Thượng đế thì cười
Nguyễn Khải
tự truyện
Con người suy nghĩ còn
Thượng đế thì cười
(Ngạn ngữ Do Thái,
theo lời dẫn của Milan Kundera trong
Diễn văn Zérusalem - Nguyên Ngọc dịch)
1.
Hắn không thể tin được
đã sang tuổi bảy mươi lại phải đối mặt với những câu hỏi hết sức vô lý, buồn
cười, chỉ có thể hét lên vì giận dữ chứ không thể trả lời. Tại sao hắn phải trả
lời, người hỏi đã không có cái quyền được hỏi thì việc gì hắn phải trả lời.
Nhưng hắn vẫn không thể không trả lời vì người hỏi là vợ hắn, là người bạn đời
từ năm hắn mới ngoài hai chục tuổi, đã ăn ở với nhau gần hết một đời người, đã
có con chết con sống, con sống đứa lớn đã ngoài bốn chục tuổi, đứa nhỏ đã ba
mươi tuổi, lớn hơn năm hắn làm bạn với mẹ nó những ba tuổi. Năm mới về tạp chí
hắn mới hăm nhăm tuổi, anh Thanh Tịnh khoảng ngoài bốn mươi, anh Văn Phác, chủ
nhiệm tạp chí cũng mới ba mươi, anh Chính Hữu trẻ hơn một tuổi mới hai mươi
chín. Nếu thằng con đầu của hắn còn sống thì nó đã bốn mươi tư tuổi. Nói thế,
tức là vợ chồng hắn đã ăn ở với nhau lâu lắm, cùng sống hết một thời, gần hết
một kiếp lại chưa đủ để hiểu nhau ư? Chả lẽ từng ấy năm tháng sống bên nhau mà
chưa thể là một sao? Hắn và vợ còn là một cặp vợ chồng may mắn, chưa từng phải
xa nhau lâu, ngay trong những năm có chiến tranh hắn vẫn đi đi về về, chưa hề ở
một chiến trường nào dài quá hai tháng. Còn thời đó nhiều cặp vợ chồng phải xa
nhau năm, bảy năm, cả chục năm cũng là chuyện thường. Có một sĩ quan của quân
chủng hải quân, từ năm 1960 đã nhận nhiệm vụ chuyển vũ khí vào Nam bằng đường
biển trên những con tầu không số, đi về vài chuyến rồi mất tích. Ðã có giấy báo
tử, vợ đã đi lấy chồng khác, đã có một con với người chồng mới thì người chồng
cũ đột ngột hiện ra ở khuôn cửa căn hộ tập thể, tóc bạc, da nhăn, chân tay lòng
khòng giống hệt ông bố chồng lúc con trai vào chiến trường. Mười lăm năm đã
trôi qua, một đời người đã trôi qua. Với người chồng cũ, người vợ cùng sống mới
có dăm năm, còn với người chồng mới họ đã sống với nhau gần mười năm. Vậy mà
người đàn ông đến sau sẵn sàng từ bỏ hạnh phúc đang có, tự nguyện ra đi để
người ở chiến trường về được bù đắp mọi mất mát. Cặp vợ chồng tái hồi ấy đã
sống rất yên ấm bên nhau cho đến tận bây giờ. Cái đạo làm người của một thời
cũng đẹp nhỉ, rất đẹp. Còn vợ chồng hắn suốt bốn mươi lăm năm chưa một lần ăn
tết lẻ loi, năm ăn tết ở Hà Nội, năm ăn tết ở nơi sơ tán, trong chiến tranh mà
lúc nào cũng cặp kè bên nhau nhìn bà con trong xóm cũng ngượng. Ðã vui lẻ là
không thể vui hoàn toàn, vẫn cứ phải lén lút thế nào, chả lẽ giữa cảnh chia ly
của nhiều nhà lại trưng ra cái cảnh đoàn tụ, cứ như những kẻ đã tách khỏi cộng
đồng. Vậy mà tới tuổi già, cả vợ lẫn chồng đã biến hoá thành hai cái túi xương
thịt dăn deo, dúm dó, người vợ còn hỏi chồng: "Anh có còn yêu tôi không?
Anh có định ruồng bỏ tôi không?" Câu hỏi thì vô lý và buồn cười nhưng
người hỏi thì đau đớn, nghiêm trang, mắt nhìn tuyệt vọng như kẻ vừa bị tuyên án
tử hình. Lần đầu hắn nghe câu hỏi ấy liền trả lời nửa đùa nửa thật: "Bà
nghĩ tôi với bà còn ở tuổi đôi mươi à? Bà đã lẫn rồi à?" - "Anh đừng
nói thế, tôi chưa lẫn, tôi hỏi thật đấy". Mặt hắn đã cứng lại: "Sao
lúc trẻ không hỏi, nay đã sắp xuống lỗ mới hỏi. Tôi có chung thuỷ với bà hay
không thì bà cũng biết, gần nửa thế kỷ sống với nhau lại còn chưa đủ để biết
sao?" Người vợ vẫn nhìn hắn bằng lòng mắt đã đục bạc, cặp môi nhăn nhúm
tím lợt run khe khẽ: "Thuở trẻ anh không thế, về già đốc chứng nên mới
thế, tôi không nói vu cho anh đâu". Chồng bảy chục, vợ sáu mươi lăm, thời
trẻ sống với nhau chả ai phải nghi ngờ lòng chung thuỷ của ai, bây giờ sắp chết
lại giở trò ghen tuông bóng gió! Cứ như một chuyện hài, một trò hề, không dè
lại có ngày là chuyện đau đầu của chính hắn! Hắn vốn thích cười, thích nói đùa,
thích thầm thì vào tai bạn bè nhiều nhận xét ngộ nghĩnh về những hành vi buồn
cười, những cảnh ngộ dễ bật cười của người này người kia, cũng là những cái
cười hiền lành, thư giãn chứ không có ác ý, nếu đương sự có nghe được cũng đành
cười rồi bỏ qua. Nhưng cái thằng hay gây cười rồi cũng có lúc trở thành trò
cười của thiên hạ, bạn bè đã đe thế, nhưng hắn vẫn cười vì tự nghĩ mình là
người biết cách lui tới đời nào chịu làm bung xung để ngươì khác có dịp chọc
cười. Mà hoá ra đã từng là một nhân vật gây cười, khi diễn trò thì không tự
biết, năm tháng qua đi nghĩ lại mới thấy tức cười. Vậy mà bạn bè lại không nỡ
cười, chỉ trách nhẹ, thì ra các vị ấy còn thương hắn thật. Ấy là hai lần xuất
chính của một thằng nhà văn vốn được khen là không hám danh. Cả hai lần hắn đều
thất bại, mặt mũi lem luốc vì từ chỗ quyền lực chui ra làm sao còn giữ được
gương mặt sạch. Người khác bôi lem mặt mình, tự mình cũng vẽ bậy vẽ bạ lên mặt
mình, như thằng hề, lại còn nghĩ không ai biết mình đã là hề nên mới dám lên
mặt thuyết lý về tâm hồn, về đạo đức, cả về lý tưởng để có được những tác phẩm
văn chương để đời! Nó buồn cười là ở chỗ ấy. Nhưng cái buồn cười ở chốn ba
quân, nói gì thì nói, mình chỉ là một vai diễn cùng với nhiều vai diễn khác,
dẫu là buồn cười thì vẫn có nhiều tiếng vỗ tay, có cả tiếng la hét nên có cái
say, cái xuất thần khoảnh khắc của vai diễn, nên mới nói được nhiều câu rất tâm
huyết, rất chân thành, nếu ngồi vài người mà thốt lên những lời lẽ đó thì xấu
hổ chết được. Ðó là cái buồn cười không tự biết, vì tự mình cũng chưa lần nào
dám nhìn thẳng vào cái nghịch lý ấy để thấy hết được tính hài hước của nó. Có
lẽ vì hắn là người đã từng làm trò cười trong vai diễn hào hứng của mình, tự
thấy mình là người rất quan trọng nên vui lắm, nói nhiều hơn, cười nhiều hơn,
da thịt như nở ra vì sự mãn nguyện nên không chỉ đóng vai một lần, còn tiếp tục
tình nguyện đóng vai những hai lần, lần sau còn ê chề hơn lần trước, tất nhiên
lúc hết vai cũng hơi buồn, cũng hơi xấu hổ, mà nói cho cùng cũng chả có gì đáng
xấu hổ, có phải chỉ có một mình hắn tự ra sân khấu, tự múa may mà bảo phải xấu
hổ. Riêng lần này thì ngay từ lúc bắt đầu đã thấy nực cười rồi, vì cái trái
nghịch, cái vô lý đã được bày ra một cách trơ trẽn, chả có một cái nhân danh
đẹp đẽ nào che đậy cả. Chả lẽ nhân danh cái tình yêu vĩnh cửu, già rồi, sắp
chết rồi vẫn không trốn khỏi những trói buộc của mình yêu. ở người già hắn chỉ
chấp nhận những mối tình ân nghĩa, sự hàn nối, sự bù đắp những cơ hội bị trượt
đi thời họ còn rất trẻ. Như mối tình bị trượt đi của bà chị hắn với ông anh rể
muộn mằn. Có cái gì rất lặng lẽ, rất ngậm ngùi làm nên cái ý vị riêng trong chút
hạnh phúc vớt vát lúc cuối đời. Vợ hắn vừa mếu máo vừa nói: "Lúc nào tôi
cũng yêu anh, lúc nào tôi cũng sợ mất anh!" Giọng nói đã thiểu não, cái
nhìn càng thiểu não, là cái nhìn tuyệt vọng của một người đã gần mất cả chỗ bám
víu cuối cùng. Nhưng sao lại có thể nghĩ được thế nhỉ? Tuổi ba mươi có thể lo
sợ sẽ mất hết nếu bị chồng ruồng bỏ. Còn ở tuổi bảy mươi người chồng đã gần như
vô nghĩa nếu như họ muốn ra đi. Vì ở tuổi già người đàn bà chỉ cần biết có con
với cháu thôi. Mà cái thằng đàn ông là hắn cũng chỉ tha thiết có con với cháu.
Nếu như con trai hắn lại nói: "Con rất yêu bố, con rất sợ bị mất bố",
thì hắn phải xúc động cả nhiều ngày sau. Vì con cái với tuổi già là tất cả, nó
bỏ mình tức là cả cuộc đời của mình đã rời bỏ mình. Ở nó mình đã nuôi trồng chăm
bón bằng tất cả máu huyết của mình, tất cả hãnh diện và hy vọng một đời, chúng
nó quay lưng lại thì mình chỉ còn là cái túi rỗng rách chứ còn gì nữa. Cũng như
tình yêu với tuổi trẻ là tất cả. Tuổi trẻ có thể chết vì sự tan vỡ của một cuộc
tình. Ấy là nói cái thời sự lãng mạn còn chi phối toàn xã hội. Còn ở thời này
tất cả đã là sự tính toán rất tỉnh táo, thì mất một mối tình chàng trai hay cô
gái chỉ buồn nhiều lắm khoảng một tháng, có bao nhiêu trò chơi rất công nghiệp
sẽ bù đắp nhanh chóng khoảng trống ấy. Tiếng kêu rất não nuột của người vợ chỉ
làm hắn kinh ngạc và thương hại. Nghĩ lại một chút còn hơi buồn cười. Cái buồn
cười bao giờ cũng nảy sinh từ sự trái nghịch. Người đã già lại thốt ra những
lời yêu đương của bọn trẻ là dễ buồn cười vì nó không thuận tai. Người đã già
lại cố có những biểu hiện của tuổi thanh niên, bước đi nhảy nhót, mắt mũi đong
đưa, nói năng ỏn ẻn lại càng dễ gây cười vì nó vừa nghịch tai vừa nghịch mắt.
Trong cái trò chơi ghen tuông lạc điệu nếu một người bật cười phảy tay đứng lên
thì trò chơi lập tức chấm dứt. Mọi màn hài kịch sẽ sớm chấm dứt nếu một người
trong cuộc chợt nhận ra cái buồn cười của thân phận phảy tay bước ra. Nhưng hắn
đã không bật cười, không phảy tay đứng lên mà lại tự trói mình bằng những lời
thanh minh dài dòng, càng nói càng mất bình tĩnh, càng giống một người có tội
thật đang cố gắng tự biện hộ. Và tấn hài kịch gia đình không những không thể
chấm dứt ngay mà còn kéo dài tới hai năm sau, tới tận bây giờ.
2.
Người bảy mươi tuổi lại phải đối mặt với một nghịch cảnh, thoạt nghĩ là
chuyện buồn cười, chuyện trẻ con, muốn chấm dứt lúc nào cũng được, không dè cứ
phải dấn sâu vào mãi, mỗi ngày một trầm trọng thêm, mỗi ngày càng tự làm mình
hao mòn đi, tự đánh mất mình đi, và có lúc đã nghĩ chỉ có cái chết mới tự giải
thoát được. Một đời người lại được kết thúc bằng cách ấy thì buồn cười lắm, oan
uổng lắm. Với hắn vẫn tự xem là người biết lui tới, luôn luôn tìm được lối
thoát trong mọi thế kẹt thì cái tình huống hiện tại còn là một đòn trừng phạt
rất cay nghiệt, rất đáng đời, một tiếng cười dài trong những trò chơi bất tận
của thượng đế. Bởi vì hắn là một thằng đàn ông rất lãnh đạm, rất nhạt nhẽo
trong địa hạt tình yêu những năm còn trẻ thì lại bị vu là có ngoại tình lúc đã
về già; là người thích lý lẽ, lý lẽ trong văn chương, lý lẽ trong ứng xử thì
lại va đầu vào sự câm lặng và điếc đặc trước mọi lý lẽ; là người thích sống
bằng sự tỉnh táo thì lại bị bọc chặt bởi sự phi lý khiến hắn dần dần cũng trỏ
nên ngu muội. Như người bị nhấc khỏi môi trường sống quen thuộc quăng vào một
môi trường sống rất khác lạ, trong đó hắn bị tước đoạt mọi kinh nghiệm, mọi
thói quen, mọi phán đoán, kể cả cái lợi khí vẫn giúp hắn vượt qua mọi trở ngại
là ngôn ngữ cũng hoá ra bất lực. Tức là hắn đã rơi vào một hoàn cảnh mà tất cả
đều đối nghịch với hắn, đều trở thành khắc tính, thậm chí một nửa của hắn cũng
thù ghét với cái nửa còn lại. Cứ như đang bị đuổi bắt trong một giấc mơ mà kẻ
đuổi bắt mình không rõ hình thù là người hay là vật, là người sơ hay kẻ thân,
là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ. Chỉ là một cái khối luôn thay đổi hình dạng
dồn đuổi mình, và hắn do bản năng tự vệ cứ thế chạy, cũng chả hiểu sao lại phải
chạy nhưng nếu không chạy thì hắn sẽ bị tan biến trong nó, thành chính nó, trở
thành một phần tử của cái khối khủng khiếp ấy. Nhưng dẫu sao thì hắn vẫn cứ
chạy được, dưới mặt đất cùng đường thì hắn vọt bay lên, bao giờ cũng bay cao
hơn, bay xa hơn cái khối sát nhân một quãng. Trong nhiều giấc mơ dài ngắn từ
trẻ đến già hắn hay bị vây bủa trong những tình huống bị mất danh dự đến tột
cùng. Chẳng hạn như ăn nằm với một người đàn bà xa lạ và bị bắt quả tang. Hoặc
lấy cắp tiền và cũng bị bắt quả tang. Trong đời một người đàn ông hắn chưa từng
ân ái với một người đàn bà nào ngoài vợ hắn. Nhưng phản bội vợ trong tưởng
tượng, trong thèm muốn thì luôn luôn có, gặp một người đàn bà đẹp lớn tuổi hơn
hoặc nhỏ tuổi hơn là hắn lập tức nghĩ ngay tới những mối quan hệ bất chính dẫu
biết chắc rằng sẽ không bao giờ có thể có. Những ẩn ức của đời thường đã tìm
được lối thoát bằng những giấc mơ chăng? Nhưng cả đời hắn chỉ phạm tội ăn cắp
có một lần, lấy một cuốn truyện tại nhà thầy giáo năm còn học tiểu học. Còn khi
đã trưởng thành hắn chưa từng lấy cắp công của ai, lấy cắp danh của ai, lấy cắp
tiền của ai. Riêng trong nghề văn, nói cho thật, cũng có lấy cắp một cách nghĩ,
một cách nhìn, một cách viết không chỉ của một vài vị tiền bối mà còn của mấy
bạn văn mới bước vào nghề. Lấy cắp của người khác chưa từng là một ám ảnh trong
hắn tại sao nó lại biến hoá vào những giấc mơ của hắn. Chắc là cái ám ảnh phạm
tội thời còn thơ ấu. Những người gây nên nỗi ám ảnh dai dẳng này lại là bố hắn,
mẹ già của hắn, các chị hắn và ông anh rể của hắn. Một đời người chưa lúc nào
hắn quên được toà án gia đình ngồi quây quanh cái bàn ăn trong ngôi nhà cổ của
phố Hàng Nâu, Nam Ðịnh, và cái giọng lên án lạnh lùng của ông bố: "Tại sao
mày lại lấy tiền của các chị mày..." Và bà mẹ già nói nhẻ nhót trong cái
nhếch mép như hơi cười: "Con thiếu tiền sao không nói với mợ? Hay là đẻ
con cần tiền?" Những lời nói lạnh buốt ấy khiến hắn, một thằng trẻ con mới
lớn, vỡ ra thành những mảnh băng nhỏ, và cái nhúm băng nát vụn ấy ngay lập tức
đã tan thành nước. Trong mấy chục giây hay lâu hơn hắn không rõ, hắn đã mất
biến trên cõi thế gian này, đã chưa từng tồn tại, cho tới lúc bà gắt to với các
cô con gái: "Có làm gì thì làm đi! Từ nay có tiền thì phải giữ!" Vì
từ nay trong gia đình đã xuất hiện một thằng ăn cắp! Hắn bàng hoàng mất mấy
ngày nhưng rồi hắn cũng vượt qua được, vì hắn đã nhận ra cái tội của hắn không
phải tội ăn cắp mà là cái tội khó nói hơn, cái tội là con thêm con thừa, đứa
con không mong đợi của một ông bố vì chót mê say thêm một người đàn bà mà có
đứa con thêm này. Ðó là lầm lỗi của người lớn, hắn chả có tội gì trong cái lỗi
của họ. Nửa năm sau hắn lại bị vu là thằng ăn cắp ở nhà ông anh rể. Anh là ông
chủ của một cụm cửa hàng bách hoá ở một đường phố lớn của Hải Phòng. Anh kéo
hắn vào căn phòng làm việc của anh vào một buổi sáng, nói thẳng với hắn là hắn
đã mở cửa dắt người quen vào lấy đi một cúp-pông len ở quầy bán len dạ. Cũng
vẫn cái lý lẽ, ở nhà này trước đây chưa hề mất mất bất cứ cái gì, từ ngày hắn
đến ở mới... Rồi anh giúi vào túi áo hắn một tờ bạc một trăm, tiền Ðông Dương,
bảo hắn về Hà Nội ở với mẹ chữa cho khỏi cái bệnh lở rồi anh chị sẽ gọi là ra
Phòng. Trên chuyến tàu trở lại Hà Nội hắn chả buồn một tí nào, chả xấu hổ một
tí nào, vì hắn tự biết cái tội của hắn không thuộc về hắn, chỉ là mưu mô của
những người lớn tìm cớ đuổi hắn đi để họ khỏi gai mắt, mà mẹ hắn cũng chả có cớ
gì để trách oán họ cả. Nó hư thế thì anh chị nào dám giúp, chứ không phải không
muốn giúp.
Nỗi kinh hoàng bị vỡ ra, bị tan ra thành những mảnh băng nhỏ trong những giây
đầu của một người lương thiện bỗng dưng bị vu là phạm tội mãi mãi hằn sâu trong
tiềm thức của hắn, mãi mãi hắn hãi sợ mọi yếu tố có thể cấu thành tội phạm. Hắn
sợ đã vô tình đắc tội với Nhà nước, với Ðảng, với tổ chức, với cả bạn bè. Nhưng
với vợ con thì không, vợ con là của riêng hắn, sống cho hắn, vì hắn, và hắn
cũng đã tự nguyện hy sinh một đời mình cho họ. Có đúng thật thế không? Hình như
không hoàn toàn là thế. Vợ hắn đã nói trong một lần giận dữ (giận dữ vì hắn cứ
khăng khăng nói rằng hắn không hề có ngoại tình, hắn chỉ biết có vợ với con,
hắn phản đối mọi sự vu khống!): "Nếu anh ruồng bỏ tôi để sống với một
người đàn bà khác lúc cuối đời thì tôi sẽ viết thư cho tổ chức Ðảng yêu cầu
khai trừ anh ra khỏi Ðảng, tôi sẽ viết thư gửi các tờ báo lớn tố cáo cái bộ mặt
đạo đức giả của anh cho bạn đọc cả nước biết anh là một thằng chồng phản bội,
một ông bố khốn nạn, một người đáng khinh bỉ, không xứng đáng cầm bút".
Thì ra vợ hắn vẫn còn một chỗ dựa khác vững chắc hơn nếu bà ấy muốn loại bỏ
hắn, đó là tổ chức Ðảng, là dư luận bạn đọc qua báo chí. Bà vẫn còn đủ sức mạnh
để kết tội hắn, dẫu bà chẳng có chứng cớ gì để xác minh là hắn đã phạm tội. Vợ
hắn nói: "Tôi cần gì phải có chứng cớ, tự tôi là một chứng cớ. Ai chả biết
năm còn trẻ tôi rất khoẻ mạnh rất xinh đẹp, sau mấy chục năm hầu chồng hầu con
tôi mới ra nông nỗi này, không còn là người nữa, là một con vật xấu xí, bệnh
tật, bẩn thỉu như nắm giẻ. Nên anh mới phụ tôi, mới chê tôi..." Hắn vẫn
còn khoẻ mạnh, vẫn là một ông già đẹp lão ngồi cạnh một bà vợ còm cõi, hai tay
run rẩy, tóc bạc quá nửa, mắt luôn nhìn xuống, quả thật bố con hắn hết sức có
tội, chả cần chứng cớ gì thêm, chỉ thế thôi cũng đủ là người có tội, dẫu là một
cái tội chưa bao giờ hắn có, tội ngoại tình. Nhưng cũng chả nên trách vợ hắn,
vì muốn tự cứu bà phải tách khỏi hắn ra, để tự do lên án cái nửa kia vốn vẫn là
của riêng bà. Còn hắn thì sao? Ðã có nhiều trường hợp tự hắn cũng phải nói
ngược lại niềm tin của mình, tự kết tội mình, dẫu hắn chả có tội gì cả để cứu
lấy cái nghề mà hắn không thể rời bỏ. Nếu hắn không có tội vậy tổ chức nói sai
ư? Dư luận xã hội nói sai ư? Có thể trước đó cái tội của hắn còn mơ hồ, đe nẹt phòng
ngừa trước chứ chưa hẳn đã là tội, nhưng vì hắn cố cãi rằng hắn không có tội,
vậy cái tổ chức kết án hắn có tội hay sao? Chính là sự tự biện hộ, tự bào chữa
một cách ngang bướng đã khiến cái tội mơ hồ thành một tội cụ thể, tội chống đối
lại tổ chức! Nên hắn thường tự nhận tội trước khi tổ chức chính thức kết tội.
Vả lại chính hắn cũng tự thấy mình là có tội, cái tội đã làm tổ chức phải phiền
lòng, phải khó nói vì mình, chả lẽ như thế lại không phải là một tội sao?
3.
Tới đây hắn muốn được rẽ ngang câu chuyện đang kể để nói rõ thêm vì nguyên do nào một người viết văn vốn sợ đụng chạm tới "quyền vua phép nước", vốn thích sống "an phận thủ thường" lại hay tự gây những tai hoạ vặt. Ấy là do hắn đã kiên quyết từ chối mọi trói buộc của nhiều quan niệm văn chương đã lỗi thời sau hai lần để lỡ trượt những cơ hội có thể viết được những tác phẩm hay. Một lần vào năm 1952, thời kháng chiến chống Pháp và một lần vào năm 1955, khi cuộc sống hoà bình ở miền Bắc vừa mới bắt đầu. Năm 1952, miền nam Nam Ðịnh được giải phóng sau hai năm bốn tháng sống trong máu me, tù đầy của một tỉnh công giáo tự trị dưới sự giám hộ của quân đội chiếm đóng Pháp. Hắn là người viết báo đầu tiên của quân khu có mặt ngay tại chỗ và ở liền đó cả tháng. Trong một tháng hắn đã đến rất nhiều xã, nghe cả ngàn câu chuyện, chuyện nào cũng lạ, cũng hay, có cả trăm tình huống không một nhà văn nào có thể bịa đặt nổi, và cũng có cả trăm nhân vật hắn được tiếp xúc không giống với bất cứ ai hắn đã từng gặp. Có thể viết cả ngàn trang sách về những choáng váng của hắn trước cuộc sống ngổn ngang những trái ngược, chỉ cần gọt giũa một chút là có hy vọng thành một pho sách để đời rồi. Nếu theo chân mà đóng giày không chừng còn sáng tạo được một loại tiểu thuyết mà cách kết cấu sẽ rất lạ rất mới. Rút cuộc thằng viết báo tồi chỉ viết được có mươi mẩu chuyện ngắn, vài bài phóng sự, vật liệu bền vững thì quăng đi thay vào là một thứ văn chương học trò và những tưởng tượng hết sức trẻ con. Trưởng ban Tuyên huấn, một người có bằng tú tài triết thời Pháp, bảo hắn: "Cậu kể chuyện về chuyến đi rất hay, rất lạ, có bao nhiêu là cái lạ mà viết thì dở quá. Tại sao thế?" Tạo sao ư? Tại vì hắn đã trót đọc quá nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn của các nhà văn trước cách mạng, cái thứ văn chương ao tù, ngòi cạn của một thời làm dân thuộc địa với những hy vọng, lo lắng vặt vãnh, tủn mủn của cuộc sống tẻ nhạt, không thay đổi thường ngày. Tìm ra cái đẹp để sống, để hy vọng trong cái nhạt nhẽo thường ngày là công lao không thể chối bỏ của các vị ấy, nhưng không thể dùng cái hành lang quá nghèo nàn ấy để bước vào một xã hội bắt đầu có sóng to gió lón làm đảo lộn tất cả, cuộc sống đầy dẫy những bất ngờ, những trái ngược, khung cảnh thay đổi, lòng người thay đổi, những tiêu chí làm người của một thời giông bão cũng hoàn toàn thay đổi. Lấy cái ngắn hẹp để mặc vào cái rộng lớn làm sao vừa! Không vừa thì gọt bớt cái rộng lớn để có thể nhét gọn vào cái ngắn hẹp, vì cái ngắn hẹp là di sản văn chương duy nhất thế hệ bọn hắn được thừa hưởng! Năm 1955, hắn về thôn Long Ðộng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương để viết về nữ anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi. Mọi dấu vết của một làng tề thời kháng chiến hầu như còn nguyên vẹn. Còn nguyên vẹn cả cái yêu cái ghét, các mối quan hệ, các nhân vật chính và phụ, cả lời ăn tiếng nói lưỡng lự, nước đôi của một thời đêm ta ngày địch cũng chưa kịp thay đổi. Ði dọc các ngõ xóm gần như hắn còn ngửi thấy cả mùi tanh của máu người đã khô và mùi khét của các đám cháy vừa tàn. Ðược gặp một nhà báo ai cũng thích kể lại chuyện, chuyện còn tươi rói như chỉ vừa mới xảy ra, một kho tư liệu còn tươi nguyên, còn sống nguyên, còn cả cái ấm cái nóng của hơi thở mà chỉ viết được một truyện ký Người con gái quang vinh, văn của mình mà không dám đọc lại, nhìn lại cũng không dám, toàn là những chữ nghĩa mòn mỏi của một cậu học trò dốt văn! Lại tại sao thế? Là do hắn muốn biến một cô gái Việt có tên là Mạc Thị Bưởi thành một bản sao của người con gái Nga Zoia. Mỗi dân tộc đều có cái tôn nghiêm, cái hùng vĩ của mình, có cách chiến đấu riêng và cả cách chọn lấy cái chết rất riêng. Cái rất riêng ấy mới làm nên tư tưởng, nên văn chương của một dân tộc. Cái bắt chước, cái nhái lại, cái tình nguyện làm bản sao tồi trước sau cũng sẽ bị sức sống tiềm ẩn của dân tộc loại bỏ.
Tới năm 1957, sau gần chục năm viết nháp viết thật đều thất bại, hắn quyết định
tìm cho mình một cách viết khác, tức là gạt loại mọi ý tưởng có sẵn sang một
bên, quên nó đi, thâm nhập vào cái bề bộn, ngổn ngang của người và việc đang
diễn ra tại một xã công giáo, cũng không có tình ý riêng, thiện cảm riêng với
một loại người nào, ghi lại thật trung thành những gì mắt nhìn thấy, tai nghe
thấy, cảm nhận một cách hồn nhiên những cái sai đúng, trái phải, cứ theo sự
phát triển tự nhiên của mấy nhân vật chính mà viết, họ có thể phong phú hơn mà
cũng có thể nghèo nàn đi, có thể họ gợi thêm nhiều suy nghĩ mới, mà cũng có thể
họ đã hoà tan trong đám đông chả để lại dấu tích gì. Nhà văn chỉ là người quan
sát và ghi chép chứ không còn là người giật dây những con rối của mình sau tấm
màn che. Viết chương đầu hắn vẫn chưa biết sự phát triển ở những chương giữa và
nhất là ở những chương cuối, ai còn ai mất, cũng không thể và cũng không muốn
đoán trước, chính tác giả cũng hồi hộp theo dõi mọi hành vi của các nhân vật
thân thiết của mình, như bạn đọc, tất nhiên có lo lắng hơn bạn đọc. Vì là một
cách viết thử còn nửa tin nửa ngờ nên khi đưa in trên tạp chí Văn nghệ
quân đội số tháng 3 năm 1957, hắn chỉ gọi là ghi chép và chương đầu
gọi là tập I. Mãi tới năm 1959 khi in thành sách hắn mới dám đề ngoài là tiểu
thuyết. Tất nhiên nhiều bậc đàn anh trong nghề đã giễu hắn gọi lầm thể loại,
tiểu thuyết gì mà kỳ cục thế, không có cốt truyện rõ ràng, tuyến nhân vật chính
cũng không rõ ràng, chỉ thấy một đám người ồn ào, nhốn nháo. Viết về đám người
ồn ào quả tình là chủ đích của hắn khi đặt bút viết, rồi từ trong đám người hỗn
độn ấy mà những gương mặt quan trọng sẽ dần dần tách ra để có những số phận
riêng, nhưng là cả bạn đọc và tác giả sẽ dần dần nhận ra họ chứ không phải đã
biết chắc ngay từ những trang đầu. Tiểu thuyết Xung đột được
bạn đọc hoan nghênh vì tính chân thật của nó nhưng trong dư luận chính thức chỉ
được công nhận là thành công có quyển I, viết về cuộc đấu tranh quyết liệt giữa
hai hệ tư tưởng đối nghịch nhau. Còn quyển II viết về cuộc chiến rất đáng buồn
giữa những người anh hùng của một thời thì bị chê là viết sai sự thật, bôi nhọ
cán bộ, có cách nhìn không đúng đắn về hiện thực của một vùng nông thôn Thiên
Chúa giáo. Trong các bài báo khi điểm lại những cuốn sách viết tốt trong mấy
năm đều có nhắc tới Xung đột nhưng thêm cái đóng ngoặc (cuốn
1). Và một bài nói chuyện miệng tỏ ý không tán thành Xung đột (cuốn
2) của bí thư tỉnh uỷ Nam Ðịnh những năm ấy. Ngoài ra không có sự phê phán công
khai nào, răn đe thêm nào.
Những năm ấy, lứa tuổi bọn hắn mới chỉ trong ngoài ba mươi, là những đảng viên
cầm bút rất có tính kỷ luật. Là đảng viên thì phải chấp hành nghị quyết của
Ðảng nhưng còn là nhà văn lại không thể bỏ qua những đòi hỏi của nghề. Ngay từ
những năm ấy hắn đã nhận ra cách tiếp nhận sự thật của người cầm quyền và người
cầm bút có những điểm khác nhau. Người cầm quyền xem xét thực tế là để khẳng
định một chủ trương một cách làm. Còn người viết văn thì chỉ quan tâm tới những
diễn biến muôn hình vạn trạng của một chủ trương, một cách làm khi đã trở thành
hành động và lo nghĩ thường ngày của quần chúng. Ví như trường hợp bí thư tỉnh
uỷ Vĩnh Phú bị kỷ luật, bị cách chức vì muốn có một cách quản lý ruộng đất và
lao động nông nghiệp hợp lý hơn, vẫn là làm ăn tập thể nhưng sáng kiến, kinh
nghiệm và cả sự hăng say làm việc của người nông dân không bị trói buộc mà còn
có cơ hội phát huy đến triệt để. Một chủ trương rất hợp lòng dân, được dân ủng
hộ mà một Ðảng vì dân lại bảo người lãnh đạo có cái chủ trương đó, có đủ tài
thuyết phục một đảng bộ tin theo cái chủ trương đó, lại có đủ bản lĩnh để thực
hiện thắng lợi cái chủ trương đó ở địa phương mình, một người có tài có tâm như
thế lại bảo là người không trung thành với lý tưởng, là người đáng phải cách
chức, phải loại bỏ là nghĩa làm sao?
4.
Những người cầm bút dễ dàng nhận lỗi, dễ dàng nhận sự phê bình của cấp trên vì
việc làm của họ là việc công khai, vua biết mà người dân thường cũng biết. Vua
có ý kiến của vua, dân cũng có ý kiến của dân, vua chê nhưng dân khen thì sao?
Dân nhiều khi cũng hùa theo tư tưởng chính thống mà chê, vua chê còn có chừng
mực vì nghĩ tới sự tôn nghiêm của mình, còn dân đã chê thì chê hết mức, chê tàn
tệ, trong lời chê như có cả sát khí của gươm đao. Dầu họ bị oan lại không có cả
cái quyền kêu oan nhưng họ vẫn không quá lo lắng, lòng ngay dạ thẳng việc gì
phải lo lắng. Hơn nữa họ còn có thời gian kia mà. Chữ nghĩa vẫn còn đấy, vài
chục năm sau nó vẫn còn nguyên đấy, thời gian sẽ là người xét xử công bằng
nhất, vô tư nhất cái công cái tội của một thời. Chưa hết! Với riêng hắn còn một
lý do hết sức quan trọng khác khiến hắn mau mắn nhận lỗi, vui vẻ mà nhận lỗi,
nhận lỗi rồi mặt mũi vẫn hơn hớn, chả có tí buồn rầu nào. Là vì cách mạng, nói
cho rõ hơn là Ðảng Cộng sản, vốn có ơn sâu nghĩa nặng với riêng hắn. Từ một
thằng bé chữ nghĩa một vốc tay, trí khôn dưới mức trung bình, lại có tính nhút
nhát bẩm sinh, bị khinh rẻ, bị làm nhục từ trong gia đình, cái ngữ ấy thì làm
gì cho nên nếu thời thế không thay đổi. Năm còn ở với mẹ, bố hắn còn nói:
"Cái thằng này đầu óc nó làm sao ấy nhỉ?" Mẹ hắn nói buồn rầu:
"Nó ngây ngô như thế sợ sau này nuôi thân cũng không nổi nói gì nuôi
mẹ". Họ nói trước mặt hắn chứ không phải nói vắng mặt. Hắn còn nhớ như in
câu chuyện thoáng qua giữa bố mẹ năm hắn mười hai tuổi, mới từ Hải Phòng lên Hà
Nội và thuê một căn gác nhỏ của ngôi nhà 4 bis phố Résident Miribel (Trần Nhân
Tông bây giờ). Ba mươi ba năm sau, hắn gặp lại bố và mẹ già tại Sài Gòn vừa
được giải phóng khoảng một tuần, bố hắn nghe hắn nói chuyện, nhìn ngắm hắn cả
giờ rồi bất thần bảo: "Anh khác thật đấy, khác hoàn toàn, không còn một
nét gì giống ngày xưa!" Vài ngày sau có một cuộc gặp mặt một số người
trong họ với hắn để nghe hắn nói một số chính sách của các nhà cầm quyền mới.
Trong đó có một ông anh con cô con cậu (nhân vật Chương trong Gặp gỡ
cuối năm), là bộ trưởng Bộ Quốc phòng của chính quyền Dương Văn Minh, một
ông thứ trưởng cũng Bộ Quốc phòng, vốn là đại tá của đội quân vừa bại trận, một
ông nguyên là đại sứ của chính quyền cũ, bạn lâu năm của gia đình, một ông anh
nguyên là giáo sư trường Quốc gia Hành chánh, có cả bố hắn và vài người khác nữa.
Gặp nhau để nhận họ chỉ là cái cớ dễ nói, còn thật bụng họ muốn được xem mặt và
tiếp xúc thử với một thằng nhà báo được đào tạo từ một thể chế độc quyền về
chính trị và tư tưởng, xem nó nói năng ra sao, lý lẽ ra sao về việc nước, về
việc đời để còn liệu cách ứng xử với các đồng đội, đồng chí của nó. Hắn biết
ngay cái ý tứ đó từ cái nắm tay lỏng lẻo và cái cười xã giao và hắn cũng sẵn
sàng đối trận. Hắn tin là hắn nhập cuộc được, nhập cuộc cũng rất ngọt ngào. Trò
chuyện với các giáo sĩ của các niềm tin hắn còn chả ngại huống hồ với mấy ông
làm chính trị vốn chả có một niềm tin đích thực nào. Hắn ngồi nghe các vị ấy ca
ngợi quân giải phóng cả giờ, nào là nhân từ, nào là độ lượng, là một đội quân
có kỷ luật đến kinh ngạc v.v... Hắn chỉ nói các vị khen chúng tôi vừa vừa thôi
để sau này khỏi phải chê chúng tôi quá nhiều. Rồi thì trong những tiếp xúc cụ
thể người thua vẫn còn nhiều cái để sợ nên dễ hèn, người thắng vì chóng thoả
mãn nên dễ kiêu, cái kiêu gặp cái hèn sẽ khó cùng tìm ra một cách làm việc cho
nghiêm minh, cho công bằng. Nhiều chuyện không vui sẽ từ đó mà sinh ra. Lúc
chia tay ông anh họ nói với hắn: "Nghe các cụ bên ấy bảo thuở nhỏ cậu học
hành dang dở, sau này cậu có được ra nước ngoài học thêm không?" Hắn trả
lời: "Tôi vẫn học, học trong nước thôi nhưng là học theo cách của
tôi". Trong suốt mấy chục năm là nhân viên của các cơ quan tuyên huấn hắn
đã được sống với rất nhiều người tài giỏi, và họ đã dạy hắn học, học lại văn
hoá, học lại tiếng Pháp, học cả cách đọc và cách viết. Sau này hắn cũng hay bị
các ông làm tuyên huấn làm tư tưởng bẻ hành bẻ tỏi truyện này truyện kia của
hắn nhưng hắn không hề cãi, cũng chả giận, họ vốn là thầy hắn cả. Nhưng trò thì
mỗi năm đi một xa, còn các thầy vẫn đứng nguyên một chỗ, người đã được nhìn xa
làm sao thuyết phục được người chỉ quen nhìn gần, nên chỉ còn biết cười và nói:
"Tôi sẽ chú ý khi viết những truyện sau". Cũng có ông anh mỉm cười
tinh quái bảo hắn: "Tao biết mày không thèm tranh cãi với tao nhưng cái
việc phải nói thì tao đã nói rồi. Còn là tuỳ mày...". Nếu ông anh cho hắn
được tự do lựa chọn thì hắn xin biết ơn lắm lắm. Lại nói tới tự do trong cái
nghề rất cần tự do của bọn hắn. Xưa nay khi ngồi trước trang giấy hắn chưa hề
băn khoăn về sự tự do trong lựa chọn đề tài và ý tưởng. Vùng cấm có ít lắm, vả
lại mon men quanh vùng cấm cũng có cái thú của nó. Bỏ nó sang một bên thì vẫn
còn vô vàn đề tài để mình khai thác, còn vô số vùng đất để mình tự do tung
hoành, cái cần nói vẫn cứ nói được, thiếu gì cách nói, càng nhiều trói buộc câu
văn càng lắm ý tứ, càng lung linh, càng hay. Hắn tìm được cho riêng mình một
vùng trời tự do là do hắn luôn tỉnh táo, biết tự kiểm chế trong cái chừng mực
cả cách nghĩ lẫn cách sống, câu chữ dùng cũng chặt chẽ, đắn đo theo kiểu văn
tuyên huấn (là nghề ruột của hắn mà) nên mới dành được cho mình sự yên tĩnh cần
thiết để làm nghề. Nhưng ngẫm cho kỹ thì được cái hôm nay lại mất cái mai sau.
Là một nghệ sĩ đích thực còn phải biết mê muội trong niềm tin của mình, biết đi
tới cùng cái yêu và cái ghét, là thứ văn chương rất khó chịu, đôi khi còn rất
khó hiểu với người đương thời, và cả một cách sống cũng khó chấp nhận với những
người xung quanh. Ngồi nói chuyện với các bậc đàn anh Hữu Loan, Hoàng Cầm, tuy
hắn rất ngưỡng mộ tài thơ của các anh ấy nhưng vẫn hơi khó chịu khi tiếp xúc. Ở
hắn có cái sạch sẽ, cái chừng mực của một viên chức. Ở các anh ấy có mùi khét
nồng, có cả mùi chua gắt của những đời người có lắm nỗi gian truân. Hình như từ
nhiều chục năm nay các anh chỉ còn sống trong những mộng tưởng của một tác phẩm
mãi mãi chưa hoàn thành, quên hẳn cái đời thời với những luật lệ, những quy tắc
cần phải có. Ðúng là quên thật nên người của luật lệ, của quy tắc mới ngỡ ngàng
trước những người chỉ còn nhớ những gì mình tưởng tượng mãi mãi còn nguyên vẹn.
Họ sống bằng tiềm thức, bằng bản năng nên chữ nghĩa của họ cũng trong suốt, thơ
ngây, có sức quyến rũ của cái thế giới mình đã đánh mất. Hắn ngưỡng mộ họ nhưng
hắn không thích kết bạn với họ mà họ cũng không thích đánh bạn với hắn, rượu
không biết uống, đàn bà không biết yêu, chuyện tục không biết kể, chỉ thích nói
chuyện chính trị là cái họ chúa ghét, thế mà là người cầm bút viết văn! Ngay
như cụ Nguyễn Tuân là ông thầy trong tâm tưởng của hắn, hắn cũng chỉ đứng xa
nhìn ngắm cụ, ngưỡng mộ tài văn của cụ, chứ cũng không muốn làm thư đồng hầu cụ
trong một chuyến đi dài. Ở các nhân vật đỉnh cao người thường rất khó nhận ra
diện mạo thật của họ, cứ như họ đang sắm vai của một cái "tôi khác",
đang làm các giai thoại vặt cho mọi lời nói và hành vi của mình để lưu lại cho
hậu thế. Ngay với những người có cùng một dòng máu công chức với hắn, hắn cũng
không khoái được gần gũi họ. Những cử chỉ, những lời nói đắn đo, mực thước ở họ
khiến hắn chỉ muốn bật cười, chả lẽ hắn lại là người như thế, là nghệ sĩ mà có
thể sống nhạt nhẽo đến thế. Nhất là các vị ấy không bao giờ quên họ là đàn anh
của hắn trong văn chương, là cấp trên của hắn trong các cấp chức họ đã từng làm
hoặc đang làm nếu như hắn trong một khoảnh khắc nào đó muốn làm kẻ ngang hàng.
