ấn Độ giáo.
Từ An Kỳ Sinh của thời Tần Thủy
Hoàng hãy về với thế kỷ 20. Trong thời kỳ cận đại này cũng có một vị đại sư tu
hành ở trên Phổ Đà, đó là Ấn Quang đại sư. Ấn Quang sinh năm 1862, là tổ thứ 13
của Tịnh Độ tông Trung Quốc. Ông quy y với Đạo Thuần ở Ngũ Đài sơn năm 21 tuổi.
Khoảng từ năm 26 tuổi Ấn Quang về trụ trì chùa Pháp Vũ trên núi Phổ Đà. Tại đây
ông đã hai lần đóng cửa nhập thất rất lâu. Năm 1918 vì quyên tiền in kinh nên
sư Ấn Quang hay về Thượng Hải. Về sau Ấn Quang xây dựng lại chùa Linh Nham ở Tô
Châu và mất tại đó năm 1940.
Tại Phổ Đà tôi được thăm lại chỗ ẩn
tu của Ấn Quang trong Pháp Vũ tự. Nơi đây ông sống gần 30 năm, ngày nay người
ta còn giữ lại bàn viết, phòng ngủ, giường chiếu hài vớ của ông. Trong Ấn Quang
Đại sư kỷ niệm đường ngày nay ta đọc được câu đối: "Mạc nhạ nhất xưng siêu
thập địa, Tu tri lục tự quát tam thừa" (Đừng ngờ một câu qua thập địa, Phải
hay sáu chữ phủ tam thừa). "Sáu chữ "ở đây tức là "Nam mô
A-di-đà Phật", sáu chữ đó bao quát cả ba thừa Phật giáo, thâu trọn tất cả
các phép tu học.
Ấn Quang đã lĩnh hội lòng từ bi của
Quan Âm, để biết rằng trong thời đại ngày nay không còn mấy ai đủ sức tự lực để
đạt Phật quả mà cần phải dựa trên phép tu tịnh độ để được vãng sinh cực lạc bằng
cách thành tâm niệm A-di-đà. Ấn Quang biết người thường không phải ai cũng được
như An Kỳ Sinh, như Tây Thiên, Huệ Ngạc, Bạch Ẩn hay Suzuki. Họ chỉ là những
người bình thường, có họa thì lo, có phúc thì mừng, ngồi thiền thì mỏi lưng, tụng
kinh thì buồn ngủ. Đối với họ đại trí của Văn-thù quá cao xa, đại hạnh của Phổ
Hiền quá to lớn. Họ chính là đối tượng giải cứu của Quan Âm khi sống và khi chết
thì chỉ A-di-đà mới cứu được họ. Đừng bắt họ hiểu Tính Không, họ không giải nổi
công án, họ không thuộc hơn chục câu kinh. Có cách nào cho họ giải thoát không?
Ấn Quang nói chỉ cần niệm "sáu chữ" là "phủ tam thừa". Đó
là lòng đại bi của Ấn Quang đại sư.
Rời Phổ Đà để trở lại đất liền,
tôi đi qua rừng tử trúc, đó là một vùng mọc toàn thứ trúc màu đỏ tía. Đứng cao
trên rừng tử trúc kỳ lạ đó là tượng Quan Âm cao 33m nhìn ra biển cả mênh mông:
Mắt từ nhìn chúng sinh,
Tụ phúc biển vô lượng,
Cho nên đáng đảnh lễ[60].
[60] - Trích Diệu pháp liên
hoa kinh, đã dẫn
Đó là lời của Thích-ca mâu-ni trả
lời Bồ-tát Vô Tận Ý hỏi về Quán Thế Âm.
GIÃ
TỪ TRUNG QUỐC
Trung Quốc với một cõi đất mênh
mông và một Hán tộc lâu đời hiển nhiên là một nước lớn trên thế giới. Mặc dù
còn biết rất ít về Trung Quốc và lịch sử nước này nhưng tôi dám nói đây phải là
một dân tộc với một nền văn minh cổ nhất và một nền học thuật sâu sắc nhất của
loài người. Trước công nguyên hàng trăm năm, lúc con người còn mơ ngủ thì người
Trung Quốc đã bắt đầu nghĩ đến việc trị thủy, bắt đầu xây những công trình vĩ đại
mà ngày nay không ai dám nghĩ có thể hoàn thành. Đó cũng là thời kỳ mà nước
Trung Quốc đã được thu về một mối với hàng trăm triệu dân, từ thời đó ý thức thống
nhất của họ luôn luôn ngự trị trong những đầu óc tầm cỡ.
Trong lịch sử dài của Trung Quốc,
những cuộc nội chiến của họ thường được chấm dứt bởi những nhân vật kiệt xuất
và sau đó thường là một thời kỳ phát triển rực rỡ về văn hóa. Đời nhà Đường,
nhà Tống, lúc châu Aâu còn nằm trong giấc ngủ dài của thời Trung Cổ thì nền văn
hóa nghệ thuật của Trung Quốc đã lên tới tột đỉnh. Qua đến thời nhà Nguyên,
Minh, Thanh, mặc dù có khi kẻ cai trị là người "ngoại tộc" nhưng nền
văn minh Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển.
Và đến đầu thế kỷ này, châu Aâu
đã phát triển qua được ba trăm năm sau thời kỳ phục hưng, súng ống của họ đã mạnh
hơn sức sáng tạo của văn quan nho sĩ thời nhà Thanh và đã xâu xé nước Trung Quốc.
Người Hán tỉnh giấc mộng dài và sực thấy ngoài rợ Hồ ngày xưa còn có người
phương Tây sẵn sàng xâm chiếm mình. Người Trung Quốc phản ứng theo cách của họ
và ngày nay ta có một nước Trung Quốc rộng mênh mông hơn bao giờ cả, nhưng nền
văn hóa ngày xưa cũng chưa bao giờ bị lãng quên như bây giờ.
Hai nền tảng vĩ đại của tòa nhà
văn minh Trung Quốc là Lão giáo và Khổng giáo đã làm gốc ột nền học thuật khoảng
2500 năm. Nó là hai thái cực luôn luôn bổ túc lẫn nhau trong đầu óc của người
Hán. Nếu Khổng Giáo lấy xã hội nhân sinh này làm đối tượng của nhận thức và
hành động thì Lão Giáo tìm hiểu cái gốc của trời đất, của muôn vật và thuận
theo đó mà ứng xử. "Nội thánh ngoại vương" như thế là đầy đủ, về tư
tưởng hầu như họ không còn gì để bổ túc nữa. Về giang hà, sơn lâm, hồ hải thì
Trung Quốc tự nó là một thế giới, họ không cần tìm kiếm xa xôi. Về dân tộc thì
Hán tộc của họ có số lượng cực lớn nhưng tương đối thuần chủng, ngôn ngữ, chữ
viết khá thống nhất.
Vì những lẽ đó mà đi khắp các
vùng Trung Quốc, từ Bắc Kinh Thượng Hải tráng lệ đến những vùng quê hẻo lánh, đời
sống lầm than, tôi luôn luôn có cảm giác Trung Quốc là một cây cổ thụ vĩ đại sống
đã ngàn năm. Nó bắt rễ từ những mảnh đất rất xa xôi, rất khác nhau; lam lũ thu
hút những chất bổ dưỡng trong lòng đất tối tăm để ột thân cây sum sê lá cành.
Và trên những cành đó là nghệ thuật nở hoa đủ thứ màu, sinh trái đủ thứ vị. Từ
hàng triệu con người cần cù không tên đó, qua những thế hệ mà ta hay đếm hàng
trăm năm, một nền học thuật phong phú được sinh ra như đạo học, thi ca, văn học,
thư pháp, âm nhạc, hội họa, gốm sứ...
Người Trung Quốc vì những lẽ đó
thường quá tự hào, cho rằng mình có thể là một thế giới riêng, không cần phải
du nhập điều gì từ bên ngoài cả, nội cái tên nước đã phản ánh tâm lý này rồi.