Vậy hắn thuộc loại người nào, là một viên chức đang muốn biến hoá thành một
nghệ sĩ tự do, nhưng lắc lư mãi cũng chỉ biến được từng bộ phận, cái đuôi viên
chức thỉnh thoảng lại lấp ló lòi ra nếu như bạn bè luận bàn về chính trị tự do
quá, luận bàn về đàn bà lỗ mãng quá, cười hét to quá, nói năng tục tĩu quá...
Tức là hắn rất biết hắn, cả cái hay lẫn cái dở, cái gì có thể với tới và những
gì mãi mãi chỉ nên đứng xa mà nhìn để giữ được cái thanh thản trong lòng lúc
cuối đời. Vậy mà lúc cuối đời hắn lại là một lão già khốn khổ khốn nạn nhất,
bao nhiêu vũ khí phút chốc bị tước sạch, chỉ còn lại con người trần trụi, mất
mọi niềm vui, mất mọi hy vọng, tự than vãn từ sáng đến tối cho cái số phận
không may của mình. Cứ như là chuyện bịa! Nhưng cái tài của hắn làm sao mà bịa
được một cảnh ngộ dở khác dở cười lạ lùng đến thế, lại nhận ra một cách cay
đắng cái trớ trêu, cái nghịch cảnh của một kiếp nhân sinh. Ðã nghĩ sẽ được nhấm
nháp một hoàng hôn yên tĩnh bằng sự chuẩn bị khôn ngoan từ nhiều năm của mình,
nào ngờ...
5.
Những năm kháng chiến chống Pháp đối với hắn là quãng thời gian rất đẹp và rất
vui, tám năm trôi qua chỉ trong một chớp mắt. Ðang sống như thằng đầy tớ, bưng
bát cơm ăn cũng không dám và miếng to, không dám nhai mạnh, buông cái bát không
xuống nhìn nồi cơm còn đầy, thức ăn trên bàn trên mâm mới vơi già nửa là tiếc lắm,
bỗng chốc thành người tự do, thành một chiến sĩ nhỏ tuổi, ăn tha hồ, cười nói
thoả thích, chả ai ghét cả, chả ai lườm nguýt cả, lại còn được khen là ngoan,
chấp hành kỷ luật tốt, chỉ như thế cũng đã được vui từ sáng tới tối rồi. Sau
này đọc văn Nam Cao, hắn cứ nhớ mãi một truyện ngắn viết về một bà lão đi thăm
cháu gái đang bế con cho một bà nhà giầu ở xã khác, nhớ cháu có một phần, cái
chính là sẽ được ăn một bữa cơm no nên phải đến đúng lúc người ta dọn cơm. Cái
cách bà lão nhìn mâm cơm dọn ra, cách cầm đũa, cách và, nhìn người khác ăn rồi
lại nhìn vào nồi cơm đang vơi dần, nó thật quá, nhục nhã cho một kiếp người
quá, nhục nhã là cái miếng ăn, các cụ xưa đã nói thế. Cứ y như hắn tự viết về
hắn. Khi hắn đã già viết truyện Mẹ và các con, cái cảnh bà mẹ ngồi
ăn nắm cháy trước mặt khách của con trai, viết như xuất thần, như viết về chính
mình cái thời còn nhỏ. Cũng như khi hắn viết về ông lão thư ký của trạm máy kéo
trong Hai ông già ở Ðồng Tháp Mười, trong một bữa ăn mà hắn là
khách, mắt hắn cứ mờ dần đi vì nước mắt tự cái năm nào còn lưu lại và đang chắt
ứa ra. Miếng ăn là miếng nhục nhưng cũng là nỗi mong đợi một ngày của người
luôn luôn đói, đang phải sống nhờ, ăn nhờ, bưng bát cơm mỗi ngày ở nhà người
khác. Mà ông lão vốn là một giáo sư dạy văn chương Pháp của một trường trung
học, là cựu sinh viên trường đại học danh tiếng Sorbonne. Trí thức và dân
nghèo, già cũng như trẻ đã phải bưng bát cơm ăn nhờ trong ngôi nhà mình sống
nhờ đều có một gương mặt giống hệt nhau: nhẫn nhục, sợ hãi và thèm thuồng. Chính
là cái nhìn thèm thuồng muốn vồ lấy, muốn nuốt lấy mà mặt người biến dạng. Năm
1987, nhân lễ kỷ niệm 70 năm ngày sinh của nhà văn Nam Cao tổ chức ở thành phố
Nam Ðịnh, hắn có hỏi đùa chị Nam Cao: "Chị nuôi anh thế nào mà để anh đói
thế?" Chị ấy cười: "Ông ấy mà đói thì còn ai no, nhà tôi đâu phải là
nhà thiếu ăn!" Người không đói mà viết về cái đói hay đến thế thì sự cảm
thông của nhà văn quả là hoàn toàn.
Năm 1947, trung đội Tự vệ chiến đấu của hắn đóng quân ở làng An Tảo bám dọc con
đường 39 nối với đường 5, một buổi chiều, hắn từ ngoài mặt đường chạy như thằng
rồ về xóm, chả có chuyện quan trọng gì để phải chạy cả, tự nhiên thấy vui thì
chạy, vừa chạy vừa nhảy. Trung đội trưởng đang ngồi ở sân đứng bật dậy, hỏi:
"Có Tây à?" Hắn nhìn mọi người ngơ ngác, nói: "Không, không có
gì cả!" - "Sao lại chạy như ma đuổi thế!" - "Dạ,
dạ...". Bữa ấy hắn bị đồng đội xúm lại mắng một trận nên thân. Chả lẽ hắn
lại nói thật, vì bỗng dưng thấy vui quá nên em chạy! Hắn có một tuổi thơ nhạt và
buồn, sau này đi kháng chiến được nhìn thấy núi cao sông rộng, được đi nhiều
nơi, tiếp xúc với nhiều người, đôi lúc ngoái nhìn lại về cái thời chỉ vừa mới
trôi qua mà đã xa xôi thăm thẳm, chả có một khoảng sáng nào để mình phải nhớ,
phải tiếc, chỉ có mỗi mầu xám nhờ lặng lẽ, bất động như một ngôi nhà hoang lâu
ngày không có người ở. Năm Tổng khởi nghĩa là năm Hà Nội vui nhất, nhìn vào đâu
cũng thấy cờ và hoa và rất nhiều báo, báo hàng ngày và hàng tuần. Cả thành phố
như chợt thức giấc, ồ ạt lao vào những công việc mới mẻ trong một niềm vui mênh
mang. Ấy là hắn vẫn chưa được nhập cuộc, vẫn là kẻ đứng ngoài vì tuổi còn quá
nhỏ, một lũ trẻ con lộc ngộc đã bỏ học từ ngày Nhật đảo chính Pháp, kéo nhau đi
chơi từ sáng đến đêm, nói với nhau bao nhiêu là chuyện trên trời dưới đất, rồi
mơ mộng, rồi hy vọng. Cuối năm 1949, hắn được tỉnh đội Hưng Yên cử về Mặt trận
5 để làm số báo đặc biệt cho Hội nghị Rèn Cán Chỉnh Quân của năm tỉnh tả ngạn
sông Hồng, cũng là những ngày hết sức vui. Ðang là một anh viết báo litô của bộ
đội địa phương được bước vào quân doanh của bộ đội chủ lực cũng để làm báo niềm
vui lớn ấy khiến hắn muốn nghẹt thở. Xung quanh hắn ngờm ngợp những bộ quân
phục bằng vải kaki màu vàng sáng, mũ ca lô với những ngôi sao vành vàng, rồi
súng ngắn, túi bản đồ, giầy ghệt, sang trọng, hào nhoáng rất giống với cái thứ
văn thơ huênh hoang, hò hét của một thời. Ðội quân công tử ấy cũng phải mất
nhiều xương máu mới thành đội quân thiện chiến của Việt Nam. Còn cái thứ văn
của hắn mà cụ Tuân đã chê một cách tế nhị là pittoresque [*] quá thì hắn phải hì hụi tẩy rửa gần mười năm mới thành câu
văn của chính mình. Nghĩ lại những năm đầu của kháng chiến hắn chả tiếc cái gì
chỉ tiếc đã mất đi mãi mãi cái niềm vui ngây ngô, hồn nhiên của đứa trẻ lần đầu
được sống thoả thuê trong tự do.
Cũng vào dịp các phóng viên của 5 tỉnh lần đầu về phục vụ cho tờ báo của mặt
trận, người phụ trách báo liền tổ chức một bữa ăn gặp mặt tại một quán cơm ở
thị trấn Quỳnh Côi. Thị trấn kháng chiến, một bữa ăn kháng chiến mà có khăn
trải bàn, dao nĩa, cốc tách sáng choang. Sau bữa ăn có cà phê đá với thuốc lá
thơm Cotab. Suốt mười lăm năm ở Hà Nội hắn chưa được mẹ dắt vào một hiệu ăn nào
cả, chỉ biết mùi vị các món xào nấu ở các bữa giỗ và mấy ngày Tết, còn chỉ là
những bữa cơm xoàng xĩnh ngày thường. Nhưng vẫn được ăn no, ngay như năm đói
anh em hắn vẫn được ăn đầy đủ, nhưng cơm xới thì phải qui định, có bữa ăn hai
bát, có bữa ăn một bát đầy, vì là ăn theo gạo sổ, mỗi bữa vẫn phải dành ra mấy
lẻ gạo phòng khi Hà Nội không còn gạo. Không còn gạo thì ăn cỏ, một tờ báo đã
bày cách chế biến cỏ cho người ăn. Nhưng cỏ thì mua ở đâu, nếu ăn cỏ cũng sống
được thì làm sao lại có cả ngàn người, cả vạn người ở các vùng quê là nơi có
rất lắm cỏ, lũ lượt kéo về Hà Nội để nằm chết ở các vỉa hè, các gốc cây, các
góc phố, các gậm cầu. Hắn sẽ còn nhớ mãi vài hình ảnh ghê rợn của cái năm đói.
Vào khoảng cuối tháng 4 của năm 1945, hắn và mấy thằng bạn rủ nhau đi học lớp
vỡ lòng tiếng Nhật vì người Nhật đã thay Pháp cai trị xứ này. Lớp học buổi
chiều mở ở một trường tiểu học của phố Hàng Cót. Trong vuông sân của trường đã
có mấy trăm người ngồi từng nhóm như để đợi phát chẩn hay đợi đưa đi đâu đó. Có
một anh thanh niên khoảng ngoài đôi mươi, mặt mũi đẹp đẽ, da thịt còn tươi, như
người ở tỉnh chứ không phải ở quê, trên người anh ta không có một mảnh vải nào,
trần truồng với nạm lông đen nhánh ở bụng. Anh ta cứ đi nhồng nhỗng từ góc sân
này tới góc sân khác như đang tìm một ai đó, trần truồng mà đi chả xấu hổ một
tí nào, và ngay cả đám người ngồi đen đặc ở sân cũng không một ai buồn ngước
nhìn anh ta, cũng không ai cất lời hoặc than hoặc mắng một câu. Thì ra cái đói
đã thay đổi con người thành con vật rồi, những con vật đã quên mọi thói quen
trong các mối quan hệ cái thuở còn là con người. Dẫu thế nào người mẹ cũng
không bao giờ quên được thương con, quên sự hy sinh tất cả cho con. Ðầu năm
đói, gia đình hắn dọn từ phố Miribel về phố Duvigneau (phố Bùi Thị Xuân bây
giờ), bên hông nhà thương chữa mắt. Một buổi chiều có một bà mẹ khoảng ngoài ba
chục tuổi tay cắp chiếu, tay cắp con đến trải chiếu ngồi ngay ở trước cửa nhà.
Một lúc sau hắn bước ra đã thấy bà ta đang mớm cháo hay cơm hắn không rõ, cũng
chỉ có một chút ở mảnh gáo dừa, chỉ thấy đứa bé ngọ nguậy rồi trớ ra tất cả. Bà
mẹ rên lên: "Không cố ăn một chút thì chết mất, con ơi!" Khoảng nửa
đêm hắn chợt tỉnh giấc vì chợt nghe có tiếng khóc hờn con của người mẹ, tiếng
khóc khàn khàn, yếu ớt, thê lương đến đứt ruột. Khoảng gần sáng thì tiếng khóc
im bặt, chắc người mẹ cũng đã ngủ. Sáng rõ mặt người từ lâu hắn mới bước ra
đường đã thấy mấy người phu nhặt xác đang cuộn chiếu bó chặt xác cả mẹ lẫn con
vứt lên xe bò. Hơn nửa năm trời đi lại trên đường phố Hà Nội ngửi đâu cũng
phảng phất cái mùi hôi khắm của các xác chết đã khô lại đen lại ở mọi ngóc
ngách còn chưa lượm kịp đem chôn. Cứ đi một quãng lại va phải một xe bò chở xác
người, các bó chiếu cuộn người xếp chồng lên nhau, mặt thì kín nhưng chân thì
hở, những cẳng chân đen khô với những bàn chân có những ngón toè ra, nhìn xa
như từng chùm rễ cây của các cây-xác-người. Từ trong đám xác chết đói bước ra,
từ cái thân phận bị khinh rẻ bị làm nhục bước ra, nên những gian nan thiếu thốn
của kháng chiến hắn chả coi vào đâu, lúc nào cũng vui, bị anh em trong cơ quan
bỏ lại tại cái lán trống giữa rừng, dứt cơn sốt ngồi chồm dậy ngơ ngác một lúc
lâu mới tỉnh lại dần, thấy bụi mọt đã phủ đầy người, phủ đầy những tấm giát nứa
đã bỏ trống, tức là nằm chết ở đây đã lâu lắm, không chừng phải một hai ngày
rồi vì hắn rất đói, đói cồn cào, lại dốc gạo trong bao ra, bắc nồi lên, nhìn
ngọn lửa bốc cao lại thấy vui, một niềm vui bất tận, vui không duyên cớ gì,
cũng không hy vọng vào bất cứ cái gì, được sống, được cất bước cùng với bạn bè
là vui, kháng chiến bao năm cũng được, kháng chiến đến bạc đầu vẫn được, có bao
giờ phải sống một mình đâu mà buồn, có bao giờ bị làm nhục bị bỏ đói đâu mà
buồn.
6.
Trong hai năm 1954 và 1955, không có ngày nào, tháng nào rơi vào quên lãng
vì mỗi ngày đều có cái hồi hộp, cái căng thẳng riêng và những niềm vui rất bất
ngờ, không dám hy vọng cứ theo chân nhau ùa đến. Một năm các cơ quan chính trị,
tham mưu của quân khu cứ hoạt động đều đặn theo các mùa, hạ thu thì nhốn nháo
xúm quanh các hội nghị quân chính lớn nhỏ, các lớp tập huấn. Còn đông xuân là
mùa tác chiến, cán bộ các ban phòng lại thay nhau đi xuống các đơn vị theo dõi
các hoạt động phối hợp với các chiến trường chính. Tháng mưa tháng nắng, mùa
nóng mùa lạnh, thời gian cứ nhịp nhàng trôi đi dưới những tán cây, trong các
dãy lán, sáng có chuyện sáng, tối có chuyện tối, ngày ngày giống nhau, thi
thoảng lại rộ lên một chuyện vui, vợ anh này, mẹ anh kia từ trong vùng
"tề", cả từ trong Hà Nội và Nam Ðịnh vừa ra hiện đang có mặt ở nhà
khách. Có anh ở Ban Tuyên huấn vừa nhận được tin vợ ra mang theo cả thằng con lớn
liền kêu lên thảm thiết: "Người đâu mà liều thế, đường sá xa xôi nguy hiểm
lại còn đem theo cả trẻ con đi!" Ăn ở với nhau được mươi ngày vợ con lại
trở về Thành, một nửa năm vắng bặt mọi tin tức, nhìn ông anh mà thương hại, cứ
như người đã nhận án tử hình chỉ còn chờ ngày thi hành án. Ðầu tháng 7 năm
1954, thành phố Nam Ðịnh được giải phóng, anh đeo ba lô lao về hướng đó ngay,
làng của anh thuộc vùng ngoại vi của thành phố.
Tháng 3 năm 1954, phòng Chính trị phân công hắn thêm một việc mới, sáng sáng
sang phòng Tham mưu tới chỗ cơ yếu nhận tin mới nhất từ mặt trận Ðiện Biên về
thuật lại cho anh em ở cơ quan, sau đó viết bản tin rồi đưa xuống nhà in, sáng
hôm sau gửi nhanh xuống các đơn vị. Ngày 7 tháng 5, chiến dịch Ðiện Biên Phủ
toàn thắng, cả cơ quan làm bữa ăn tươi vào ngày hôm sau để ăn mừng. Ngày 21
tháng 7 Hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Miên, Lào được ký kết. Lần đầu tiên
hắn đi đại tiện trên một mỏm đồi còn sót lại những gốc chè, lắng nghe tiếng máy
bay Dakota từ xa, rồi nó bay ngang qua đầu, trong lòng vẫn yên tĩnh lạ thường,
khoan khoái lạ thường, vì chiến tranh đã thuộc về ngày hôm qua. Cuối tháng 11
hắn vào Hà Nội bằng xe taxi tư nhân từ thị xã Phủ Lý để tìm mẹ và em. Mẹ hắn
già hẳn, đang quẩy hai cái xảo to bầy trầu cau và những khúc vỏ đi tới thì gặp hắn.
Cứ nghĩ hai mẹ con đều phải oà khóc sau năm năm xa nhau trong chiến tranh mà
rồi chả ai khóc cả, chân hắn tự nhiên nhũn ra và mẹ hắn cũng chỉ nói: "Anh
đã về đấy à?", rồi bà cúi mặt xuống đứng nguyên tại chỗ một lúc mới lại
bước tiếp. Hắn cũng gặp lại em trai, nó đã cao bằng hắn, người gày mỏng như cây
sậy, mặc quần áo nâu, chít khăn chữ bát làm sư bác ở chùa Hoè Nhai. Tháng 8 năm
1955, hắn được Cục Tuyên huấn triệu tập về Hà Nội để viết truyện anh hùng. Cách
đấy năm năm hắn đang là lính ngoài biên chế của một trung đoàn giải thể thì
được điều động về báo quân khu cũng không ăn không ngủ được vì quá vui. Lần này
cũng thế, người cứ bồn chồn nửa vui nửa buồn nhưng vui nhiều hơn vì những dây
rợ để níu kéo hắn ở lại không nhiều, chỉ có một cô gái đang làm cấp dưỡng của
đội văn công quân khu còn khiến hắn dùng dằng đôi chút. Nhưng ở Hà Nội thiếu gì
người đẹp để hắn lựa chọn, vả lại "anh bộ đội" đang là một hình tượng
có giá để phái đẹp săn lùng. Mỗi lần ăn cơm đều gặp nhau nhưng hắn vẫn không hé
môi nói lời từ biệt với cô bạn mới quen biết. Hắn cũng chưa từng gặp riêng cô,
cũng không mời cô sang thị xã Phủ Lý cùng mua sắm cái gì đó mỗi sáng chủ nhật,
hình như hắn cũng chưa nói với cô gái một lời nào ngoài cái câu tẻ nhạt:
"Cho xin một cái tăm". Rồi cô theo đội văn công đi công tác, hắn
chuẩn bị về Hà Nội. Với cô hắn vẫn chưa thể tự dứt khoát, hoặc là giữ lại bằng
một lời hứa, hoặc buông bỏ để được tự do hoàn toàn trong hoàn cảnh mới. Trước
ngày về Hà Nội, anh Lê Mai, phóng viên duy nhất còn lại của toà báo đã gần như
không hoạt động, gặp hắn và có lời khuyên hắn nên gắn bó với cô gái nông dân
vừa xinh đẹp vừa hơi ngốc nghếch nhưng chắc chắn là người rất tháo vát, có đủ
tài để gánh vác một gia đình trong mọi cảnh ngộ nếu như hắn còn muốn theo đuổi
nghề văn. Anh nói: "Máu của cậu là máu loãng, máu bạc nhược, máu ăn bám
của một dòng họ quan lại lâu đời. Cái loại máu ấy không được pha trộn với loại
máu sạch, có sức chảy mạnh mẽ của người nông dân thì con cháu cậu sau này chả
là cái giống gì!" Năm ấy hắn 25 tuổi, cô gái 19, kém hắn sáu tuổi, đẹp,
dáng người đẹp, gương mặt đẹp, không ra người ở nông thôn, chỉ phải tội hai bàn
tay dầy và hơi to, ngón tay cũng to, cũng là người lao động vất vả từ nhỏ, mẹ
chết sớm, lúc ở với dì (là bà hai do bà cả cưới cho chồng vì bà chỉ có ba người
con gái) lúc ở với các chị, phải làm mới có ăn chứ chả ai nuôi không. Ông cụ là
đội khố xanh, các anh chị đều là người kháng chiến. Năm ấy lấy vợ là phải chọn
người có lý lịch tốt, nếu vợ có liên quan tới tề nguỵ là hết sức rắc rối sau
này. Cô ấy được cả người lẫn lý lịch, không nhanh tay thì người khác sẽ vồ mất,
lúc ấy lại tiếc. Chỉ hiềm một nỗi cô ấy không được học hành gì, nói năng quá
thật thà gần như ngây ngô nên hay gây cười trong bữa ăn vì những câu trả lời
thiếu ý tứ. Nhưng ở xa thì nhớ lại sợ mất nữa, già kén lỡ chọn phải một cô vợ
không hiền thì tan cửa nát nhà. Trong kháng chiến hắn đã được chứng kiến nhiều
cô cán bộ đã lớn tuổi lại xấu gái, lại hay nói chuyện chính trị, cười nói đùa
giỡn như đàn ông mà vẫn lấy được những ông chồng vừa đẹp trai, vừa là cấp chỉ
huy. Là do bị mắc bẫy mà phải lấy. Một ông đại đội trưởng đóng quân liền nhà
văn phòng của huyện hội phụ nữ. Cả xóm chỉ có một cái ao sạch và mát bên nhà
huyện hội, nên trưa nào ông đại đội trưởng cũng mặc quần đùi sang tắm nhờ. Lúc
thay quần lại nghĩ giữa trưa vắng vẻ nên cứ trần truồng bước lên bậc ao, đứng
cạnh cái bể nước giội thêm vài gáo cho sạch, vừa giội vừa vỗ đùi vỗ mông như
người khoe. Trong nhà vẫn có một thường vụ huyện hội tuổi ngót nghét ba mươi,
mỗi lần thấy ông hàng xóm sang là chồm dậy đứng trong mành ngó ra. Con gái lỡ
thì nhìn đàn ông còn trẻ tắm truồng dẫu là nữ tu cũng phát cuồng. Một lần tắm
xong ông ta lại cả gan bước lên hè, gọi vào: "Chị có báo Cứu quốc số
mới cho tôi mượn với". Chả ai trả lời cả, ông ta vén mành bước vào, cô cán
bộ nằm ngủ, quần kéo đến trên đùi, chân co chân ruỗi, tờ báo muốn mượn đang phủ
lên mặt. Thế là cái việc không nên xảy ra đã xảy ra. Ngày hôm sau, cô gái già
bị cưỡng hiếp liền báo cáo với cấp trên của mình, và một tập thể các bà lên
thẳng trung đoàn bộ gặp chính uỷ để kể lể về cái nhục đã phải chịu của một cô
gái còn nguyên vẹn trinh tiết. Chính uỷ bảo: "Thế thì cái thằng ấy sẽ phải
chịu trách nhiệm với chị suốt đời rồi, chị bằng lòng chứ?" Ðám cưới được
tổ chức liền mấy ngày sau đó. Cô dâu tuy thấp mập, nước da hơi đen nhưng nét
mặt đều đặn, nói năng lại hoạt bát có duyên, thôi thế cũng là được, lấy vợ cái
sắc không quan trọng bằng cái nết. Nhiều chục năm sau, trong một lần dự một Hội
nghị Nông nghiệp toàn quốc, hắn đứng trước quầy sách báo thì có người đụng nhẹ
vào khuỷu tay và một giọng nói rất sang: "Xin chào nhà văn lớn!" Hắn
quay người lại, ngỡ ngàng trước một bà thấp mập, tóc uốn cao đã bạc nhiều, đeo
kính trắng, mặc áo dài gấm mầu xanh đen, sang trọng, quí phái không thể tả, làm
sao bà ấy lại có thể biết hắn, có thể đùa cợt với hắn, ai nhỉ? Bà nào nhỉ? -
"Còn nhớ Huyện hội phụ nữ Phù Cừ không?" Nhớ hết rồi! Hoàn toàn nhớ
rồi! Bà nói hiện nay là là phó chủ tịch phụ trách nông nghiệp một tỉnh, ông
chồng đã về hưu, mới đi thăm con đang làm ăn bên Liên Xô chắc phải vài tháng
mới về, có một con gái đang ở Mỹ, nó làm bên ngoại giao. Ông bà có ba trai, hai
gái, sáu cháu vừa nội vừa ngoại, cháu đích tôn mới sang học đại học ở bên Úc,
khéo chừng chúng tôi được làm ông cố bà cố sớm hơn anh đấy nhá. Còn anh thế
nào? Thế nào ư? Năm mươi tuổi đầu còn nuôi con lên năm là thua bà chị nhiều lắm
rồi. Thì ra con người ta làm gì cũng có số thật. Cặp vợ chồng này nghĩ là ép
nhau mà nên hoá ra cũng vẫn là có duyên số.
Năm 1957 cô cấp dưỡng của Ðội văn công quân khu được tuyển về Ðoàn ca múa Tổng
cục Chính trị vì có dáng người đẹp, gương mặt đẹp và giọng nói rất ấm. Ðoàn
muốn huấn luyện một người đẹp thuần tuý đồng ruộng thành người giới thiệu
chương trình của Ðoàn tại Liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế giới được tổ
chức ở Matxcơva vào cuối năm. Người thì đẹp nhưng ít học nên không học thuộc
được những lời giới thiệu rất dài dòng, lại không nói được đúng giọng tiếng
nước ngoài nhiều bài ca đã được dịch lời sang tiếng Việt. Không làm người giới
thiệu được, cũng không hát được, múa càng không được, chả lẽ lại trở về làm
nghề cấp dưỡng thì tội nghiệp nên đành phải đưa về Ðoàn kịch nói của quân đội.
Ngày từ quân khu lên Tổng cục cô sang gặp hắn ngay, vào khoảng tối. Thoạt nhìn
cô sau hơn một năm không gặp lại, hắn cũng ngạc nhiên, vì trong bộ quân phục
mới cô như đẹp hơn, thành thị hơn trước nhiều. Hắn giới thiệu cô với Phùng
Quán: "Ðây là bạn gái của mình". Cách nhìn đánh giá của Phùng Quán
cũng làm hắn mát lòng, tức là Quán không ngờ hắn có cô bạn gái xinh đến thế.
Nhưng khi hắn hỏi: "Em có được khoẻ không?" thì câu trả lời của cô
khiến hắn sững sờ: "Mấy ngày nay chả hiểu ăn gì em toàn đi ỉa lỏng thôi,
người mệt lắm". Phùng Quán quay mặt đi giấu một thoáng cười, còn hắn thì
đã giận lắm. Thiếu gì câu nói hay hơn, kín đáo hơn khi lần đầu được trò chuyện
với người yêu, ví như: "mấy hôm nay em không được khoẻ", hoặc
"mấy hôm nay em bị đau bụng", hoặc "mấy hôm nay bụng dạ không
được tốt". Việc gì phải nói rành rọt cái từ rất khiếm nhã, rất không nên
nói. Trong hai người, người con gái yêu hắn vô tư, không vụ lợi, yêu là yêu,
yêu cả từ cái hướng nhà hắn ở, cả những lối hắn đi, chỉ mong chóng tối để được
vào thành gặp hắn. Còn hắn là yêu trong tính toán, trong lưỡng lự, có lúc muốn
gắn bó, có lúc lại muốn buông bỏ, là vợ thì có thể được vì cái đức hy sinh cho
chồng cho con đã thuộc về bản chất của các cô gái nông dân. Còn là người tình
thì chán lắm, chán và nhạt đến kinh người. Cô đã phải từ bỏ chính mình để sống
với môi trường mới, nói cười theo người khác, vui buồn theo người khác vì cô đã
nghĩ những gì thuộc về cô nó "nhà quê" thế nào, buồn cười thế nào,
thành ra một người sống giả, giả từ trẻ đến già. Cô chỉ sống thật khi có chị
em, họ hàng từ quê lên thăm vợ chồng hắn. Những ngày ấy cô là một người khác
hẳn, hồn nhiên, vui tươi, mọi câu nói đều tự nhiên, đều ấm áp, có cái duyên
riêng, có sức quyến rũ riêng. Họ cưới nhau tại nhà Hợp Thiện ở đường Phùng Hưng
(nay là nhà tang lễ của Hà Nội), là con đường song song với đường Lý Nam Ðế.
Bên nhà trai có mẹ hắn và tạp chí Văn nghệ Quân đội, bên nhà gái có
bố vợ và Ðoàn kịch nói Quân đội. Một nồi nước chè khô, thuốc lá Ðiện Biên, Tam
Ðảo và bánh kẹo của mậu dịch. Cô dâu mặc áo dài, chú rể vẫn quần áo bộ đội và
đi dép râu. Chủ hôn là nhà thơ Thanh Tịnh. Ðám cưới ngày ấy giống như một cuộc
liên hoan của cơ quan, mọi người thay nhau chúc tụng, rồi ngâm thơ và kể chuyện
vui, những mẩu chuyện mở đầu thì thanh kết thúc thì tục để gây cười, những cái
cười nhạt nhẽo vô nghĩa của tuổi trẻ, cái tuổi rất dễ cười. Bọn hắn sống vào cái
thời mọi nghi lễ đều bị tước bỏ (vì nó vô ích, nghĩ thế!), tất cả chỉ nhằm
nhanh chóng đạt đến cái đích. Cái đích thì vẫn đến nhưng chả để lại một ấn
tượng sâu sắc nào, về già mới chợt nghĩ hai người chưa hề đăng ký kết hôn tại
một cơ quan nào của chính quyền, thậm chí cũng không có cả giấy hôn thú. Cái
lối sống tạm bợ, tuỳ tiện, không kể đến những yêu cầu cần có của mỗi cá nhân,
kể cả những yêu cầu rất thiêng liêng lan toả trong mọi hoạt động của xã hội.
Một xã hội mà mọi người gần như quên hẳn những cụm từ cần thiết trong các mối
quan hệ: xin phép, xin lỗi, cảm ơn. Cứ nghĩ lại những cửa hàng phở của mậu dịch
mà hãi, xếp hàng, mua phiếu, xếp hàng cầm bát phở, những bát phở nhày nhụa nước
mỡ tràn ra ngoài thành bát, vừa nóng vừa trơn, cầm không khéo là hỏng ăn, rồi
và rồi nuốt. Tới đâu cũng được nhìn những gương mặt lầm lầm, những câu nói cộc
lốc, gắt gỏng, đưa tiền, cầm hàng và không được chọn, có hàng đâu mà chọn, chọn
là muốn đổi hàng, là phạm luật, khách mua to tiếng là quấy rối, là phạm pháp.
Chỉ được nhận, có gì nhận nấy, không được phàn nàn, không được tỏ ra bất bình
mới là một công dân tốt. Rồi sống mãi trong cái môi trường ấy cũng thành quen,
khi hắn được gặp lại những người ruột thịt ở Sài Gòn vừa được giải phóng, ăn
bữa cơm gia đình không mời ai cả, thích món nào cứ xỉa đũa gắp mãi một món ấy,
tại sao lại nhìn tôi, tôi vẫn cầm đũa chứ có nhón tay ăn bốc đâu mà nhìn. Mấy
đứa cháu ở Sài Gòn tỏ vẻ khó chịu khi người chỉ huy dàn nhạc mặc áo sơ mi bỏ
ngoài quần thì chính hắn lại ngạc nhiên. Bọn trẻ nói: "Vào nhà hát người
xem còn ăn mặc lịch sự huống là dàn nhạc". Chà, thói tật tư sản, thói tật
đế quốc! Nghĩa lại trong năm đầu lấy nhau không còn nhớ được một kỷ niệm nào
đẹp, không đi chơi đâu (nhìn bến xe khách là mất mật còn muốn đi đâu), không
mua sắm gì (lại xếp hàng, thôi, ở nhà), cũng không có điều kiện làm những bữa
cơm thân mật mời bạn bè những ngày lễ ngày nghỉ vì bọn hắn chưa có nhà riêng,
họ vẫn sống ở cơ quan như trước, tối đến vợ mới sang phòng làm việc của hắn ngủ
qua đêm, vợ muốn nấu một bữa cơm ngon cho chồng cũng không thể đành lại dắt
nhau ra ngồi vỉa hè đường ăn quà. Mẹ chồng cũng không có chỗ ở riêng, vẫn là ở
nhờ nhà người cháu, chỉ có một cái giường kê ở buồng ăn là chỗ nằm của mẹ, cũng
là gặp nhau suông, nói dăm ba câu chuyện rồi về, đâu có thể chủ nhật nào cũng
ăn cơm nhà anh chị. Chả có gì vui trong cuộc sống vợ chồng, chỉ có một thay đổi
là họ không phải nằm lẻ loi mỗi đêm, còn tất cả vẫn như cũ, vẫn là cuộc đời
lính, ăn cơm tập thể ngủ trên ván sàn. Mà lại có thêm nhiều cái phiền hà. Những
giờ rảnh rỗi buổi tối hắn thường đọc sách hoặc viết, là cái khoảng thời gian
sảng khoái nhất, mong đợi nhất trong ngày vì hắn được sống với nghề, được sống
với những mơ mộng lớn nhỏ của hắn. Nhưng vợ hắn lại muốn đi xem cải lương, đi
xem phim, phim hay thì khó mua vé, phim dở lại tiếc thì giờ, hắn ngồi ngáp ngắn
ngáp dài một lúc rồi tựa đầu vào vai vợ mà ngủ. Nhưng vợ hắn thì vui lắm, được
đi cùng chồng, được ngồi cạnh chồng ở chỗ công cộng là vui rồi. Ðã bắt đầu có
những tranh cãi vặt, những giận hờn vặt, vì những ý muốn khác nhau, thằng đàn
ông thì cậy quyền được vợ yêu, càng lúc càng bộc lộ cái tính ích kỷ, độc đoán,
người vợ đã nhịn một lần đành phải nhịn tiếp, nhịn cho yên chuyện, xưa nay
nhiều người đàn ông trong làng uống rượu say, chơi xóc đĩa vẫn về đánh vợ thì
sao, hút thuốc phiện bán cả ruộng cả nhà mà vợ con không dám ho he một lời thì
sao? Phận đàn bà thời nào chẳng khổ, không nín nhịn thì bỏ được nhau ư? Thằng
đàn ông thành phố bắt nạt người vợ nhà quê bắt đầu là như thế. Vì hắn tự nghĩ
hắn là một người chồng tốt, một thằng đàn ông có rất nhiều cái mạnh, hắn xứng
đáng có được người vợ đẹp hơn thế, đảm đang hơn thế và cũng không bao giờ dám
làm ngược lại ý chồng. Hắn là con thêm con thừa mà cũng vẫn được thừa hưởng đầy
đủ máu huyết một dòng họ mà người chồng là ông chủ còn các bà vợ chỉ là tỳ
thiếp mà thôi. Hắn không sợ người vợ bị bắt nạt sẽ có lúc tìm được cách trả
thù. Không bao giờ! Vì không thể bỏ hắn để lấy người khác được. Hắn vừa có danh
vừa có tiền, phải mỗi tội có máu gia trưởng, nhịn một chút là xong cả, còn lấy
được ai hơn thế. Ðã có lần, năm còn trẻ, vợ hắn nói: "Tôi thà lấy một
thằng chồng làm cu li nhưng vợ chồng quấn quýt nhau vẫn còn hơn làm vợ
anh!" Hắn cười nhạo: "Thì đi mà lấy, còn kịp mà, các con tôi nuôi
cho". Hắn nói trâng tráo, không chút hối tiếc thì người vợ lại đành nhịn.
Nhịn hắn một chút vẫn là hơn cả. Thời trẻ còn không dám trả thù chả lẽ về già
lại có cách trả thù? Thế mà cái chuyện trả thù đã xảy ra, khi các con đã trưởng
thành, vợ hắn đã già lại bệnh mà vẫn có cách trả thù được, tìm được một hình
phạt đáng sợ nhất, nhức buốt đến tận xương tuỷ, với một người thông minh như
hắn cũng không thể nghĩ được cách thoát ra.
7.
Trong cuộc sống thường nhật không mấy khi hắn phạm phải lầm lỗi lớn vì hắn
luôn biết tự giới hạn trong cái có thể. Một đời người mà không có đôi ba lần
dám mạo hiểm vào cái không có thể cũng xem như chưa từng sống, một kẻ đã chết
khi còn sống, một kẻ vô tích sự. Hắn quả là một kẻ vô tích sự, chả thế bố đẻ
hắn khi ngắm nhìn hắn ngồi ngẩn ngơ ở một góc nhà đã phải thốt lên đầy thất
vọng: "Thằng mán tiền!" Một thằng mán tiền mà dám phiêu lưu vào địa
hạt văn chương, là cái lãnh vực hoàn toàn không có thể với thân phận hắn, với
tính cách hắn. Vậy hắn đã có phép thuật gì để tồn tại được, tồn tại trong suốt
mấy chục năm? Cuộc biến hoá ở trong hắn xét cho cùng lại hết sức đơn giản và
hoàn toàn không tự giác. Vì hắn không có tính cách mạnh, không có bản sắc rõ
ràng, chỉ là cái rỗng không, nhưng cái rỗng không ấy lại có sức mạnh hút vào nó
mọi màu sắc của cuộc sống mà chỉ một kẻ nhút nhát, yếu đuối, có nhiều khát vọng
dang dở mới cảm nhận được. Hắn tự biến hoá thành đối tượng được quan sát một
cách rất dễ dàng. Là anh hùng hoặc một tên tội phạm chỉ qua vài lần tiếp xúc
hắn đã có thể lặn vào tận đáy sâu để tìm ra cái then máy bí mật đã chi phối mọi
tính toán và hành động của người đối thoại. Cũng có lúc lầm nhưng thường là
không lầm. Hắn chỉ sợ có hành động, bất kể hành động gì, là tốt hay là xấu, là
lớn hay nhỏ, hắn đều không bịa được, vì hắn chưa từng làm, cũng chưa bao giờ
dám thử làm. Hắn nghĩ như triết nhân, làm như con trẻ. Ðã làm là hỏng, dầu là
một việc rất nhỏ hắn vẫn không thể biết nên bắt đầu từ đâu nên kết thúc như thế
nào! Nhưng nghĩ thì khác, nghĩ ngợi nông sâu, xa gần là thánh địa của hắn. Năm
viết Xung đột hắn mới 27 tuổi nhưng chỉ ngồi trò chuyện dăm
buổi với chủ tịch xã Nghĩa Hoà hơn hắn gần hai chục tuổi hắn đã có thể biến hoá
thành ông ta hết sức tự nhiên. Rồi hắn nghĩ theo nhân vật, nói theo nhân vật và
hành động bằng tưởng tượng đúng với tính cách của nhân vật. Nhân vật văn học đã
hình thành cùng hắn đi suốt cuộc hành trình gần ba năm là khoảng thời gian đi
về xã Nghĩa Hoà, cũng là khoảng thời gian của cuốn tiểu thuyết.
Nhân vật Thuỵ là một nửa khác của chính hắn, là cuộc đấu tranh dai dẳng giữa
một niềm tin trong trẻo với những ham muốn nhơ nhớp của đời thường. Khi nghe
một cán bộ của huyện nhận định về Nhàn, phó chủ tịch xã, là một cán bộ có uy
tín trong dân nhưng lập trường không kiên định, hắn nhận ra ngay cuộc giằng co
khi thắng khi thua giữa niềm tin cũ thuộc về thiêng liêng với niềm tin mới của
một Ðảng viên cộng sản. Cuộc đấu tranh này chính hắn đã từng trải qua, cho đến
tận hôm nay, khi gặp một chuyện rắc rối không thể tìm ra lối thoát, hắn vẫn lẩm
nhẩm khấn khứa: "Lạy trời, cho con qua khỏi được chuyện này, con xin tình
nguyện giảm thọ mười năm để thoát ra khỏi chuyện này." Nhưng nhân vật Tam
(cũng trong Xung đột) mới thật là mảnh đất hắn có thể tung hoành
ngang dọc. Tam là một cán bộ rất trong sạch, rất thẳng thắn, chỉ một chút thiếu
tỉnh táo mà thành kẻ phạm tội. Cái đau đớn của một kẻ có phạm tội thật nhưng
chưa mất hết lương tri chả thấm vào đâu với một người không bao giờ nghĩ rằng
mình có thể phạm tội mà lại hoá ra đã phạm tội, một cái tội vô tình đụng phải
nó, rồi nhập làm một với nó, nằm trong danh sách những kẻ đã phạm tội, không có
cách gì để thanh minh, để tách khỏi mình ra, để trở lại trong trắng như trước
đó. Không có cách nào cả. Phải cúi đầu chịu một cái tội oan chả biết kêu với
ai, chính mình kêu cứu với mình cũng thấy khó nghe khó cứu huống là với người
khác. Vả lại với người đời, ngay cả với vợ con, với bạn thân tuy lắng nghe
những lời bộc bạch với cái vẻ thông cảm nhưng dứt khoát không có một ai tin anh
cả, không có một ai tin được anh là một kẻ hoàn toàn không có tội. Hạnh phúc
không thể chia bớt với ai khác, bất hạnh cũng thế, phúc ai nấy hưởng, tội ai
nấy chịu, mỗi người là một nắm mồ với niềm vui và nỗi đau của riêng họ. Hắn
nhận ra điều đó khi đứa con trai đầu của hắn bị chết đuối ở sông Hồng. Bạn bè
kéo đến nhìn hắn vật vã than khóc với những ánh mắt rất buồn bã, rất thông cảm.
Nhưng khi hắn nằm vật ra giường vì quá mệt chợt nghe tiếng các bạn hắn ở đầu hè
bàn nhau chỗ hẹn để đưa các con lên xe ra Ðồ Sơn nhân chúng được nghỉ hè. Là
những giọng nói khác hẳn, rất nhẹ, rất vui của các ông bố hạnh phúc đang nghĩ
đến một chuyến đi rất thú vị của bọn trẻ sau một năm ăn học vất vả ở những nơi
sơ tán. Có thể hắn là một nhà văn có khả năng bẩm sinh thông cảm tức thời với
mọi cảnh ngộ, nhưng đúng hơn, hắn đã từng là một đứa trẻ rất trong trắng chưa
hề phạm tội nhưng lại bị những người thân, rất thân, buộc tội là thằng ăn cắp,
và đã đối xử với hắn như một thằng ăn cắp thực sự đang sống lẫn lộn trong đám
con cái rất nết na của họ. Những kẻ lương thiện bị những tình huống trớ trêu
đẩy họ thành kẻ phạm tội một cách oan uổng luôn luôn làm hắn cảm động, làm hắn
tò mò muốn được hiểu thêm nữa, nhiều thêm nữa, để thêm một lần được sống lại
những ngày tháng bi đát đã thuộc về quá khứ. Ðược sống lại với cái buồn cái
nhục tuổi thơ cũng là dịp để hắn được dùng những giọt nước mắt của tuổi già
tưới lên một vùng kỷ niệm mãi mãi là nơi ủ ấm những đốm lửa sáng tạo trong sự
nghiệp văn chương của hắn. Hắn tin rằng không ai có thể viết hay hơn hắn về hai
ông cháu Vũ Hồng Khanh. Người ông vì không có những quyết định đúng ở mỗi bước
ngoặt của lịch sử, trở thành tội nhân của lịch sử, đứa cháu thì chả biết một tí
gì về ông ngoại mà một đời phải lận đận vì những hoạt động chính trị trong quá
khứ của người ông. Hắn đã phải chịu cái tội của tổ tông, là những cái tội hắn
không thể biết chứ đừng nói có liên can. Lại một ông cựu đảng viên, vào đảng từ
thời Nguyễn Thái Học mới lập đảng rồi cũng chạy trốn sang Vân Nam, rồi nhớ nước
quá lại quay về, ra đầu thú với chính quyền kháng chiến, đi tù dăm năm, lúc được
làm người tự do mới lấy vợ, mới sinh con, gian truân từ trẻ đến già. Cũng là
một kiếp người mà sao đau đớn thế, khốn khổ thế. Nhưng tự mình tìm ra tội, rồi
tự mình sống thấp thỏm với cái tội tưởng tượng ấy gần trọn một đời người mới
thật là một cực hình. Anh ta là một người có học, thuở mới lớn có tham gia rào
làng cùng các chú bác anh chị, nghĩ là rào làng kháng chiến chống Pháp, nào dè
lại là rào làng chống Việt Minh, vì đây là làng của Nguyễn Thái Học, địa bàn
hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng từ những năm 30. Kháng chiến thành công,
anh phải đi tù vì đã có hành động chống cách mạng từ năm 1946. Ði tù năm năm
anh được tha trước thời hạn vì là một phạm nhân gương mẫu. Từ ngày được tha,
anh mới thật sự là kẻ có tội, thật sự sống trong tù. Cái tội do chính anh tưởng
tượng ra và cái nhà anh đang sống với vợ con đã biến thành nhà tù, tự anh là
giám ngục. Anh luôn luôn tin rằng mình là kẻ đang bị công an theo dõi nhất cử
nhất động của anh đều được ghi chép rất cẩn thận, chỉ cần một chuyện gì đó về
chính trị xảy ra ở trong vùng, thậm chí ở trong tỉnh là anh sẽ bị bắt lại ngay
lập tức. Anh cười nói, đi lại hệt như một kẻ có tội đang bị theo dõi, lấm lét,
khúm núm, nịnh bợ. Là người đàng hoàng ai lại sống như thế, đó là cách sống của
một kẻ có tội, cái tội còn được giấu kín, cái tội ấy chỉ có một anh biết, và
một cơ quan có nhiệm vụ theo dõi anh chắc chắn là có biết. Và đêm ngày anh ta
sống trong sự chờ đợi, phải nói là mong đợi, được bị bắt để chấm dứt một lần
cho xong cái kiếp người có mặc cảm là đã phạm tội. Hầu hết các nhân vật
trong Một cõi nhân gian bé tí đều có mang tội với ai đó, đều
có khả năng phạm tội với ai đó. Người ông có tội với đứa cháu ngoại vì đã để
lại một di sản chính trị không được tốt đẹp cho con cháu. Người đàn ông có tội
với vợ con vì đã không biết tổ chức một gia đình vững chắc để vợ con có chỗ
nương tựa lúc thời thế đổi thay. Người chỉ huy có tội trước cái chết của chiến
sĩ vì đã lên một kế hoạch tác chiến thiếu chuẩn xác. Ðứa cháu có tội với bà cô
vì đã để bà phải sống cô đơn lúc tuổi già sau nhiều chục năm hy sinh cho anh
trai, cho các cháu. Ông uỷ viên của viện kiểm sát cũng phần nào có tội trước
những lỗi lầm của các phạm nhân nguyên là chiến sĩ đã từng đánh Mỹ chỉ vì họ
không tìm được việc làm thích hợp mà thành can phạm. Xét đến cùng mỗi chúng ta
đều ít nhiều có tội trước những bất hạnh của vô số người mà ta đã nguyện một
đời phục vụ cho sự no ấm và an toàn của họ. Và ông bố hắn cũng là người có tội
khi đã sinh ra hắn mà không có một trách nhiệm gì về cái sinh mạng bé nhỏ mang
dòng máu của ông, lại còn vu tội cho hắn để ông được thanh thản rũ sạch cái
phần trách nhiệm phải có của mình.
Cái mặc cảm chính hắn cũng là kẻ ít nhiều có tội trước những bất hạnh của bè
bạn, của đồng nghiệp, khiến hắn sẵn sàng giải hoà, sẵn sàng nhận lỗi khi có
điều kiện, không hề sợ bị mất mặt trước bạn bè, hoặc sợ bị cấp trên hiểu lầm.
Năm 1987, Ðảng và Nhà nước bắt đầu đổi mới hệ thống quản lý kinh tế, xã hội và
chính trị cho phù hợp với sự phát triển của đất nước, Ban thư ký Hội Nhà văn có
giao cho hắn và nhà văn Xuân Thiều đi mời các nhà văn bị kỷ luật trong vụ
án Nhân văn Giai phẩm trở lại sinh hoạt với Hội Nhà văn. Hắn
đã nhận nhiệm vụ như kẻ được dịp lập công để chuộc lại nhiều lỗi lầm của mình
trong quá khứ. Nhưng những người bị kỷ luật, trong quyết định chính thức là ba
năm mà hoá ra kéo dài ba mươi năm, cũng có quyền bất bình, hờn giận với những
người đi mời, có anh còn không muốn trở lại Hội nữa, là nhà văn ngoài Hội thì
đã sao, vì Hội đâu có bảo vệ được họ khi họ gặp tai nạn. Hắn là tên đao phủ (như
có người bạn đã gọi hắn thế trong một lúc quá giận), nhưng lại có bộ mặt của kẻ
chịu án, không phải trong lúc này mà suốt mấy chục năm qua, chưa bao giờ hắn có
bộ mặt vênh váo của kẻ hãnh tiến, kẻ thắng cuộc cả, chính là cái bộ mặt biết
hối lỗi ấy đã khiến mọi việc hoá ra dễ dãi, hoá ra vui vẻ. Một người nói rất
gay gắt, người khác lại bảo: "Thằng K. nó đã nói thế thì cũng nên nghe nó,
nó cũng là đứa biết phải trái" - "Nó vì anh em mà vất vả, giận dỗi
với nó mà làm gì!". Thế là xong, cuộc dàn hoà đã hoàn tất. Ông Trần Dần
muốn đi khám bệnh và ông sẽ đi bằng xích lô. Hắn và Xuân Thiều bảo sẽ đưa xe
của Hội tới đón ông, Trần Dần gạt ngay: "Mình thích đi xe của dân chứ
không thích đi xe của quan". Hắn nói: "Anh không thích nhưng vợ con
anh thích, ông Trần Dần đi khám bệnh bằng xe hơi của Hội là người hàng phố sẽ
nhìn gia đình anh bằng con mắt khác, nói năng với vợ con anh bằng cái giọng
khác". Hắn còn nói đùa: "Thần tiên sống bằng khí trời thì không cần,
nhưng người phàm tục sống bằng gạo bằng muối thì vẫn rất cần". Trần Dần
cười, không phải vì hắn nói hay mà vì lòng dạ hắn còn ngay thật.
Suốt một đời hắn chỉ sợ nói oan cho ai một truyện gì đó, vậy mà hắn vẫn nói oan
và cả viết oan cho hai người bạn mà hắn còn nhớ. Trường hợp thứ nhất là với nhà
văn Trần Kim Trắc. Hắn thuộc tên Trần Kim Trắc trước mấy năm khi được gặp mặt.
Ấy là cả hai đều có tác phẩm được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam năm
1952. Trần Kim Trắc được giải nhì với truyện ngắn Cái lu, còn hắn
được giải khuyến khích với truyện vừa Xây dựng. Năm 1956, hai người
mới được gặp nhau, khi Trắc là một cán bộ của Tiểu đoàn Ba lẻ Bảy lừng
danh tập kết ra Bắc và về Phòng Chính trị quân khu 3 làm công tác văn nghệ báo
chí thế chân hắn vừa được điều động về Cục Tuyên huấn. Trong một lần về Hà Nội
họp, Trắc có gợi ý hắn nên về xứ Quỹ Nhất thuộc huyện Nghĩa Hưng để tìm hiểu
một vụ xô xát lớn giữa đám thanh niên công giáo với một đơn vị bộ đội đóng quân
ở đó. Trắc nói: "Cũng lớn chuyện đấy, phức tạp hơn trong Nằm vạ nhiều".
Một tháng sau hắn bắt tay vào viết tập 1 của bộ tiểu thuyết Xung đột (quyển
1 gồm bốn tập). Năm 1957, Trắc cũng được điều về Tạp chí Văn nghệ Quân
đội mới được chuyển trụ sở ra nhà số 4 phố Lý Nam Ðế. Nửa năm sau thì
Trắc gặp nạn, một lỗi lầm trong sinh hoạt, cũng nhỏ thôi, gặp người phụ trách
có lòng độ lượng thì chả có chuyện gì xảy ra cả, có thể vừa cười vừa trách nhẹ
một câu là xong. Ðằng này mỗi người có mặt trong cuộc họp nói hùn vào một câu,
chuyện lúc đầu thì nhỏ, dần dần hoá ra to, hoá ra nghiêm trọng, cuối cùng bản
án anh phải chịu là hết sức nặng nề. Sáu năm sau, năm 1963, hắn có việc phải về
Hưng Yên, bất ngờ gặp lại người bạn văn thiếu may mắn là nhân viên phụ động của
Ty Công nghiệp tỉnh. Trời đã chạng vạng tối, cùng ngồi với nhau trong ngôi nhà
lợp gianh của một thị xã xơ xác, tiêu điều, tối om như cái làng mới lập, nhìn
nét viền của gương mặt bạn trong tranh tối tranh sáng mà hắn muốn ứa nước mắt
vì xấu hổ, vì ân hận. Trong sáu năm qua, hắn và các bạn ở cơ quan cũ đã có một
ai gửi tới người đồng đội gặp nạn một lời thăm hỏi, một lời an ủi? Hoặc một lời
giới thiệu với cơ quan mới để bạn được hiểu đúng hơn, để bạn đỡ khổ hơn? Hắn
vẫn được viết văn còn bạn hắn đã bỏ nghề từ ngày rời khỏi tạp chí, bây giờ chỉ
còn lo kiếm sống chứ tâm địa đâu nghĩ tới chuyện viết văn. Lại nhiều chục năm
sau nữa, đôi bạn oan nghiệt lại chạm trán nhau tại thành phố Hồ Chí Minh, bạn
hắn tóc đã bạc phơ, lông mày lông mi đều bạc trắng, nhưng gương mặt lại rạng rỡ
như được chiếu sáng từ bên trong. Trong câu chuyện hàn huyên sau nhiều chục năm
xa cách, bạn hắn không hề nhắc lại nửa lời chuyện cũ, cái chuyện rất buồn, rất
tệ của một thời, thăm hỏi đủ mọi người, chả giận một ai, chả nghĩ xấu về một
ai, chỉ khi chia tay mới bảo: "Mình rất biết ơn chín năm làm anh bộ đội Cụ
Hồ thời đánh Pháp. Không có cốt cách của một thằng lính thì khó mà chống đỡ
những sóng gió của cuộc đời. Ðời rất dài ai mà tránh mãi được những chuyện
không may".
Năm hắn 69 tuổi, trong một năm hắn nhận được ba, bốn lá thư của Vũ Bão, một bạn
văn quen biết nhau từ thuở thiếu thời. Trong các lá thư Vũ Bão có nhắc lại một
bài phê bình của hắn nặng về chính trị, nhẹ về văn chương, gần như kết án cuốn
tiểu thuyết Sắp cưới của anh, in trên tạp chí Văn nghệ
Quân đội năm 1958, cách đây đã 42 năm. Quả tình hắn đã quên biến mất
bài báo đó, quên từ lâu rồi. Vả lại họ vẫn gặp nhau trong suốt mấy chục năm ở
Hà Nội, cùng uống trà chén ở các quán dọc đường, nói chuyện trên trời dưới đất
rất hồn nhiên, rất vui vẻ, có ai nhắc lại chuyện cũ đâu mà nhớ, một lời bóng
gió hằn học cũng không có. Vậy mà nỗi đau của bạn vẫn còn đó, nguyên vẹn, tươi
mới như chuyện mới xảy ra trong ngày hôm qua, trong tháng trước. Thì ra người
cầm dao không thể có cùng một nỗi đau với người bị chém. Vết chém lành nhưng
vẫn còn sẹo, còn bàn tay cầm dao buông dao ra đâu có để lại vết tích gì. Trước
ngày họp đại hội nhà văn khoảng một tháng, hắn lại nhận được thư của Vũ Bão.
Lần này anh ấy yêu cầu hắn phải có mặt tại đại hội, bằng mọi giá phải có mặt,
không được lẩn trốn để nạn nhân có thể đứng trên diễn đàn đại hội vạch trần bộ
mặt giả nhân giả nghĩa của một "tên sát thủ", một "dũng sĩ diệt
đồng đội" trước mặt bạn bè. Nếu hắn còn ở tuổi 40 có lẽ hắn sẽ có phản ứng
khác, nhưng hắn đã bước sang tuổi 70, đang sống mấy năm cuối của một đời người,
một đời viết, đã từng có nhiều cơ hội để nhìn lại từng chặng đường của mình,
những cái phù phiếm, những ganh đua con trẻ, hiếu thắng con trẻ và cách tự toả
sáng cũng rất con trẻ đã tàn lụi theo năm tháng từ lâu rồi, phần còn lại khiến
hắn không được an tâm là những lầm lỗi của mình, những lời nói bài viết kiêu
ngạo, độc đoán một thời của mình, áp đặt một cách nghĩ đang được người đương
thời ủng hộ và loại bỏ mọi cách nghĩ mà lúc về già hắn vẫn thường phải đối mặt,
chuyện đời có, chuyện nghề có, chuyện trong gia đình cũng có. Hắn đã sống
đời hơn nhiều, thêm tuổi thì mọi cách nghĩ ngợi của hắn càng gần giống
với một ông già lương thiện, một ông già biết cách ăn ở lui tới, một ông già
từng trải. Xem ra về già bạn bè thương hắn hơn, bạn đọc cũng yêu hắn hơn, và
con cái cũng dễ thông cảm với hắn hơn. Là người biết nghĩ thì đã làm việc lầm
lỗi phải biết nói lời xin lỗi, phải biết xin những người bị hàm oan mở lòng tha
thứ và sẵn sàng chịu nhận những lời mắng mỏ, chửi rủa không chút oán hận. Hắn
đến Ðại hội nhà văn với tâm trạng thư thái nhẹ nhõm vì đã tự giải phóng ra khỏi
cái ngục tù vị ngã của mình. Khi cái người đã chuẩn bị bản án tuyên đọc trước
đại hội hỏi hắn: "Bây giờ ông tính sao?" Hắn đã trả lời rất thản
nhiên: "Ông hãy nói hết về tôi như ông đã chuẩn bị, phản ứng của tôi sẽ là
tích cực". Vũ Bão lại hỏi: "Ông có lời nói lại không?" -
"Không nói lại gì cả, không thanh minh gì cả, tôi chỉ xin lỗi ông trước
đại hội thôi". Vũ Bão nhìn hắn với ánh mắt nghi ngờ: "Là thật
sao?" Hắn đưa bài phát biểu đã viết sẵn vẻn vẹn chỉ một trang đánh máy:
"Tôi sẽ đọc nguyên văn, không thêm một chữ, anh đọc trước đi". Nhưng
hắn nói thêm: "Tôi đã có lỗi với nhiều người chứ không phải chỉ với một
mình ông. Tôi muốn nhân dịp này được xin lỗi tất cả các anh chị đã có lúc tôi
xúc phạm tới niềm tin riêng về nghệ thuật của họ". Sáng hôm sau Vũ Bão lại
gặp hắn với lời đề nghị khác, rằng anh không muốn đem chuyện riêng của hai
người ra nói trước đại hội, nhưng anh sẽ in lại lời xin lỗi của hắn lên bìa sau
của tuyển tập Vũ Bão sẽ in trong nay mai và anh hỏi hắn có bằng lòng không? Hắn
nói, lời xin lỗi của hắn là công khai, tuỳ người được xin lỗi muốn dùng cách
sao đều được cả. Hai người nhìn nhau một lúc cũng lâu rồi đều cười, cả hai đều
đã già, cái thời đòi sự thắng bại đã qua, chỉ còn lại một cách sống hiền minh
giữa những người già, lại là những người cùng làm một nghề. Lúc chia tay để vào
họp, hắn nói với Vũ Bão: "Ông có gặp Bùi Ngọc Tấn nói giùm tôi rất muốn
gặp anh ấy". Vũ Bão nói: "Hắn cũng mới hỏi ông xong, đến bữa cơm gặp
lại nhau nhá!".
[*] Pittoresque: quá đẹp (nên thiếu cái thật)
8.
Càng về già hắn càng
không thích nghe những câu nói làm duyên của người già, những câu đùa tình tứ
của người già, và cả cái liếc mắt mà lòng con ngươi đã bạc phếch của người già.
Hắn lại càng sợ phải nghe những bài thơ của các mối tình già, những chuyện tình
tái xuân lãng mạn của người già. Câu chuyện tình của bà chị hắn với ông anh rể
muộn mằn là chuyện nhân nghĩa, là sự đền bù một cuộc tình bị lỡ dở những năm
còn trẻ mới khiến được hắn cảm động, khiến hắn quan tâm và trân trọng. Nhưng
hắn vẫn không giấu được nụ cười ẩn náu đâu đó giữa các hàng chữ. Bây giờ người
vợ già của hắn lại nói từ sáng đến tối, đến nửa đêm rằng bà luôn luôn yêu hắn,
luôn luôn sợ mất hắn, luôn luôn dõi theo hắn mỗi lần hắn bước ra khỏi nhà,
không phải đi đâu xa cả năm cả tháng mà chỉ là đi ăn quà sáng hoặc đi uống một
tách cà phê ở đầu đường. Thế là hắn nổi điên lên dẫu hắn vẫn biết sự cáu giận
của mình là rất vô lý, rất quái gở. Thằng con lớn nói nửa thật nửa đùa:
"Ðã già mà vẫn được vợ yêu là hạnh phúc lắm đấy. Bố phải nghĩ mình là
người chồng rất hạnh phúc, nghĩ thế là sẽ thấy nhẹ nhõm ngay". Nhưng hắn
không thể nghĩ như thế được, hắn vốn rất sợ những hành vi buồn cười, những lời
nói buồn cười, đã là hai cái xác sắp đem chôn còn bày đặt ghen tuông, rình mò,
sợ bị ai đó cướp mất. Chỉ có đứa khùng mới đi cướp một cái xác khô về để hầu và
để chôn thôi. Vợ hắn bảo: "Anh mặc quần áo đàng hoàng đâu có giống cái xác
khô, vẫn còn tươi tắn lắm, chỉ như người mới 60 thôi". Mấy bố con ngồi trò
chuyện với nhau, hắn nói nhăn nhó: "Mẹ chúng mày điên thật rồi, mắc bệnh
tâm thần phân liệt rồi, lấy chuyện hư, chuyện tưởng tượng làm chuyện thật, càng
lúc càng tin là chuyện có thật. Chúng mày phải nghĩ cách giùm tao..."
Thằng con lớn vẫn vừa cười vừa nói: "Bố thường khoe một đời biết nhịn
những cái nhỏ để được những cái lớn. Bố thử chiều mẹ một chút xem sao?"
Hắn hỏi lại: "Tức là tao nhận tao đã có lỗi?" - "Với người có
bệnh cứ nhận đại là đã có lỗi, có nhiều lầm lỗi thì đã mất gì nào? Mẹ còn sống
được bao lâu mà bố phải nhất quyết giành cho được phần thắng?" - "Tao
tự hào là một người chồng, một ông bố rất có trách nhiệm từ trẻ đến già. Tao
chả có lỗi gì với mẹ con chúng mày cả". Ðứa con lại hỏi: "Xưa nay bố
có lỗi gì với bạn bè mà sao bố chịu nhường nhịn các chú ấy nhiều thế?" Hắn
nói: "Với bạn bè tao rất có lỗi, người ngoài nhìn vào nghĩ rằng tao không
có lỗi, nhưng tự tao biết tao rất có lỗi với họ". Con hắn lại cười:
"Họ chưa đánh bố đã chạy làm sao lại có lỗi được?" - "Có chứ, cô
chú Anh Ðức sinh con trong rừng, nuôi con dưới bom B.52, tao rất có lỗi với vợ
chồng chú ấy. Chú Nguyên Ngọc lấy vợ năm đã ngoài bốn chục tuổi, vợ chú ấy cũng
phải ngồi trong nhà tù của Mỹ ngụy nhiều năm, chả lẽ tao không có lỗi. Chú Phan
Tứ rời chiến trường ra Hà Nội chỉ để đi nằm bệnh viện, ra ra vào vào, chết đi
sống lại mấy lần, chả lẽ tao không có chút ân hận nào? Nói ngay cậu Chí Trung
của chúng mày, một đời lăn lộn trong bom đạn, bây giờ già lắm rồi, đứng lên
ngồi xuống đã phải vịn bàn chống tay, nói một lúc là thở, đã ngoài bảy mươi mà
một gia đình cho riêng mình cũng không có. Tao với cậu ấy còn nhiều chuyện phải
tranh cãi nhưng tao đâu có dám tranh cãi, hễ cậu ấy cáu lên là tao tháo chạy
ngay. Tao gần như được tất cả, cậu ấy gần như mất tất cả, chỉ còn lại mỗi cái
quân hàm thiếu tướng. Thiếu tướng chứ đến đại tướng đâu có lấp đầy được những
thiếu vắng của tuổi già. Tao có tư cách gì mà tranh luận, mà phân phải trái với
những con người như thế. Tao không đồng tình với họ nhiều chuyện nhưng tao
ngưỡng mộ họ, tao vẫn nhìn vào họ để gìn giữ sự ngay thẳng trong ngòi bút của
mình".
Nói tới chuyện có lỗi hắn lại nghĩ tới Nguyễn Trọng Oánh, một
người bạn rất thân của hắn từ thuở mới về tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Cả hai đều là lính quân khu, lính đại đoàn được điều động về Tổng cục Chính
trị, giống như một lũ tiểu quỷ đang ở gò ở đống bỗng chốc được lên thượng giới
để sống kề cận với các vị đại tiên; đang là tôm tép ở rãnh nhỏ ngòi nông được
vớt ra sông lớn hồ rộng, sống mãi rồi cũng có ngày trở thành cá lớn. Suốt một
thời đánh Pháp tự nghĩ, tự viết chả có pháp thuật gì, thầy bà gì biết đến ngày
nào mới thành chánh quả? Hắn là người sinh trưởng ở Hà Nội, sau nhiều năm ở
làng ở rừng được về lại thành phố ngu ngơ như người nhà quê. Còn Oánh chỉ là chàng
trai nông thôn lần đầu ra sống ở Hà Nội nhìn đâu cũng lạ. Cái vui của kháng
chiến thành công, của tuổi trẻ, của Hà Thành hoa lệ, của những năm tháng nhảy
cao bay xa sắp tới, hắn lại lấy được cả tiền nhuận bút truyện vừa Xây
dựng khoảng 15 ngàn (là một trăm rưởi khi đổi tiền), sáng trưa tối đều
có thể ra phố ăn quà thoả thích, sống thoả thuê, sống mãn nguyện mọi giờ mọi
phút trong ngày, không ai muốn ngủ cả, không đi chơi thì ngồi tán chuyện, đọc
thơ, đọc văn cho nhau nghe, rồi nghe các bậc đàn anh tâm sự về nghề nghiệp, kể
chuyện về cuộc sống và thói quen viết lách của các tên tuổi lớn trên văn đàn
hồi trước cách mạng và những năm ở rừng trong kháng chiến. Rồi những cái chết
trận và chết bệnh của Trần Ðăng, Hoàng Lộc, Thâm Tâm, Hải Triều, Ngô Tất Tố, Nguyễn
Ðình Lạp... Trong những câu chuyện linh tinh mỗi ngày mỗi đêm, hắn và Oánh gần
như chỉ ngồi nghe chứ không dám mở miệng nói leo, biết gì mà nói, chuyện của
nghề mới là anh tập việc, người trong nghề cũng chỉ mới được làm quen, sách của
Tây thì chưa được đọc, sách của ta cũng chỉ mới đọc dăm bảy cuốn tiểu thuyết
trước cách mạng. Vốn liếng sách vở không, từng trải việc đời không, mà lại dám
nuôi mộng thành nhà văn nhà báo không sợ là hão huyền sao? Năm 1957, hắn bắt
đầu viết các tập ghi chép về một vùng nông thôn công giáo ở Nam Ðịnh đăng rải
làm nhiều kỳ trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Những chương sách có thể tồn tại
độc lập được lập tức có bạn đọc ngay và tên của hắn bắt đầu được nhắc trong
giới viết lách và những bạn đọc yêu văn học. Hắn đã bấm được ngón chân và đã đi
được vài bước trên lối đi cheo leo dễ trượt ngã của văn chương. Nhưng Oánh thì
chưa, trên bầu trời thi ca những năm ấy đã có sẵn những vùng sáng chói loà của
các thi bá: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, lại có cả những vùng nghịch
sáng của Trần Dần, Hữu Loan, Hoàng Cầm. Thơ của Oánh trong nhiều năm vẫn phải
đứng lẫn trong đám đông, thơ nghiệp dư, thơ của anh bộ đội yêu thơ, thích làm
thơ. Tuổi trẻ mà mộng chưa đạt là dễ giận thân lắm. Bạn bè cùng lứa đã bắt đầu
có sự phân biệt, đã có người nổi tiếng, và nhiều người đã có chỗ đứng riêng
trên các trang báo tuần báo ngày. Những người nổi tiếng nhất những năm ấy là
Nguyên Ngọc và Phùng Quán. Phùng Quán nói: "Mình đi từ Hà Nội và Vĩnh Linh
không cần phải giấy giới thiệu, chỉ cần nói Phùng Quán đây, là các barie đều
nhấc lên để mình dắt xe vào". Nên Oánh chịu khó đi lắm, chịu khó viết lắm.
Khi hắn ra Cồn Cỏ vào giữa năm 1965, đến xã Vĩnh Kim đã gặp Oánh ở đấy rồi.
Oánh vừa từ Cồn Cỏ trở về đất liền đang đợi xe ra Hà Nội. Chả ai phân công Oánh
ra Cồn Cỏ cả, thích đi là đi, thử đến một nơi nóng nhất của cuộc chiến tranh
phá hoại vừa mới bắt đầu xem có làm được một bài thơ hay không? Quả nhiên bài
thơ của Oánh về các chiến sĩ Cồn Cỏ là rất hay, sẽ còn lấp lánh lâu dài trong
số những bài thơ hay thời chống Mỹ. Năm 1968, Oánh lên đường vào với bộ đội
binh đoàn 559, định đi vài tháng rồi ra, nào ngờ được nửa thời gian lại có lệnh
đi tiếp vào B2, tiếp sức cho Tạp chí Văn nghệ Giải phóng vừa
mới mất một người lãnh đạo đầy uy tín là nhà văn Nguyễn Thi.
Tháng 5 năm 1975, hắn mới gặp lại bạn cũ sau bảy năm xa cách, đã nghĩ sẽ phải
nói với nhau rất nhiều chuyện, chuyện đời, chuyện nghề, chuyện cơ quan cũ. Nào
ngờ bạn cũ nhìn hắn như mới quen biết lần đầu, nói cười với hắn rất gượng gạo,
khi nói chuyện với hắn ánh mắt cứ nhìn chéo đi như ghét lắm, giận lắm. Hắn là
người nhạy cảm nên biết ngay vì lẽ gì bạn lại ghét mình, giận mình. Cái tội của
hắn là đã không có mặt ở các chiến trường phía Nam suốt cuộc chiến tranh chống
Mỹ. Bạn bè thay nhau vào còn hắn vẫn bình thản ở lại miền Bắc, quanh quẩn với
vợ với con suốt bấy nhiêu năm, và viết, viết quá nhiều, tới đâu viết đó, thậm
chí có nơi chưa từng đến, chỉ nghe kể chuyện vẫn cứ viết được như tập bút ký
chính luận về Hoà Vang.
Người đi chiến trường sống chết từng giờ vẫn là người viết văn
nghiệp dư, hành quân, vác gạo, đào hầm, rồi ốm đau, rồi bình phục, rồi lại tiếp
tục hành quân, có lúc nào rảnh rỗi được vài ngày để ngồi viết. Người viết khoẻ
nhất là Nguyễn Thi cũng mới chỉ là những phác thảo dở dang, gần như là những
trang ghi chép viết kỹ, còn phải mất nhiều năm tháng sống trong hoà bình để
ngẫm nghĩ, lựa chọn, gọt giũa mới có thể thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn
chỉnh được. Nhưng chưa kịp chuẩn bị gì cho cái hồi sau thì đã chết rồi. Chết là
hết, là bản thảo bị cháy, một sự nghiệp thành giấc mộng, cái nỗi đau ấy phải là
người trong nghề mới cảm nhận được hết những xót xa. Và bây giờ chiến tranh vừa
chấm dứt được vài ngày đã thấy hắn vác mặt vào, vào để hỏi han, để thu thập tài
liệu, để được sống ít ngày trong cái không khí chiến thắng, không khí giải
phóng, sau đó hắn lại về Hà Nội ngồi viết, còn viết nhanh hơn, nhiều hơn những
người ở chiến trường vẫn còn chưa hết bàng hoàng. Thế là giận, vì sao lại giận,
cũng chẳng có lý do chính đáng nào, là giận cho cái thằng hay gặp may, nhưng sự
may rủi lại là những yếu tố không thể loại bỏ trong mỗi số phận, luôn luôn có,
mãi mãi có, không tuỳ thuộc vào mình có thích hay không thích. Mình ghét hắn,
chế giễu hắn, hắn vẫn cứ gặp may, hắn có tự tổ chức ra những cơ may đó đâu mà
bảo phải chịu trách nhiệm về sự lấn phần may của người khác. Nhưng về già hắn
lại gặp nhiều sự không may rồi! Cái chuyện không may của hắn không một ai có
thể tưởng tượng nổi, nó buồn cười lắm, thê thảm lắm, mà chỉ cần hắn thay đổi
cách sống một chút là hắn hoàn toàn có thể thoát ra vì tất cả đều tuỳ thuộc vào
hắn, không có một trở ngại nào từ bên ngoài có thể ngăn trở hắn tự thay đổi.
Vậy mà một người thông minh như hắn, luôn luôn biết tự điều chỉnh cách sống
bằng sự từng trải của người khác lại phải chịu bó tay trong một trường hợp
không một ai chịu bó tay, không một ai chịu đứng im để than vãn về sự không may
của mình. Hắn luôn đề phòng mọi nghịch lý của đời sống nhưng chính hắn lại rơi
vào một nghịch lý chưa từng nghe nói, chưa từng biết có thể có một trường hợp
lạ lùng như thế nên không nhận ra những dấu hiệu báo trước, không hề chuẩn bị
và cũng không biết cách chuẩn bị. Từ trẻ đến già hắn chỉ chuẩn bị là người
thua, người chịu thiệt, người đứng phía sau, ngồi hàng dưới, rút cuộc hắn vẫn
cứ là người thắng. Nhưng trong một trường hợp hắn nghĩ mình phải là người
thắng, mãi mãi thắng thì hắn lại chịu thua, thua thảm hại bởi một người đàn bà
rất thân thiết, không có bất cứ sức mạnh nào để đốn gục hắn cả.
9.
Năm 70 tuổi bỗng dưng hắn được rất nhiều. Ðầu năm hắn có nhà mới (do hắn
bán nửa căn nhà cấp bốn phía sau để có tiền xây nửa căn nhà phía trước thành
nhà cấp hai, một trệt hai lầu), cả đời chưa bao giờ hắn nghĩ có thể được ở một
toà nhà khang trang đến thế. Cả tuần lẽ hắn không ngủ được trọn đêm, ngủ được
một giấc dài là hắn vùng dậy ngồi chồm hỗm trên tấm nệm trải ngay trên nền nhà,
ngắm nghía căn phòng từ nay là thế giới của riêng hắn, muốn bày biện ra sao
cũng được, muốn thức muốn ngủ lúc nào cũng được, và cái bàn nhỏ hắn có thể viết
cả ngày lẫn đêm chả ai dám quấy nhiễu, mà cái việc thất thường của hắn cũng
không quấy nhiễu một ai. Trong nhiều chục năm cái bàn viết của hắn là bàn công
cộng, đang viết có khách tới chơi thì gạt bản thảo sang một bên, rót trà mời
khách, nhiều trang không thể đọc lại vì đã vàng ố nước cặn trà. Ðang viết lại
chạy vụt ra ngoài để mua một bao thuốc Ðiện Biên hay Tam Ðảo, lại đứng nói
chuyện với bạn cùng khu tập thể một lát, về ngồi lại vào bàn tìm mãi không thấy
trang bản thảo viết dở, hỏi con lớn năm nó đã lên tám, con trả lời vừa lấy giấy
trên bàn đi chùi đít rồi. Ăn cơm gia đình thì vợ con ngồi ăn dưới đất, còn chủ
và khách thì dọn cơm trên bàn vì cũng chỉ có hai cái ghế. Một cái bàn, hai cái
ghế, hai cái giường, một cái tủ nhỏ, kê vừa chật mười lăm mét vuông của căn hộ
một gia đình cấp uý, cấp tá thì được thêm nửa gian nữa, rồi cơi một gian phía
trước, vẩy một gian phía sau, vẫn sống rất thoải mái gần hai chục năm trời, lúc
chiến tranh lúc hoà bình, lúc mới một con, lúc đã ba con, ba con chết mất đứa
đầu ở sông Hồng còn lại hai, hai năm sau đẻ bù một thằng út lại thành ba, lúc
khóc lúc cười, lúc buồn lúc vui, có lúc là cây bút trẻ đầy triển vọng, có lúc
lại là tên phản trắc viết lách xỏ xiên, bao nhiêu chuyện thăng trầm của một đời
người đều diễn ra trên mười mấy mét vuông nền xi măng ấy cả, cái gian nhà tiều
tuỵ ấy mãi mãi là thiên đường của một thời đối với hắn, hắn thành danh từ đấy,
thành người bố của một bầy con từ đấy, vợ chồng gắn bó với nhau trong bấy nhiêu
năm cũng bắt đầu từ đấy, nơi ấy là đất lành, đất ra hoa ra trái, ra văn chương
ra sự nghiệp chứ còn nơi nào khác nữa. Hà Nội với hắn thu gọn lại chỉ là một
rẻo đất bãi sát sông Hồng, mùa nước lũ một màu trắng đục ngầu bọt, ngầu rác che
phủ tất cả, nước rút lại đến mùi tanh khắm của bùn khô, rác thối, chuột chết,
mèo chết, chó chết, hết mùi tanh là đến mùa ruồi, ruồi bay đen như mây từng
mảng lớn mảng nhỏ bâu kín mâm cơm, đình màn, dây phơi quần áo, cười to nói lớn
là ruồi bay vào tận trong cuống họng. Ðêm đến, nhất là những đêm cuối chạp, đầu
xuân, đi họp về đứng trên bờ đê nhìn xuống cái vực đen thăm thẳm, le lói những
chấm đèn vàng sẫm mà ghê quá, ngại quá, như sắp bước chân xuống cõi âm ty địa
ngục nào. Nhưng trong cái địa ngục hun hút ấy là một đống thịt nồng nặc mùi
khai đang ủ trong chăn ấm, là tiếng nói mê của trẻ con, tiếng ngáy nhỏ của
người vợ sau một ngày chạy vạy mệt nhọc, địa ngục mà cũng là thiên đường chứ
hắn còn có thiên đường nào khác! Có lần hắn đi họp ở nước ngoài, đoàn Việt Nam
có hai người và đoàn Ba Lan cũng có hai người, có bốn người mà được ở hẳn một
toà lâu đài giữa thành phố Praha, một đoàn ở tầng trên, một đoàn ở tầng dưới.
Mỗi tầng có tới mười mấy phòng ở sao cho hết! Những đêm ấy hắn không ngủ, cứ đi
lang thang từ phòng này sang phòng nọ, vì cả ngày sau hắn đều ở hội nghị, ăn
trưa ở khách sạn, mãi tới khuya mới được về nơi ở như hoàng cung của mình. Rồi
hắn về Hà Nội, lại chui đầu vào căn nhà hạnh phúc của hắn, cởi giày ra, áo
ngoài áo trong cởi ra, lại quần áo bộ đội và cái áo bông bộ đội, lại ra nhà vệ
sinh tập thể, cứt rải từ ngoài vào trong, lại ruồi, lại cái mùi tanh khẳm quen
thuộc, đêm ngủ với các con nồng nặc một mùi khai nước đái trẻ con, mùi hôi của
màn, mùi mốc của chiếu, trời thì mưa phùn, trong nhà nhớp nháp hơi nước của gió
nồm, chỉ khó chịu có một đêm đầu, đêm sau ngày sau lại chả ngửi thấy mùi gì
hết, ngửi đâu cũng chỉ thấy mùi da thịt của vợ của con, mùi hạnh phúc, mùi
thanh bình, lòng dạ yên tĩnh hẳn lại và hắn lại xắp giấy bút, pha một ấm trà
hương chuẩn bị viết tiếp những trang bản thảo đang bỏ dở. Thời trước, ba mươi lăm,
bốn mươi tuổi là phải làm nhà, mua nhà, hoặc chỉ mua một căn hộ để sống tách
khỏi cái đại gia đình. Thời bây giờ đám doanh nhân trẻ và các viên chức nhà
nước tinh khôn lại thêm có cái đức lo xa đã có nhà riêng từ năm ba mươi, ba lăm
tuổi. Còn hắn mãi tới năm bảy mươi tuổi mới làm được cái nhà tử tế để vợ con
cùng ở. Làm xong nhà chả biết hắn còn được ở nhà mới thêm mấy năm rồi lại phải
ra ở gò ở bãi. Vì biết không thể ở được lâu trong ngôi nhà của mình nên hắn
không dám rút ngắn niềm vui bằng những giấc ngủ vặt vãnh của người già. Ngủ thì
vẫn phải ngủ nhưng những lúc thức là hắn lại đi tha thẩn từ phòng này qua phòng
nọ, đi chán lại ngồi xuống các bậc thang trắng bóng, hút vài hơi thuốc với một
cảm giác cực kỳ khoan khoái. Vật ngoài thân cũng mới chỉ thuộc về mình có ít
ngày còn quyến luyến không nỡ rời, rời ra thì nhớ lắm, tiếc lắm huống người đàn
bà đã là phân nửa của hắn từ non nửa thế kỷ, ngày vui cũng nhiều, ngày buồn
cũng lắm, con sống có con chết có mà cũng sắp kết thúc cả rồi, hoặc hắn hoặc vợ
hắn cũng sẽ phải rũ áo ra đi, sẽ chia tay nhau mãi mãi mà hắn không quyến luyến
ư, không đau đớn ư? Lại không sẵn sàng nhận mọi lỗi lầm cho dù chả có lỗi lầm
nào, sẵn sàng làm tất cả những gì vợ hắn một đời mong mỏi, dầu việc làm ấy có
ngược lại nếp cũ, ngược lại với thói tật gia trưởng của một thằng đàn ông châu
Á cổ hủ!
Vợ hắn nói với hắn: "Trong những cái được của anh một đời có đến phần nửa
là công của vợ anh nhưng trong con mắt anh, tôi không phải là vợ, chỉ là con
tôi con đòi, có nợ với nhà anh từ kiếp nảo kiếp nào nay phải trả cho hết thì
mới hoá sang kiếp khác được. Một đời ăn ở với nhau chả bao giờ anh hỏi tôi muốn
gì, cần gì. anh cứ làm theo ý anh còn tôi là con ở con hầu không thích cũng
không dám cãi lại. Tôi sinh cho anh năm đứa con, ba sống hai chết, chả có lần
nào anh đưa tôi đi bệnh viện, tôi bị băng huyết, bị sát rau cũng phải sau đó
anh mới biết. Sinh con xong khát khô cả cổ, người ta thì có sữa do chồng đưa
vào còn tôi thì chỉ húp có nước rau muống luộc. Ðẻ xong có bao giờ tôi được
kiêng cữ lấy vài tuần, sợ chồng bận, sợ chồng không viết được tôi lại tự đi nấu
cơm, tự giặt giũ. Anh có người vợ dễ bảo đến thế còn chửa vừa lòng sao? Còn
chửa bằng anh bằng em sao? Tôi chỉ trở thành gánh nặng cho anh có vài năm nay,
vì tôi đã già rồi, lại mang nhiều bệnh. Nhưng anh đâu có vất vả thêm vì tôi,
tất cả lại dồn lên đầu mấy đứa con, tiền là của chúng nó, đưa mẹ đi bệnh viện,
chăm nuôi mẹ ở bệnh viện cũng là chúng nó, anh vẫn ngồi nhà mà, một tuần đến
thăm vợ một lần mà cũng ngại, cũng thấy là khó nhọc. Người sướng đến thế mà
không biết sướng...".
Tất cả những tội lỗi của một thằng đàn ông tự xem là ông chủ tuyệt đối của gia
đình thật ra đều xuất phát từ lòng yêu thương cả, hắn đã xem vợ là chính hắn,
là một nửa của hắn, còn có việc làm nào ở đời này mà không phải vì vợ vì con.
Hắn được danh, cái danh ấy là của cả chồng cả vợ, cái lợi cũng thế, một đời
chưa bao giờ hắn cầm tiền hoặc có một khoản tiền để tiêu riêng. Vì đã nghĩ như
thế là đủ, là đã làm tròn bổn phận làm chồng làm cha, nên hắn không cần có những
chiều chuộng, nịnh bợ, những lời nói vuốt ve, hắn vốn rất sợ những lời nói của
kịch, của sân khấu, những trò phường tuồng như hắn vẫn chế giễu trong mối quan
hệ vợ chồng cha con. Ðến chơi nhà bạn bè hoặc các bậc huynh trưởng thấy vợ
chồng họ dạ thưa với nhau nhiều quá, săn sóc âu yếm nhau lộ liễu quá hắn đều
cảm thấy rất khó chịu, nói quấy quá dăm ba câu chuyện rồi tìm cớ cút thẳng. Hắn
không thấy cần nhưng vợ hắn lại rất cần, hắn có thú vui được đi rồi được viết,
niềm vui bất tận của người sáng tạo, còn vợ hắn ngoài những nghĩa vụ ở cơ quan
và gia đình còn có niềm vui riêng nào nữa nhỉ? Nửa thế kỷ chung sống nhưng
những lần được đi cùng với nhau tới nhà hát, tới rạp chiếu phim có thể đếm trên
đầu ngón tay. Hoàn toàn không có chuyện vợ chồng con cái đi nghỉ dài ngày vào
dịp hè hoặc đi chơi ngắn ngày vào những dịp lễ tết, lúc thì con còn nhỏ, lúc
thì đang có chiến tranh, lúc thì đã quá già để có thể phơi cái khung xương khô
ra bãi biển. Hắn không cần đi đâu cả, cũng không cần phải chơi bời với ai, trò
chuyện với ai trong một thời gian dài mà không thấy buồn, không thấy trống
vắng. Chính là cái khoảng thời gian ngồi một nơi, sống một mình lại là những
ngày hắn khoan khoái nhất, mãn nguyện nhất vì cùng được phiêu lưu với các nhân
vật của mình, được cùng trò chuyện với họ, tranh cãi với họ, mỗi ngày một chủ
đề, có lần hắn thắng, có lần hắn thua nhưng bao giờ cũng bằng lòng về các cuộc
trò chuyện tưởng tượng dông dài ấy. Sau chuyến đi Thái Bình lần thứ hai, suốt
mấy tháng sau hắn sống như người mộng du, lúc là chàng "lãng tử"; lúc
là anh thương binh đã bị bom Napal đốt cháy hết gương mặt và hai bàn tay; lúc
lại nhà báo tỉnh với số phậm hẩm hiu của một thời thế đã thay đổi. Nhân vật nào
hắn cũng ao ước, cũng gắn bó vì họ đều có tính cách mạnh dám vượt khỏi những trói
buộc của hoàn cảnh để được trung thành với chính mình. Bạn bè hắn thường nói
nửa đùa nửa thật rằng hắn có tài viết nhanh viết nhiều, gặp bất cứ ai, nghe bất
cứ chuyện gì hắn đều có thể viết được. Thật ra hắn chỉ quan tâm và chỉ viết hay
những gì có liên quan đến những mộng mơ lớn nhỏ của hắn, liên quan đến tiểu sử
và cái thế giới thầm kín của hắn. Gặp một người thú vị đúng như hắn mong ước,
hắn còn vần vò, nhào nặn họ đến chán chê trong cõi tưởng tượng của hắn, gần như
hắn đã biến hoá thành chính họ, họ là cái mong muốn được là, là cái sẽ là, nhân
vật văn học là con người khác của hắn chứ không bao giờ là hắn. Là giống con
người mộng mơ chứ không thể giống với con người thật, con người hàng ngày của
hắn nhạt nhẽo muốn chết làm sao thành nhân vật văn chương được. Trong những
ngày hắn chuẩn bị viết và viết không ai muốn gần hắn cả, là con người đáng ghét
nhất, khó chịu nhất, ăn như nuốt bã cám, nói như người dở hơi, đi lại trong nhà
như cái bóng, động tí là gắt, rất dễ gắt, gần như một kẻ hoàn toàn vô tích sự
khiến mọi sinh hoạt trong gia đình hoá ra nặng nề, hoá ra căng thẳng. Chính
trong những ngày ấy vợ hắn bắt đầu có dấu hiệu của bệnh liệt rung, mãi sau này
khi bệnh đã phát lộ hắn mới biết, dầu vợ hắn đâu như đã nói với các con, với cả
hắn nhiều lần về sự cứng dần của các đốt ngón tay, sự thiếu chính xác khi gắp
thức ăn, khi đánh răng, khi rửa mặt và hay có những cơn nhức đầu vặt. Hắn đã
quên luôn là vợ hắn đang già dần, đứng lên ngồi xuống đã khó nhọc, và bước đi
đã có cái dáng lom khom của một bà già sáu mươi tuổi.