Chính vì thế mà tôi càng ngạc
nhiên hơn về cách mà người Trung Quốc tiếp nhận đạo Phật, một tôn giáo được du
nhập từ Ấn Độ. Chúng ta hãy nhớ rằng Phật giáo đến Trung Quốc trong thế kỷ thứ
nhất, khi Khổng Giáo và Lão Giáo đã định hình hơn năm thế kỷ, khi nước Trung Quốc
đã thống nhất dưới thời Tần Thủy Hoàng, khi chủ trương bảo vệ bờ cõi đã rõ với
việc xây dựng Vạn lý trường thành. Thế thì tại sao những người Trung Quốc đầy tự
hào đó lại mở rộng vòng tay đón chào các loại kinh điển "ngoại lai" từ
Tây Vực tới và thờ cúng một "người nước ngoài" là Thích-ca mâu-ni.
Tôi phải tự trả lời ình câu hỏi này.
Từ thế kỷ thứ nhất đến nay gần 2000
năm, Phật giáo để một dấu ấn quá đậm tại Trung Quốc tới mức khó hiểu. Từ phía cực
tây như Đôn Hoàng với các thạch động nổi tiếng đến các quần đảo cực đông như Phổ
Đà sơn, từ vùng Bắc Kinh lạnh lẽo với Linh Quang tự đến miền Hồ Nam với Huệ
Năng xuất chúng, đi tới đâu ta cũng thấy chùa chiền tự viện của Phật giáo, nhiều
hơn hẳn đền đài thờ đạo sĩ hay nho sĩ.
Hãy nhớ lại công lao hoạt động của
người xưa mà ta chỉ có thể kể vài người tiêu biểu. Đó là công trình phiên dịch
và truyền giáo của các "Phạm tăng" Ấn Độ như Ma-đằng và Trúc Pháp Lan
trong thế kỷ thứ nhất, An Thế Cao sau đó khoảng 100 năm. Trong thế kỷ thứ 4 có
Phật Đồ Trừng đến Lạc Dương năm 310, Cưu-ma-la-thập đến Hậu Lương năm 386. Năm
520 Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Quốc, khai sáng dòng Thiền ở đó và từ đó Phật giáo
vươn lên sống mãi với thời gian. Ngược lại tăng sĩ Trung Quốc đi Ấn Độ cũng
không thiếu mà những người nổi danh nhất là Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh.
Đến thế kỷ thứ 11, 12 lúc Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ thì tại Trung Quốc, Phật
giáo còn rực rỡ hơn tám trăm năm nữa.
Tôi chỉ có thể lý giải sự hưng thịnh
này của Phật giáo bằng cách cho rằng tư tưởng đại thừa đã đáp ứng đúng đòi hỏi
học thuật và tôn giáo của người Trung Quốc. Một mặt thì Khổng giáo quá chú ý đến
xã hội thế gian, cho cái siêu thế gian không thể tiếp cận được. Mặt khác Lão
Giáo quá ít lời về Đạo, cũng cho rằng không thể nói về Đạo. Hơn thế nữa Lão
giáo cho triết lý hành động một nội dung "vô vi", hành động nhưng
không có bất cứ chủ đích gì, điều này gây không ít hoang mang cho con người, nhất
là con người mang đầy tính xã hội của Trung Quốc. Về sau người đạo sĩ Trung Quốc
thường có hình ảnh một vị luyện linh đan, sống trường sinh bất tử, thường cưỡi
hạc đi chơi với mây gió.
Khi Phật giáo đến Trung Quốc
trong thế kỷ thứ nhất, có người hiểu lầm đây là đạo Lão vì Phật giáo cũng nói về
một cái Đạo "bất khả tư nghì", nhưng ấn tượng đó sớm biến mất. Vì nếu
Lão Tử bỏ đời ra đi và được người đời tôn thành Thái Thượng Lão quân thì các
tăng sĩ Phật giáo từ phương xa lại, dịch kinh điển và tìm cách nói về cái
"không thể nghĩ bàn". Người Trung Quốc lắng nghe và thấy đây là cái
có thể chấp nhận được.
Trong thời Nam Bắc Triều
[420-588] nhờ Cưu-ma-la-thập, tư tưởng Trung quán của Long Thụ được truyền bá
và Chân Đế [61] là người đưa Duy thức đến Trung Quốc. Đến thời nhà Đường, Thiền
tông và Hoa Nghiêm rực lên như một ánh đuốc trong nền văn hóa tôn giáo tại
Trung Quốc. Hiển nhiên là Phật giáo đã trộn với Lão giáo để thành Thiền tông
Trung Quốc và với Hoa Nghiêm tông, người Trung Quốc thấy rằng có thể nói về một
Tính Không, ít nhất là về cái "dụng" của nó.