Lần đầu tiên vợ hắn phải nằm bệnh viện vì bệnh sỏi mật, sau gần hai chục năm
phải vào bệnh viện để sinh đứa con sau cùng. Vợ hắn nói với hắn trong hơi thở
ngắt quãng: "Từ nay tôi phải sống dựa vào chồng con rồi, tôi không hầu
được bố con ông như trước nữa. Rồi ông sẽ bận đấy chứ không rảnh rỗi ngồi viết
như những năm tôi còn khoẻ đâu". Hắn nói thản nhiên: "Bà không giúp
tôi được, con cái cũng không giúp được thì phải mượn người làm, nhà nào chẳng
thế". Vợ hắn nghe xong có vẻ buồn, còn như rất buồn, thì ra người vợ già
chả còn quan trọng bao nhiêu tới cuộc sống của gia đình, tới công việc viết
lách của hắn. Không có vợ thì đã có người giúp việc, hắn vẫn có tiền mà, xưa
kia phải nuôi con bằng tiền nhuận bút, bây giờ con không phải nuôi mà tiền nhuận
bút vẫn có, hắn vẫn viết nhanh viết nhiều như những năm còn trẻ, các báo ngoài
Hà Nội và của thành phố vẫn săn bài của hắn như thời xưa, hắn đâu có phải thay
đổi gì cách sống cách viết nếu như bà vợ già bắt đầu đau yếu.
Hắn cũng đã nghĩ thế, vợ hắn đau bệnh đâu có ảnh hưởng gì nhiều tới đời văn của
hắn, tới cả đời riêng nữa, vì ngoài người vợ mỗi năm một già đi hắn chưa từng
để ý tới một người đàn bà nào khác.Thèm muốn thì vẫn có nhưng nghĩ tới những
phiền phức buồn cười của mối tình vụng trộm lúc đã già là hắn lại sợ, hắn sợ
trở thành một trò cười trước mắt con cái nhưng còn sợ hơn là mất sự yên tĩnh
quen thuộc khi ngồi trước trang giấy trắng. Danh cũng không bằng được thảnh
thơi ngồi viết, lợi đến mấy cũng không sướng bằng cái lúc được viết, vợ con cũng
là nhỏ trước trang bản thảo, đời hắn chỉ là viết, là cái gông cái cùm hắn tự
nguyện chui đầu vào, đưa tay vào, bỏ nó đi để trở thành người tự do thì thà
chết quách còn hơn. Danh và lợi và gái là những cạm bẫy hiểm độc đến danh nhân
anh hùng cũng khó thoát nhưng hắn lại chuồi được ra rất dễ dàng, với hắn chả có
gì quyến rũ hơn là tờ giấy cây bút. Nhưng một đời văn mà không có những ham
muốn, đau khổ, dằn vặt, thất bại của mọi đời thường thì lấy gì mà viết, đời
không có đam mê, không có thất bại thì nhạt bằng nước ốc, nước đã trong sao
quấy bột thành hồ! Hắn không sợ điều đó vì trời đã cho hắn cái khả năng thoát
xác nhập hồn rất dễ dàng, với giá đồng nào hắn cũng đều nhập được trọn vẹn,
thành thục, là đàn ông hay đàn bà, là tiện dân hay quý tộc, là cụ đạo hay ông
sư, là thánh nhân hay tội phạm... Hắn có thể là tất cả mà cũng không là ai cả,
là hình bóng của đối tượng hắn khai thác, là kẻ chỉ có thật trong tưởng tượng
nên không có cái bẫy nào giữ được hắn lâu dài. Tưởng là thế mà hoá ra không
phải thế. Về mấy năm cuối đời hắn lại bị sập bẫy do chính hắn thiết kế, tự hắn
chui đầu vào và tự hắn đánh sập xuống và hiện nguyên hình là một thằng đàn ông
khốn khổ mà bất cứ ai cũng có thể thoát ra rất dễ dàng, riêng hắn chẳng những
không thể thoát ra mà còn tự chằng thêm dây trói, đêm ngày dãy dụa trong những
vòng trói ấy. Và hắn đã nghĩ đến cái chết, đã nói ra miệng đến cái chết tự
nguyện với con cái để vĩnh viễn thoát khỏi sự trừng phạt cay nghiệt nhất mà hắn
đang được nếm trải.
10.
Cuối năm 1956, hắn làm công tác cải cách ruộng đất ở tỉnh Quảng Yên, đợt cuối.
Một sáng, hãy còn tối trời vừa thức giấc hắn đã nhìn thấy một hình người ngồi
nép vào một chân cột. Hắn vùng dậy, hỏi nhỏ: "Ai ngồi đấy thế?" Cái
bóng kia lê người lại: "Bẩm đội con là địa chủ Tịnh đây ạ". Hắn nhìn
trước nhìn sau rồi kéo bà lão lên ngồi cạnh, nói nhỏ: "Trước đông người cụ
muốn gọi sao thì gọi nhưng vắng người cụ cứ xem con như con cháu của cụ" -
"Con không dám..." - "Cụ nói lại đi, cụ xưng là bác đi..."
- "Tôi không dám, chả là tôi có một chuyện này..." Mấy bước cuối, đội
cải cách làm tiếp luôn việc sửa sai, trao trả lại quyền công dân cho một số cán
bộ thôn xã, hạ thành phần những người bị quy sai, điều chỉnh lại việc phân chia
ruộng đất, không khí làng xóm nhẹ nhõm hẳn, vui vẻ hẳn, người bị tố và người đi
tố sau vài cuộc họp đã làm lành với nhau cũng nhanh chóng. Trong một bữa ăn gia
đình nhân có hai con trai ở bộ đội về thăm mẹ, bà lão Tịnh có mời hắn sang uống
rượu. Người con trai lớn của bà hơn hắn mươi tuổi, là cán bộ cấp trung đoàn nói
với hắn trong nước mắt: "Bây giờ thì mẹ đã coi em như đứa con út trong
nhà. Không có em bảo vệ mẹ và chị..." Thật tình hắn không bảo vệ gì bà lão
cả, hắn chỉ không làm nhục bà thêm thôi. Trong cách nhìn trong cách nói mỗi khi
gặp hắn bộc lộ rõ sự tôn trọng của hắn đối với bà, bà là địa chủ nhưng bà còn
là mẹ của các cấp trên hắn trong quân đội. Ông đội tỏ ra dễ dãi thì bà con nông
dân lập tức dễ dãi ngay. Họ đã ăn ở với nhau hàng mấy đời nếu mình không sinh
sự thì tự họ làm sao lại sinh ra sự.
Ðối thoại, dàn hoà, đoàn kết là phương châm nằm lòng suốt một đời của hắn. Hắn
không thể là người của hành động, hành động bao giờ cũng đòi hỏi sự bạo liệt
của người lãnh đạo, người chỉ huy, không có bạo liệt thì chả làm được việc gì
đến nơi đến chốn, việc nhỏ cũng hỏng nói gì tới chiến tranh, cách mạng. Năm 68
tuổi hắn nhận huy hiệu 50 năm tuổi Ðảng, trong lời phát biểu hắn nói rằng hắn
xứng đáng được nhận danh hiệu một đảng viên cộng sản lão thành, nhưng trong
thâm tâm hắn lại tự thú hắn không thể xứng đáng. Hắn chưa bao giờ là một chiến
sĩ cách mạng trong hành động thực tiễn, hắn thường tỏ ra rất uỷ mị, rất mềm yếu
trước kẻ thù khi họ đã thất bại, đã phải gánh chịu một số phận bi thảm liên luỵ
tới cả vợ cả con họ. Hắn sợ phải đối mặt với những cảnh ngộ thương tâm, bất kể
người trong cảnh ngộ trước đây họ là ai, đã làm những gì. Năm 1987 khi về làng
Thổ Tang hắn có xin với Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc được trò chuyện dài ngày với phạm
nhân Vũ Hồng Khanh, một lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng thời Nguyễn Thái Học,
được quản thúc tại quê nhà do tuổi đã quá cao. Hắn gọi ông già là mọ và tự xưng
là cháu. Một đảng uỷ viên xã đi theo lấy làm khó hiểu: "Chú là đại biểu
quốc hội, là nhà văn của cả nước sao chú lại gọi một tên phản động là mọ và
xưng là cháu?" Hắn trả lời: "Nhưng ông lão ấy còn lớn tuổi hơn cả bố
tôi, tôi không thể gọi khác được". Năm hắn gặp lại bố đẻ và bà mẹ già,
những người đã làm nhục hắn một thời thơ ấu, ông bố hắn nói rất thản nhiên:
"Cái năm ấy chẳng qua là do hoàn cảnh...", hắn nói theo ngay:
"Cậu chả nên nhắc lại cái chuyện ngày xưa làm gì, con cũng quên nó từ lâu
rồi". Hắn quên thật và lấy làm thương cảm cho những người gắn bó một đời
với một thể chế đã bị sụp đổ hoàn toàn từ một tuần nay. Rồi đây hai vợ chồng
già sẽ sống bằng gì, vì con cái đã mỗi người tháo thân mỗi ngả. Tuổi già không
có người chăm sóc, lại buồn, lại lo là sẽ khốn khổ vô cùng. Rồi hắn an ủi rất
thành thật: "Cậu mợ còn có vợ chồng chúng con nữa kia mà. Chả có gì đáng
phải lo lắm đâu". Không bao giờ hắn hé răng hỏi lại những người đã từng khiến
hắn phải run sợ, vì lẽ gì họ lại có đủ ác tâm vu cho một đứa trẻ vốn là con
mình phạm một tội mà họ biết chắc không hề có, không phải một lần mà những hai
lần để dễ bề đuổi nó đi. Hắn chưa bao giờ có ý định trả thù, hắn không có máu
trả thù. Vả lại thời thế đã trả thù giúp hắn rồi, một cuộc báo thù trọn vẹn,
đẹp đẽ mà kẻ có thù có oán không cần mở miệng nói nửa lời, chỉ là người chiến
thắng thôi, thắng từ trong nhà, trong dòng họ vốn chưa bao giờ biết sự có mặt
của hắn ở đời này.
Một người hiền lành, thích nhân nhượng, không tính oán kết thù với bất cứ ai
một khi họ đã thất bại lại không thể tìm ra một cách kết thúc tốt đẹp trong
quan hệ vợ chồng lúc đã về già sao? Hắn là người thắng, vợ hắn là người thua,
một đời bị chồng con phá phách, tước đoạt, về già như một phế tích hoang tàn
lại không đáng thương sao? Hắn đã từng tha thứ những người đã làm hắn khốn khổ
mà không hề tự hỏi tại sao lại làm thế, chỉ thấy thương thôi, thấy xót xa thôi,
chỉ muốn làm nhẹ bớt cái khổ của người đã từng làm cho mình khổ. Tại sao hắn lại
không thể tha thứ những hành động vô lý, quá đáng của người vợ đã bắt đầu lẫn,
đã có những ám ảnh phi thực tế của người có bệnh? Chỉ tại hắn đã xem vợ là một
nửa của hắn, là chính hắn, lại có thể hiểu lầm một nửa này cũng là hắn, tại sao
thế? Vợ hắn đã tự tách khỏi hắn từ bao giờ vậy, đang là hoàn toàn thuộc về hắn
đột nhiên trở thành kẻ thù của hắn, vò xé cái nửa còn lại của hắn vào chính cái
lúc hắn cần yên tĩnh nhất, thảnh thơi nhất để được sống bình thản, không lo
nghĩ mấy năm cuối của một đời người tạm gọi là mãn nguyện. Và hắn đã quyết định
không thể tha thứ sự phản bội đó, sự nổi loạn muộn mằn đó của cái nửa hắn vốn
tin chỉ có hy sinh chứ không bao giờ dám chống trả. Như những năm đã qua. Vợ
hắn nói: "Về già anh được tất cả, còn tôi chỉ được có mỗi một anh thôi.
Anh mà ruồng bỏ tôi thì tôi thành tay trắng. Cho nên tôi phải giám sát anh,
theo dõi anh, anh không thoát được tôi đâu. Tôi chỉ cầu xin ông giời cho tôi
được chết sau anh dầu chỉ một ngày để tôi được yên tâm rằng anh không có người
đàn bà nào khác, những đứa con nào khác ngoài vợ con chính thức của anh".
Những người đàn ông khác có thể không thông minh bằng hắn nhưng đều có thể nói
đùa một câu: "Bà còn hầu tôi vài năm nữa là ít, hầu tôi sống còn phải hầu
tôi chết nữa kia, phải làm xong cái giỗ đầu cho tôi rồi bà có muốn đi đâu hãy
đi!".
Nhưng hắn không nói và có ý định sẽ không bao giờ nói, hắn không cho phép cái
nửa kia của hắn dám ngờ vực, dám chống đối cái nửa còn lại, xét cho cùng có bao
giờ tách khỏi cái nửa kia. Hắn không cho phép những người thân yêu nhất lại dám
ngờ vực sự tận tâm, lòng chung thuỷ với vợ con của hắn. Một người hoàn toàn
trong trắng trong cuộc sống cá nhân lại tự nhận đã có lỗi, một cái lỗi chưa bao
giờ hắn phạm phải, nghĩ một cách tội lỗi thì có, đôi lúc vẫn có nhưng làm những
việc không xứng đáng thì chưa bao giờ, chưa một lần nào, chỉ vì thương vợ, vì
bệnh tật của vợ cứ cho là vì cả cái bệnh hoang tưởng của vợ mà chịu nhận lỗi
cho vợ được vui lòng, cho mọi việc rắc rối được êm xuôi để giữ được sự yên tĩnh
vốn có của gia đình, các con hắn vẫn khuyên hắn nên làm như thế.
Thì hắn vẫn thường tự nhận nhiều lầm lỗi chưa bao giờ hắn phạm phải hoặc trong
thâm tâm hắn vẫn cho thái độ ấy, việc làm ấy chả có gì là lầm lỗi, nhưng hắn
vẫn nhận trước bạn bè, trước chi bộ, trước cấp trên thì sao? Người ta chưa nói
hết câu hắn đã vội vàng nhận lấy tất cả, với bộ mặt giọng nói của người hối lỗi
thì sao? Hắn đã trườn qua mọi chuyện rắc rối bằng sự sám hối nhanh nhảu để dành
thời gian cho công việc viết lách thì đã sao? Cái lỗi được nhận khiến xung
quanh quên đi nhanh chóng hắn đã là người có lỗi, tập thể luôn luôn đúng và hắn
luôn luôn sai, đã kết luận được như thế thì còn gì phải căm ghét hắn nữa. Thế
là tha liền, quên liền và hắn cũng quên luôn đã từng nhận những lầm lỗi gì.
Nhiều người bạn của hắn đã phải chịu vất vả cả năm, cả nhiều năm vì đã tranh
cãi đến cùng một cái lỗi, xét đến cùng là hết sức vớ vẩn so với những hoạt động
khác của một đời người. Hắn vẫn thầm chê cái bệnh ham tranh luận, ham lý lẽ,
ham phân tích sai đúng, phải trái của người này người kia là bệnh của thằng
ngu. Hắn còn đọc được ở đâu đó, hình như của cụ Mác thì phải, rằng mọi tấn bi
kịch đều sinh ra từ cái ngu của con người.
Cái tấn tuồng nửa bi nửa hài của vợ chồng hắn lúc cuối đời có phải từ cái ngu
của hắn không nhỉ?
11.
Nếu không có cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc năm 1945 thì chắc hẳn mãi mãi hắn chỉ là đứa con thêm
con thừa, đứa con bỏ đi của một dòng họ. Nhờ có cách mạng, rồi lại nhờ có kháng
chiến hắn đã trút dần được cái hồn nô lệ để chập chững tập làm người tự do.
Nhưng làm người nô lệ, làm người phụ thuộc, người thích dựa dẫm thì quen, còn
làm người tự do, người dám chịu trách nhiệm về những quyết định của mình thì
còn lạ còn sợ. Cũng là may hắn lại chọn được cái nghề làm báo, viết văn để dần
dần tự cải tạo mình qua những tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của những nhân vật
hắn ái mộ. Hắn vốn ngưỡng mộ những người anh hùng, đặc biệt là những anh hùng
trong thất bại. Người anh hùng trong thất bại bao giờ cũng tự toả sáng từ bên
trong, gương mặt ưu tư của họ trở lên cao quý và thường gây được ấn tượng lâu
dài trong tâm thức hắn. Hắn rất sợ những gương mặt mãn nguyện, tự bằng lòng với
mình, nó nông và dung tục, kể cả cái bản mặt của chính hắn khi được đưa lên mặt
báo sau ngày được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2. Một cái mặt hả hê đến thế
còn hy vọng gì có thể viết được những trang văn hay hơn những cái đã viết.
Lại nói về những gương mặt, hắn rất mê những gương mặt của bạn bè
lúc đã về già. Gương mặt của Nguyên Ngọc lúc già đẹp hơn lúc trẻ, đẹp hơn nhiều,
tóc thưa đi nên vầng trán như rộng ra, gồ hẳn lên khiến cái đầu như lớn hơn với
những nếp nhăn khắc khoải, ưu tư nhưng ánh mắt lại bình thản, lấp lánh trong
đáy sâu như có một thoáng cười. Nguyên Ngọc kém hắn hai tuổi, vào bộ đội chống
Pháp sau hắn vài năm, nhưng học vấn sâu rộng hơn hắn, sự từng trải ở chiến
trường cũng nhiều hơn hắn, nhất là thời kỳ chống Mỹ, và tài năng viết lách cũng
hơn hắn. Nguyên Ngọc còn là người say mê hành động, có kinh nghiệm trong hành
động thực tiễn. Và còn là người rất quyết liệt trong niềm tin của mình. Tuy
nhiên theo hắn, con người tư tưởng không cần biết tới sự nhân nhượng, không cần
biết đến vùng đệm, những khoảng giữa, không cần cả đồng minh để giữ được sự
trong sáng và trọn vẹn trong cách tư duy của mình. Anh ta có thể đúng mà cũng
có thể sai nhưng vẫn là một cái mốc trên chặng đường tiến hoá về tư duy của
đồng loại. Còn là người hành động thì lại hoàn toàn khác. Người hành động trước
hết phải là người biết tổ chức sự cộng tác của nhiều người, có khả năng đoàn
kết với nhiều loại người, biết nhân nhượng, biết nhẫn nhục, biết chờ đợi, biết
biến hoá để cùng họ hành động cho tới ngày đạt được mục đích. Sự cô độc sẽ làm
nhà tư tưởng lớn mạnh lên nhưng lại phá phách những điều kiện của người hành
động. Nguyên Ngọc mãi mãi chỉ là người của tư tưởng, là nhà tư tưởng của thế hệ
bọn hắn, với hắn thế là quá đủ, đủ để xem bạn như một hình mẫu lý tưởng để tự
điều chỉnh cách sống và cách viết của hắn.
Một gương mặt nữa cũng có sức hấp dẫn hắn trong nhiều năm. Ðó là
gương mặt của L.H.N. Anh ấy nguyên là bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú, sau này còn là
bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá. N. có gương mặt của người luôn luôn trăn trở, lo lắng
vì cái trách nhiệm quá lớn của mình. Và anh rất thật thà, anh thuyết phục hắn
ngay từ lần gặp đầu tiên vì sự chân thật. Phải là người tự tin, biết rõ giá trị
của mình mới dám nói thật với người chỉ mới đọc văn chứ chưa biết người. Khi
hắn hỏi về ông Kim Ngọc, cố bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú dám làm khoán chui để dân
bớt khổ, N. không tránh né gì cả, còn nói rất nhiều về mối quan hệ thân thiết
của mình với người tiền nhiệm. Theo N. ông Kim Ngọc có hai điều đáng tiếc. Thứ
nhất, ông ta dám làm một việc động trời mà chả có lý lẽ gì cả, chỉ nói là có
lợi và nên làm. Còn các phái viên của trung ương về kiểm tra thì lại có quá
nhiều lý lẽ để phản bác, cãi không được nên đành cúi đầu chịu tội, chịu tội
nhưng vẫn ấm ức vì việc làm của họ đâu có giống với lý sự của trung ương. Thứ
hai, ông Ngọc không biết dùng trí thức, ông dùng người bằng những quen biết
trực tiếp nên anh trí thức đứng vòng ngoài. Phó chủ tịch tỉnh phụ trách văn xã
là một bà nông dân, nhai trầu bỏm bẻm. Phó chủ tịch phụ trách công nghiệp là
một ông thợ rèn. Một bà phó ban nông nghiệp cũng ăn trầu và chả biết gì về công
việc của mình cả. Thủ lĩnh có chí lớn nhưng không có người cộng tác và trợ lý
xứng đáng, không có một đội ngũ những trí thức trẻ làm hậu thuẫn phía sau. Biết
là mình bị kết án oan và lý lẽ của cấp trên là giáo điều, tách khỏi sự vận động
của đời sống, tách khỏi những mong muốn nóng bỏng của người nông dân, nhưng
không có lý lẽđể bảo vệ, không biết cả cách bảo vệ. Khi nhận nhiệm vụ là bí thư
tỉnh uỷ, anh N đã làm ba việc để tưởng niệm nhà cách mạng đơn độc. Một là, đưa
khoán hộ vào nghị quyết của tỉnh uỷ vì lúc này trung ương đã nới tay rồi. Hai
là, tư hữu hoá ngôi nhà của ông Kim Ngọc, định giá là hai trăm ngàn, lấy tiền
trợ cấp của tỉnh bù vào. Ba là, xây mộ cho vị tiền nhiệm tại nghĩa trang của
tỉnh. "Rồi anh N. hỏi hắn: "Làm thế có được không?" Hắn nói rất
chân thành: "Lòng biết ơn đối với những người anh hùng đơn độc cũng là một
hành vi đẹp của người cầm quyền". Mấy năm sau khi hắn về Thanh Hoá, cũng
là quê gốc của hắn, thì anh N. lại là bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá. Hắn có hỏi anh:
"anh đánh giá vị bí thư tiền nhiệm của tỉnh này như thế nào?" N. nói:
"Trong nền kinh tế bao cấp ông H. rất giỏi, làm thâm canh giỏi, làm thuỷ
lợi giỏi, huy động lương thực cho tiền tuyến rất quyết liệt, lại có năng lực
tổng hợp. Nhưng khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường thì ông ấy không
thoát được thân". Nhận xét về một người thất bại như thế là khách quan, vô
tư và rất có tư cách. Anh N. cũng là một nhân vật lý tưởng để hắn nuôi dưỡng
cái phẩm chất làm người của hắn.
Trần Kim Trắc cũng là một người hắn rất kính trọng về nhân phẩm
cũng có một gương mặt tuyệt đẹp, nhàu nát những nếp nhăn, tóc bạc, râu bạc,
lông mày, long mi đều bạc, trong cái nhìn cứ như ẩn giấu đâu đó một thoáng
cười, không phải là cười giễu mà là cái cười khiêm nhường của người biết ơn,
biết ơn cuộc đời đã rất tàn nhẫn với mình, biết ơn bạn bè đã từng gây nhiều khó
khăn cho mình, như người đã vượt khỏi Sông Mê, đã tới bến bờ của sự Giác Ngộ.
Hắn đã quan sát rất kỹ cuộc gặp mặt giữa nạn nhân với những người đã từng làm
án nhân ngày kỷ niệm 40 năm tạp chí Văn nghệ Quân đội ra mắt
bạn đọc. Những người "chân chính" như hơi ngượng, cười gượng, nói
gượng, còn kẻ đã "phạm tội", đã mất nhiều chục năm sống khốn khổ khốn
nạn thì cười nói nhỏ nhẻ, nhún nhường: "Dạ, thưa vẫn khoẻ", "Dạ,
năm nay vừa tròn bảy mươi...". "Dạ, vẫn viết, tuổi già chỉ có hai
việc, cõng chắt ngoại đi chơi, lúc chắt đi trẻ thì ngồi viết, viết cũng chậm
lắm, nhưng vẫn có chút việc riêng để làm". Chả giận ai cả, chả oán ai cả,
vẫn biết ơn đời, đời cho sống đến lúc tóc bạc để được gặp lại bạn cũ, một đời
người mấy ai tránh được những rủi ro, những rủi ro đâu có sao, chả sao cả, nó
vẫn là muối của đời... Gương mặt của Trần Kim Trắc mãi mãi ám ảnh hắn, cổ vũ
hắn những lúc hắn vấp phải những chuyện buồn.
12.
Dầu hắn không được bất cứ giải thưởng văn chương nào, không là một tên tuổi
gì trong làng văn hắn vẫn cứ là một người may mắn. Nếu không có cách mạng thì
mãi mãi hắn sẽ bị ám ảnh là một đứa trẻ bị ruồng bỏ, học hành dang dở, tính
cách yếu đuối, chỉ xứng đáng có một thân phận hèn mọn, sống bám vào những ông
anh bà chị giầu sang. Như nhiều ông bác, ông chú nghèo hèn sống lẩn khuất trong
cái bóng phú quí của dòng họ mà hắn đã được biết. Rồi với cái nghề làm báo
trong mấy chục năm hắn đã được tiếp xúc với vô số người, là người cùng thời đã
tham gia hai cuộc chiến tranh, một thời hoà bình gian nan vất vả, lại một thời
thay đổi cách quản lý kinh tế với bao nhiêu chìm nổi trong mỗi số phận. Non nửa
thế kỷ sóng to gió lớn, đất nước nghiêng ngả bởi những rung chuyển từ chân móng
nên đã sinh ra mấy lớp người dám ôm mộng cải tạo xã hội, cải tạo thế giới, dám
có những ý tưởng táo bạo, những hành động và cách sống vượt khỏi mọi giới hạn
của con người. Chính họ là "dưỡng chất trần gian" đã nuôi sống và
thay đổi dần dần cái thế giới tinh thần của hắn, xúi giục hắn biết mộng mơ,
biết lãng mạn, biết quên cái thân phận tẻ nhạt của mình để hoà nhập vào những
thay đổi lớn lao trong số phận cộng đồng. Hắn trở thành người có chí hướng từ
đó, dám nghĩ dám viết một cách độc lập từ đó. Nếu kể hết những người đã có ảnh
hưởng hoặc thấp thoáng hoặc sâu đậm với hắn trong suốt mấy chục năm thì nhiều
lắm, hắn cũng chả thể nhớ, hắn ghi chép đời của nhiều người nhưng chưa bao giờ
ghi chép những thay đổi hoặc những sự kiện quan trọng đã xảy ra với mình. Hắn
không có thói quen viết nhật ký, nhiều lắm là hắn ghi vội ở rìa trang bản thảo:
"Bữa nay Huỳnh sốt cao, rất lo!", "Bữa nay lại cãi nhau với vợ,
cô ấy doạ ly hôn, chuyện vớ vẩn mà rất buồn...". Ngay cả chuyện làm sụp đổ
một nửa niềm vui và hy vọng của hắn, hắn cũng chỉ ghi vội, vẫn là ở phần rìa
trang viết nháp của một truyện ngắn chỉ vừa mới bắt đầu và sẽ không bao giờ
hoàn thành: "Thứ Năm, chiều 17 tháng 5 năm 1973, lúc 5 giờ 30 chiều,
Huỳnh, đứa con trai yêu dấu của bố đã bị chết đuối ở sông Hồng, năm con vừa
tròn 15 tuổi. Con ơi! Bố chết được chăng? Nếu mà bố chết được thay con!!!..."
Nhưng những chuyện mới xảy ra trong khoảng ba chục năm trở lại thì hắn còn nhớ.
Vì những con người khiến hắn phải xúc động, phải bàng hoàng, có cơ hội để hiểu
thêm một khía cạnh u uẩn trong tâm hồn con người, hắn đều viết thành truyện cả,
những truyện ngắn, những tạp văn. Những trang viết dành cho bạn đọc cũng là
những trang viết dành cho riêng hắn, là những khoảnh khắc hắn đã sống và đã
nghĩ, là một phần sống của chính hắn, mỗi dòng chữ là một nhịp đập lúc nhanh
lúc chậm của trái tim nghệ sĩ trong hắn trước vẻ đẹp muôn mầu của cuộc đời, là
quà tặng không cạn kiệt của đời luôn luôn tỏ ra hào phóng với hắn.
Cách đây đã ba chục năm, ở góc đường Phan Ðình Phùng - Phùng Hưng
có một bà lão nhặt hoa đại trồng ở các công sở, tãi phơi ở một đoạn hè, vừa
chải đầu bắt chấy vừa trông các cánh hoa héo dần, người bà cao, mỏng, tuổi
khoảng bảy mươi nhưng tóc chưa bạc nhiều, hai hàm răng nhuộm đen còn nguyên
vẹn, đi lại cứng cáp, nhanh nhẹn. Bà lão chỉ vắng mặt có buổi sáng, còn trưa,
chiều, tối đều ngồi dưới cái vòm mái rộng của một cơ quan luôn luôn đóng cửa.
Từ tạp chí qua đó chỉ vài bước chân, lại có nhiều quán hàng bán trà chén, buổi
sáng thì đủ thứ quà gánh cho người đi làm ăn điểm tâm, nên hắn qua lại một ngày
rất nhiều lần, nhìn bà lão mãi hoá quen rồi hoá thân vì gương mặt của bà phảng
phất giống với gương mặt của mẹ hắn năm bà còn khoẻ ngồi bán trầu vỏ cũng ở một
góc đường. Một gương mặt buồn thiu nhưng bình thản, đã coi mọi chuyện sống chết
đói no như chả còn liên can tới mình. Lần đầu hắn bắt chuyện với bà cụ là một
buổi chiều bà lão đi giao hàng cho một cửa hàng bán thuốc Nam vừa trở về ngồi
ăn bún ở một quán hàng bán trà chén hắn vẫn hay ngồi uống. Bà lão ăn bún với
muối, ăn bốc mà ăn ngon lành lắm, thoả thuê lắm. Chị hàng nước nhìn bà lão ăn
chằm chằm rồi buông một câu: "Nhìn bà ăn cháu ghê cả người". Bà lão
nói nhấm nhẳn: "Thế hả?" Chị kia lại nói: "Ăn bún với mắm với
riêu chứ ai lại ăn với muối bao giờ!" Một người khác hỏi: "Bà sống
một mình à?" Chị hàng nước nói: "Một mình thế nào, bà có những hai
anh một chị kia, đều là người đi làm cho nhà nước cả". Bà lão ngừng ăn
nói: "Ði làm có lương chỉ có hai anh thôi, còn cô út thì bán rau, chồng nó
đạp xe xích lô, con lại đông, nhà nó là túng nhất đấy". Một người nữa hỏi:
"Bà không ở với con nào à?" Bà lão đã ăn xong một ký bún, còn nhặt
những sợi bún dính vào những mảnh lá dong ăn nốt, xin một chén nước rồi mới trả
lời: "Người già trái tính chả ở với ai được cả. Tôi thích ở một
mình". Chị hàng nước hỏi: "Nhưng bà vẫn đến thăm các anh chị ấy chứ?"
- "Dăm bữa nửa tháng lại đến thăm một nhà, ăn mặc tử tế, nói là vừa ở quê
ra, quê tôi ở Bần, ra Hà Nội cũng gần". Hắn hỏi: "Tại sao bà phải làm
thế, không ở hẳn với một ai thì ở luân phiên, mỗi nhà ở một tháng chẳng
hạn". Bà lão nhìn hắn rồi bảo: "Tôi ăn uống xấu thói lắm anh ạ, sợ
con cháu nó cười, sợ nhất là bạn con đến chơi cùng ngồi ăn sẽ cười". Hắn
lại nói: "Bà cứ hay lo xa chứ ai dám cười mẹ của bạn?" Bà lão cười
nhỏ: "Bạn con không cười nhưng con trai con dâu thì khó chịu lắm. Cứ thấy
mặt mẹ là chúng nó lườm, chúng nó gắt, mà mình có làm gì nên tội, chỉ có mỗi
cái tội luộm thuộm, bẩn thỉu thôi". Nuôi con lúc trẻ để nhờ con lúc già
lúc chết, nhưng lúc già lại bị con đuổi thì sống với ai. Ðã có lần bà lão bán
cây lá thuốc Nam nói với hắn: "Ai lo ốm lo chết chứ tôi chả lo một tý nào.
Cái tạng tôi đã phải nằm chỉ một hai bữa là chết ngay thôi, người chết vô thừa
nhận đã có nhà nước lo, không lo chả lẽ để thối cả hàng phố à, mà con cái lại
đỡ phải tiêu một món tiền lớn! Thế chả hơn ư?" Ðã nghĩ cái chuyện thương
tâm về một người mẹ có những ba con mà phải sống một mình, chết một mình ở một
góc phố rồi mình sẽ quên mau mà lại không quên nổi, lại nghĩ lan man tới mẹ,
nếu như không có cuộc đổi đời sợ rằng bà cũng sẽ phải sống như thế, phải chết
như thế, đời mẹ đã khổ đời các con chắc cũng khổ, cái ý nghĩ buồn thảm ấy
thường len đến khi hắn vừa được in một cuốn sách mới, vừa được đọc một bài báo
có lời khen ngợi, hoặc lúc hắn đưa vợ con đi xem một vở kịch chính hắn là tác
giả đêm khai diễn, đại để cứ mỗi lần hắn được nhận thêm một vinh dự, bộ mặt
buồn thảm của bà mẹ hắn với hai đứa con chưa tới tuổi trưởng thành lại chợt loé
sáng trong một khoảnh khắc khiến hắn có gương mặt tư lự như người có lỗi, lại
như người có nợ mà chưa thể trả, chưa kịp trả, chính là ở những giây phút ấy
bạn bè muốn gần hắn hơn, muốn thương hắn hơn. Gần hai chục năm sau hắn mới viết
truyện ngắn Mẹ và các con, viết xong trong lòng hắn cũng vơi nhẹ
phần nào.
Hắn là người được thời nên hay gặp may nhưng hắn lại thích được
trò chuyện với những người thiếu may mắn vì sự đối đầu của họ với những khắc
nghiệt của số phận luôn luôn làm hắn mê mẩn. Vả lại cái sức mạnh ẩn giấu trong
mỗi con người là vô cùng, cái sức mạnh ấy có thể sánh ngang với thượng đế,
nhưng chỉ bộc lộ hoàn toàn khi lâm vào những cảnh ngộ mười phần bế tắc, hoặc là
chết hoặc trở thành người mãi mãi không thể bị đánh bại... Hắn là người có tính
cách mềm yếu nên thường né tránh những cảnh ngộ phải đối đầu với số phận. Hắn
vẫn biết ở đời này những người gặp quá nhiều may mắn thường là những kẻ tầm
thường trên mọi lãnh vực: chính trị, kinh tế, văn nghệ, khoa học. Họ đi bằng
chân của người khác, nghĩ bằng đầu của người khác, và đã có nhiều người dọn
quang mọi chông gai trên đường thăng tiến của họ. Ðừng nghĩ là hay nhá, là dở
lắm đấy, khi gặp sự đối nghịch ngoài sự chuẩn bị những kẻ ấy chỉ còn biết khóc
thôi. Và con cái họ thừa hưởng một dòng máu loãng, sức chảy lờ đờ chỉ là những
kẻ bất túc, chả có mấy ai nên người sau khi đã ăn hết lộc của cha ông. Khi ngồi
nói chuyện với một thương binh mù, một vợ ba con làm nhà ở chân động Từ Thức
của huyện Nga Sơn, hắn vừa nghe vừa tự vấn mình, hắn sẽ hành động ra sao khi
gặp trường hợp ấy. Anh thương binh năm ấy đã ngoài bốn mươi tuổi, là một người
đàn ông đẹp trai, vóc dáng cũng đẹp, nói rằng cái năm 1970 anh mới có 20 tuổi,
đã có giấy gọi nhập học trường đại học y khoa vì anh đã trúng tuyển với số điểm
cao. Cũng dịp ấy xã tuyển thêm quân bổ sung vào số thiếu đã lên đường hồi đầu
năm. Trong ban chấp hành xã đoàn thanh niên có ba uỷ viên có tên trong danh
sách đi nghĩa vụ quân sự lần ấy thì hai đã xin hoãn với đủ thứ lý do và được
chính quyền xã xác nhận nên người đi học đại học phải tình nguyện ra mặt trận
để giữ lấy danh dự của một tập thể trước các đoàn viên. Vậy mà những kẻ đã trốn
chạy vẫn nhìn thẳng vào mặt bạn bè ở chiến trường trở về như thường, lại còn là
ông chủ thuê nhân công, kẻ cho vay lãi. người làm công và kẻ vay nợ đều là lính
ở chiến trường trở về với cái ba lô rỗng tuếch, với rất nhiều thương tật trên
người. Chả ngượng một tí nào, chả nới tay một tí nào. Giữ được trọn vẹn danh dự
một chàng trai thời chiến mới đắt giá làm sao! Trung thành với cách sống của
mình mới gian nan làm sao! Còn hắn? Ví thử lại là hắn? Hắn sẽ nghiễm nhiên cầm
tờ giấy gọi vào đại học ra Hà Nội, chả ai dám ngăn, chả ai dám trách. Dăm bảy
năm sau hắn ra trường sẽ là một ông bác sĩ, nhớ lại chuyện cũ, hắn có thể nói:
"Cái số tôi cũng gặp may, năm ấy tôi đã thi đỗ nên..." Cái may mắn ấy
là vinh hay nhục, là nên khoe hay nên giấu tự hắn phải biết!
Truyện ngắn Cặp vợ chồng dưới chân động Từ Thức đã được viết
trong sự ăn năm ấy, trong sự ngượng ngùng ấy.
Nhưng những mẫu người có sức sống tinh thần mạnh mẽ, phong phú mới thật là
những nhân vật gan ruột của hắn. Ðầu những năm 80, lần đầu tiên hắn được về
vùng đất huyền thoại Ðồng Tháp Mười mà hắn đã khao khát có ngày được đặt chân
đến từ thời kháng chiến chống Pháp. Rồi hắn lại được gặp và trò chuyện dài ngày
với một nhân vật đã sống trong cái huyền thoại ấy suốt ba chục năm, không một
ngày rời xa, lúc buồn lúc vui, lúc thắng lúc bại, và bây giờ ngồi trước mặt hắn
là một ông già chưa tới sáu chục tuổi, gày nhỏ, mỏng mảnh, trong suốt, chỉ còn
sức sống ở đôi mắt và giọng nói. Một người trong suốt ba chục năm chỉ hoạt động
ở cấp xã, là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ của một rẻo đất bám dọc con
kinh Bùi, có tháng nằm trong bưng trong đìa, có tháng phải sống trong hầm, mùa
nước nổi vẫn phải sống trong hầm, từ ngực trở xuống ngâm trong nước, từ ngực
trở nên tạm gọi là phần khô, thực ra vẫn ướt, vì phải tựa đầu vào bùn mà thở.
Ban ngày đứng trong nước, đêm đến vẫn lội trong nước mà hoạt động. Cả mấy tháng
không lúc nào khô người, khô tóc, mọi thứ lóong trong người rụng bằng hết, đến
da thịt cũng muốn bở tung, chẳng qua chỉ còn một chút máu chảy bên trong nên
chưa bị rữa nát mà thôi. Chính ông Mười là người đã chôn súng xuống theo Hiệp
định Giơ-neo, lại cũng chính ông moi súng lên để tái vũ trang, có khi phải làm
lính của Bình Xuyên, của Cao Ðài để được tự do nổ súng vào quân của Diệm, có
lúc lại bới tóc để râu như ông già để sống hợp pháp trong các cuộc đấu tranh
chính trị, đêm đến lặn lội đến từng ấp vào từng nhà kêu gọi cán bộ, đảng viên
kháng chiến cũ trở lại hoạt động, có người nhận, có người bảo còn phải chờ, có
người đóng chặt cửa không tiếp, đang là người thắng bỗng chốc thành người thua,
đang làm chủ lại phải đổi chỗ làm tớ, đang kiêu hãnh nhìn lên lại phải ngậm
ngùi nhìn xuống, là người thắng đã khó, làm người bại, vì thời thế mà phải chịu
bại, còn khó hơn nhiều, lúc hơ người trên lửa, lúc nhúng người trong băng, vớt
lên nhồi xuống không biết bao nhiêu bận trong vòng hai chục năm đánh Mỹ. Rồi cơ
sở phản, bạn chí cốt đầu hàng, vừa gây dựng được một ấp chưa kịp vui lại bị phá
phách cả mấy ấp, buồn chỉ muốn chết. Không thể vui nhưng cũng không được buồn,
không nằm im nhưng cũng không được phép manh động khi chưa có lệnh, đầu óc lúc
nào cũng căng thẳng những tính toán, việc làm đêm nay, những việc làm bữa mai,
những ngày tới, không được sai sót một ly, sai là có đầu rơi máu chảy. Không
dám nghĩ tới ngày đất nước hoà bình thống nhất mà ông vẫn còn sống để được thở
một hơi rõ dài, được nằm duỗi ra trên bộ ván gỗ, nhắm mắt lại cho từng thớ
thịt, từng đường gân giãn ra, mềm lại để lắng nghe đến tận cùng cái im lặng
mênh mông của một ngày không có bom đạn, ngày đầu tiên có hoà bình, ngày đầu
tiên không phải lo gì cả, không phải nghĩ gì cả.
Nhưng đi chơi, nói chơi, nghĩ chơi chưa được mấy ngày ông đã phải khoác khăn
gói lên đường sang huyện bạn bên kia con kinh Bùi đối mặt với một cuộc chiến
mới, mà kẻ thù vốn là bạn chí thiết đã trở thành một ác bá nắm quyền sinh sát
hàng chục ngàn dân đang chết khiếp vì lo sợ bởi những mối quan hệ về thân tộc,
về bè bạn, về làm ăn với nhiều người của chính quyền nguỵ. Họ đã phải dâng hiến
cho người cầm quyền mới một phần hoặc một nửa gia sản của họ, cả con gái của họ
để mong được người chiến thắng quên đi những oán thù cũ. Những việc phức tạp ấy
đã có cấp huyện lo, cấp tỉnh lo, việc gì anh phải lo thay? Hắn nói với ông Mười
thế. Ông cười buồn: "Họ cũng đang lo những việc của họ, cả việc chung lẫn
việc riêng, đã nói nhiều lắm, nói đến mấy năm nhưng chả ai thèm quan tâm, người
này đẩy sang người kia, cái sợ của dân vẫn nguyên như cũ, càng ngày càng sợ,
ngay cả những người đã trót thổ lộ việc này việc kia với mình cũng mất tăm mất
tích sau đó ít ngày. Chính tôi còn phải hãi kia mà!" Cấp trên của họ không
lo thì ông sẽ lo, ông là đảng viên mà, đảng viên cộng sản quan tâm đến cả việc
thế giới huống là việc của huyện mình, tỉnh mình. Người phá án đi một mình,
không có súng, không có cả đồng đội, lại đứng ngoài sáng, kẻ có tội bè đông
cánh rộng, giấu mặt trong các chức vụ của kẻ đương quyền mà vẫn hãi ông vì ông
có sức mạnh của niềm tin, của lẽ phải và cả cái bản lãnh của hai chục năm hoạt
động trong vòng vây của kẻ thù. Ông đã bị bọn giấu mặt ám sát hụt hai lần ngay
tại nhà, một lần vào đêm bằng súng, một lần vào buổi chiều bằng lựu đạn, nhưng
ông vẫn giấu nhẹm, đến vợ mãi sau mới được biết, cái chuyện đồng chí ám hại
nhau có gì là hay mà làm ầm lên. Cuộc chiến ấy đã kéo dài gần mười năm mà chưa
kết thúc, cũng chưa biết đến ngày nào mới kết thúc. Nhưng xem chừng ông Mười
thua, cái thằng giặc trong nhà ấy mỗi ngày như một đông hơn lên, quyền mỗi ngày
lớn mãi ra, nếu để lâu nữa không chừng trung ương cũng phải thua. Ông Mười nói
ngậm ngùi: "Cuộc chiến lần này tôi thua là cái chắc, chú Hai à! Tôi thì
không thể đánh tiếp được nữa rồi, tôi không mệt, cũng chưa nản nhưng đã lớn
tuổi lại bệnh tật rề rề, sống nay chết mai chỉ lo mình chết rồi sẽ giao việc
này cho ai? Nếu chú Hai có lòng chú nên thay tôi làm tiếp bằng cái nghề làm báo
của chú, được không?".
Một năm sau tiểu thuyết Vòng sóng đến vô cùng ra mắt bạn đọc,
số lượng in rất lớn: mười ngàn cuốn, nhưng bán chậm, chả có dư luận gì trong
giới viết văn, trong bạn đọc và nhất là bạn đọc tỉnh Ðồng Tháp. Hắn cứ buồn
mãi, không phải buồn vì cuốn sách không được nổi tiếng mà buồn vì một lần nữa
ông Mười lại chìm sâu vào quên lãng chỉ vì cái bất tài của một cây bút. Nhiều
năm sau, báo Văn nghệ Ðồng Tháp đăng lại cuốn sách bị quên đó
theo kiểu từng kỳ báo, tức là những người đồng hương của ông Mười đã nhận ra
nhân vật huyền thoại của quê hương, nhận ra bóng dáng của cha ông và của chính
mình qua những trang viết cái tài có ít nhưng cái tình có nhiều, lòng ngưỡng mộ
lại nhiều...
13.
Ðề tài vùng nông thôn
theo đạo Thiên Chúa cũng là một lãnh vực hắn gắn bó từ nhiều chục năm nay.
Chính là với đề tài ấy mà hắn bước hẳn vào nghề văn từ truyện ngắn Nằm
vạ, sau đó là tiểu thuyết Xung đột. Từ nhỏ hắn có thiên hướng
về cái thiêng liêng, cái thế giới bên kia để tìm một chỗ ẩn náu cho cái thân
phận bấp bênh của mẹ con hắn, và cũng là nơi giải toả cho nhiểu ẩn ức của một
tuổi thơ có quá nhiều nỗi buồn. Khi trò chuyện với nhiều chúng sinh từ chủng
viện Bái trở về quê trong các dịp nghỉ, hắn thông cảm nhanh chóng với những ước
nguyện của họ: muốn dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa và giáo hội vì tự xem đã
có ơn thiên triệu. "Số phận của em đã được định đoạt từ trên làm sao em
dám thay đổi, mà em cũng không muốn thay đổi." Nhưng địa phận Bái lại có
quá nhiều tội lỗi trong những năm Pháp chiếm đóng, giáo sĩ thành sĩ quan, toà
giám thành văn phòng của một tỉnh tự trị, các nhà thờ thành đồn bốt, kẻ xâm
lược và giáo hội trộn lẫn với nhau, cùng nhau làm những việc mà một dân tộc
đang kháng chiến không thể tha thứ. Những tu sĩ trẻ họ cũng biết thế, họ lấy
làm đau đớn vì những chuyện tệ hại ấy nhưng không thể tìm ra lối thoát. Là tu
sĩ của một giáo hội có chỗ đứng xứng đáng trong lòng dân tộc là nguyện vọng tha
thiết của họ. Nhưng bằng cách nào thì họ không thể biết, và nhà văn cũng chưa
có cách lý giải có sức thuyết phục cả hai phía: nhà nước và giáo hội. Trong một
lần về thăm một xứ đạo của tỉnh Thái Bình, hắn chợt nhìn thấy một chàng thanh
niên mặc quần xanh và cái áo cánh cộc cũng mầu xanh đang lúi húi cho lợn ăn ở
phần sân sau của nhà xứ. Hắn hỏi: "Anh có thấy cha xứ ngài ở đâu
không?" Người kia trả lời nhỏ nhẹ: "Thưa, tôi đây, ông có việc gì cần
hỏi ạ". Cha xứ chỉ khoảng ngoài ba chục tuổi, có gương mặt rất thanh tú,
cặp lông mày đen như nét vẽ, hai con mắt tròn to và cái miệng rất tươi khi nói
khi cười. Một người đàn ông còn trẻ và đẹp như thế mà chịu dâng hiến một đời
cho xứ đạo buồn tẻ thôi sao? Hắn ngồi nói chuyện với ông ta khoảng một giờ,
càng nói càng có cảm tình và càng thông cảm cho cái chỗ đứng éo le của một tu
sĩ thánh thiện. Lại một lần khác ở Nam Trực thuộc Nam Ðịnh hắn được nghe nói
một linh mục trẻ có sức hấp dẫn khiến các tổ chức thanh niên của địa phương gần
như tê liệt mọi hoạt động. Và một cán bộ huyện kết luận: "Ðám linh mục trẻ
bây giờ rất lợi hại, họ tranh thủ quần chúng rất có nghệ thuật, còn anh em mình
thì..." Hắn lại nhớ tới cha quản hạt của một xứ đạo đã làm lễ rửa tội từ
người ông cho đến đứa cháu, ba thế hệ, trong vòng năm chục năm. Cũng chính ông
già ấy đã mắng một bà mẹ ẵm con đến xin cha rửa tội vào một sáng mùa đông giá
lạnh, mắng như cha mắng con, như ông mắng cháu: "Nhà chị ngu, sinh mấy đứa
con mà còn ngu, bữa nắng ấm không đến lại nhè đúng ngày mưa gió ẵm con đến,
không sợ đứa trẻ bị nhiễm lạnh sưng phổi à? Ngày mai thì sao, ngày mốt thì sao,
tôi còn đi được đâu nữa mà sợ tôi không có nhà". Một lời mắng ấy một đời
người mẹ không thể quên, nay đứa trẻ đã là cán bộ xã mà bà vẫn kể lại cho hắn
nghe như chuyện mới vừa xảy ra ngày hôm qua. Ðó là lòng thương yêu con chiên
chân thật của một đấng chăn chiên đã ở quá lâu một xứ đạo hay chỉ là thủ đoạn,
là phép thuật lấy lòng người? Trong nhiều đợt đi viết tại nhiều xứ đạo, hắn đã
trò chuyện với nhiều linh mục, già có trẻ có, dân chủ tiến bộ có, phong kiến
bảo thủ có, và nhiều chức sắc trong đạo Thiên Chúa, gần như hắn đã hoà nhập
được vào cách cảm, cách nghĩ với người đối thoại, đón trước được những gì họ
tin, họ hy vọng và cả những gì họ còn giận còn ngờ. Hắn đã trình bày những cảm
nhận mới của hắn về tôn giáo nói chung và đạo Thiên Chúa nói riêng qua tâm sự
một linh mục đã nhận được nhiều ảnh hưởng tốt của giới giáo sĩ trẻ tại châu Âu,
của phong trào công nhân Pháp và nhiều nước lân cận, và nhất là xu hướng trở về
cội của Tin Mừng mà tiêu biểu là các ông linh mục thợ: Tôi vẫn suy ngẫm
rằng con người là một sinh vật không bao giờ tự hạn chế trong những cơ cấu sinh
lý. Luôn luôn nó muốn vươn tới cái tuyệt đối, cái vô biên, cái vĩnh cửu là
những mục tiêu mãi mãi con người không thể đạt tới. Vì không thể đạt tới nên nó
mới gầm thét và than thở qua thi ca, qua nghệ thuật và qua cả tôn giáo. Bảo rằng
tôn giáo sinh ra do bạc nhược và ngu dốt, chỉ đúng có một phần, tôn giáo cũng
sẽ sinh ra khi con người đã tự ý thức như một chúa tể. Tôn giáo sẽ biểu hiện
như một thăng hoa chứ không còn là một công cụ của đe doạ và áp bức. Nó sẽ
thuộc phạm trù văn hoá chứ không thuộc phạm trù quyền lực như hiện tại... Linh
mục sẽ chăm sóc linh hồn con người như một nghệ sĩ chứ không phải như một anh
lính cảnh sát... Tôi không bao giờ rời khỏi xứ đạo, tôi là trước hết phải thuộc
về một tập thể nào đó, hàng ngày được nghe họ nói cười, tham gia vào đời sống
của họ như một khuyến khích, một an ủi, một cảm thông, nâng đỡ họ để chính mình
cũng tìm thấy sức mạnh tự nâng mình lên... Nhân vật cha Thư trong tiểu
thuyết Cha và Con và... đã được hình thành dần từ những suy ngẫm
ấy, từ nhiều cuộc trò chuyện với các linh mục trẻ của cả hai miền, những hy
vọng của họ và những lo lắng của họ khi phải làm việc tôn giáo dưới một chính
thể vô thần. Chàng trai mới được truyền chức phải về một xứ đạo mà cha già quản
hạt vốn là một đối thủ về tinh thần với toà giám, phải làm việc với các ông
chánh trưởng, trùm trưởng rất lọc lõi, rất khôn ngoan, phải tiếp xúc với những
đoàn thể của xứ đạo nửa chính nửa tà, phải làm bạn với một ông linh mục đã mất
hết niềm tin vào cái chức phận thiêng liêng của mình, sống rất trần tục và trơ
tráo, rồi lại những ảnh hưởng xa gần của một địa phận luôn luôn đối đầu với nhà
nước, và một quan hệ có thể là thù địch giữa gia đình ông ta với những người
cộng sản trong thời gian Pháp chiếm đóng. Mà ông ấy lại là một người rất thánh
thiện, muốn làm một giáo sĩ dân chủ tiến bộ, lấy việc phụng sự nước Chúa và bầy
chiên của Chúa làm lẽ sống một đời của mình. Có làm được không? Có được xứ đạo
ủng hộ không? Có được toà giám khuyến khích không? Có được chính quyền địa
phương tin tưởng không? Và trước hết ông ta phải thoát ra khỏi những thành kiến
xấu về người cộng sản đã ám ảnh ông ta từ những năm còn là tu sĩ ở trường đạo.
Một linh mục thơ ngây, và phạm nhiều sai lầm trong năm đầu, rồi một linh mục có
nhiều hoang tưởng muốn phá bỏ lề luật và thói quen để được sống thanh thản như
một giáo dân, như một công dân. Rồi ông linh mục lẩn thẩn, sống đau đớn trong
sự đối đầu giữa các chức phận. Và cuối cùng là một linh mục thánh thiện đã tìm
ra cách hoà giải giữa các trách nhiệm, cái gốc của sự điều hoà ấy là lấy giáo
dân làm Chúa của mình, làm người Chỉ Bảo của mình. Và ông ta đã xin với những
người đại diện cho giáo dân và chính quyền địa phương hãy rửa tội cho ông ta
lần thứ hai với lời mô truyền do ông tự đặt ra: "Nhân danh Cha và Con và Giáo
hữu xứ Nhất... Amen".
Hắn viết rất nhanh, rất sảng khoải như có dịp được giãi bày trên trang bản thảo
một nỗi niềm vẫn được giấu kín của mình. Vì khoảng cách giữa nhân vật văn học
với tác giả không xa. Hắn cũng là người ngây ngô trong hành động, cả tin, dễ bị
lừa, cũng có nhiều mộng tưởng, cũng muốn được sống, được hành động như những
nhân vật anh hùng của hắn, và nhất là cũng muốn điều hoà mọi trách nhiệm mà hắn
đang gánh vác. Vì hắn trước hết là một đảng viên cộng sản, vào Ðảng từ năm 18
tuổi, hắn cũng là một quân nhân, nhập ngũ từ năm 16 tuổi. Hắn là đảng viên
trước, là anh bộ đội trước rồi mới làm nhà văn. Là người lính hắn mới được sống
nhiều, tiếp xúc nhiều, chống lại tính nhút nhát và cô độc bẩm sinh, lại cũng vì
hắn là đảng viên nên mới xoá được tận gốc mọi mặc cảm hèn kém để có một cách
nhìn, một cách nghĩ tiến bộ, tích cực đối với mọi biến động của xã hội. Không
có những điều kiện đó làm sao hắn thành nhà văn được. Ðời hắn vốn dĩ chả có gì
đáng viết, cũng chẳng thể nghĩ được gì hay ho để trò chuyện với mọi người. Nên
hắn chịu ơn sâu với Ðảng, với quân đội, với cả cái nghề nghiệp mà cuộc đời ưu
ái đã lựa chọn cho hắn. Nhưng các trách nhiệm ấy không phải luôn luôn hoà hợp
được với nhau, có khi được là một đảng viên tốt, một quân nhân tốt thì lại là
một nhà văn tồi. Người cầm quyền quan tâm trước hết tới sự vun đắp sức mạnh của
cộng đồng, tới sự đoàn kết nhất trí của một quốc gia, một dân tộc để hoàn thành
một cách thuận lợi nhất những mục tiêu kinh tế, xã hội từng thời kỳ. Còn người
cầm bút thì lại quan tâm tới sự nuôi dưỡng sức mạnh của cá nhân, tính độc lập
của cá nhân, cả tính phản kháng của cá nhân và sự sáng tạo muôn màu muôn vẻ của
cá nhân chống lại mọi sự độc đoán, mọi sự giản lược, tuỳ tiện, thu hẹp tầm vóc
của cá nhân khiến nó bị ngạt dưới sức nặng của guồng máy. Thật ra hai việc ấy
chỉ là một, cá nhân là nền tảng của cộng đồng, sức mạnh độc lập của cá nhân sẽ
làm sức mạnh của cộng đồng thêm vững chắc có khả năng chống chọi bền bỉ mọi tai
hoạ bất kể nó từ đâu tới.
Còn hắn, nếu xảy ra sự va chạm giữa chức năng của một nhà văn và trách nhiệm
của một đảng viên thì hắn tính toán cách sao? Thông thường là hắn nhân nhượng
và né tránh vì một cái lý rất đơn giản: hắn vẫn còn là đảng viên thì phải chấp
hành những nghị quyết của Ðảng. Thành thử các nhân vật của hắn không đi đến tận
cùng tính cách của họ, họ thường dừng lại ở khoảng giữa, rồi làm lành, rồi nhân
nhượng, trở nên giống nhau ở những số phận mờ nhạt, thiếu tính quyết liệt, tính
bi kịch để trở thành những gương mặt lớn có sức ám ảnh lâu dài trong lòng bạn
đọc. Hắn chỉ có thể là nhà văn bình thường, một nhà văn loại 2, loại 3 gì đó,
biết vậy nhưng hắn vẫn chấp nhận, không có cách mạng thì đến làm người tầm
thường cũng khó nói gì làm một nhà văn.
14.
Có lẽ trong các tiểu thuyết của hắn chỉ có một nhân vật dám đi đến tận cùng
số phận của mình, dám kết thúc cuộc hành trình gian nan về niềm tin bằng cái
chết chứ nhất quyết không chịu rời bỏ niềm tin ban đầu, cũng không muốn vì cứu
cái thân mình mà phản lại những người cùng một đạo. Nhân vật văn học đó có tên
là Tư Tốn, một chức sắc của đạo Cao Ðài, một người có niềm tin trong sáng,
quyết liệt dám ôm cái mộng lớn: cải tạo lại hệ thống giáo lý và quản lý của các
cơ quan quyền lực cao nhất của đạo. Mộng thì lớn nhưng không tìm được người
cộng tác. Ông Năm Sạng một đời chuẩn bị cho một cuốn sách sẽ viết đầy đủ và
chính xác mọi bước thăng trầm của đại đạo từ ngày lập đạo cho tới ngày cuộc
chiến tranh ba mươi năm kết thúc, nhưng ông đã quá già lại đau ốm, biết đến bao
giờ ông mới hoàn thành cái tác phẩm để đời ấy. Ông Bẩy Tiêu cũng là một người
trong cuộc, có quan hệ thân thiết với những người sáng lập đạo, nhưng ông không
muốn thay đổi, mọi thay đổi đều là tai hoạ, ông tình nguyện sống trong ngu tín,
trong thói quen cho được an phận lúc tuổi già. Tư Tốn đã từng nói với ông trong
một lúc phẫn nộ về sự thờ ơ của những người đi trước. Ðoạn đối thoại vắt kiệt
tư tưởng của cuốn sách đã được hắn viết như sau:
- Nếu bọn con chết không được yên lành các chú
phải chịu hết trách nhiệm!
Ông Bảy cười gượng gạo:
- Bọn mày đã lớn cả rồi, còn nhỏ dại gì nữa mà
đòi phải luôn luôn được dạy bảo.
Giọng của Tư Tốn càng gay gắt:
- Nhưng một nửa cái đầu của bọn con đâu có được
tự do, các chú đâu có giúp gì để con cháu được suy nghĩ một cách tự do. Rồi chú
coi, cha sẽ chôn con, ông sẽ chôn cháu, người già sẽ phải cầm mai chôn hết đám
trẻ vì chúng đã là cái tội cái nợ của hội thánh.
Nói rồi y quay người đi thẳng.
Ông Hai Gáo cũng là một nhân vật đi đến cùng tấn bi kịch của mình. Ông là thủ
túc tin cẩn của các bậc khai đạo lập giáo. Ông thất học từ nhỏ nhưng là người
có chí, chỉ bằng tự học và nhờ bạn bè chỉ dẫn trong mười lăm năm ông đọc được
báo Pháp và tinh thông cả Hán Nôm. Ông trở thành người giúp việc không thể
thiếu của hộ pháp Phạm Công Tắc, vì ông vừa có cái khôn ngoan, tháo vát của
người lao động lại có cả cái trầm mặc, tinh tế của người có học thức. Ông không
chỉ biết một chuyện mà là biết hầu hết mọi chuyện, từ ngoài vào trong vì ông
lãnh nhiều nhiệm vụ cùng một lúc, đặc phái viên của giáo chủ, kiêm thư ký, kiêm
quản gia, kiêm hầu phòng, là người thân tín, người tâm sự, là chân, là tay, là
ghế ngồi, là gối dựa, là đồ vật quen thuộc nhất của giáo chủ, với tay là tới,
gọi đến là có. Sau khi ông hộ pháp mất tại Kim Biên, ông Hai Gáo đã năm chục
tuổi, đưa vợ con về định cư ở một vùng biển, sống như người không có đạo để
quên đi hoàn toàn nhiều chục năm đã qua. Khi miền Nam được giải phóng, đất nước
đã thống nhất, ông Hai đã gần bảy chục tuổi. Nào ngờ những năm cuối đời ông lại
phải đối mặt với một cảnh ngộ đau đớn, đứa con trai út của ông, đứa con trai
ông gắn bó nhất, thương yêu nhất đã bị bắt vì nhận làm tài công cho một đám
chức sắc của đạo muốn vượt biển ra nước ngoài vận động dư luận quốc tế công
nhận Tây Ninh là thánh địa của đạo Cao Ðài, là vùng đất trung lập, là một xứ tự
trị, là Nước Trời. Ông già biết con ông đã phạm tội với chính quyền cách mạng
vì nó đã nghĩ nó làm việc đó là vì cha nó, vì nguyện vọng sâu xa của cha nó,
chắc là cha nó sẽ bằng lòng và hãnh diện. Vì ông không bao giờ nói thật về
người thầy của mình, ông ta đã chết coi như là hết, nói không tốt về ông thời
mình là cái gì lại dành một đời hầu hạ một người chả có gì là tốt. Nó xấu hổ
lắm, tủi nhục lắm, con cái nó khinh cho. Chúng nó đã khinh người cha sống sao
nổi. Chẳng những ông không nói thật mà cũng chẳng cải chính những điều chúng
hiểu sai, vì ông còn là người có đạo. Cái đạo ấy chẳng đem lại lợi lộc gì cho
ông nhưng nhờ nó ông đã dạy bảo được con cái. Giáo tổ đã lẫm liệt thế ắt cha
mình không đến nỗi hèn. Làm con ông già là một kiêu hãnh, ông đã nói là nên
nghe, vì lời nói ấy có thời đã được cả hội thánh trọng nể. Nó nghe ông, nó kính
ông vì cái vầng hào quang giả, dẫu là giả nhưng vẫn hơn là không có. Người đời
họ sống bằng cái thật từ nhỏ tới già nhưng con cái họ đâu có tệ. Còn ông lại
dạy con bằng những kích thước giả, nó tiện hơn, đỡ mất công hơn, bỗng chốc lại
bảo rằng không có gì hết thì sự tan rã chỉ trong chớp mắt. Ðứa trẻ nhận ra đã
bị lừa chỉ có thể làm giặc chứ khó có thể làm người lương thiện. Nó đã được
nuôi trong cái háo hức của mộng ảo làm sao có thể sống được trong cái tẻ nhạt
của đời thường.
Sự kết thúc rất buồn của hai người tu đạo mỗi người mỗi cách. Người già thì
không nỡ nói hết tâm sự của mình với con cái vì cuộc đời vốn đã buồn vì sự kiếm
sống nay lại không còn cả đức tin và danh dự một gia đình đã có công lớn với
hội thánh thì chúng sẽ lấy gì nuôi sống phần hồn nên sự dối trá vẫn được che
đậy cho đến ngày tấn bi kịch không thể tránh khỏi xảy ra. Còn người trẻ tuổi
thì dám đối mặt với sự thật bằng một chương trình cải tổ giáo hội, chấm dứt
thời mạt pháp để bước hẳn sang một kỳ đạo mới, cùng với những người cộng sản
xây dựng đất nước Việt Nam thành một vương quốc của An Lạc. Nhưng ngay trong
buổi thuyết pháp thử giữa vị tân giáo chủ Tư Tốn với ông cựu tín đồ Hai Gáo,
ông Hai đã hỏi thẳng:
- Anh có đủ bản lĩnh để lập nên một hội thánh
mới như anh vừa nói không?
- Cháu chỉ có thiện chí thôi, chỉ có một tấm
lòng sốt sắng vĩ đại thôi.
Ông Hai chép miệng:
- Không đủ, trên đời này có một việc nên làm mà
không nên làm đó là cái thiện chí. Có một việc không nên làm mà lại nên làm, đó
là cái tàn bạo. Ông hộ pháp vẫn thường nói thế.
Ông Hai lại hỏi:
- Anh có hám quyền không?
- Không bao giờ, cháu chỉ muốn làm một giáo chủ
tinh thần, một giáo chủ bè bạn và anh em, không cần một quyền lực nào hết.
Ông Hai cười:
- Nói vậy là sai. Có làm hại được người mới làm
lợi được người. Có giết chết được thời mới cứu sống được. Phải có quyền anh ạ.
Mất quyền thì có ra cái quái gì. Yêu và ghét đều không được. Tha và giết đều
không được. Những thứ ấy mà không làm được thì lập giáo làm sao?"
Ðó là một trong nhiều đoạn đối thoại rất lý thú trong tiểu thuyết Ðiều
tra về một cái chết. Khi Tư Tốn nói trong thất vọng: Tôi chỉ
muốn làm một việc có ích để cứu đạo cứu đời, để đạo với đời hoà hợp là một. Ông
Hai đã nói thẳng: Vô ích, không được đâu, đừng có vọng tưởng, làm việc khác
đi! Ông khuyên chàng tuổi trẻ có tham vọng cải giáo nên làm việc khác
đi là ông nói rất thật. Một trí thức có thiện chí, có tầm nhìn tầm nghĩ xa rộng
nhưng lại thiếu cái bản lĩnh làm thủ lĩnh, làm người đứng đầu một phe, một
phái, ai không cùng chí hướng lập tức phải gạt bỏ, phải đánh đuổi, nếu cần thì
giết đi, không có sự dứt khoát, sự tàn bạo ấy thì làm người đứng đầu thế nào
dược, làm thủ lĩnh một giáo phái thế nào được. Rút cuộc cũng chỉ là một anh trí
thức nhút nhát, yếu đuối, vô tích sự, thất bại ngay từ trong ý nghĩ. Cái anh
trí thức nghĩ thì hay nói thì giỏi nhưng lại không dám làm, hoặc dám làm nhưng
lúc thì cực hữu lúc thì cực tả, là một chủ đề hắn rất thích nhắc lại, đã từng
viết một lần trong Thời gian của người. Ðoạn kết của cuốn
sách, khi viết về cái chết của Tư Tốn, hắn viết vào buổi tối. Một gian nhà quá
rộng, trống huơ trống hoác, kê mấy cái đồ gỗ cũ kỹ xin được của người này cái
phản, người kia bộ ghế, còn hắn viết trên một cái bàn rất rộng nhưng tấm ván ép
của mặt bàn đã gần trở lại mặt mộc, lùng nhùng, ọp ẹp, cũng tự thương cảm cho
chính cái thân mình, đã ngoài năm chục tuổi đầu mà dám chuyển dịch chỗ ở từ Bắc
vào Nam, từ căn nhà tồi tàn này đến căn nhà tồi tàn khác, vợ thì dại, con thì
nhỏ, có nuôi nổi nhau vào những năm cả nước đang gặp khó khăn thời hậu chiến?
Chí lớn tài hèn chỉ được cái miệng với cái bút, với cái vốn liếng vớ vẩn ấy thì
làm được trò trống gì! Nói cho cùng, nhân vật Tư Tốn dám vứt bỏ tất cả để được
sống trọn vẹn cho một niềm tin, còn hắn, hắn có dám buông bỏ tất cả để được
sống trung thực với ngòi bút của mình không, để khỏi phải tủi hổ với nó, ân hận
với nó lúc cuối đời? Nhân vật của hắn đang bước tiếp những dòng cuối cùng trong
cái chập choạng nửa mê nửa tỉnh của cơn hấp hối, còn hắn, hắn phải sống những
hai chục năm nữa nếu như sống được tới tuổi ngoài bảy mươi, liệu hắn có bị chết
dần mỗi ngày một chút trong lòng bạn đọc đã theo dõi hắn từ buổi hắn mới chập
chững bước vào nghề văn?
15.
Hắn vốn nhát lại chịu ơn
sâu với cách mạng nên hắn không dám mà cũng không muốn sinh sự với các tổ chức
của cách mạng đã cứu sống hắn cả phần xác lẫn phần hồn. Hắn là một đảng viên
không bao giờ gây khó khăn cho chi bộ, là một nhân viên rất biết điều ở bất cứ
cơ quan nào. Và hắn cũng chưa bao giờ là người lãnh đạo, người chỉ huy ở cấp cơ
sở. Có hai lần hắn được cấp trên đề cử vào cơ quan lãnh đạo của Hội Nhà văn thì
cả hai lần hắn đều bối rối, lúng túng, làm đâu hỏng đó, gây khó chịu cho cả cấp
trên lẫn người cộng tác. Hắn chỉ là người viết thôi. Và hắn cũng chỉ gắn bó hết
lòng với cái suối nguồn của mọi sáng tạo, đó là đời sống với những vận động
biện chứng của nó. Chưa bao giờ hắn bị lầm lẫn hoặc phải ân hận vì sự lựa chọn
đó. Châm ngôn được hắn tôn thờ là một câu nói của Goethe (hắn cũng không rõ ông
Goethe đã nói câu ấy ở đâu, trong cuốn sách nào): Mọi lý thuyết đều mầu
xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi. Ngay từ năm hắn mới vào nghề
viết, năm 1957, khi hắn về huyện Nghĩa Hưng để tìm hiểu một vụ xung đột tuy
chưa lan rộng nhưng đã rất phức tạp giữa một đơn vị bộ đội với các thanh niên
công giáo của địa phương, hắn không gặp bất cứ một cấp uỷ nào, một nhân vật
lãnh đạo nào ở cấp huyện hay cấp tỉnh. Hắn về xã với cái nhìn hồn nhiên và tiếp
nhận cũng hồn nhiên những sự việc đang xảy ra, những bàn luận của giáo dân và
của anh em cán bộ xã đã có kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh từ thời Pháp tạm
chiếm với thế lực phản động của nhà thờ, không một chút thiên kiến nào, không
bị phân vân bởi một nhận định, một kết luận có trước nào. Các vấn đề tự nó phơi
bày ra, các nhân vật cũng từ trong đám đông mà xuất hiện và sự phát triển của
nó cũng tuân theo cái logic nội tại chứ không do ý muốn của tác giả. Sự thay
đổi về bản chất của nhân vật Thuỵ có làm hắn bối rồi một thời gian vì hắn chưa
từng biết sức mạnh của đồng tiền có thể làm một cán bộ trung kiên bị tha hoá.
Hắn chưa từng phải kiếm tiền nuôi ai, tám năm đi kháng chiến càng không biết
giá trị của đồng tiền, cả năm không phải tiêu đến tiền làm sao nhận ra sức
quyến rũ của nó. Lại những năm đầu hoà bình, một xã hội đang muốn xoá bỏ giá
trị của đồng tiền để con người khỏi luỵ nó, làm nô lệ cho nó, có thể sống bình
đẳng hơn, tự do hơn nếu không có nó tham gia. Nên sự thay đổi của Thuỵ khiến
hắn choáng váng như là một chuyện phi lý, nhưng sự phi lý này không cho phép
người ta ngờ vực, bàn cãi, nó là đời sống mà, là một con người cụ thể đang giãy
giụa trong sự xiết chặt mềm mại của đồng tiền. Quyển 2 của bộ tiểu thuyết Xung
đột không được hoan nghênh là vì thế. Ðó là lần đầu tiên hắn đã khiến
những người lãnh đạo giới văn nghệ đâm bối rối trong sự đánh giá về hắn.
Lần thứ hai, to chuyện hơn vì hắn đã dám động chạm tới sự trung thực của một
hợp tác xã nông nghiệp toàn xã được xem là kiểu mẫu về năng suất lúa, về thu
nhập trong ngành nghề phụ, về cơ chế quản lý. Ðã thành một thói quen hắn về xã,
chả có giấy giới thiệu gì, vì bạn hắn đang làm chủ nhiệm hợp tác xã, là một
nhân vật được cấp tỉnh và huyện tin cậy. Và cũng là một con người rất lương
thiện, rất thuần phác, hết lòng hết sức vì cái sự nghiệp mới mẻ này. Qua nhiều
ngày tìm hiểu hắn mới nhận ra giữa tiếng đồn với người và việc đúng như nó có
trong thực tế còn có một khoảng cách. Người nông dân chỉ vui cái vẻ ngoài, vui
tạm, còn trong ruột thì có nhiều cái lo, những người lãnh đạo cũng không hoàn
toàn an tâm về những việc họ đã làm và được các cấp trên khen ngợi. Cơ sở vật
chất của hợp tác xã hết sức qui mô như hắn đã từng miêu tả trong các
truyện Tầm nhìn xa và Người trở về: đường sá, cầu
cống, mương máng, trạm xá, trường học, trụ sở uỷ ban và trụ sở hợp tác xã, nhà
thông tin với hệ thống loa đến từng xóm... Nhưng từng nhà thì nghèo dần đi,
tiền và thóc dự trữ không có, xây nhà, xây sân, xây chuồng lợn bằng những nguồn
tiền thu được từ mảnh đất phần trăm, từ các nghề nề mộc lúc nông nhàn và cả
những buôn bán lặt vặt phi pháp xung quanh đống phế liệu của nhà máy phân lân.
Ruộng thì ít, người nhàn rỗi rất nhiều, mà việc gì cũng muốn dùng máy cho ra vẻ
tiên tiến, hiện đại như Liên Xô, như các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu, thì máy
sẽ ăn hết lúa, người không có việc sẽ ăn bằng gì? Làm ăn cả xã nhưng thu nhập
thực tế lại không bằng làm từng nhà, lại họp hành, lại sổ sách, lại phải để mắt
tới nhiều sự gian lận trong mọi khâu công việc thì lao động trở thành nặng
nhọc, bắt buộc chứ không còn là niềm vui nữa. Ðang làm chủ trở thành người làm
công ăn lương, không thể tính toán cho riêng mình bất cứ việc gì, họ không còn
đất đai, không còn nông cụ, không còn cả lao động và thời gian, tất cả đều đã
thuộc về hợp tác xã thì còn gì để tính nữa. Vì không tính được nên cái lo của
người già và những người chủ gia đình là cái lo kéo dài suốt mấy chục năm, từ
đời này qua đời nọ, lo quá thì không cần lo nữa là xong, đã lụt thì lút cả
làng, no no cả đói đói cả, cả làng đói thì đã có nhà nước lo, sự bình đẳng gần
như hoàn toàn, không còn giầu và nghèo thì cũng không còn lười và chăm, ngu và
sang, may và không may, các số phận riêng mất dần đi, số phận giống nhau, mặt
người giống nhau,vui buồn giống nhau đến ngôn ngữ và cảm nghĩ cũng rất giống
nhau, nghĩ khác đi, nói khác đi chỉ ở làng thôi cũng đã được xem là chuyện lạ
rồi. Khi viết truyện vừa Tầm nhìn xa thật tình hắn không muốn
viết những cảm nghĩ tiêu cực của hắn về hợp tác xã nổi tiếng toàn tỉnh vì bạn
hắn đang là chủ nhiệm, vì những người lãnh đạo của xã đã tỏ ra hết sức tin cậy
hắn gần như không còn gì phải giấu hắn, kể cả những cuộc họp giữa các uỷ viên
thường vụ của đảng uỷ xã. Nhưng hắn đã trót nhận ra ông phó chủ nhiệm phụ trách
ngành nghề Tuy Kiền là mẫu người hắn đặc biệt yêu thích, và hắn không thể buông
bỏ ông ấy được. Thế là Tuy Kiền ngay tức khắc trở thành một nhân vật văn học
với những phát triển tự nhiên phù hợp với tính cách của ông ấy, nửa công nửa
tư, vẫn thu vén cá nhân lại vẫn to tiếng về lợi ích tập thể, lại vẫn vùng vằng,
hờn giận, ông ta muốn được cả miếng ăn lại được cả vinh dự, ăn của người nhưng
vẫn muốn người bị thua thiệt phải hàm ơn mình, phải yêu mến mình. Vì đã dựng
Tuy Kiền như ông ấy vốn là thế thì lại không thể bỏ qua sự dính líu của cả đảng
uỷ thông đồng với cán bộ nhà máy để ăn cắp dầu, không thể không nói những
chuyện mua giấu giếm gỗ của nhà máy về bán cho những người lãnh đạo của xã, bỏ
qua những thất vọng và cả sự giận dữ của những xã viên tích cực. Vì trong những
chuyện phi pháp ấy người đầu trò luôn luôn là Tuy Kiền, vì ông ấy là đảng uỷ
viên nên trách nhiệm của cả tập thể đảng uỷ là không thể trốn tránh.
Thế là những người vốn tin cậy hắn ở xã liền phát đơn kiện tới tận trung ương
với đủ thứ tội danh, và gọi vụ việc đã "gây phẫn nộ trong cả đảng bộ"
là "hậu nhân văn giai phẩm". Vì những người lãnh đạo ở xã
đều là cựu sĩ quan trong quân đội cũng đã từng nam chinh bắc chiến khắp dải đất
Ðông Dương, đọc cũng nhiều biết cũng lắm, chứ không phải chỉ là ông nông dân
hiền lành có thể bị bọm cầm bút bắt nạt. Rồi mọi chuyện cũng qua đi, hắn được
cấp trên bênh vực, vì chống lại sự dối trá và tư tưởng tư hữu của người nông
dân là chính đáng. Cũng là cái số hắn may! Chỉ có một người chịu thiệt là ông
Tuy Kiền, ông trở thành một nhân vật nổi tiếng trong tỉnh, nhưng không ai ghét
ông cả, chỉ buồn cười thôi. Cái tội tư hữu là tội bẩm sinh, đẻ ra đã biết giành
vú mẹ, một hai tuổi đã biết tranh cướp những thứ không phải của mình, bé tranh
vật nhỏ, lớn tranh vật to, rồi tranh lợi, tranh công, tranh quyền, cho đến lúc
sắp chết vẫn còn muốn tranh nữa, vẫn còn chưa thấy đủ. Nó là thói tật cố hữu
của con người thuộc mọi giai cấp, mọi thành phần, chứ không chỉ là cái tội
riêng của ông nông dân, nhất là ông Tuy Kiền. Nó buồn cười là ở chỗ ấy.
Hắn thì được tiếng, người đọc thì được cười, chỉ có ông Tuy Kiền là hơi thiệt
nên ông giận hắn lắm. Ba mươi năm sau hắn lại trở về xã Nam Tiến, bạn bè cũ đã
chết nhiều, những người còn lại cũng quên chuyện đã qua, chả ai giận hắn cả,
chỉ có ông Tuy Kiền và vợ con ông vẫn còn nhớ và vẫn còn rất giận. Ông không cho
hắn gặp dầu hắn đã gặp ông rất tình cờ và muốn được nói chuyện lâu với ông để
giải hoà, để xin lỗi. Ông không chấp nhận, tôi muốn quên anh, quên cả cái tên
của anh, cái nhìn của ông lộ hẳn ra cái ý hằn học ấy. Khi hắn đến chào bí thư
đảng uỷ xã là con rể ông Tuy Kiền, ông bí thư có nói lại lời của bố vợ với hắn:
"Ông bủ tôi không giận anh đâu, chuyện ấy có gì mà phải giận, ông cũng
muốn mời anh lại chơi nhà nhưng sợ trẻ con chúng nó cạn nghĩ dễ nói hỗn".
Nói thế tức là chửi khéo đấy, các ông già đã nói là thâm thuý lắm, cái trò giễu
vặt của thằng nhà văn đã thấm vào đâu.
16.
Cách đây đã hơn hai chục
năm, hắn có được quen biết một linh mục trẻ sinh năm 1940, trông coi một xứ đạo
của huyện Hải Hậu, trong một lần trò chuyện ông ta có nói với hắn: "Tôi là
người làm một nghề có tính tiêu cực như sự đánh giá của các ông, nhưng vì tôi
là giáo sĩ của một nước đã độc lập, là người của thời này nên cũng nhiễm được
ít nhiều cái gan góc, cái kiên cường của những người cùng thời, bởi vậy cả các
ông lẫn toà giám đều có sự hiểu nhầm..." Câu nói ấy khiến hắn phải nhớ
mãi, người đi tu còn muốn thay đổi cảnh ngộ, còn không chịu sống phụ thuộc như
các đấng bậc đã đi trước dầu những thử thách họ phải vượt qua là hết sức lớn, ở
cả hai phía, từ phía chính quyền cách mạng và cả từ phía toà giám. Nhưng ông
linh mục trẻ đâu có chịu đầu hàng, không làm được một tu sĩ như mình mong muốn
thì ông ta sẽ trả lại áo chức cho nhà thờ, về quê làm anh nông dân tu tại gia
để được trung thành với niềm tin từ năm bước chân vào chủng viện. Ðó là một
trong mấy nguyên mẫu của nhân vật cha Thư trong tiểu thuyết Cha và Con
và...
Năm hắn còn trẻ có lên nông trường Ðiện Biên nhiều lần, sau này viết được tập
truyện ngắn Mùa lạc, có một người bạn hắn rất mến mộ tên là Dương,
thượng sĩ, tổ trưởng tổ mộc của đội sản xuất số 2. Năm hắn tới đội sản xuất thì
Dương mới đưa vợ từ dưới xuôi lên. Chồng ba mươi tuổi, một thượng sĩ đã hơi
già, người vợ cũng vào khoảng hăm bảy, hăm tám. Họ lấy nhau từ năm 1950, một
năm sau, vùng quê đó bị Pháp chiếm đóng, Dương đi bộ đội, vợ ở nhà nuôi mẹ. Hoà
bình lập lại Dương cũng chưa được về quê, anh còn phải trở lại Ðiện Biên để làm
lính nông trường theo yêu cầu của quân đội. Vợ chồng họ lấy nhau đã chín năm
vẫn chưa có con nên Dương buộc lòng phải đưa vợ lên Ðiện Biên, bao giờ có con
thì ẵm con về, mẹ ở nhà phải nhờ các em gái chăm sóc thay. Người vợ vừa gày vừa
đen nên anh em trong đội sản xuất thường nói đùa: "Mày phải tưới tắm vợ
mày kỹ vào cho cô ấy có da có thịt đã, chứ người như củi mục cành khô chỉ đẻ ra
giun chứ đẻ thế nào được ra người". Cuối năm 1960 khi hắn rời nông trường
thì vợ Dương đã có chửa được mấy tháng, mập hẳn ra, trắng hẳn ra, là một người
đàn bà hoàn toàn khác. Vợ chồng họ mừng mà cả đội sản xuất đều mừng. Rồi hắn
bặt tin vợ chồng họ khoảng mười năm. Năm 1970, nhân gặp một người bạn vốn làm
công đoàn ở nông trường nay về sống ở Hà Nội, mới hỏi thăm các bạn cũ. Về
trường hợp của Dương thì buồn lắm, anh bạn nói thế, năm 1966, khi anh ấy trả
phép đi xe của nông trường từ Hà Nội, xe đến đỉnh dốc Pha Ðin thì chết máy,
trời mùa thu đã ngả sang chiều, đã có sương, đang ngồi đợi sửa máy thì bất chợt
gặp thượng sĩ Dương, phó mộc Dương, đang gò lưng ôm càng xe trâu cùng con trâu
lên dốc. Cái xe trâu chở đủ thứ đồ đạc của một cuộc di chuyển, có mui xe, sàn
xe trải chiếu, một thằng bé khoảng năm tuổi giương cặp mắt to nhìn mọi người,
cạnh nó là cái tiểu sành đựng hài cốt của mẹ nó đã mất năm nó lên hai tuổi. Mẹ
nó chết vì bệnh sưng phổi cấp tính để lại đứa con lên hai cho chồng nuôi. Anh
lầm lũi nuôi con đến năm con lên bốn thì mua một con nghé và bắt đầu đóng xe
những lúc rảnh rỗi. Ðược một năm thì con nghé đã vực được, lại được chăm sóc kỹ
nên nó mau lớn và rất khoẻ đủ sức cho một cuộc trường chinh. Lúc ấy anh mới xin
với ban giám đốc nông trường được thôi việc về nhà để chăm lo mẹ, nuôi con lớn
và lấy vợ kế. Anh đã ba mươi lăm tuổi, không tính toán nhanh, nay mai con thì
lớn, bố thì già, họ mạc hai bề đều nghèo, với hai bàn tay trắng bố con còn dắt
nhau tới đâu nữa để kiếm sống? Khi được trên đồng ý anh mới thay áo cho vợ, bốc
xương sang tiểu, cùng vợ và con về xuôi, mãi tận Hưng Yên, bằng cái xe trâu
kéo, cứ đi thủng thẳng, tới đâu làm nghề được thì tạm dừng ít ngày, kiếm chút
tiền vừa để dành vừa ăn đường, rồi vài năm cũng về được đến nhà. Hơn mười năm
về trước Dương mới ở tuổi đôi mươi, hành quân lên Tây Bắc rồi trở thành chiến
sĩ Ðiện Biên, là người anh hùng trong vùng sáng chói loà của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Hơn mười năm sau Dương đã bước vào tuổi trung niên, chở xương vợ và
đứa con còn nhỏ trên cái xe trâu làm một cuộc hành quân dài ngày không có đồng
đội trong cái vùng sáng u ám, buồn tẻ của một kiếp người. Hắn cứ nghĩ mãi về
một bức tranh sơn dầu khổ lớn, trong cái ráng chiều đỏ rực của trời chiều Tây
Bắc, một người đàn ông gương mặt đã khô đen vì sương gió đang gò lưng ôm một
bên càng xe cùng với con trâu lên một cái dốc của đèo Pha Ðin. Ðó là hình ảnh
trọn vẹn nhất của một người cùng thời với hắn, tuổi trẻ cõng súng đạn, về già
cõng vợ con, đều là đi tìm cái sống cả. Còn hắn thì sao?
Năm 63 tuổi hắn được chứng kiến một hiện tượng kỳ vĩ gần như là của tự nhiên
biểu trưng cho cái khả năng tái tạo, hồi sinh của một con người. Ðó là dịp hắn
được tới thăm một gia đình thương binh, chồng là thương binh, vợ cũng là thương
binh với bốn đứa con đẹp đẽ khoẻ mạnh như thuộc một gia đình khác, một dòng
giống khác. Anh ấy khoảng bốn chục tuổi, vợ cũng xấp xỉ tuổi đó. Nhập ngũ được
hai năm thì anh bị bom napal cháy toàn thân trong trận đánh vào Tân Cảnh năm
1970. Năm ấy anh mới có hai mươi tuổi, trai nông thôn mà vóc dáng, gương mặt
đẹp như diễn viên điện ảnh, anh nói thế, tới đâu cũng được nhiều cô gái yêu
thương và hò hẹn. Trong nửa năm anh bị cuốn chặt trong một khối bông băng từ
chân tới đầu, sống như một sinh vật hạ đẳng, ăn uống, bài tiết và phát ra những
tiếng kêu nho nhỏ. Lại một nửa năm không nhìn thấy gì, vẫn chưa nói được và nằm
bất động. Rồi anh nhìn lại được dần dần, nói lại được dần dần. Rồi anh ngồi dậy
được và bắt đầu tập đi, tập các động tác đơn giản khác để tự phục vụ những nhu
cầu của riêng mình. Anh sống trong một trại điều dưỡng ba năm, sinh hoạt gần
như bình thương nhưng chưa bao giờ anh dám nhìn vào kính, vào gương soi. Anh
biết mặt anh đã hoàn toàn biến dạng, chỉ còn là những mảng da đủ mầu vá víu, là
mặt quỉ chứ không thể là mặt người. Với bộ mặt ghê sợ ấy anh lấy vợ làm sao,
gặp mẹ làm sao. Anh có thể không lấy vợ nhưng không thể không gặp mẹ. Anh rất
nhớ mẹ nhưng nếu mẹ nhìn thấy anh thì bà sẽ đau đớn cho tới lúc chết. Nên anh
cứ dùng dằng mãi cái ngày trở về quê để anh chị và các cháu chăm sóc. Và đã có
một cô gái ở trại điều dưỡng bị cụt một cánh tay nhưng còn trẻ và rất xinh đem
lòng yêu thương anh, muốn được cùng sống với anh mãi mãi. Nhưng anh đã trốn
chạy tình yêu vì anh không còn khả năng để một người đàn bà tàn tật có thể
nương tựa, cũng không còn cả một gương mặt bình thường để biểu lộ những yêu
thương. Anh buộc phải trốn về quê sống với mẹ và các anh chị. Mẹ anh đón anh
rất mừng chứ không sợ, có là một đống thịt bị rữa nát bà cũng không sợ, huống
hồ đã được khâu vá, sang sửa đẹp đẽ hẳn hoi, bà an ủi con trai thế. Một tháng
sau cô gái thương binh khoác ba lô về thẳng quê anh, xin được làm con gái mẹ
anh vì gia đình cô không còn ai thân thiết. Một tháng sau đám cưới của hai
người được đoàn thanh niên xã đứng ra tổ chức. Một năm sau cô sinh cho chồng
một bé trai bụ bẫm, có đủ hai tay và một gương mặt rất kháu khỉnh. Khi hắn tới
thăm gia đình anh thương binh đã có những bốn đứa con, đứa con đầu đã 14, đẹp
như tranh vẽ, anh nói với hắn rất tự hào: "Nó là chính em thời còn ở nhà,
hai bố con giống nhau như anh em sinh đôi, nhưng nó cao to hơn em một
chút". Bà vợ ngồi cạnh nói đùa: "May mà ông xấu xí nên tôi mới lấy
được ông, chứ lại đẹp như con ông làm sao tôi dám với". Các ngón tay của
anh như ngắn lại và quặp vào lòng bàn tay, hoàn toàn không sử dụng được, nhưng
anh đã tập những thao tác lao động riêng, đã sáng chế ra các nông cụ phù hợp
với các thao tác của mình nên vẫn làm vườn được, chăn nuôi được, làm mọi việc
trong nhà được. Anh lại biết tính toán trong sản xuất và kinh doanh, nuôi ba
ba, thả lươn, nuôi ếch, khu vườn rộng đến hai sào của gia đình thành một khu
vực chăn nuôi và trồng trọt nổi tiếng khắp huyện. Khi hắn nói; "Hai người
chỉ có một bàn tay, lại phải lo rất lắm việc chắc anh chị cũng vất vả",
thì người chồng đính chính ngay: "Thưa bác, bây giờ chúng em có những chín
bàn tay kia, bọn trẻ nhà em làm ruộng làm vườn chả thua gì người lớn đâu. Vợ
chồng em đã lên chức chỉ huy rồi". Bữa đó hắn đã nghĩ như một triết nhân:
"Sức mạnh tái sinh của con người ta có thể sánh ngang với trời đất thật.
Từ một đóng thịt rữa nát chỉ để nuôi giòi, nuôi giun, bón đất mà thành một cơ
nghiệp, một dòng họ và một tình yêu để lại mãi mãi cho hậu thế". Vài năm
sau hắn viết truyện ngắn Một bàn tay và chín bàn tay được giải
thưởng của Bộ Quốc phòng và cũng là một truyện ngắn được bạn đọc ưa thích.
Năm 65 tuổi hắn được làm quen với một người bạn mới, là đồng nghiệp, là một nhà
báo tỉnh, kém hắn dăm tuổi. Ông ta làm báo từ năm các nhà lãnh đạo của tỉnh còn
là học sinh cấp tiểu học, họ đã nhìn thấy ông nhà báo mặc bộ quần áo bộ đội
nhàu nát, đi dép lốp, như một ông cựu chiến binh. Rồi ông mặc một bộ kaki mới
hơn, văn minh hơn, đi dép nhựa nhưng vẫn cứ luộm thuộm thế nào. Và bây giờ ông
đã may được một bộ quần áo của nhà báo, đi dép da, tóc để dài nhưng vẫn cứ là
một ông nông dân mặc quần áo mượn. Hắn vừa nghe ông ta nói chuyện vừa ngắm nhìn
ông với những cảm nghĩ rất riêng, vui một chút mà cũng buồn một chút. Rất ít có
nhà báo tận tuỵ với nghề như ông, vì dân mà viết báo như ông, mà cũng ít ai
trong nghề lại bị coi thường, bị bạc đãi như ông. Ông đã phục vụ bốn đời bí
thư, chủ tịch của tỉnh, ai cũng cần ông mà không một ai trọng ông. Họ coi ông
như chân như tay, như trợ lý chứ chưa bao giờ xem ông như một cố vấn, một
chuyên gia rất am hiểu lòng dân, cái giận và cái lo của dân và những việc phải
làm ngay cho dân đỡ khổ đỡ oán. Ngay cả mấy đời giám đốc cơ quan phát thanh của
tỉnh cũng đều muốn tống ông về hưu mà không thể làm, không dám làm. Chưa một ai
biết cách lấy tin vừa nhanh vừa chính xác như ông, lại có cách viết thân tình
như những người trong nhà trò chuyện với nhau như ông. Có người đã nói nửa đùa
nửa thật với hắn: "Ông ấy viết hay như biên tập viên của đài B.B.C
ấy". Chỉ phải mỗi tội ông hay can thiệp vào nhiều việc của người cầm quyền
quá, vì việc của người cầm quyền lớn và nhỏ trong tỉnh lại thường hay động chạm
tới quyền lợi của dân, nói giùm cho dân thì bị ngăn ngay từ ông tổng biên tập
của đài vì những mối quan hệ rất phức tạp của ông ta với các quan chức trong
tỉnh và khắp các huyện. Ông nhà báo tỉnh nói với hắn: "Một tỉnh có ba, bốn
thứ quỹ, quỹ tiền, quỹ lao động, quỹ lương thực, quỹ đất, dân nhìn thì khó thấy
chứ tôi đã nhìn vào là ra vô ối chuyện. Có bao giờ họ dám cho đưa tin về con số
tuyệt đối huy động lương thực một vụ trong năm đâu. Vì sẽ lòi ra quỹ lậu, anh
hiểu chưa? Ðấy, đấy, họ ghét tôi vì tôi hay thò mũi vào những chỗ họ thích giấu
kín!"
Ông nhà báo tỉnh lại còn dậy ông nhà báo nổi tiếng của trung ương cái thuật
nghe dân nói. Họ nói lắt léo lắm, phải thấu hiểu tâm sự của họ mới nghe nổi,
hiểu nổi. Ví như cơ quan nông nghiệp của tỉnh yêu cầu bà con nông dân nên dùng
giống lúa Hồng Ðức thì dân nói lái ngay là lúa Ðừng Hốc - Nhà em mỗi sào được
tạ hai (hại ta), nhưng ông anh lại được tạ tư (tự ta) - Họ bảo chúng em dùng
phương thức "bỏ thẳng" (gieo thẳng, không cần cấy), chúng em làm theo
ngay, một vụ "bỏ thắng" ba chục mẫu (tức là bỏ hoang, không cấy) -
"Ruộng chúng em xa lắm, nhưng lúa rứt tốt (không phải là rất tốt), đi gặt
không phải mang liềm, chỉ mang mẹt, mang rá thôi". Hoặc họ mời ông nhà báo
tỉnh ở lại ăn cơm rồi nói: "Bác ngồi chơi, mẹ nó thả vó thì gỡ bằng
mệt". Ngồi chơi cả giờ chả thấy gì, dọn cơm lên vẫn chỉ có tép rang với
rau luộc. Hoá ra trong ao không có cá chỉ toàn là trà rào thôi. Nhưng cái bữa
hắn và mấy ông bạn văn thơ của Hà Nội tới huyện T. và bữa cơm trưa ở huyện, có
cả ông nhà báo tỉnh, hắn mới thật sự bàng hoàng về cách phân biệt đối xử giữa
ông khách của tỉnh, cũng là người nhà của huyện với đám khách của trung ương.
Họ không mời ông nhà báo tỉnh, chỉ có cán bộ của các ban ngành trong huyện ngồi
tiếp khách của Hà Nội thôi. Mà bí thư, chủ tịch huyện và chánh văn phòng uỷ ban
đều biết rõ đám báo chí ấy có quen biết nhau từ trước. Ông nhà báo tỉnh theo
chân các bạn ở Hà Nội về cùng vào phòng tiệc nhưng không có chỗ cho ông ngồi, cũng
không ai mời ông ngồi, ông cứ đứng mà nói chuyện với các bạn ông đã ngồi vào
bàn, bàn tám người ăn vừa đủ chỗ. Ắt hẳn cái cảnh kẻ đứng người ngồi trò chuyện
với nhau đã làm ông bí thư huyện hơi ngượng, hơi khó chịu nên ông bảo lấy thêm
ghế cho ông khách không mời vẫn cứ đến, vẫn cứ đòi một chỗ ngồi, ngồi đúng cái
bàn không ai muốn ông có mặt vì ông không chịu ngồi sang bàn khác. Ông muốn
được trò chuyện với các đồng nghiệp ở trung ương về chứ đâu phải vì thèm một
bữa ăn ngon. Ông không ăn gì thật, chỉ uống thôi, và ông đã mượn bia để bày tỏ
nỗi lòng. Rằng ông là ân nhân của huyện này những năm họ gặp khó khăn trong
thời chống Mỹ cũng như thời kinh tế còn bao cấp. Họ đói lắm, rách lắm, thiếu
thốn đủ mọi thứ nhưng tình người thì hết sức ấm áp, ăn rau ăn khoai nhưng đêm
đến chả ai muốn về nhà, cứ nằm ở văn phòng uỷ ban huyện, gác chân lên nhau mà
tâm sự. Còn bây giờ, ông ta quắc cặp mắt đã hơi say quay sang nhìn hắn, nhìn
các bạn hắn, rồi lại nhìn những người bạn lâu năm ngồi cùng bàn, trước đây, chỉ
mới dăm năm trước đây thôi, còn là bạn bè, là anh em, vì ông hơn họ cả chục
tuổi, biết họ từ năm còn ở truồng, nhưng nay đã là những người quan trọng của
một huyện giàu có, đãi đằng bạn bè tiệc lớn tiệc nhỏ, ngồi xe hơi có máy lạnh,
đi đâu xa có cả một xe chở bia đi theo, còn ông nhà báo đã là một cấp dưới
không đáng quan tâm, gọi là nhà báo nhưng chỉ là người viết bản tin hàng ngày
ấy mà, ăn mặc lôi thôi, nói năng xàm xỡ, thiếu lịch thiệp, thiếu tinh tế, một
anh nông dân chay chưa được khai hoá bởi nền văn minh thị trường. Trong một bàn
tiệc đãi khách là những nhà văn nổi tiếng của trung ương về thăm một huyện cũng
đang rất nổi tiếng mà lại nói những chuyện từ đời tám hoánh nào, ngăn lại không
được, đuổi đi cũng không được, đành phải nín nhịn mà nghe, mà cười xoà và nói
lảng. Người lãnh đạo nói một câu thì cái lão thích phá đám ấy nói lại đến mười
câu, giọng nói như lệnh vỡ, chả nể ai cả, chả dè chừng một lời nói nào cả, cứ
như ngồi ở đám giỗ dưới xã. Hắn nhìn những gương mặt lạnh ngắt của những người
đương quyền, mắt nhìn xuống, miệng mím lại, thỉnh thoảng lại cười nhạt, tức là
họ đang giận lắm, hận lắm nhưng biết làm sao được. Nên hắn vội vàng nói chen
vào những chuyện làm ăn thất bại của nơi này nơi kia mà hắn được biết để có dịp
phỉnh nịnh một cách khéo léo cái nhìn nhạy bén và cách quản lý tài giỏi của
những người lãnh đạo huyện nhà. Mặt mọi người lập tức giãn ra, tiếng cười dài
hơn và những lời đối đáp đã trở lại cái tự nhiên, cái vui vẻ của lúc ban đầu.
Ông nhà báo tỉnh cũng lắng nghe chăm chú những câu chuyện vui hắn nói, mắt
miệng như hơi cười nhưng là cái cười mỉa, cái cười khinh. Ông ta đâu cần hắn
đứng ra dàn hoà, cái ông muốn trong bữa cơm trưa này là những người lãnh đạo
của huyện phải tự bộc lộ cái mặt thật của họ, cách ăn ở bạc bẽo của họ và cả
những khoe khoang rất ấu trĩ của những kẻ mới bắt đầu có của. Cấp lãnh đạo sống
và nghĩ nông cạn đến thế thì dân chúng còn là vất vả, cái đời làm báo của ông
còn gặp nhiều khó khăn, chắc rằng họ cũng sắp tống ông về hưu thôi, chẳng năm
này thì thì năm tới, họ yêu gì ông mà muốn giữ lại. Chả lẽ ông lại nhẫn nhục
xin làm hợp đồng! Trước ngày về Hà Nội, bọn hắn có mời ông ăn một bữa cơm chia
tay tại nhà khách của tỉnh, hắn hỏi ông: nếu gặp lại mấy ông ở huyện T. anh có
gì khó nói lắm không?" Ông cười hề hề: "Chả sao cả, vẫn thế mà. Cái
việc của họ buộc họ phải thế, cái việc của tôi buộc tôi phải thế, có ai vì cái
riêng đâu". Rồi ông nói tiếp: "Làm nhà báo là không có nghỉ hưu, lĩnh
lương hưu nhưng vẫn cứ là nhà báo đương chức, họ có giỏi cứ việc đưa tôi ra toà.
Tôi cũng mong tôi đã viết sai để có lời xin lỗi công khai họ trên báo trên đài,
tôi sai họ đúng thì dân được nhờ nhiều, có phải không?" Cũng nhân sự tin
cậy, thân tình giữa bọn họ trong ngày được đánh bạn với nhau, ông nhà báo tỉnh
đã nhận xét hắn là người có tính thích dàn hoà, văn của hắn cũng nghiêng về sự
thông cảm, sự dàn hoà, thiếu tính quyết liệt. Ông thì khác, ông thích sự phân
minh, sự rạch ròi, hoặc họ đúng hoặc ông đúng, ông phản đối sự nửa vời, sai
đúng chia đều, nạn nhân thủ phạm mỗi bên một nửa. Sau lần gặp gỡ ấy, hắn có
viết được một truyện ngắn Lạc thời đăng trên tạp chí Văn
nghệ quân đội. Nhưng tính cách nhà báo tỉnh trong truyện có khác nhiều với
con người thật. Ông nhà báo hắn được tiếp xúc chả buồn một tý nào về những việc
ông đã làm, những lời ông đã nói, nó thuộc chủ ý của ông chứ không do sự đẩy
tới của cảnh ngộ mà ông đã nói thế, đã làm thế. Ông còn tiếp tục sống và viết
một cách khó chịu cho tới ngày ông nghỉ hưu và cả sau khi đã nghỉ hưu nếu ông
còn đi được, còn viết được. Ðài báo của tỉnh không dùng thì đài báo của trung
ương sẽ dùng, tỉnh của ông còn cấp trên của nó, chứ chưa phải đã là một vương
quốc độc lập, không thích là có thể cấm, cấm không được thì bỏ tù. Cũng là một
con người đi tới cùng trong niềm tin của mình, trung thành đến cùng với lợi ích
của những người thấp cổ bé miệng, muốn đem lại sự công bằng cho họ như ông đã
tự hứa khi bước vào cái nghề viết tin viết báo.
17.
Hắn thích sự nhân nhượng, sự dàn hoà để có một kết cuộc vui vẻ, do tính
cách bẩm sinh của hắn nhưng lại phù hợp với phương pháp sáng tác hiện thực xã
hội chủ nghĩa, yêu cầu câu chuyện bao giờ cũng được kết thúc có hậu. Hình như
cũng là cách viết của ông cha mình thì phải. Nên cô Kiều không chết ở sông Tiền
Ðường mà lại được cứu để có cái cảnh tái hồi Kim Trọng. Nguyễn Du muốn thế mà
Nguyễn Ðình Chiểu cũng muốn thế. Nhiều tác giả các truyện thơ khuyết danh cũng
muốn thế. Nhưng Nguyễn Gia Thiều đã viết khác. Ông viết thật hơn, từ câu đầu
đến câu cuối của thiên Cung oán ngâm khúc chỉ có tiếng than
thấm đẫm nước mắt thôi. Rồi những tưởng tượng, những mơ mộng, những hy vọng
nhưng thực tế thì ông vua đã quên cô ta rồi, còn cô cung nữ thì vẫn phấp
phỏng: Ðè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi - Nghiên bình phấn mốc mà dồi má
deo. Và hai câu kết thúc của tiếng rên dài vẫn chỉ là hy vọng: Phòng
khi động đến Cửu trùng - Giữ sao cho được má hồng như xưa. Ở cuốn tiểu
thuyết đầu tay Xung đột, các nhân vật được phát triển theo đúng cái
bản chất của người nông dân có đạo, họ trở nên bối rối, lầm lạc khi phải đối
mặt với những thử thách của một thời kỳ không thuộc năng lực của họ chứ không
tuân theo sự sắp xếp có hậu của tác giả. Tiểu thuyết Ðiều tra về một
cái chết cũng thế. Các nhân vật Hai Gáo, Tư Tốn bị những nhân nhượng
vặt vãnh suốt một đời tu đạo đẩy họ vào những tình thế bế tắc hoàn toàn, không
có cách gì thoát ra được, chỉ có thể kết thúc bằng cái chết mà thôi. Nhưng chết
trong văn chương thì sẽ được sống mãi trong lòng bạn đọc. Còn lại sống một cách
gắng gượng, vô lý vì mong muốn của tác giả thì phải chết trong văn chương. Vì
cuộc sống vốn quyết liệt không chấp nhận sự kết thúc có hậu ở những trường hợp
ấy. Nhưng ở Cha và Con và... lại có sự nhân nhượng, sự giải
hoà vì cha Thư đã tìm được cách chung sống giữa các bổn phận, lấy giáo dân làm
Chúa của mình. Nhưng trong thực tế đã hoặc sẽ có một linh mục nào ở nước ta dám
làm một cuộc cách mạng triệt để như thế không? Ở tiểu thuyết Chủ tịch
huyện cũng vẫn có sự nhân nhượng. Nhân vật An là một chủ tịch xã rất
trẻ lại có tài chỉ đạo sản xuất nông nghiệp của một xã, nhưng anh ta cũng có
tính láu cá và gian giảo của dân hàn vá nồi, lại được tỉnh và huyện nâng niu,
chiều chuộng nên đã có những dấu hiệu của một cán bộ xã hãnh tiến, gian dối,
bất chấp thủ đoạn để đạt tới cái đích của mình. Hắn đã nhận ra những biểu hiện
tiêu cực còn mờ nhạt của một nhân vật đang được xem là thần tượng của huyện,
của tỉnh, và đã có lời cảnh báo bằng nhận xét: Một cán bộ xã làm việc
giỏi, rất tháo vát nhưng hay khuynh loát tập thể. Lý lẽ sắc bén nhưng nhiều khi
nguỵ biện. Rất ưa người khác tâng bốc mình nhưng lại không biết gìn giữ uy tín
của người khác. Cái phần hiện thực chỉ tới đó thôi, còn sau đó lại là
"lãng mạn" rồi, bằng một kết thúc xem ra cũng có lý: cả nước đã bước
vào cuộc chiến tranh chống Mỹ nên nhân vật An đã tự gột rửa mình trở nên sạch
sẽ để bước vào cuộc chiến đấu mới. Bạn đọc những năm ấy cũng mong muốn câu
chuyện được kết thúc vui vẻ như thế nên đã đồng tình với tác giả. Các nhà phê
bình văn học lại càng đồng tình hơn. Cuốn sách đã thành công theo đúng những
tiêu chuẩn mỹ học của một thời. Ba mươi sáu năm sau hắn trở lại quê hương
của Chủ tịch huyện, nhắc lại chuyện cũ, nhân vật cũ mới té ngửa ra
cuộc sống đã có những kết thúc khác hẳn, khắc nghiệt hơn nhiều, bi quan hơn
nhiều. Ông chủ tịch xã trẻ tuổi đầy triển vọng năm nào đã trở thành một tên ác
bá đầy thủ đoạn, cấp trên không dám loại bỏ vì y đã từng là ghế đệm của họ
trong nhiều năm, còn dân chúng chỉ còn biết giương mắt nhìn chứ không dám hé
môi nói nửa lời. Lúc hắn ngỏ ý muốn gặp lại nhân vật của mình thì được trả lời
y đã trở thành kẻ lừa đảo của cả nước từ hai chục năm nay, hiện đang phải trốn
chạy vì đã có lệnh truy nã toàn quốc. Hắn đã viết về câu chuyện buồn và đáng
xấu hổ của hắn trong bài bút ký Mất toi một cuốn sách.
Tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm cũng là một cuốn sách được viết
theo tinh thần hoà giải mọi sự trái ngược giữa những người có chính kiến khác
nhau. Họ đều đã già, đã từng trải nhiều trên chính trường, những mặt trái của
một thể chế chính trị dựa vào Mỹ họ đều biết rất tường tận và đã tự tách ra về
tư tưởng, về tình cảm từ nhiều năm rồi. Nên giữa họ cũng đã tìm được một tiếng
nói chung khi đất nước vừa ra khỏi một cuộc chiến đã kéo dài và đang đứng trước
những vận hội mới. Cuốn sách đã được bạn đọc của Sài Gòn, của miền Nam chấp
nhận vì nó đã đem lại một hy vọng có nhiều tính thực tế. Nhưng trong cuộc sống
thật như nó đang diễn ra hàng ngày lại không hoàn toàn như thế. Vì cái mặc cảm
kẻ thua người thắng, dẫu là rất vô lý, cũng chưa thể gột bỏ được ngay trong một
gia đình. Như cái đại gia đình của hắn là một ví dụ. Hắn là con vợ lẽ, vợ không
chính thức nên hắn cũng là đứa con không chính thức. Vì hắn trở lại với gia
đình trong đội quân chiến thắng, trong số những người sẽ làm chủ Sài Gòn nên
không thể không tiếp đãi hắn cho đàng hoàng. Vả lại nhận một thằng Việt cộng
cũng có dính líu một chút máu mủ ở cái thời buổi có nhiều bất an, nhiều lo sợ
thì có gì là thiệt, là không nên. Có một đứa con của gia đình ở phe bên kia,
phe chiến thắng gần như là một đảm bảo về chính trị trước nhiều câu hỏi, nhiều
bản kê khai do cán bộ của khu phố, của phường, của quận đưa tới. Cho nên bố mẹ
hắn mới xin hắn một tấm hình mặc quân phục có đeo lon thiếu tá đặt trên tủ buýp
phê kê giữa nhà, có ai vào chơi là giới thiệu liền: "Cháu nó ở ngoài Hà
Nội mới vào thăm chúng tôi". Ngày hắn gặp lại bố mẹ, bố hắn ngắm nhìn hắn
một lúc lâu rồi bảo: "Nom anh bây giờ chả giống chút nào với ngày xưa, nếu
anh không xưng tên thì tôi không thể nhận ra". Hắn nói: "Năm nay con
vừa bằng tuổi cậu cái năm gia đình ta ở Nam Ðịnh". Bố hắn nói bâng khuâng:
" Ừ nhỉ, 45 tuổi, đời người cũng nhanh thật". Rồi ông cụ lại nói:
"Cái năm ấy là do hoàn cảnh..." Hắn cười, nói át đi: "Cậu chả
nên nghĩ lại cái chuyện ngày xưa làm gì". Tức là hắn muốn giải hoà vì nghĩ
rằng đã có điều kiện để giải hoà. Hắn trở về cũng không phải để giành lấy một
cái gì, đòi có một cái gì, không lấy đi của ai bất cứ cái gì, trừ phi hắn có
lòng dạ nhỏ nhen muốn nhân sự thắng thế mà trả thù. Nhưng hắn đã nói một cách
vô tư nhất, trong tiếng cười hồn nhiên nhất: "Thôi bỏ đi cậu ạ, được gặp
lại cậu mợ và các anh chị còn khoẻ là con vui rồi". Hắn nghĩ thế thật
nhưng những người ruột thịt của hắn chưa hẳn đã nghĩ thế. Thoạt đầu thì vui,
đang có nhiều lo lắng vì bị đột ngột quăng vào một thời thế mới chưa có chuẩn
bị gì thì gặp người của gia đình, dẫu rằng đã quên nó từ lâu rồi, đã nghĩ không
có nó, lù lù xuất hiện. Nên mới mở tiệc đãi đằng nó và bạn nó. Nhưng trong lòng
vẫn không vui. Ðứa con trai út được chiều quí, nâng niu thì lại phải tập trung
học tập cả năm vì nó là thiếu uý công binh của đội quân thất trận. Còn cái thằng
đã vứt bỏ, đã muốn quên đi lại là nhà văn nhà báo, được nhắc nhở, được mong chờ
của cả họ. Thế là bực, vì nó trái lẽ, nó ngược đời. Cuối năm 1976, trong một
lần hắn lại chào bố mẹ để hôm sau ra Bắc, ông già cứ đứng trong cánh cửa sắt
nói chuyện với con chứ không mở cửa. Rồi ông hỏi: "Anh có cần vào trong
nhà không?" Bố nào lại hỏi con ruột cái câu lạ lùng ấy trước ngày nó lại
đi xa, có thể năm sau nó lại vào, cũng có thể vài năm nữa nó mới được vào, công
việc của nó là ở Hà Nội kia mà. Hắn biết ý liền nói ngay: "Dạ, không ạ,
con đến chào cậu mợ thôi. Có chuyện gì cần cậu mợ cứ viết thư cho vợ chồng
con". Nói rồi hắn quay người đi thẳng, trong lòng cũng hơi tủi, hơi giận.
Một bữa cơm gia đình để chia tay cũng không có. Tức là bố và mẹ già còn ghét
hắn lắm. Sự có mặt của hắn vào những ngày này đã làm họ xấu hổ nên họ ghét, có
khi chỉ là như thế. Nhưng nó là con mình kia mà, nó làm đẹp mặt mình tại sao
lại ghét nó. Vẫn đáng ghét chứ! Vì nó dám ngoi cao hơn các anh chị nó nên phải
ghét. Chẳng lẽ dòng dõi lại tìm nơi phát sáng ở cái đứa mà trong một lúc quá
thất vọng người bố đã phải kêu lên: "Thằng mán tiền!" Nửa năm sau thì
ông già hắn mất ở tuổi 77 nên lần gặp người đứng trong cánh cửa kẻ đứng ngoài
cánh cửa là lần gặp cuối. Năm 1982, tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm ra
mắt bạn đọc cả nước. Hầu hết các nhân vật trong cuốn sách đều có nguyên mẫu cả,
nhưng nhân vật văn học cô đọng hơn, sang trọng hơn, trí tuệ hơn. Hắn nâng họ
thành các nhân vật đại diện, nhân vật tư tưởng tước bỏ hết những chi tiết dung
tục của đời thường. Hắn viết không nhằm bới móc đời tư và những chuyện còn chưa
đẹp mà chỉ cốt khẳng định lòng yêu nước đã thắng, cái thiện lương trong mỗi
người đã thắng, xu thế của dân tộc có khả năng xích lại gần họ lại để cùng đối
mặt với những thử thách mới, mỗi người mỗi cách. Nhưng cuốn sách đã làm mất
lòng những người ruột thịt của hắn vì tính khách quan của người cầm bút. Hắn đã
so sánh hai người, là hai cậu cháu, đều là quan lại, một người đã dám bỏ tất cả
để đi theo kháng chiến, còn một người cứ níu chặt lấy cái thể chế cũ, mỗi năm
một tự hạ thấp mình đi. Ðoạn văn đó như sau:
Anh Hảo tốt nghiệp trường Luật ở Paris, về nước
được chính phủ bảo hộ bổ nhiệm làm tri huyện, một chức quan cai trị vào loại cà
mèng nhất. Ông bố tôi là dân tham biện chuyển sang ngạch quan lại, học vấn và
uy danh tất nhiên không thể bằng ông cử nhân luật, nên cụ có vẻ thích thú cái
chức vụ mới đó lắm. Thì có cà mèng vẫn cứ là quan lớn và vợ quan lớn tức thị là
bà lớn và bà lớn có thể nói với họ hàng: "Ông huyện nhà tôi...", ông
huyện nhà tôi thì sang hơn "ông tham, ông phán, ông ký nhà tôi"
rồi...
Lại một đoạn khác:
Anh Hảo là người sướng từ trong trứng, bố tôi bì
thế nào được. Cái đại gia đình ấy có cả hai vế: tân học thì có một tiến sĩ, một
luật sư, cựu học thì có một phó vương, một khâm sai đại thần. Họ sang đến thế
mà họ theo cách mạng được, cả ông phó vương lẫn ông khâm sai đại thần. Còn ông
tri huyện lại khăng khăng bảo thủ chế độ cũ, muốn sống chết vì nó, từ chối mọi
sự thay đổi...
Nghe vợ hắn nói lại, mẹ già hắn đã nổi cơn giận dữ chưa từng có, vì xưa nay bà
có tức chết cũng cố giữ cái vẻ ngoài điềm đạm và càng giận lại càng tươi nét
mặt và cười. Tất nhiên là cười nhạt, cười gượng, cái cười lạnh lẽo mà ngày còn
nhỏ hắn đã muốn dựng hết chân tóc mỗi khi hắn thấy bà nhìn hắn và cười. Vả lại
xã hội đã trở lại ổn định dần dần, những lo lắng, sợ sệt vô lý của những ngày
đầu đã không còn nữa, nên tấm hình - bùa của hắn đã được hạ xuống để trả lại
cho cái đứa con mất nết đã dám dùng văn chương để chửi cả bố. Và cả gia đình đã
từ hắn một cách hả hê, vì đã tìm ra cái cớ đích đáng để khỏi phải ngồi thấp hơn
hắn, ngồi vòng ngoài mỗi lần có cuộc gặp gỡ trong họ.
Cái số hắn hoá ra cũng vất vả, từ nhỏ tới năm 15 tuổi mới được về nhà bố để
nhận mẹ già, nhận các anh chị, được tận mắt thấy bố ăn bố ngủ, lúc gắt lúc
cười. Rồi bặt tin nhau vừa tròn ba mươi năm mới được gặp lại, chỉ có một người
chết là ông anh rể có cửa hàng lớn ở Hải Phòng, còn vẫn đủ mặt. Ông bố đã là
một ông lão tóc bạc phơ, đi đứng lòng khòng với cây gậy trong tay, nói năng
ngập ngừng và cái nhìn đầy lo sợ. Ông đã hiện ra trước mắt đứa con vừa trở về
như một người thất bại hoàn toàn. Các bà chị đã già đi nhưng vẫn sống túm tụm
với nhau trong một ngôi nhà như xưa kia, vì chả có ai xuất giá cả, hay nói như
chị Ðại "chả có ma nào chịu rước đi cho". Lần này xa nhau thấm thoát
đã tròn hai chục năm, tuy cùng ở một thành phố, mỗi nhà đều có điện thoại, chỉ
cần nhấc ống nghe lên và bấm số, mà vẫn không được biết tin tức của nhau. Hắn
biết chắc sẽ không có cơ hội gặp lại vì nghe nói mẹ già của hắn đã buộc các con
phải lập lời thề, mãi mãi không được nhìn nhận lại cái chi thứ đã bị tách ra.
Việc gì phải thề, các anh chị hắn và cả hắn đều đã ở tuổi trong ngoài bảy mươi
cả, còn sống được bao lâu mà sợ phải gặp lại. Trong số họ chỉ có hai người là có
con, một dòng ở Pháp, một dòng ở Mỹ, đã thành công dân của các nước sở tại, đến
đất nước của ông bà chưa hẳn chúng đã nhớ còn nhớ làm sao những người chúng
chưa từng nghe nói, chưa từng gặp mặt. Cuộc chia ly vĩnh viễn này đã khiến hắn
buồn lắm, càng có tuổi nghĩ càng buồn, cái cạn nghĩ của một người đàn bà đã làm
đứt rời hai khúc ruột, khúc trên khúc dưới, thì cái dòng họ ấy còn có ra gì.
18.
Lại nói tới dòng họ. Từ
năm còn nhỏ tới năm 45 tuổi hắn không hề biết gốc gác bên nội của mình, con vợ
lẽ, đứa con không mong đợi chả có trách nhiệm gì tới hương khói một dòng họ mà
phải cho hắn biết. Năm 1945, trong một lần hầu chuyện với một vị quan thầy ở
tỉnh Nam, ông quan lớn đã về hưu hỏi ông quan vừa bị mất việc do thời thế:
"Quan lớn được mấy người con?" - "Bẩm cụ lớn, vợ chồng con được
bảy cháu, hai trai năm gái". Hắn đứng sau tấm bình phong bất giác nghe lỏm
được cũng bàng hoàng, thì ra bố hắn đã loại anh em hắn ra khỏi đám con chính
thức của ông rồi. Không ngờ sau năm 1975 hắn lại được gặp bố và mẹ già ngay tại
Sài Gòn vừa được giải phóng, mới có dịp nhận anh chị, nhận họ hàng ở trong Nam
và cả ở ngoài Bắc. Bây giờ hắn cũng là người sang, nhận hắn làm thành viên của
gia tộc chả mất mặt một chút nào, nên chính ông bố và bà mẹ già vốn ghét hắn
lại thay nhau đứa hắn đi nhận họ với lời giới thiệu rất tế nhị: "Ðây là
anh con lớn của bà ngoài Hà Nội". Bà ngoài Hà Nội chứ không phải là bà
Hai, bà Ba gì cả. Nói thế là mọi người đều hiểu, vì đã từng nghe nói ông bố hắn
còn một bà nữa, đã có hai con đang sống ở Hà Nội. Vả lại trong mấy người con
trai của ông, hắn có gương mặt và dáng dấp giống ông nhất, càng già càng giống
như nhận xét của nhiều người. Nhưng ông không nói gì thêm với hắn về gốc gác,
quê gốc ở đâu, ông nội là ai, ông cố là ai, tuyệt đối không nói. Vì sao thế,
cho đến bây giờ hắn cũng không thể hiểu. Có một lần ông có nói với hắn:
"Tôi vẫn giữ bằng khoán ngôi nhà thờ họ ở phố Hàng Nâu, Nam Ðịnh. Tôi sẽ
đưa anh cầm để anh xin lại với nhà nước xem sao". Chỉ nói có một lần đó
rồi ông quên đi, hắn cũng không nhắc lại. Nên về gốc gác hắn phải hỏi chị Ðại,
gọi bố hắn là cậu ruột, hơn hắn 16 tuổi, là cháu gái đầu của ông nội hắn (ông
nội có bốn vợ và bốn nàng hầu, bố đẻ hắn là con bà Ba. Cũng là con bà lấy thêm,
đứa con thêm mà sao lại ghét bỏ con thêm thế). Rồi hắn gặp ông trưởng họ, là
cháu đích tôn của ông nội, sống nghèo nhưng bụng dạ tốt, cho hắn xem tộc phả
được lập từ đời cụ Nguyễn Lữ, là Hộ bộ thượng thư Trưởng sự Quỳnh sơn hầu, thời
Lê Tương Dực. Cụ Lữ là con út của cụ Nguyễn Văn Lỗ, cụ Lỗ là con thứ năm của cụ
Nguyễn Công Chuẩn. Cụ tổ của chi hắn là Châu quận công Nguyễn Như Hiếu là con
thứ ba của cụ Chuẩn. Cụ Lữ là cháu ruột cụ Hiếu, là tổ chi Nguyễn Gia ở Liễu
Ngạn, huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh, con cháu có một thi hào là Ôn Như Hầu
Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung oán ngâm khúc. Viễn tổ của hắn là
Thái tể Ðịnh quốc công Nguyễn Bặc, cùng quê với Ðinh Bộ Lĩnh ở làng Ðại Hữu, xã
Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thành thử hỏi quê hắn ở đâu, hắn có
thể nói ở Ninh Bình, ở Thanh Hoá hay Nam Ðịnh, cả dải đất vùng Sơn Nam Hạ ấy
đều có mối quan hệ máu thịt với hắn cả. Hơn nữa trong suốt tám năm kháng chiến
chống Pháp hắn cũng không xa rời ba tỉnh đó. Quân khu 3 thì đóng ở huyện Nho
Quan thuộc đất Ninh Bình, thời hắn là lính thì ở Thọ Xuân, Yên Ðịnh của tỉnh
Thanh Hoá và lần đầu hắn được gặp các tài danh văn chương của cả nước Nguyễn
Tuân, Xuân Diệu là ở Ðông Môn, huyện Vĩnh Lộc của Thanh Hoá. Thời Nam Ðịnh bị
Pháp chiếm đóng hắn cũng hay đi về từ huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu, sau này hắn
vào hẳn nghề văn là từ tiểu thuyết Xung đột, nhân vật, sự kiện
trong tiểu thuyết là ở vùng hạ Nghĩa Hưng của tỉnh Nam Ðịnh. Cũng như ở Hà Nội,
mẹ hắn sinh hắn ở nhà hộ sinh bà đốc Tiến ở phố Hàng Cót, nhà bố mẹ ở phố Quan
Thánh, lớn lên một chút thì ở phố Hàng Bún, đi về qua vườn hoa Hàng Ðậu khoảng
mười năm. Rồi tạp chí Văn nghệ quân đội nơi làm việc của hắn
suốt ba chục năm lại kề sát vườn hoa Hàng đậu. Nhà riêng của hắn ở bãi Phúc Xá
cách vườn hoa Hàng Ðậu khoảng một cây số. Tức là có tới hai phần ba đời người
hắn cứ như dính chặt vào mấy cái phố bao quanh vườn hoa Hàng Ðậu. Tuổi hắn cầm
tinh con ngựa, nhưng chắc là ngựa què nên chỉ bước quanh quẩn một rẻo đất quen
thuộc, về già lại càng ít đi hơn, cho đến bây giờ hắn vẫn chưa được đặt chân
đến thánh địa Thái Nguyên và vùng du lịch nổi tiếng Ðà Lạt. Nghĩ rằng nó gần,
lại giao thông thuận tiện, đi lúc nào chả được, rút cuộc đã ngoài bảy chục tuổi
vẫn chưa tới. Chả biết có còn đủ thời gian để tự hứa với mình về một chuyến đi
sẽ có không? Nhưng viết thì hắn lại chăm lắm, có ý tưởng hay, cách kết cấu lạ
và đẹp là hắn viết liền, vừa viết vừa nghĩ tiếp, hắn chưa bao giờ để lại một
cái gì và tự hứa rồi sẽ viết.
Lại nói tiếp về cái dòng dõi của gia tộc hắn. Tiên tổ của hắn rất ham mê tham
chính, và để trả giá cho cái nghề nguy hiểm ấy họ đã phải chết rất nhiều. Cụ
viễn tổ Nguyễn Bặc là tể tướng đầu tiên của nước ta. Sự nghiệp của nhà Ðinh
cũng là sự nghiệp của cụ, nghĩ rằng sẽ trường tồn cùng nước Ðại Cồ Việt. Nào
ngờ hai cha con vua Ðinh bị hành thích, cái án Ðỗ Thích còn treo đấy, theo hắn
là chưa thể kết luận được. Lê Hoàn tuổi trẻ tài cao, trong con mắt ông ta chỉ
có Ðinh Liễn mới là đối thủ đáng gờm, vì Liễn cũng còn rất trẻ, có tài cầm quân
khiển tướng và cũng là một tay có lắm thủ đoạn. Liễn chết cùng với cha, con
đường tới ngai vàng hầu như bỏ trống. Lại thêm có sự tính toán của bà Dương Vân
Nga. Hắn chả tin mấy về lòng yêu nước của bà, hắn chỉ tin vào sự tính toán rất
trần tục của chính mình. Với bà làm tôi Lê Hoàn tất nhiên là an toàn hơn làm
tôi Ðinh Liễn. Liễn đã từng giết thái tử nay phải giết thêm một thằng em khác
mẹ là Ðinh Toàn có gì phải phân vân. Và giết cả Lê Hoàn cũng vẫn được với cái
tội thông dâm với vợ của cha mình. Nên ông Thập đạo Tướng quân phải ra tay
trước. Cụ tổ của hắn dấy quân chống lại ông tướng muốn cướp ngôi. Nhưng ông
tướng trẻ vừa có quân quyền, lại có cả thái hậu đứng phía sau nên ông tể tướng
già đành phải rút về Gia Miêu rồi tổ chức một trận quyết chiến trên sông Lèn.
Lê Hoàn dùng hoả công đánh bại, Ðinh Ðiền chết tại trận, Nguyễn Bặc bị bắt đóng
cũi, giải về Hoa Lư, chém đầu ở cửa đông Thành. Ba đời sau cụ Nguyễn Dương, làm
quan dưới ba triều vua nhà Lý chống lại quyền thần Ðỗ Anh Vũ cùng với các
tướng. Các tướng vây thành, cụ xách giáo đâm Ðỗ Anh Vũ cho khỏi hậu hoạ thì bị
Ðàm Dĩ Mông ôm chặt lấy cụ. Ðỗ Anh Vũ là phụ chính đại thần của Lý Anh Tông,
lại là người tình của thái hậu, vây cánh trong triều rất đông chết thế nào
được. Cụ nhiếc mắng các tướng vì tham của đút đã làm lỡ việc lớn rồi nhảy xuống
giếng tự vẫn. Nhưng cụ đã để lại cho đời một người con là nhà thơ Nôm đầu tiên
của nước ta, cụ Nguyễn Thuyên tức Hàn Thuyên. Năm 1923, dân làng Lai Hạ (Gia
Lương, Bắc Ninh) trùng tu nhà thờ cụ Hàn Thuyên có làm đôi câu đối ca tụng sự
nghiệp của cụ:
Hàn luật xướng tân thanh, Lý hậu, Lê tiền, văn
phái biệt khai Hoa Việt giới.
Ngạc ngư tiêu ác lãng, Lô Giang Triều Hải sùng từ đối tự Bắc Nam thiên. [1]
Năm 1388, vua Trần Ðế Hiển mưu bắt Hồ Quý Ly bị bại lộ, bị thượng hoàng Nghệ
Tông bắt giam, lại một ông quan võ họ Nguyễn là cụ Nguyễn Công Sách, thái uý
quản quân thiết sang cùng anh em là Nguyễn Minh Du quản quân thiết hổ đem quân
bản bộ định phá ngục cứu Trần Phế Ðế nhưng việc không thành, bị Hồ Quý Ly giết
cả hai anh em cùng với nhiều người trong họ. Sau vụ tàn sát này nhiều người họ
Nguyễn phải đổi sang họ Hoàng, rồi họ Quách, họ Ðỗ để ẩn thân.
Sang thời cận đại cụ nội hắn là Nguyễn Tu, tổng đốc Ninh Thái, trong họ gọi là
cụ thượng Tu, năm 1885, khi Pháp đánh Bắc Kỳ cụ chạy về quê nhưng lại nằm bên
nhà vợ ở Hoằng Nghĩa, em vợ là tri huyện Bình Lục thua bạc chạy về xin tiền
chị, chị lại nghiệt không cho sinh thù vu của anh rể chống phong trào Văn Thân,
tổ chức vây bắt đem ra bờ sông Mã cắt cổ. Từ đó con cháu làm thịt gà chỉ được
bóp cổ chứ không được cắt tiết. Ngày giỗ của cụ, ông nội hắn làm lễ tế bố cũng
đúng 5 giờ sáng là giờ bố bị hành quyết, tế xong ông đóng cửa ngồi một mình,
chỉ ăn cháo với muối trong ngày. Từ ngày nhỏ hắn chỉ biết có mối dây liên hệ
duy nhất với dòng họ là không được gọi cái lược mà phải gọi chệch là cái chải,
người nghe không hiểu thì nói thêm, cái chải đầu. Vì ông nội hắn tên huý là
Nguyễn Hoằng Lược. Nhưng phải tới tuổi 60 lần đầu được về quê gốc của họ Nguyễn
Bồng Trung ở huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá hắn mới nhận ra hắn đã là người của
Hà Nội chứ không còn thuộc về một vùng quê nào cả. Vì hắn có tính hay tự giễu,
ngay cả khi bạn bè vạch vòi cái xấu của hắn trước đông người hắn chỉ hơi cứng
mặt một tí, hơi ngượng một tí rồi lại cười nói hùa theo ngay, chứ không giận,
cũng chả thanh minh gì cả. Theo hắn, đó là một đức tính đáng yêu của người ở
kinh đô. Năm hắn về Thanh, trong mấy ngày làm việc ở tỉnh chưa về Bòng, hắn hay
đến chơi nhà một hoạ sĩ rất đa tài, viết cả tuồng, giỏi Hán Nôm, lại ham mê lịch
sử, trước hết là lịch sử Thanh Hoá. Nghe ông ta nói về lịch sử của Việt Nam thì
quá nửa nhân tài của nước nam đều có gốc là người Thanh Hoá. Bà Triệu Thị Trinh
khởi binh đánh Lục Dận nhà Ðông Ngô là người của quận Cửu Chân, tức Thanh Hoá.
Ông Dương Diên Nghệ ra xây thành Ðại La từ thế kỷ thứ 9, là tướng của Khúc Hạo,
sau làm Tiết độ sứ được sáu năm là người của ái Châu, tức Thanh Hoá. Ngô Quyền
quê gốc ở Sơn Tây nhưng từ nhỏ tới lớn đều ở Thanh Hoá, là con rể Dương Diên
Nghệ rồi lại được bố vợ cho giữ đất Ái Châu cho đến nay vẫn còn một dòng con
cháu ở tỉnh Thanh. Lê Hoàn sống với mẹ ở làng Xuân Lập, huyện Thọ Xuân cũng vẫn
là người Thanh Hoá. Ðinh Bộ Lĩnh quê ở Gia Viễn, thời đó hai huyện Gia Viễn và
Gia Khánh được gọi là Thanh Hoá ngoại. Lê Lợi thì đúng là dân Thanh Hoá rồi.
Nguyễn Kim thuộc dòng Nguyễn Bắc, quê ở Gia Miêu, huyện Hà Trung, là đất tắm
gội của triều Nguyễn, Trịnh Kiểm quê ở Biện Thượng, huyện Vĩnh Lộc. Lê Văn Hưu,
ông tổ sử ở cùng một làng với ông tổ nghề đúc đồng thuộc huyện Ðông Sơn... Hắn
nghe rất chăm chú rồi hỏi móc: "Vậy còn thời bây giờ?" Ông hoạ sĩ
cũng cười: "Xưa thì cung kiếm nay thì bị gậy, đều lấy thiên hạ làm nhà
cả".
Rồi ông bạn hoạ sĩ lại kể về quê nội của ông ở làng Phú Khê, thuộc huyện Hoằng
Hoá, đất tổ của nghề tuồng. Một làng họ Lê, xưa kia có đến bảy cái đồng triện,
bảy ông lý trưởng, vì làng quá lớn. Cả làng hát tuồng, có nhà mấy đời làm nghề
tuồng, có gia đình năm anh em trai lập một gánh tuồng đi hát khắp mọi nơi. Và
phong độ những con người ở Phú Khê cũng rất tuồng, hào hùng như các nhân vật
tuồng. Thời cải cách ruộng đất có một ông bị quy là địa chủ, sẽ bị đưa ra đấu
toàn xã, sau đó sẽ lập toà án xử bắn luôn. Ông này chỉ có vài mẫu ruộng, ăn ở
với dân làng rất phải chăng. Khi ông bị giam đợi ngày đưa ra xử bất thần một
đêm ông trốn được về nhà. Ông tắm rửa sạch sẽ, mặc một bộ quần áo dài trắng, đi
giày Chi Long, dao giắt trong người rồi ngồi im lặng một mình, không ngủ, cũng
không trò chuyện với ai, đợi trời sáng hẳn mới lững thững đến trụ sở của uỷ ban
xin gặp cán bộ của đội cải cách. Không ai được biết ông đã xổng ngục từ đêm
thấy ông xuất hiện đột ngột với bộ quần áo trắng mới, giày mới, vẻ mặt bình
thản đều rất ngạc nhiên. Chưa kịp tra hỏi gì ông đã nói trước, từ tốn, đàng
hoàng:
- Các anh làm sai rồi, có biết không? Tôi là người kháng chiến,
các con đều đi kháng chiến, cho rằng tôi có là gian thần nhưng công kia bù với
tội nọ cũng được miễn tội chết kia mà. Tôi không sợ chết nhưng tôi không thích
các anh nhân danh cách mạng nã súng vào người tôi. Hãy để tôi tự xử.
Nói đoạn ông giật banh vạt áo, rút dao đâm vào bụng mình, lại rạch xuống một
đường dài cho ruột xổ ra mới chịu nằm vật xuống.
Rồi một ông trung nông bị quy lầm là địa chủ, khi sửa sai ông được hạ thành
phần, xã trả lại nhà nhưng ruộng thì về tay chủ khác. Ông pha một ấm trà ngon
mời bạn bè đến chia vui rồi làm một đôi câu đối dán cửa, ý tứ thâm trầm:
Hữu phúc khán tương lai, đống lương y cựu
Vô tâm đàm dĩ vãng, điền địa canh tân.
(Hãy nhìn về tương lai vì rường cột còn nguyên. Nghĩ lại chuyện vừa rồi ruộng
đất quả thật đã có đổi mới). Không giận cũng chả buồn chỉ cười khà một tiếng.
Một anh vốn là nhân viên của công ty cấp nước, sống độc thân ở thị xã, nghe tin
vợ ở nhà ngoại tình anh liền xin về ở hẳn nhà. Vợ thì sợ nhưng anh chồng vẫn
dửng dưng như không hề biết chuyện gì. Có điều đêm đêm anh ngủ riêng, lấy cớ
trong người đang có bệnh. Sau khi dã thu thập mọi chứng cớ anh bảo vợ: "Cô
là vợ tôi nhưng cô ăn ở không chung thuỷ thì tôi đành chịu vậy. Tôi sẽ không
làm gì cả nhưng nội trong ngày cô phải ra khỏi cái nhà này". Cô vợ không
dám cãi, vào lạy mẹ chồng rồi lạy chồng, xách khăn gói về nhà mẹ đẻ. Anh chồng
cõng mẹ sang nhà hàng xóm vì bà cụ bị liệt rồi châm lửa đốt nhà. Cái nhà đó đã
bị con vợ thất tiết làm cho ô uế chỉ có lấy lửa mới rửa sạch. Công an tới lập
biên bản, anh nói: "Tôi đốt nhà tôi chứ có đốt nhà hàng xóm đâu mà phải
làm biên bản". Ngày hôm sau anh cõng mẹ lên xe đò đi lập nghiệp ở Tây
Nguyên.
Một ông già trong làng cũng là người hay làm thơ làm vè, có hai con trai là
liệt sĩ, vợ chồng đều đã ngoài bảy mươi tuổi, bạn bè cũng đã chết gần hết, làm
bốn câu thơ vịnh cái cảnh cô đơn của mình. Buồn lắm chứ mà vẫn đùa được:
Thân bằng cố hữu còn ai
Còn con vợ đó còn chai rượu này
Mơ màng nửa tỉnh nửa say
Rượu dăm ba chén thơ vài bốn câu.
Ngay ngày đầu tiên về
tỉnh Thanh, hắn đã được nghe một bài thơ nhại bài thơ: Nam quốc sơn hà
Nam đế cư... của Lý Thường Kiệt, tất nhiên của người Thanh Hoá làm để
giễu chơi cái địa phương tính của xứ Thanh:
Thanh Hoá sơn hà nam dốc xây
Tiệt nhiên định phận tại nơi đây
Như hà báo chí lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan sẽ có ngày
Và có một dị bản:
Tại sao báo chí lại xâm phạm
Chúng bay sẽ bị thất bại ngay.
Cái tính cách hào hùng,
phóng khoáng và thích tự đùa của người Thanh Hoá đã làm hắn vui lắm, tự hào
lắm. Nói thế, chứ hắn vẫn có gốc rễ là người Thanh Hoá. Nhưng còn chuyện các
danh nhân làng hắn thì sao? Thôi thì cứ viết ra đây để bạn đọc cùng xét. Làng
của hắn cũng có một hảo hán từ thời Tự Ðức là ông Mai Bá Nghiễm, trương tuần,
thấy dân tình cơ cực quá bèn mộ quân chống lại triều đình. Triều đình có ngu
cũng còn cả trăm vị đại quan làm tham mưu, còn một anh trương tuần lấy đâu ra
người có tài kinh bang tế thế để phò trợ nên mới bàn nhau cử người ra Sơn Tây
theo ông Lê Duy cự, dòng dõi nhà Lê, tôn ông làm minh chủ, ông Cao Bá Quát làm
quốc sư dựng cờ phù Lê diệt Nguyễn. Ðã là một chuyện vớ vẩn. Lại bàn nhau quân
ông Nghiễm từ Thanh Hoá đánh ra, quân ông Cự từ Sơn Tây kéo xuống cùng chiếm
lấy thành Hà Nội. Lại càng vớ vẩn hơn. Ông Nghiễm đưa quân về Vĩnh Lộc, đóng ở
Eo Lon thuộc làng Báo. Quân chưa lập xong trại, các tướng đã về thăm làng, mổ
bò giết lợn, đãi đằng bà con tộc họ, nói thánh nói tướng như đã là các bậc khai
quốc công thần. Rồi ùn ùn kéo nhau lên huyện giết viên tri huyện làm lễ tế cờ
khởi nghĩa. Nhưng chỉ đánh nhau với quân của triều đình có vài trận thì đám
quân ô hợp của ông Nghiễm tan vỡ cả, tướng chạy đằng tướng, quân chạy đằng
quân, rồi kéo nhau lên tuốt mãi Cẩm Thuỷ, Quan Hoá để trốn sự truy nã. Sau đó
triều đình cử tổng đốc Hà Duy Phiên, người Hoằng Nghĩa, làm khâm sai đại thần
về tận huyện xét xử. Làng Bồng Trung sẽ phải chia làm đôi, một nửa nhập vào
Bồng Thương, tức Biện Thượng, một nửa nhập vào Bồng Hạ tức xã Vĩnh Minh bây
giờ, xoá tên làng. Ở làng có cụ Nguyễn Bá Thân, là cụ tổ năm đời của hắn, án
sát Khánh Hoà, đang ở nhà cư tang mẹ, nguyên là bạn học cũ của ông Phiên, liền
viết một lá thư trần tình, lời lẽ thống thiết, gửi lên quan khâm sai. Các bô
lão và chức dịch trong làng mặc áo thụng xanh, quì ở dốc đò Ba Bông, miệng ngậm
cỏ, tay dâng thư lên quan đại thần khi kiệu quan vừa từ dưới thuyền lên. Chưa
đánh được người mặt đỏ như vang, đánh được người rồi mặt vàng như nghệ là thế.
Làng Bồng Trung chỉ bị thượng quan răn đe chứ không bị xoá sổ, thật là phúc đức
mười đời. Cả làng vui như ngày hội chứ không ai thấy là nhục. Một đám giặc cỏ
làm sao dám chống lại với quân của triều đình, họ nói với nhau thế.
Trong làng còn một ông quan to nữa, là cụ Nguyễn Huy Tế, làm phó Ðô ngự sử ở
Huế. Cụ Tế được vua Tự Ðức rất yêu, sai ra Thanh Hoá để thanh tra vụ động mồ mả
của dòng họ nhà Nguyễn ở đất Gia Miêu thuộc huyện Hà Trung. Mồ mả ông tiên chỉ
làng bị động dân làng còn khốn khổ huống hồ mồ mả của nhà vua bản triều. Cụ Tế
từ Huế ra về thẳng làng thăm gia tộc. Cụ về ngày trước thì ngày sau các quan
đầu tỉnh tổng đốc, án sát, bố chánh cũng về theo luôn và quỳ một dãy ở sân nhà
cụ ngự sử để chịu tội. Ông quan được vua yêu lại nhận trọng trách của hoàng tộc
giao phó lấy làm mãn nguyện lắm, nằm dài trên bộ ngựa kê giữa nhà, buông mành
không thèm tiếp. Cụ bắt họ quỳ đúng nửa buổi mới sai gia nhân vén mành gọi họ
vào tra hỏi. Rồi cụ Tế tha nhưng khi nằm cáng về tỉnh mỗi ông quan phải đặt một
cái cùm lên bụng để tỏ hình phạt đã không chăm sóc đất tắm gội của nhà vua chu
đáo. Ông giáo là trưởng họ của chi hắn, là một trí thức xã hội chủ nghĩa, khi
kể lại chính tích của một ông quan thời phong kiến mặt cứ đỏ lên vì hãnh diện.
Hãnh diện vì được là người trong họ, người cùng làng với một ông quan to được
vua yêu, đã từng bắt các quan đầu tỉnh phải quỳ gối trên nền đất của làng Bòng.
Nhưng mặt hắn vẫn bất động, vì hắn là người của văn chương, lại có tật hay
giễu, nên nghĩ thầm: "Xem ra cái mộng làm quan, được là họ hàng nhà quan,
là đầy tớ hoặc người làng của quan đã thành một thuộc tính của người mình mất
rồi".
Ðó là chuyện về hai ông nông dân cũng khá nổi tiếng của làng hắn, một hảo hán
nông dân dám làm giặc nhưng chỉ là giặc cỏ thôi chứ chưa đủ tài trí để thổi lên
thành một cuộc khởi nghĩa. Và một ông nông dân được số phận nuông chiều vừa làm
quan vừa làm gia nô cho nhà vua, õng ẹo, phách lối một cách khó chịu. Còn một
ông nông dân nữa, là con rể ông tổ năm đời của hắn, một lãnh tụ nông dân chống
Pháp tiếng tăm vang dội của tỉnh Thanh là ông Tống Duy Tân. Chiến tích của ông
nghè Tống ra sao đã được viết nhiều trong sách sử chống Pháp thời cận đại. Ông
sống rất anh hùng, chết cũng anh hùng nhưng vẫn không thoát khỏi cái tính cách
một ông nông dân ở làng, chưa phải là một thủ lĩnh có tầm nhìn xa rộng làm đổi
thay thời thế. Thời nghè Tống và giáo Thọ cùng học một thầy là cụ đốc Lê bên
Báo thì giáo Thọ học giỏi hơn, văn chương tài hoa, sâu sắc hơn được thầy yêu
bạn nể nên ông nghè có ý ghét. Khi cả hai ra Nam Ðịnh theo học hoàng giáp Phạm
Văn Nghị một bữa trở về quê cùng lại thăm thầy cũ bên Báo. Trời mưa đường lầy,
hai ông học trò xéo đất vào nhà thầy, thầy lấy dép đưa cho giáo Thọ rửa chân
rồi bảo con đưa cho nghè Tống đôi guốc mộc. Lúc ngồi uống trà thì trò Thọ được
ngồi ngang với thầy, còn trò Tống thì phải ngồi dưới. Ghen cũ cộng với ghét mới
sinh thù. Khi ông nghè vâng chiếu Cần Vương đánh Pháp thì việc đầu tiên là cho
hương binh bắt giáo Thọ trói ở sân đình Bòng vu cho ông ta chống Cần Vương, đợi
giờ chém. Ông chú ruột của ông nghè biết tin liền chạy ra bảo cởi trói cho giáo
Thọ rồi về mắng cháu: "Giặc chưa đánh được trận nào cho dân vui đã tính
chuyện trả thù nhau. Còn ai muốn theo các anh nữa". Trong làng còn một ông
tướng võ là cụ Ðề Ðiếm, thuở hàn vi làm nghề chống đò đồng, tên huý là Ðóm, nằm
ngoài sổ đinh để khỏi đóng thuế. Khi lấy lính cụ đi thế cho con một nhà giàu
trong làng, vào Huế gặp kỳ thi võ, cụ xin ứng thí trúng phó bảng, đi đánh trận mười
năm được thăng đến đề đốc, lãnh chức tổng binh giữ thành Nam Định. Cụ là người
có sức khoẻ chứ không có học vấn, khi một ông quan hầu nhóm dòng chữ lạc khoản
của một bức đại tự không rõ, cụ liền giơ hai bàn tay cho người kia đứng lên mà
nhìn. Vì cụ Ðiếm vô học nên ông nghè có ý khinh, gặp dịp ra chơi với bạn đồng
môn là tổng đốc Nam Ðịnh, tuy có mời cụ Ðiếm sang dự tiệc nhưng hai ông quan
văn toàn quay mặt vào nhau nói chuyện văn thơ, bỏ mặc ông quan võ ngồi uống
rượu một mình. Làm thủ lĩnh mà không có chính sách chiêu hiền, toàn dùng con
cháu vừa dốt nát vừa hách dịch nên người thiên hạ mới có thơ:
Khoa mục chi mày hỡi Tống Tân
Rõ phường nát nước với hư dân
Cứ tưởng dài đuôi là kín đít
Toan đem khố rách để trùm chân.
Các ông bà nông dân, dẫu
là hào kiệt, nếu chỉ với vốn liếng sẵn có, nhiều lắm cũng chỉ làm loạn được ở
một địa phương trong vòng vài năm, dăm bảy năm. Nếu làm một cuộc khởi nghĩa
thay đổi vương triều hay chống xâm lược thì phải có minh chủ, có quân sư giỏi
và tướng tài, để có cách nhìn, cách nghĩ vượt ra khỏi cái hạn hẹp của người làm
ruộng. Nhưng chỉ như thế thôi họ cũng không thay đổi được thời thế. Vì người
tiểu nông hay nói cho rõ hơn chế độ phong kiến đã không còn đủ tư cách thay đổi
thời thế. Trường hợp của vua Gia Long là một ví dụ. Nhà vua là người lãnh đạo
tài ba nhất của triều Nguyễn, nhưng sau khi đã thống nhất được giang sơn, ông
cũng không biết phải làm gì để vượt khỏi những thiết chế về chính trị, kinh tế
và xã hội đã quá cũ kỹ của các vương triều trước. Lẽ ra ông ấy phải nhanh chóng
thay đổi lại tất cả theo mô hình những quốc gia tiên tiến để bước vào thế kỷ
19, phải có một quân đội, một đường lối ngoại giao và trên tất cả là một cách
quản lý xã hội của thế kỷ mới thì mới tồn tại và phát triển được, mới giải
quyết nổi những vấn đề sẽ nảy sinh trong đối nội cũng như trong đối ngoại mà
con cháu ông sẽ phải đối đầu. Quá nửa thế kỷ 19 cả triều đình nhà Nguyễn cứ lúi
húi vào những chuyện không đâu vì họ chỉ có một quốc sách hết sức hủ lậu, đóng
chặt cửa để người trong nhà dạy nhau. Nhưng trên thế giới đã xuất hiện chủ
nghĩa đế quốc và các cường quốc công nghiệp đang tranh chấp nhau các vùng đất
còn vắng chủ để sinh tồn thì chả có quốc gia nào đóng cửa được. Nhà Thanh cũng
chủ trương đóng cửa để dạy nhau thì họ nã đại bác vào cho các cánh cửa phải mở
tung rồi ùa vào cả lũ vồ xé con mồi vừa say thuốc phiện, vừa quá mỏi mệt vì
những cuộc chém giết lẫn nhau trong nước, thành hàng trăm mảnh nhỏ cho dễ nuốt.
Mình mà thoát được ư? Chả phải chỉ tại vua quan nhà Nguyễn quá hèn yếu mà bị
mất nước, cho dẫu là anh hùng, hào kiệt lãnh đạo quốc gia ngày ấy cũng phải
thua vì chúng ta đã là người của thế kỷ 16, 17, có khi còn xa xưa hơn nữa, bỗng
chốc phải đối mặt với một đội quân xâm lược của thế kỷ 19, là người cổ xưa đánh
nhau với những tên ăn cướp hiện đại, là sự tù đọng váng mốc chống lại với dòng
chảy của sự phát triển, dẫu cả triệu người dám banh ngực xả thân thì vẫn cứ là
thua. Theo sự đọc của bạn hắn là nhà văn Nguyên Ngọc thì cụ Phan Chu Trinh đã
từng nói: "Ta với Pháp còn cách nhau cả một thời đại", đó là cái khó
của mọi cái khó. Vậy tại sao Việt Nam lại thắng Pháp, sau này lại thắng cả Mỹ
với những hành trang cũ kỹ đến vậy? Hắn cũng tự hỏi nhiều năm cái câu hỏi ấy,
về già mới vỡ lẽ vì ngay từ những năm 30 của thế kỷ trước những nhà cách mạng
Việt Nam đã phải chuẩn bị một chính đảng, một quân đội, một nền ngoại giao, một
hình thức quản lý xã hội của thế kỷ 20, là những người yêu nước của hôm nay
chống lại bọn xâm lược của hôm nay. Là cái chính nghĩa, cái mưu kế, cái anh
hùng của một nước nhỏ thời hiện đại chống lại sức mạnh và những âm mưu gian
trá, xảo quyệt của những nước lớn thời hiện đại. Còn về cái cơ sở vật chất của
hai cuộc chiến tranh yêu nước thì đã có Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em
khác hiệp lực chi viện rất khẳng khái rồi. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, viện
trợ các nước thành hàng đổi hàng hoặc tính bằng tiền thì chúng ta rơi ngay vào
những cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội. Nói cho rành rọt hơn là cái cơ sở
kinh tế của một xã hội tiểu nông không thể nuôi sống những thiết chế chính trị,
xã hội được tổ chức theo mô hình một xã hội công nghiệp hiện đại. Cái cơ thể
lớn mạnh ấy đòi hỏi một loại dưỡng chất khác. Ðó là một nền kinh tế nhiều thành
phần mà người tổng quản lý là cơ chế thị trường, nhân dân không còn là một hình
tượng mơ hồ, có tính tượng trưng mà đã trở thành người tiêu dùng, là khách
hàng, là thượng đế, quyết định sự thành bại của mọi nền kinh tế.
Làng Bòng của hắn là làng của nhiều danh nhân và anh hùng. Ông Mai Bá Nghiễm là
một anh hùng, ông Ðề Ðiếm là một anh hùng. Ông giữ thành Nam Ðịnh đánh nhau với
quân Pháp suốt mấy ngày, rồi quan chạy đằng quan, quân chạy đằng quân nhưng ông
vẫn chống cự cho tới lúc bị trúng đạn xổ ruột mới quấn bụng nhảy lên ngựa chạy
về ý Yên và chết ở dọc đường. Dân làng Hào Kiệt tháo cánh cửa chùa đóng hòm
chôn ông dưới chân ruộng rồi cấy lúa lên trên. Ba năm sau bà vợ từ Thanh ra,
xin hài cốt chồng gói vào tấm vải bố đặt lên lưng con ngựa chiến đã già vẫn
quanh quẩn bên mộ chủ suốt ba năm. Rồi một bà lão và một con ngựa già đi bước
một trở về Bòng. Một cảnh tượng hào hùng làm nôn nao nhiều thế hệ, đẹp như một
bản tráng ca. Lúc ông nghè Tống bị Pháp bắt, đưa ra cầu Hạc chém đầu, ông còn
tung vòng khăn nhiễu bịt tóc cho đao phủ, lấy vành tre vạch xuống đất hai câu
thơ:
Nhi kim thuỷ liễu tiền sinh trái
Tự cổ lưu truyền bất tử danh. [2]
Một cái chết cũng thật anh hùng. Những anh hùng hào kiệt sinh vào một xã hội đã
lạc thời, đã thành cổ hủ thì cũng chỉ dâng hiến cho tổ quốc được đến thế. Họ
không thể làm hơn được, chí họ thì lớn nhưng tài họ rất có hạn vì đầu óc chân
tay bị trói buộc bởi những học thuyết lẩm cẩm từ đời cha đời ông nên không nghĩ
xa được, không nghĩ rộng được, lại bị nhiễm từ nhiều đời những thói xấu cố hữu
của người nông dân, nên trở thành những anh hùng bất đắc chí, chỉ nên ngưỡng mộ
họ từ xa, chứ nhìn quá gần cũng dễ nản lòng lắm, tội nghiệp lắm. Hắn ở lại Bòng
cả tuần, nghe đủ mọi chuyện của làng, chuyện anh hùng của thời xưa và nhiều
chuyện rất kinh dị của thời nay, lắm lúc buồn quá lại ra bờ sông Mã ngồi ngắm
những con thuyền chở hàng lớn chạy buồm từ Hàm Rồng ngược Cẩm Thuỷ cho kịp
phiên chợ, chạy ngược dòng vừa chèo vừa chống. Cách đây mới có vài chục năm khi
thuyền chạy buồm xuôi theo dòng nước vẫn có ba đoạn phải kéo nếu không có gió,
chứ không được chèo sợ chạm long mạch. Ðã có câu ca "Tràng Lang, Xóm Lổ,
Báo Bòng - Qua ba khúc ấy mặc lòng ngược xuôi". Báo Lòng là đất của vua
chúa. Làng Bòng là đất của con cháu Nguyễn Bặc, thuỷ tổ của triều Nguyễn. Làng
Báo là đất đã sinh ra Trịnh Kiểm, ông tổ của dòng chúa Trịnh thời Lê Trung
Hưng. Ngồi nghe những câu hò: Ê... ê... ê... ngân dài của đám "hốp
đò" chống những cây sào tre dài bảy, tám mét đầu bịt khâu sắt để khỏi
trượt khi cắm vào ghềnh đá bước ngược thuyền lại càng buồn như tiếng rên sầu
thảm của những anh hùng không thoả chí từ dưới đáy sông vang vọng ngược lên.
19.
Có lần nói chuyện với thằng con lớn, hắn có phàn nàn mẹ nó dạo này thay đổi
tính nết lạ lùng quá, là một người đàn bà hoàn toàn khác chứ không còn là người
vợ đã từng chung sống non nửa thế kỷ. Hắn nói: "Tại sao mẹ mày lại làm khổ
bố thế nhỉ, lại có thể ngờ vực bố có ngoại tình? Lúc trẻ thì tin về già lại
không thể tin, chả lẽ bố còn trẻ lắm hả? Là một ông già bảy chục tuổi đầu rồi,
sắp ra nghĩa trang nằm rồi! Thở còn không được nói gì chuyện trai gái!"
Thằng con cười một cách dễ ghét, như là một chuyện rất vớ vẩn, rất nhỏ nhoi,
không đáng để ý mà những người già cứ thích làm cho to chuyện. Nó nói:
"Nếu bố hoàn toàn trong trắng việc gì bố phải giận dữ đến thế, nói một
điều không có chả lẽ nói mãi nó thành có à?" Hắn nói gần như rít trong kẽ
răng: "Cái số tao cũng là cái số không ra gì, thuở nhỏ thì bị ông nội mày
vu tao là thằng ăn cắp, về già lại bị mẹ mày vu là tao có ngoại tình!"
Thằng con nhìn hắn cười nhỏ: "Lại còn không ra gì, như thế nào mới là ra
gì?" Hắn ngồi nghĩ ngợi một lát rồi bảo con: "Có thể cũng là một dạng
bệnh tâm thần, bệnh tâm thần phân liệt chả hạn, lấy chuyện ảo làm chuyện
thật..." Thằng con nói: "Chả có tâm thần gì đâu, một cách trả thù đấy
thôi" - "Cái gì trả thù?" - "Bố là người thắng mẹ là người
thua, bố được cả, mẹ gần như mất hết" - "Cái gì mất hết...?" -
"Xưa kia mẹ là người đẹp, lại rất khoẻ mạnh, lại có cơ quan, có bè bạn, có
việc làm hàng ngày. Sau mấy chục năm đẻ con nuôi con, bây giờ đã thành một bà
già bệnh tật, xấu xí, không có việc để làm, không có bè bạn để trò chuyện,
không có gì hết ngoài chồng và con". Hắn nói vội: "Ðấy, đấy, chồng
con là tài sản của mẹ mày, chồng con thành đạt tức là mẹ mày đã được nhiều, đâu
có thua kém ai..." Thằng con vẫn còn đều đều: "Vẫn thua chứ bố, trong
gia đình mình mẹ là người chịu thiệt nhiều nhất, thua đậm nhất". Hắn nói
đã hơi gắt: "Thời xưa các bà vợ, bà mẹ chả đòi hỏi gì hơn là được hy sinh
cho chồng con. Chồng con không làm gì nên vẫn chả phàn nàn một tí nào, vẫn rất
thoả mãn vì đã làm tròn mọi bổn phận". Thằng con cười nhỏ: "Sao bố
lại ví thời nay với thời xưa, mỗi thời mỗi khác chứ?" Hắn nói ương bướng:
"Có nhiều cái khác nhưng cũng có nhiều cái không khác, như cách ăn ở, cách
cư xử trong gia đình của các bà vợ, bà mẹ của Việt Nam". Thằng con vẫn
cười: "Người dân hồi xưa chỉ cần cơm no áo ấm là đã rất bằng lòng. Nhưng
bây giờ họ còn cần cả tự do và dân chủ nữa. Mấy vụ lộn xộn ở mấy xã của Thanh
Hoá ngày nọ của Thái Bình mới đây đâu phải vì dân đói cơm, họ chỉ đói có cái
quyền dân chủ của mình mà thôi. Các bà vợ cũng thế, xưa kia có chồng con là
người sang trong nước là đủ mãn nguyện, nhưng nay thì không thể đủ, còn tôi nữa
chứ, tôi có phải là con đầy tớ đâu mà không được tính đến?" Hắn lắng nghe
mặt mũi cau có, nghe thì phải nhưng vẫn có cái gì chưa hẳn là phải, nó ngược
lại với thói quen, với cách nghĩ vốn có của hắn. Hắn nói lầm bầm: "Người
đàn bà là trụ cột của gia đình, là nội tướng, làm gì có chuyện chia ra là tôi,
là anh, là chúng nó. Mày cứ bày đặt..." Thằng con lại hỏi, trong câu hỏi
đã có ý giễu: "Một thành viên của cộng đồng phải có nghĩa vụ với cộng
đồng, nhưng không bao giờ được xem là một với cộng đồng. Cộng đồng có quyền lợi
của cộng đồng, cá nhân có quyền lợi của cá nhân. Nếu những người lãnh đạo quốc
gia và những ông chủ gia đình lại cố tình quên đi những cái quyền của cá nhân
là họ sẽ gặp rắc rối đấy. Như bố chẳng hạn?" Hắn lại gắt: "Tao là
người viết văn, không viết về các số phận cá nhân thì viết cái gì?" -
"Bố viết về người khác thì thế. Nhưng thử viết về chính mình xem sao? Chỉ
có một ông chủ rất sáng chói và những thành viên loè nhoè của một gia đình. Và
cái gia đình ấy phải có nghĩa vụ phục vụ ông chủ, hoà làm một với ông chủ, vì
ông chủ thành danh thì cả mọi người đều có danh. Nhưng con cũng muốn có cái
danh riêng của con chứ, mờ nhạt hơn bố cũng được nhưng là của riêng con" -
"Chúng mày vẫn nghĩ như thế à?" - "Có một ví dụ rất cụ thể, cái
bữa mấy anh quay phim tới đây, họ muốn bọn con phải có mặt cùng với bố, nhưng
có đứa nào chịu ngồi cạnh bố đâu, nó trốn hết. Chỉ có con buộc phải có mặt
thôi, vì con không thể trốn, và một thằng cháu ngoại nó thích chụp hình quay
phim nên nó cũng không trốn... Ðừng có nghĩ một nước đã vẻ vang thì muốn đối xử
với người dân thế nào cũng được. Cũng như ông bố đã vẻ vang thì có thể bắt vợ
con làm tôi làm tớ cho mình cũng vẫn được. Nghĩ thế là nhầm!" Hắn hỏi thăm
dò: "Vậy không phải là mẹ mày ngờ tao có ngoại tình thật, mà là..."
Thằng con lại cười: "Mẹ tự xem đã là người bỏ đi rồi, không còn giúp gì
được cho chồng cho con nữa, là người ăn bám hoàn toàn nên một cái nhăn mặt, một
câu nói gắt, một cử chỉ tỏ ra lạnh nhạt của bố thì mẹ không thể bỏ qua như hồi
còn trẻ đâu. Ðó là sự hắt hủi, sự ghê sợ của bố đối với một người vợ đã hoá ra
xấu xí, đã hoá ra gai mắt chỉ muốn bỏ đi, muốn vứt đi. Nhưng bỏ thế nào được,
vứt thế nào được vì mẹ vẫn là vợ của bố, là mẹ của chúng con, vẫn có quyền
khuấy đảo cuộc sống của bố cả ngày lẫn đêm khiến bố phải nổi điên nếu mẹ
muốn".
[1]Dịch nghĩa:
Luật Hàn cất tiếng mới, sau đời Lý, trước đời
Lê, văn phái mở riêng cõi Hoa Việt
Cá sấu (lặn) im sóng dữ, sông Lô, biển Triều, đền thiêng thờ phụng trời Bắc Nam
Ý câu này nói về công của Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) người nghĩ ra chữ Nôm, thơ
Nôm và làm văn tế đuổi cá sấu.
[2]Tạm dịch :
Món nợ tiền sinh nay mới trả
Cái danh bất tử trước còn truyền
20.
Xưa nay hắn vẫn chủ
trương những năm tháng ngắn ngủi của một đời người không nên tiêu phí nó vào
những chuyện vô ích, không đâu để có thể dành tất cả cho sáng tác. Hắn ngắm
nhìn nhiều bậc đàn anh trong nghề, tài năng lớn hơn hắn nhiều, học vấn cũng sâu
rộng hơn hắn nhiều nhưng làm nghề cứ như nhà văn nghiệp dư. Họ sinh ra để làm
văn làm thơ nhưng được nửa chừng lại chuyển sang làm anh viên chức nhà nước,
ngày ngày xách cặp ngồi xe, tham dự đủ mọi cuộc họp, không họp lớn thì họp nhỏ,
không có một lúc nào được ngồi một mình, không có lúc nào được nhàn rỗi để đọc
sách, để đi chơi với bạn bè tán lếu tán láo, lúc nào cũng công việc, cũng nghị
quyết, cũng báo cáo, một đời người chỉ được tiếp xúc với cuộc sống gián tiếp,
cuộc sống đã được nguyên tắc hoá, công thức hoá theo một quan điểm, một cách
nhìn nên các nhà văn công chức chỉ có thể viết rất giống nhau, sự khác nhau chỉ
còn ở sự già tay hay non tay trong nghề mà thôi. Các nhà văn viên chức ấy
thường nói với bạn bè và với chính mình, khi nào rời bỏ được các chức vụ mà vì
anh em họ phải gánh vác, họ sẽ bắt tay vào công việc chính của đời mình: ngồi
viết. Nhưng cái thói quen làm công chức suốt mấy chục năm đã không buông tha
họ, họ không thể không được trịnh trọng mời phát biểu tại các cuộc họp. Ðược đi
họp, được mời ngồi hàng ghế đầu tại các cuộc họp đã là lẽ sống của họ mất rồi.
Họ bấu víu vào cái hôm nay mà quên mất cái họ có thể để lại cho mai sao.
Nói thế chứ hắn cũng đã mất vài năm ra Bắc vào Nam để giữ một chức vụ hữu danh
vô thực ở Hội Nhà văn. Rút cuộc là hắn thua, vừa mất thì giờ vừa thân bại danh
liệt. Là vì ở xứ ta trong nhiều chục năm (và trong nhiều thế kỷ) chỉ có làm
quan mới là người danh giá, được xã hội tôn trọng, bạn bè nể nả, vợ con cũng
được vênh vang. Một xã hội mà cả mọi người nếu không là công nhân, viên chức
nhà nước thì cũng là xã viên, hội viên của một tổ chức sản xuất hoặc kinh doanh
nào đó, không có nghề tự do, không một ai được làm một việc gì hoàn toàn tư
nhân cả. Những người buôn bán nhỏ ở các thành thị là những người sống khốn khổ
nhất, kiếm sống đã vất vả lại không được khuyến khích, không được tôn trọng,
lại bị các ông thuế, ông quản lý thị trường hành hạ vặt. Ngay như những người
xưa nay vốn được xem là làm nghề tự do như các nghệ sĩ chẳng hạn cũng phải sinh
hoạt trong các hội nghề nghiệp, các đoàn nghệ thuật của các nhà hát, và vẫn
phải đi họp, vẫn phải có người lãnh đạo và nhiều người bị lãnh đạo. Và các đại
hội của các hội nghệ thuật ấy vẫn mất rất nhiều thì giờ để bàn cãi, cân nhắc sẽ
cử những ai vào cơ quan lãnh đạo. Nên làm quan là con đường duy nhất để tiến
thân, là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xem xét giá trị một con người, là những
lo âu đến cháy ruột, là sự sung sướng đến phát cuồng của nhiều người vốn đã có
danh trước khi có quyền. Vì cái danh trong nghề xem ra chả được ai trọng cả.
Nhà văn Trần Công Tấn có nói với hắn một chuyện: Năm ông Chế Lan Viên còn sống
có lần ông về thành phố họp (vì nhà ông ở mãi đuôi quận Tân Bình) nên Tấn rất
muốn mời ông anh về cơ quan mình ăn bữa cơm trưa thật đàng hoàng liền nghĩ ra
một mẹo, nói với ông Tổng cục trưởng, rằng có nhà thơ Chế Lan Viên, là đại biểu
Quốc hội nhiều khoá, hiện đang có mặt... Lập tức ông kia liền ra lệnh cơ quan
phải tổ chức tiếp ông đại biểu quốc hội ngay, tiếp thật đàng hoàng. Chứ nếu chỉ
nói là nhà thơ thì có khi ông kia sẽ hỏi lại: "Là nhà thơ à, là nhà thơ
tại sao ta lại phải tiếp?" Cũng như có một ông cán bộ cũng vào cấp lãnh
đạo kha khá bảo một trợ lý nhân nghe nói về Nguyễn Du: "Nếu có gặp ông ấy
nhớ mời lại cơ quan mình chơi, nói là mình mời". Chả cứ nhiều nhà lãnh đạo
coi thường những văn nghệ sĩ chả có chức tước gì, chỉ là nghệ sĩ thôi, mà ngay
cả đám doanh nhân trẻ mới đây cũng cậy có tiền coi các nghệ sĩ như một món nhắm
của họ lúc tiệc tùng. Một bữa có một doanh nhân trẻ và đám bạn của y mời ông
Chế và hắn tới dùng cơm tối tại một nhà hàng sang trọng ở quận 5, có xe đưa
rước hẳn hoi. Hai anh em đã nửa năm mới được gặp nhau, mừng quá, cứ dính vào
nhau nói đủ thứ chuyện, nói cả nửa giờ, cuối cùng cái đứa bỏ tiền phải nói một
cách chả lịch sự chút nào: "Chúng em mời cơm hai bác để các bác nói chuyện
với chúng em, chứ đâu phải để các bác nói chuyện với nhau". Cả hai đều
ngượng, ông Chế nhìn hắn cười cười: "Ờ nhỉ, bọn mình vô ý quá, các anh
muốn nghe chuyện gì nào?" Năm hắn còn ở quân đội, quân hàm đại tá nhưng
chả có chức vụ gì, chỉ là anh phóng viên viết báo thôi, lại được giới thiệu
trong danh sách các ứng cử viên đại biểu quốc hội của thành phố, khiến cả mọi
người ở số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm (cơ quan đại diện của Tổng cục Chính trị ở phía
Nam) rất ngạc nhiên. Họ nhìn hắn một cách giễu cợt, một anh chân trắng lại được
bầu là đại biểu quốc hội, có nhầm không đấy? Hẳn là một cái tên trong vài tên
trong một danh sách bầu để người đi bầu gạch ấy mà, chứ nước non gì! Mà hoá ra
hắn lại trúng cử với số phiếu rất cao! Hắn cũng ngạc nhiên, bà con Củ Chi, Hóc
Môn thì biết gì về hắn mà dám bỏ phiếu cho hắn. Về sau mới vỡ lẽ, họ nhầm hắn
với phó thủ tướng Phan Văn Khải, người ra ứng cử ở đất Củ Chi (quê hương của
ông) chỉ có thể là ông Sáu Khải, chứ làm gì có một anh chàng Nguyễn Khải, chả
có chức tước gì kèm theo, nào khác. Lần đầu tiên hắn được mời đi họp Ðoàn đại
biểu Quốc hội của thành phố tại ngôi nhà tiếp dân của các nghị sĩ lại đi xe đạp
nên ông thường trực vội ngăn hắn và bảo: "Bữa nay các vị đại biểu quốc hội
đang họp, xin mời bác lại khi khác". Thì ra hắn có một bản mặt rất là dân,
không trộn lẫn với quan được. Do đó hắn vẫn thèm được làm quan, dẫu là một chức
quan nhỏ hắn cũng không muốn bỏ lỡ, nên khi cấp trên gọi hắn ra Hà Nội để chuẩn
bị sau Ðại hội Nhà văn sẽ làm người lãnh đạo Hội là hắn lao ra liền, dẫu hắn
chưa làm cái nghề quản lý bao giờ, lại có tính lười và thiếu quyết đoán. Nhưng
cấp trên tính không bằng hội viên tính, đại hội phải bầu lần thứ hai cho đủ số
uỷ viên Ban chấp hành hắn mới trúng cử, mà cũng chỉ trúng với số phiếu thấp,
quá bán một tí thì phải. Thế là hắn đành phải chấp nhận cái ghế ngồi ghé, nói
leo, tất nhiên cũng có bẽ bàng một chút, nghĩ rằng "hạ sơn" để làm
vương làm tướng gì, hoá ra... Như một đền bù, về hoạn lộ thì hắn thất bại nhưng
về nghề nghiệp hắn lại viết được một cuốn sách rất khá, theo dư luận. Ðó là
cuốn tiểu thuyết: Một cõi nhân gian bé tí, chỉ viết về những người
thất bại. Thất bại ở chính trường, thất bại ở tuổi già, thất bại vì sự cô đơn
lúc cuối đời, thất bại không do mình gây ra mà do những ràng buộc vớ vẩn từ một
quá khứ. Nỗi buồn của họ, tiếng kêu ai oán của họ như từ thẳm sâu của những
kiếp người vọng lên nên nó có một vẻ đẹp riêng, nó gần gũi với con người, nó
thuộc về những thăng trầm của một đời người, là những rủi ro một khi đã va phải
nó rất khó rũ bỏ. Nó trở thành những hình tượng nghệ thuật để cái cõi nhân gian
bé tí nhìn vào đó mà ngẫm nghĩ và được an ủi. Trong mọi thất bại của con người
ta chỉ có cái thất bại về hoạn lộ là không nên biết và cũng không nên viết vì
nó nhơ bẩn và buồn cười. Khi ông Khơrútsốp, một nhân vật lừng lẫy tiếng tăm một
thời, bị tước mọi quyền lực, bị buộc phải nghỉ hưu, có một phóng viên nước
ngoài hỏi đứa cháu ngoại: "Lúc này ông cháu ở nhà làm gì?" Ðứa bé trả
lời rất hồn nhiên: "Ông cháu chỉ ngồi khóc thôi".Ở nước ta cũng có vị
phải ra khỏi trung ương sau nhiều khoá ở trung ương cũng đã bật khóc, nghe nói
nước mắt ngắn dài suốt mấy năm, nhà như có tang suốt mấy năm. Con người đã nhỏ
lại rất nhiều bởi tiếng khóc ai oán của họ và của vợ con họ.
21.
Nhà thơ lớn của dân tộc
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng là một ông tổ của hắn nhưng khác chi. Chi cụ
Thiều thuộc ông tổ Sảng quốc công Nguyễn Văn Lỗ, là con thứ năm của Hoằng quốc
công Nguyễn Công Chuẩn được xếp vào hàng công thần Bình ngô khai quốc, được ban
quốc tính Lê. Còn chi của hắn thuộc ông tổ Châu quận công Nguyễn Như Hiếu là
con thứ ba của cụ Chuẩn. Trong số con cháu của cụ Lỗ có Thọ Dương Hầu Nguyễn
Hựu là tướng của Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm, đi đánh quân nhà Mạc ở vùng Gia Lương
rồi lấy vợ ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thuộc trấn Kinh Bắc.
Qua mấy đời nữa mới đến đời cụ Nguyễn Gia Ngô (có sách viết Nguyễn Gia Cư) tước
Ðạt Vũ Hầu lấy con gái Trịnh Cương, sinh ra cụ Nguyễn Gia Thiều. Cụ Thiều là
cháu ngoại của Chúa, được ở trung phủ Chúa từ nhỏ, thuộc dòng dõi cành vàng lá
ngọc, có tài cả văn lẫn võ, lại am hiểu cả nhạc và hoạ mà không được Chúa trọng
như các cháu bên nội. Ông là người vừa hám công danh lại cũng ham chơi, có máu
văn nghệ mà. Nhưng nhà cầm quyền cần người trung thành, tận tuỵ, sai đâu làm
đấy, không cần bằng cấp gì, văn chương gì như đám kiêu binh lấy từ trong Thanh
ra chả hạn. Nên Trịnh Sâm xem ông như một vật trang trí trong phủ Chúa, chỉ
dùng vào những việc vui, văn thơ, đàn hát và trông nom việc trang trí trong nội
phủ. Ông là cháu gọi Trịnh Doanh là cậu, là anh em con cô con cậu với Trịnh Sâm
mà không có vai vế gì ở lục phiên cả, lại là người có tài ăn nói, chắc cũng hay
ngứa miệng nói năng ngông nghênh gì đó, thiếu gì chuyện để nói ở cái thời Trịnh
Sâm, Ðặng Thị Huệ và ông em đa dâm, hiếu sát của bà ta. Nên nhà Chúa mất lòng,
tỏ ra lạnh nhạt với ông, và không mời ông tham dự những buổi yến tiệc trong
cung vua phủ Chúa, về sau cũng không được tự do ra vào nơi cung cấm nữa. Tới
năm 1782, sau nhiều năm lặn lội trong bể hoạn ông mới được thăng chức Tổng binh
Ðồng tri, Ðồng tri là cùng xem xét, tức chỉ là ông phó tổng binh thôi, rồi đưa
đi dẹp loạn ở miền thượng du thuộc Hưng Hoá, giáp mặt với quân biên viễn nhà
Thanh. Cái chức Lưu thủ Hưng Hoá không phải là thăng mà là giáng, là bị biếm,
là đi đầy, vì đã có câu, quan ngoài nhất phẩm không bằng quan trong nhị tam
phẩm. Còn cái tước hầu của ông ngày ấy cũng chả phải sang trọng gì. Ðến một anh
Tầu bốc thuốc cho Trịnh Cán còn được phong hầu nữa là. Nhưng ông đâu có chịu ở
liền trên đó mà hay bỏ nhiệm sở về chơi bời ở Tây Hồ sớm tối cùng nhóm bạn
rượu, bạn thơ lúc bàn về thời thế, lúc bàn về nhân tình thành nhóm "tứ
linh tửu hữu" được người kinh kỳ tặng hai câu thơ:
Quần cư Nam Việt ốc Tây Hồ
Thi tửi ngang tàng hảo trượng phu.
Ðã là hảo trượng phu thì không thể làm hảo gia nhận được. Ân sủng của nhà Chúa
với ông chấm dứt từ đây, đã làm nhà thơ thì không thể làm đầy tớ, muốn làm đầy
tớ thì không nên mơ mộng đến văn thơ. Xưa nay người của phú quý không thể là
người của đạo lý, vừa muốn làm quan to lại muốn làm cả thi hào, tham thế! Nên
ông mới mượn lời của cung nữ đã từng được vua yêu chúa dấu bỗng chốc bị bỏ quên
mà than thở nhớ tiếc cái thời vàng son ấy:
Ngày sáu khắc tin mong, nhạn vắng
Ðêm năm canh tiếng lắng, chuông rền
Lạnh lùng thay giấc cô miên
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u!
Tiếng kêu bi thương của
cô cung nữ - Nguyễn Gia Thiều rền rĩ suốt 356 câu thơ, chả có câu nào muốn dứt
hẳn cái quá khứ nhơ nhớp của kẻ tôi đòi, kẻ giúp vui để trở về với cuộc đời tự
do như bản tính của một nhà thơ đòi hỏi. Nên vẫn còn: Ðè chừng nghĩ
tiếng tiểu đòi - Nghiêng bình phấn mốc mà dồi má deo. Trong phả viết ông là
người không thích vinh hoa phú quý, tự xưng là Hi Tôn Tử và Như ý Thiền, lấy
thi tửu cầm kỳ, nghiên cứu Phật học, Lão học làm vui. Nhưng đọc thơ của ông hắn
chẳng tin một tí nào về sự đánh giá ấy. Một người đã vào cõi ung dung tự tại,
không nhuốm chút bụi trần nào thì làm sao viết nổi những câu thơ da diết những
nhớ thương, những luyến tiếc những ngày vui đã qua:
Ðêm hồng thuý thơm tho mùi xạ
Bóng bội hoàn nhấp nhá trăng thanh
Mây mưa mấy giọt chung tình
Ðình trầm hương khoá một cành mẫu đơn.
Trong thơ có mùi của
quyền quý, có cả mùi của da thịt, một người lòng đã dửng dưng trước mọi cám dỗ
thì cảm thế nào được những tình ấy, dùng thế nào được những chữ ấy. Và cả những
câu oán hờn như nghiến răng mà viết, như đã chất chứa bao nhiêu thống khổ, bao
nhiêu căm tức mà viết:
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Tiếng thở dài của cô cung nữ - nhà thơ mới tội nghiệp làm sao, mới tầm thường
làm sao!
Mồi phú quý nhử làng xa mã
Bả vinh hoa lừa gã công khanh
Giấc Nam kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Ðọc thơ của Ôn Như Hầu
hắn cứ lấy làm lạ tại sao ông có thể nhập vào da thịt, vào tận chỗ sâu thẳm
trong tâm hồn cô cung nữ bị đấng quân vương ruồng bỏ tài tình đến vậy, như ông
viết về thân phận của chính ông, nói thế cũng chưa đủ, như chính ông đã từng là
đàn bà, đã từng là cung nữ. Ngay cả lối cấu trúc câu thơ cũng khác nhiều
với Kiều, với Chinh phụ ngâm trật tự các từ ngữ cứ
xáo trộn cả lên khiến người đọc phải ngạt thở, phải quặn gan quặn ruột: "Mùi
tục luỵ lưỡi tê tân khổ - Ðường thế đồ gót rỗ kỳ khu" - "Cuộc
thành bại hầu cằn mái tóc - Lớp cùng thông như đúc buồng gan". Ðã từng
là đàn bà ư? Ðã từng là cung nữ ư? Lại có thể thế được sao? Lạ nhỉ! Khó hiểu
nhỉ! Phải tới năm hắn đã ngoài bốn mươi tuổi tình cờ được nghe một chuyện cũng
hơi bất ngờ đối với hắn, dần dần hắn mới vỡ lẽ...
Cách đây đã ba chục năm, một lần về công tác tại tỉnh N. hắn vừa bước vào văn
phòng tỉnh uỷ thì gặp ngay anh M. là thường vụ tỉnh uỷ phụ trách tuyên huấn,
anh liền kéo hắn ra ngoài hành lang, nói nhỏ: "Này, mình dặn cậu, nếu ông
Ð. (bí thư tỉnh uỷ) có hỏi cậu về cái vườn hoa mới làm lại của tỉnh uỷ thì cứ
khen là rất đẹp nhá, đừng có sáng kiến này nọ mà khổ bọn văn phòng". Thì
ra có một ông nhà báo khi được bí thư tỉnh uỷ hỏi đã nói: "Nếu có thêm vài
khối đá đặt rải rác chỗ này chỗ kia thì sinh động hơn". Thế là ngày hôm
sau văn phòng phải lấy một cái xe tải lên tận một huyện giáp núi khuân đá về
đặt vào vườn hoa theo lệnh của người lãnh đạo cao nhất tỉnh. Anh M. lại kể có
lần Ban thường vụ tỉnh uỷ ra một quyết định, cũng đã bàn bạc với ông già, ông
già cũng đã đồng ý rồi, đột nhiên lại bảo nên hoãn, chưa nên làm. Thường vụ hỏi
lại nếu không làm thì sẽ trả lời với Ban chấp hành ra sao thì ông nín thinh rồi
bỏ họp vùng vằng xách cặp về.
Thường vụ liền cử anh M. đến tận nhà bí thư lấy tình chú cháu mà thuyết phục
(ông Ð. là bạn tù với ông già của anh M.). Ông bí thư buông màn nằm quay mặt
vào tường, M. phải gọi mấy lần ông vẫn không lên tiếng. Ông già lão thành cách
mạng về già trở lại tính trẻ, hay hờn hay dỗi như đàn bà. M. phải tụt dép vén
màn, ngồi vào trong giường lay vai bí thư nói như nói với một giá đồng cô:
"Cháu đây mà, chú quay lại nói chuyện với cháu đi nào..." Ông nói
gắt: "Chúng mày đã quyết định thì cứ thế mà làm, hỏi han gì, tao cũng sắp
được nghỉ ngơi rồi". Dỗ dành cả giờ mà cũng phải biết cách dỗ, giọng ông
già mới dịu lại nhưng vẫn còn một chút hờn: "Ðược rồi, cứ thế mà làm, làm
không xong đừng có đem tôi ra làm cái bung xung nhá!".
Thì ra một người được quyền lực nuông chiều quá lâu dễ biến tính thành đàn bà,
thành thái hậu để được tận hưởng những cái ve vuốt làm mê muội con người của
quyền lực, lúc vui lúc giận, lúc ban ơn, lúc trách phạt theo cái yêu cái ghét
tức thời, lúc bảo nên làm, lúc lại bảo không nên làm, chỉ phút trước phút sau
ngay những người cộng tác kề cận cũng không thể nhận ra những dấu hiệu khác
thường để biết trước. Nguyễn Gia Thiều cũng thế, ông đã được đấng quân vương -
quyền lực chọn làm cung nữ, làm ái phi từ thuở mới lọt lòng, thuộc dòng máu tôn
quý nhà Chúa, lớn lên là chàng thanh niên văn võ song toàn, bước đường công
danh như đã mở sẵn từ mọi hướng, bước đến là tới, với tay là có. Ấy là lúc cô
cung nữ - Nguyễn Gia Thiều, người đàn bà trong Nguyễn Gia Thiều được phô bày
mọi vẻ yêu kiều trước cái nhìn tán thưởng của nhà Chúa, như ông đã viết: "Thôi
cười nọ lại nhăn mày liễu - Ghẹo hoa kia lại díu gót sen - Thân này uốn éo vì
duyên - Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời..." Nhưng đấng
quân vương - quyền lực cũng là người hay chóng chán: Chơi hoa cho rữa
nhị tàn lại thôi. Ông ta rất thích thay người, thay là thay, rất tàn nhẫn
rất lạnh lùng: "Giết nhau chẳng cái lưu cầu - Giết nhau bằng cái u sầu
độc chưa" - "Tiếng thuý điện cười già hoá gắt - Mùi quyền môn
thắm rất nên phai". Ðó là cái giá phải trả của những người trót được
đấng tối cao quyền lực yêu và để lọt vào mắt xanh.
Ðã căm đến thế, đã oán đến thế, nghĩ rằng người bị đuổi phải tởm
lợm cái mùi phú quý cho đến chết, nào ngờ vẫn thèm lắm, vẫn tiếc lắm, đã phấn
mốc má deo mà không hết hy vọng:
Phòng khi động đến Cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa
Hai câu thơ kết thúc của
khúc ngâm rằng hay thì hay thật là hay... về phương diện văn chương là cái nghề
của hắn, hắn phải nhận là tuyệt hay vì nó quá thật. Nhưng nhìn lại con người
thì hắn hơi xấu hổ vì hai câu thơ ấy như được buột viết ra trong lúc thảng
thốt, không kịp che giấu những cái tầm thường, yếu đuối của một kiếp người. Bao
nhiêu lời dậy hàm súc của các triết nhân, bao nhiêu chiêm nghiệm đau đớn của
một đời người vẫn không ngăn được sức sống mãnh liệt của thói quen: Lắng nghe
tiếng lăn bánh của cỗ xe phú quý, tiếng gọi của đấng quân vương - quyền lực đêm
đêm mỗi lần chợt tỉnh giấc...
22.
Cuối cùng thì hắn cũng nhận ra hắn là ai rồi. Hắn đã trở thành đàn bà,
thành thái hậu từ lâu rồi, tuy hắn chả có một tí quyền hành nào ngoài xã hội
nhưng vẫn là một quyền uy tối thượng trong gia đình. Hắn đã trở thành cung nữ
của đấng quân vương quyền lực với những vui buồn thất thường, những thưởng phạt
tuỳ thích, cả những lời nói thiếu cân nhắc, gặp gì nói nấy với vợ với con và
càng ngày hắn càng thích xét nét những việc nhỏ nhặt, cay nghiệt trong cách xử
sự, và muốn mỗi lời nói của mình phải là một mệnh lệnh không cho phép ai cãi
lại hoặc dám làm ngược lại. Thoạt đầu hắn nghĩ những biến tính đó là một biểu
hiện của tuổi già. Nhưng khi tiếp xúc với bạn bè, với Hội nghề nghiệp, với quân
đội là quê cũ của hắn thì càng già hắn càng biết cách nhường nhịn, biết ngưỡng
mộ những ý định đẹp, những hành động đẹp, biết làm lành với những người vốn
ghét mình, biết nhận lỗi và sửa lỗi, biết nghe một cách thản nhiên mọi lời chế
giễu hoặc đúng hoặc sai, không giận đã đành mà cũng không thấy cần thiết phải
nói lại, cứ như một tu sĩ sắp bước vào cõi "ngộ". Là vì ở ngoài đời
hắn vốn lạ với quyền lực, cũng thích nhưng là thích gọi là, không mê, dễ thì
nhảy vào chơi, rắc rối quá là nhảy ra liền, cũng có nhớ, có tiếc nhưng cái tính
lười cố hữu đã lấp kín ngay lập tức cái khoảng nhớ theo thói quen ấy. Cũng có
một lần hắn đã được quyền lực để mắt và cho gọi hầu nhưng hắn đã già mất rồi.
Già rồi còn được gọi ra nhận chức phó tổng thư ký Hội Nhà văn, do có chân lãnh
đạo một đoàn thể mà được mời ứng cử đại biểu Quốc hội và lại trúng cử Quốc hội
là cơ quan quyền lực cao nhất nước nhưng hắn không có ý định làm một đại biểu
nhân dân chân chính mà chỉ muốn được tiếp tục làm nghề, lấy Quốc hội là một
thực tế mới lạ để hắn tìm hiểu và quan sát. Ði họp vài lần hắn mới nhận ra các
đại biểu ôm cặp đi họp gánh trên vai họ nhiều trách nhiệm lắm, vì dân hai phần
ba, còn một phần ba là vì họ. Vì Quốc hội còn là nơi giao dịch, thương lượng,
quyết định nhiều việc mà theo hệ thống các tổ chức nó buộc phải thông qua có
khi phải kéo dài cả năm, cả mấy năm. Ở Quốc hội mỗi đại biểu có quyền gặp các
Bộ trưởng, các Tổng Cục trưởng, thậm chí gặp cả Thủ tướng tương đối dễ dàng, dễ
dàng làm quen, dễ dàng nói chuyện, dễ dàng thỉnh cầu vì họ đều là những đại
biểu của nhân dân cả. Có một nữ đại biểu giám đốc một xí nghiệp lớn, khoe với
hắn trong một buổi sáng cô đã xin được năm chữ ký tắt của các nhân vật hết sức
khó gặp. Hàng ghế của thành phố Hồ Chí Minh là hàng ghế thứ hai và thứ ba sau
hàng ghế đầu của các vị lãnh đạo Ðảng và Nhà nước, hắn lại được ngồi ở hàng ghế
thứ hai vì hắn là người làm công tác quản lý một đoàn thể. Ngồi ở vị trí đó hắn
được tự do quan sát các vị lãnh đạo khi ngồi họp, chả để làm gì cả, chỉ để quan
sát thôi. Hắn vốn thích quan sát các nhân vật nổi tiếng trong mọi sinh hoạt
bình thường của họ mà. Còn việc thứ hai thì hoàn toàn bất ngờ, hắn trở thành
nhân viên chuyển thư của các hàng ghế sau tới tận tay từng vị lãnh đạo ngồi ở
hàng ghế trên cùng. Thư của ai hắn không thể biết, chỉ biết người ngồi ở hàng
ghế sau bấu vào vai hắn, một lá thư đưa qua vai và một lời dặn nhỏ: "Họ
bảo nhờ ông đưa tận tay cụ X.", rồi cụ Y, rồi cụ Z, đưa nhiều lần quá đến
nỗi đã có vị quay lại hỏi đùa: "Này, cậu nhận thêm cái việc này hồi nào
vậy?" Nếu các vị ấy lại sinh ngờ hắn đã nhận tiền những người nhờ vả thì
hắn biết nói sao? Kỳ họp thứ hai của khóa 8, họp cuối năm, hắn có làm quen với
một bí thư huyện uỷ tên là K, do sự giới thiệu của một người bạn khác. Ông bí
thư này cũng đã từng là quân nhân thời đánh Mỹ, về nhà đi buôn mấy năm rồi mới
ra làm việc lại, tuổi ngoài bốn chục, là người nhìn xa trông rộng, cách nghĩ,
cách nói rành mạch, quyết liệt, không từ nan bất cứ một việc gì có lợi cho địa
phương mình. Ngay trong lần gặp làm quen, anh ta đã hỏi hắn về ông chủ tịch
thành phố cũng là trưởng đoàn đại biểu Quốc hội và có ý muốn mời ông chủ tịch
một thành phố lớn nhất nước, đông dân nhất nước tới thăm huyện của anh ta vừa
để thắt chặt tình đoàn kết Bắc Nam vừa tìm đối tác làm ăn cho huyện nhà. Rồi
anh ta cười: "Huyện của tôi cũng là một huyện biết hoà nhập nhanh vào nền
kinh tế thị trường bằng các hàng hoá nông nghiệp của mình". Trước khi chia
tay ông bí thư huyện còn nhắc lại lời mời, thành tâm lắm, tha thiết lắm. Hắn
cũng tình thực nói lại với trưởng đoàn, trưởng đoàn xem lại lịch làm việc những
ngày nghỉ họp, nói: "Có lẽ phải đợi kỳ họp sau vậy, những ngày nghỉ tới
không có buổi nào rảnh". Hắn nói lại với ông bí thư huyện uỷ quá nhiệt
tình với miền Nam, và nhắc lại lời cảm ơn cùng lời hẹn sẽ tới thăm huyện của
anh vào kỳ họp sau của ông chủ tịch thành phố. Anh ta liền nhìn hắn bằng cặp
mắt trống rỗng rồi hạ một câu khiến hắn phải sững sờ: "Tôi muốn mời ông ấy
đến huyện vào dịp này là muốn nhờ ông giúp tôi đưa mấy vạn mét pháo vào thành
phố nhân dịp Tết. Chứ sang năm mới đến chơi thì còn chuyện gì để nói!" Hắn
đứng chết sững một lúc vì hãi quá, sau đó lại mừng quá. Vì nếu ông chủ tịch lại
tin lời hắn tới thăm huyện của K., rồi tiệc tùng, rồi quà cáp, rồi diễn văn và đáp
từ về tình anh em ruột thịt giữa hai miền, người lớn hỗ trợ cho kẻ bé, anh lớn
hỗ trợ cho em nhỏ, cuối cùng xin ông anh giúp thằng em đưa vài vạn mét pháo phi
pháp vào thành phố nhân dịp Tết thì ông anh biết nói sao? Dứt khoát là ông anh
sẽ từ chối thẳng thừng, chả nể nang gì một thằng bí thư huyện uỷ mới quen biết
đã giở trò láu cá. Sau đó ông sẽ tự hỏi cái thằng nhà văn có vẻ ngốc nghếch kia
đã nhận của thằng bí thư huyện uỷ bao nhiêu tiền nếu vụ làm ăn này trót lọt?
Nhà văn kiêm cò pháo, hay nhỉ, đẹp mặt nhỉ, có thanh minh cả một khoá quốc hội
cũng chả ai chịu hiểu cho! Thế là hắn liền có ngay một phương châm sống sau hai
kỳ họp Quốc hội: "Sống là phải cảnh giác, chớ vội tin vào những lời nói
quá đẹp mà chết có ngày". Làm đại biểu Quốc hội thì nên đề phòng, chớ có
vội tin nhưng là nhà văn thì cứ phải tin, phải yêu, phải hy vọng vào tất cả
những ai mà hắn có dịp tiếp xúc, dẫu vẫn biết rành rành những thói xấu của họ,
những cái tầm thường của họ. Ðã là con người, lại là người đang sống ở một thời
mọi cơ chế bao cấp dần dần bị dỡ bỏ để chuyển đổi tất cả thành hàng hoá, tất cả
đều có thể mua và bán một cách tự do dẫu có nhiễm phải thói xấu của nền kinh tế
thị trường cũng là chuyện tất nhiên, chuyện bình thường. Nên hắn vẫn viết về
cuộc đời của K, trong một truyện vừa Người làng pháo lý thú.
Vì K là một mẫu người rất tiêu biểu cho cái thời bây giờ, sỗ sàng, lì lợm,
quyết liệt, tháo vát, biết cách tổ chức mọi thứ đang có trong tay thành hàng,
thành tiền hết sức thần diệu. Có nghĩa là những người tốt của thời nay, những
người có thể làm giầu cho huyện mình, cho tỉnh mình, nhìn cho kỹ cũng có lắm
trò ma quỷ, có tính Tuy Kiền lắm. Muốn giữ cho họ khỏi sa vào tội lỗi thì pháp
luật phải chặt chẽ, thi hành pháp luật phải nghiêm minh, cơ chế quản lý xã hội
phải khoa học, hiện đại, báo chí phải được tự do phát hiện và tố cáo mọi hành
vi lừa đảo, tham nhũng, phải dùng những công cụ của thời bây giờ để
quản lý những người của thời bây giờ.
Trong suốt một nhiệm kỳ Quốc hội khoá 8 hắn chỉ phát biểu có một lần về những
điều bổ sung cho Luật Báo chí. Hắn đề nghị Quốc hội xem xét cho ra báo tư nhân
và nhà xuất bản tư nhân để đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của
một xã hội văn minh. Hắn vừa ngồi xuống thì bà T. cũng là đại biểu của thành
phố Hồ Chí Minh, nguyên là một nữ luật sư danh tiếng của Sài Gòn trước đây, một
thượng nghị sĩ trong phe đối lập với chính quyền Thiệu, đứng lên phản đối liền.
Bà nói, đại ý, rằng hắn chưa từng sống trong xã hội tư bản nên mới ngộ nhận là
ở đó có tự do báo chí! Không có đâu! Danh nghĩa là báo của tư nhân nhưng nguồn
tài trợ thường xuyên để nuôi sống nó luôn luôn là của các tổ chức chính trị,
tôn giáo, nghề nghiệp đầy quyền lực. Họ mới là những ông chủ đích thực của tờ
báo, quyết định xu hướng chính trị của nó, còn các nhà báo chỉ là những người
làm công ăn lương mà thôi. Theo bà, hãy tổ chức những tờ báo hiện có của các
đoàn thể thành những cơ quan ngôn luận thật sự có uy tín, có đông đảo bạn đọc
cũng đã tốt lắm rồi. Bà vừa dứt lời tiếng vỗ tay đã vỡ ra vang dội và kéo dài
khắp hội trường. Bà là một trí thức yêu nước, đi học và hành nghề ở nhiều nước
tư bản từ nhỏ tới già nhưng lại có lập trường của một người cộng sản. Còn hắn
là đảng viên cộng sản chính gốc lại hùa theo những đòi hỏi của nhiều người được
xem là rất đáng ngờ về quyền được ra báo và mở nhà xuất bản tư nhân. Ông chủ
quyền lực bắt đầu ghét hắn từ ngày ấy, đã muốn đuổi hắn ra khỏi cơ quan quyền
lực từ ngày ấy. Rồi hắn lại ngủ gật nữa. Trong những phiên họp tranh cãi sôi
nổi về một từ, một câu trong những điều luật bổ sung của Bộ luật Hình sự, thì
hắn ngủ gục, đầu vẫn ngay, lưng vẫn thẳng nhưng đầu óc đã trống rỗng, mờ mịt,
người ngồi cạnh phải hích nhẹ hắn mới bừng tỉnh. Một ông nghị gật như các báo
vẫn chế giễu các ông nghị bản xứ thời Pháp thuộc. Té ra hắn được vào Quốc hội
là do sự hiểu nhầm từ cả hai phía. Phía lãnh đạo thì nghĩ rằng hắn đi nhiều,
biết nhiều và cũng đọc nhiều ắt hẳn sẽ có nhiều ý kiến mới lạ để đóng góp với
nhà nước. Còn hắn cũng nghĩ do có cơ hội quen biết thêm nhiều nhân vật nổi
tiếng của nhiều ngành nghề, lại được tham gia bàn bạc những việc trọng đại của
cả nước ắt hẳn sẽ viết được nhiều bài báo rất lý thú như những bài báo đã viết
trong năm 1974 chả hạn. Suốt một nhiệm kỳ năm năm, đi về bằng máy bay mỗi năm
bốn lượt, lại hai tháng họp Quốc hội, nuôi ăn, nuôi ở, lại chiếm một chỗ ngồi ở
cơ quan quyền lực tối cao, rút cuộc hắn chả làm được tích sự gì, nói có một lần
lại nói sai, đến một bài báo về đất thép Củ Chi thời đánh Mỹ như hắn đã hứa với
bà con ở đó cũng không có nốt. Hắn đã ngượng lắm, lại càng ngượng khi một bạn
đồng nghiệp làm tạp chí Người đại biểu nhân dân của Quốc hội
hỏi hắn: "Tại sao anh lại ít nói thế nhỉ? Gần hết một khoá Quốc hội mà anh
không nói được một câu nào để bọn em nhớ?" Biết nói thế nào nhỉ? Hắn đã
ngồi nhầm chỗ, có thế thôi! Chỗ của hắn là quán trọ, bến phà, bến xe, sân phơi
hợp tác xã, lán ở của công nhân nông trường, những khu nhà tập thể của gia đình
quân nhân, ở bờ ở bụi, nghe đủ chuyện vui chuyện buồn, chuyện hay chuyện dở của
thiên hạ, ngứa miệng thì góp vào một đôi câu, sáng gặp bạn trẻ tối gặp bạn già,
lúc thì bàn luận nhân tình thế thái, lúc thì nói láo nói lếu về mọi sự ở đời.
Một ngày sống thoả mãn, tràn đầy, càng nói càng thông minh, càng nghĩ càng nẩy
sinh, lắm điều sâu sắc, chữ nghĩa gọi chữ nghĩa, hình ảnh gọi hình ảnh, dưỡng
chất nuôi sống ngòi bút của hắn trong bấy nhiêu năm chủ yếu là ở môi trường đó,
chứ có bao giờ ở trong các cuộc họp! Ở các cuộc họp hắn chỉ ngáp thôi, vây vẩy
bạc phếch, đứng xa cũng ngửi thấy mùi tanh, còn thả hắn vào nước, nước ao, nước
rạch, cống rãnh được tuốt, hắn lại vùng vẫy nhào lộn, vây vẩy sáng loé, môi mép
toe toét, tung bọt giỡn sóng, là cá sắp hoá rồng chứ đâu phải là con cá ươn như
khi ngồi họp.
23.
Năm 1957, sau khi đăng
rải trên tạp chí Văn nghệ Quân đội nhiều tập ghi chép có cái
tựa đề chung là Xung đột, tên của hắn bắt đầu được các tiền bối
trong nghề lưu ý. Ông thầy của hắn là cụ Nguyễn Tuân nhìn hắn một cách ưu ái
rồi bảo: " Xem ra cậu cũng biết nhiều nhỉ?", cũng có thể hiểu có
nhiều chuyện ở một vùng nông thôn theo đạo Thiên Chúa cụ chưa được biết, nhờ
đọc hắn mà biết. Lời khen của giáo chủ văn xuôi đâu phải lời nói đãi bôi, nói
cho có nói. Hắn bắt đầu nhen nhóm lại lòng tin, là rồi ra hắn cũng có thể viết
được. Lại một tin vui khác nhưng buộc hắn phải cân nhắc, tính toán, vì trước
mắt là được, về lâu dài có khi lại không được. Ấy là cấp trên muốn hắn được
theo học khoa lý luận văn học của trường dạy viết văn nổi tiếng Gorki, thời
gian cũng dài, khoảng bảy, tám năm gì đó. Cùng đi với hắn có anh Nguyễn Minh
Tấn, là cán bộ của Ban Tuyên giáo Trung ương. Hắn muốn đi học xa trong một thời
gian dài để tiện nói lời hoãn hôn hoặc thoái hôn với cô gái mà hắn đã để ý, đã
thương yêu, đã hứa hẹn. Người yêu của hắn sẽ là một người vợ rất lý tưởng nếu
hắn gặp cô sớm hơn dăm năm, đất nước vẫn còn chiến tranh, người vợ ở nhà nuôi
mẹ, nuôi con, trong trường hợp của hắn còn làm chỗ dựa cho em trai nữa để hắn
yên tâm đi kháng chiến. Vả lại ở làng quê trong thời kháng chiến thì vợ hắn
thuộc loại xinh đẹp, lại thông minh, nói năng cũng duyên dáng, cái duyên dáng
thơ ngây, mộc mạc của đồng quê, của cách mạng, của đời sống mới. Còn bây giờ
người yêu của hắn lại sống giữa một Hà thành hoa lệ, giữa cả mấy chục người đẹp
được tuyển chọn từ nhiều địa phương của cả nước về để múa, để hát, để diễn kịch
và làm người giới thiệu. Từ sáng đến tối ở các đoàn nghệ thuật ấy người ta chỉ
bàn về các vai diễn, các giọng ca, các điệu múa; về quần áo và phấn son, về cái
đẹp và cái duyên của người này người nọ; và cả về những người đàn ông và các
mối tình khi vui khi buồn giữa họ. Hết nói chuyện nghệ thuật trong nước lại nói
chuyện nghệ thuật từ nhiều nước anh em sang Hà Nội biểu diễn trong mấy năm đầu
hoà bình. Trong cái thế giới son phấn, nghệ thuật, trí thức, dầu tất cả mới chỉ
là học đòi, làm ra vẻ của đám lính tráng mới tạm buông tay súng để sống trong
các thành phố của hoà bình, người yêu của hắn đứng tách riêng hẳn một mình,
ngây ngô, ngơ ngác như của lạ. Bao nhiêu cái duyên khi còn ở quân khu liền bị
tước sạch lúc bước vào Hà Nội, thành người thừa, nói cười thừa, đứng đâu cũng
thừa, làm gì cũng thừa, vừa thương tâm vừa khó chịu. Thế là hắn bắt đầu chán,
bắt đầu ghét, tránh gặp mặt và rất khổ tâm khi phải đi với nhau ngoài phố, cùng
ngồi với nhau ở một quán hàng hoặc cùng đi xem một phim nghe nói là hay hoặc
một vở kịch mới công diễn. Bạn gái hắn nghe hắn báo tin sẽ sang Liên Xô học
bảy, tám năm cũng sững sờ nhưng không phản đối, vì đi học là một vinh dự, là đã
được cấp trên tin cậy tuyển vào đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo chính quy để
mai này đảm nhiệm những trách nhiệm lớn hơn. Một lần khác hắn lại nói chưa nên
tổ chức cưới xin vội, lúc về cả hai mới trong ngoài ba mươi, còn trẻ chán, vả
lại thời nay đâu cần nhiều con, chỉ một hai đứa là đủ. Bạn gái hắn vẫn không
nói gì. Ðến lần thứ ba lại bàn về việc hoãn tổ chức đám cưới, bạn gái hắn mới
nói, cưới nhau trước khi đi học lại hoá hay, lúc trở về con đã lên bảy lên tám
mà người chồng không phải bận bịu gì, không phải mó tay vào tã lót cứt đái mà
vẫn được con, con lại đã lớn, đi trẻ đi học cả ngày, nhà ở có chật chội cũng
chả ảnh hưởng gì đến công việc nếu phải làm việc ở nhà. Ơ hay, cái cô này ngây
ngô vậy mà tính toán cũng hay nhỉ! Hắn vốn là thằng lười, muốn có cả vợ đẹp lẫn
con khôn mà không phải tốn công sức nên nghe thấy phải quá. Vả lại bảy, tám năm
ở nước ngoài, sống độc thân thì thiếu gì người đẹp ở trong nước sang học đủ các
ngành nghề, có mèo mỡ chim chuột nhau cũng chẳng ai để ý, nước người ta văn
minh, chuyện trai gái yêu đương là chuyện thường tình, miễn là không để lại dấu
vết. Ở nước ngoài trong tuổi thanh xuân lúc về nước đã ngót nghét bốn chục, lao
đầu vào sự nghiệp là vừa đẹp, lại đã có một gia đình yên ấm, cùng một lúc được
cả việc công lẫn việc tư, còn mong gì hơn, nhưng chả lẽ mọi chuyện khó khăn ở
nhà lại dồn hết lên vai vợ? Nhưng cái người tình nguyện sẽ là vợ hắn, dầu hắn
phải đi học xa và dài ngày, nghe những băn khoăn của hắn đã cười rất dễ dãi:
"Một mình sinh con nuôi con rồi nuôi cả mẹ chả có gì là vất vả với em cả.
Như chị em ấy, cũng nuôi con một mình trong suốt tám năm anh ấy đi kháng chiến,
lại còn chạy giặc, giặc đốt nhà mấy lần còn làm lại nhà, vay ăn từng bữa mà lúc
chồng về vẫn có nhà, có thóc, có cả con, có sao đâu!" Ờ nhỉ, bạn gái hắn
là một cô gái nông thôn quen sống trong vất vả, thiếu thốn, lại có tính hy sinh
cho chồng cho con như mẹ, như chị, như những người đàn bà khác trong làng, chứ
có như các cô gái ở thành phố đâu, ở nhà cha mẹ nuôi, lấy chồng chồng nuôi,
chồng hầu, biến mình thành mèo cảnh, chó cảnh, nũng nịu hờn dỗi, lúc gù lúc gừ,
vớ phải thằng chồng vừa lười vừa có máu nghệ sĩ thì tan cửa nát nhà ngay. Thế
là hắn quyết định sẽ lấy vợ, và vợ sẽ có mang trước ngày hắn lên đường ra nước
ngoài. Nhưng cũng còn một chút tính toán nữa, hắn đang viết được, các tập ghi
chép có tên là Xung đột đang được bạn trong nghề khen và bạn đọc
yêu văn chương đón đợi từng số tạp chí, sau nhiều năm gò gẫm chữ nghĩa ý tứ mà
vẫn chẳng đâu vào đâu. Thêm nữa hắn lại sống trong cái không khí náo nức sáng
tác của ngôi nhà số 4 Lý Nam Ðế. Hắn ở một phòng với Ngô Thông, nguyên thư ký
báo Quân đội Nhân dân khu 5, cạnh phòng của Phùng Quán, Tạ Hữu
Thiện, rồi đến phòng của Minh Giang và Phác Văn, phòng ngoài cũng là của Hữu
Mai và Nguyễn Ngọc Tấn. Tấn là người Nam Ðịnh nhưng vào Sài Gòn kiếm sống từ
năm 13, 14 tuổi. Sau cách mạng tháng Tám, Tấn tòng quân tham gia kháng chiến ở
trong đó suốt 9 năm, viết báo, làm thơ. Nào dè anh lại trở thành một cây bút
viết truyện ngắn hết sức đặc sắc, vừa có chất thơ nhưng vẫn trĩu nặng những ý
tứ thâm trầm. Vào những năm ấy Hữu Mai có truyện ngắn Mất hết đang
gây bàn luận sôi nổi cùng với truyện Ðẹp của Xuân Cang. Phùng
Quán sau Vượt Côn Ðảo có trường ca Võ Thị Sáu. Nguyên
Ngọc vẫn cái mạch sống của Ðất nước đứng lên, viết tiếp nhiều
truyện ngắn, truyện nào cũng đẹp như một bài thơ bằng văn xuôi. Hồ Phương
có Cỏ non, Phù Thăng ở dưới đơn vị gửi lên truyện ngắn Con
những người du kích... Có tối đã khuya lắm, dọc đường Phan Ðình Phùng chỉ
còn nghe có tiếng rao buồn nản kéo dài của hàng phở gánh:
"Phở...ở...ở....", thì Tấn đến gõ của từng phòng kéo mọi người lại
phòng anh để nghe anh đọc một truyện ngắn vừa mới đặt dấu chấm hết cách đó dăm
phút. Ðó là truyện ngắn Im lặng. Học lý luận có thể dành cả đời,
nhưng khoảng thời gian để viết ra văn có khi chỉ dăm năm. Bỏ quên hoặc đánh mất
hoặc tiêu phí năm năm trời cho, nghề cho coi như thành người khác, làm nghề
khác chứ không thể trở lại tìm kiếm đoạn đường đã lạc. Nó đã là cái hư ảo, cái
thoáng chốc mất hút mãi mãi rồi... Thế là lại có một quyết định mới, ở lại, lấy
vợ, sinh con và làm nghề theo kinh nghiệm, theo bạn bè, theo cái nghiệp ông
trời đã buộc, bỏ ngoài các thứ lý luận, các thứ vinh dự, vui thú khác.
Cái sự tính toán tầm thường, ích kỷ lúc mới vào nghề nào ngờ sẽ là lối sống một
đời văn của hắn. Trước hết hắn là một tên ích kỷ không thể cứu chữa, bất kể cái
gì không liên quan đến sáng tạo nghệ thuật hắn đều gạt bỏ sang một bên, không
nuối tiếc gì cả. Nhưng để lỡ một cơ hội hiểu thêm một nhân vật, một cảnh ngộ,
một tình huống là hắn khắc khoải mãi, vì biết đâu từ những thứ vớ vẩn đó lại
chả vật lên một cái gì đó rất lạ, rất đẹp thì sao? Hắn đã để lỡ nhiều dịp may
lắm, cái cơ hội lớn nhất đã để mất đi mãi mãi là tám năm kháng chiến chống
Pháp. Những năm ấy hắn đã trong ngoài hai mươi tuổi rồi, đâu còn trẻ con nữa.
Ông Chế Lan Viên năm 16, 17 tuổi đã có tập thơ Ðiêu tàn gây
chấn động trong làng thơ thuở ấy. Ông Nguyên Hồng cũng khoảng tuổi ấy đã
có Bỉ Vỏ được giải thưởng của nhóm Tự lực Văn đoàn. Ông Vũ
Trọng Phụng năm ngoài hai mươi tuổi đã viết được cuốn tiểu thuyết hoạt kê Số
Ðỏ, các nhân vật của ông còn gây cười cho tới tận bây giờ. Nguyên Ngọc năm
23 tuổi viết tiểu thuyết Ðất nước đứng lên, là vốn sống chắt lọc
của một nghệ sĩ trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp ở Tây Nguyên. Hắn vào
nghề báo từ năm 19 tuổi, làm báo tỉnh, làm báo mặt trận, rồi báo quân khu, sáu
năm làm báo trong kháng chiến mà hồn nhiên, thơ ngây như đứa trẻ. Cái sự thơ
ngây đáng trách ấy, cái thứ nước lã trong veo ấy đã gột nên hai cuốn sách nhạt
như nước ốc, là truyện Xây dựng (cũng được giải khuyến khích
của Hội Văn nghệ Việt Nam vì đề tài) và truyện Người con gái quang vinh,
viết về nữ liệt sĩ anh hùng Mạc Thị Bưởi. Chả có một tí từng trải nào, chiêm
nghiệm nào trong kháng chiến ẩn hiện trên các trang sách, chữ nghĩa cứ bạc
phếch, trống hoác như văn của thằng học trò sống trong Thành, nghe chuyện của
kháng chiến ngồi viết lại. Giả thử khôn ngoan như bây giờ, ngày ấy cứ ghi chép
lại những chuyện tai nghe mắt thấy ở Hà Nội năm 1945, 1946, ở Hưng Yên năm
1947, ở Thái Bình năm 1950, rồi ở các cơ quan lãnh đạo kháng chiến cấp khu
những năm 1951, đến 1954, vùng địch hậu nam Nam Ðịnh vừa được giải phóng năm
1952, vùng du kích Thanh Liêm và các cơ quan huyện xã của Hà Nam chạy sang Bồng
Lạng để chỉ đạo cuộc chiến tranh du kích các xã bên kia sông Ðáy. Những năm ấy
ngôn ngữ thường dùng ra sao, chuyện vui, chuyện tếu kháng chiến ra sao, những
dãy phố bất thần mọc