[61] - Paramartha,
499-569, dịch các tác phẩm của Duy thức tông như Nhiếp đại thừa luận, Duy thức
nhị thập tụng
Giáo lý đại thừa còn thích hợp với
người Trung Quốc ở chỗ nó cho con người một hình ảnh lý tưởng, đó là hình ảnh bồ-tát.
Đó là những người tuy hành động không vướng mắc nhưng có "tác ý" hẳn
hoi, không quá khó hiểu như "vô vi" của Lão giáo. Hơn thế nữa, hình ảnh
bồ-tát thõng tay vào chợ để cứu độ con người rất thích hợp với đầu óc thực tiễn
của người Trung Quốc. Họ không thể quay lưng với xã hội, cưỡi hạc rong chơi mà
nghĩ rằng đời mình phải làm gì cho có ích và nếu không phải để dạy dỗ giáo hóa
thì để làm gì. Hành động dạy dỗ là thái độ của Khổng giáo và nội dung giáo hóa
là tư tưởng đại thừa.
Thú vị thay, nếu Thiền tông là sự
tổng hòa của Phật giáo và Lão giáo, thì ý niệm bồ-tát có một yếu tố của Khổng
giáo. Hình ảnh của các vị La Hán của Trung Quốc trong các đại hùng bảo điện nói
lên điều đó. Có vị thì như cây khô ngồi trên cành thông mang hình ảnh của đạo
sĩ, có vị da đen tóc quăn quên cả tam thế mang hình ảnh của A-la-hán Ấn Độ và
cũng có vị tươi cười nhìn người đời, khuôn mặt như một vị sư biểu với lòng sẵn
sàng dẫn dắt. Cả hai nền tảng Lão giáo và Khổng giáo tìm lại trong nền Phật
giáo Trung Quốc dấu ấn của mình và đều làm cho triết lý đại thừa lớn mạnh hơn cả
Ấn Độ. Các thiên tài tôn giáo Ấn Độ cần phải có một miếng đất đã cày bừa sẵn
như Trung Quốc để tư tưởng họ có thể đơm hoa kết trái.
Từ nền Phật giáo đại thừa đó của
Trung Quốc mà các dòng truyền thừa lan qua Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tại
các nước đó, dĩ nhiên Phật giáo lại hòa nhập với nền văn hóa bản xứ để thành một
nền Phật giáo với bản sắc riêng, trong đó Thiền tông, Hoa Nghiêm, Tịnh Độ,
Thiên Thai, Mật tông có thể hòa quyện với nhau để ra những bồ-tát, thiền sư bản
xứ. Tuy khác nhau, nhưng trong ba nước đó đều có chung những nét giống nhau về
giáo pháp, về triết lý nhận thức và hành động.
Do đó trên bước đường tại Trung
Quốc có khi tôi thấy mình như ở trong một ngôi chùa nào quen thuộc, tiếng tụng
kinh, mùi nhang trầm như vọng lại từ một mối chung. Trung Quốc đã đóng vai trò
đầu nguồn Phật giáo cho các nước vùng Đông Á, điều đó ta phải khâm phục thừa nhận.
Ngày nay có nhiều tranh cãi liệu Phật giáo Việt Nam từ Trung Quốc du nhập hay từ
Ấn Độ trực tiếp truyền qua, dù coi trọng tính chất nghiêm túc của lịch sử nhưng
tôi không thấy các cuộc tranh luận đó đóng vai trò gì đáng kể trong triết lý
tôn giáo.
Trung Quốc là một nước với một nền
học thuật thâm sâu, xứng danh ngang hàng với Ấn Độ, là những chiếc nôi của văn
minh loài người. Hai nước đó nằm sát bên nhau có chung một dãy Hy-mã lạp sơn đầy
huyền bí, cùng có chung một mái nhà mà từ đó những con sông thiêng băng núi rừng
chảy ra biển cả. Giữa Trung Quốc và Ấn Độ là Tây Tạng, đó lại là một vùng đất kỳ
lạ, một nơi mà Phật Giáo phát triển lên một mức độ siêu việt hơn cả đại thừa.
Vì thế tôi thấy mình phải đi Tây
Tạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét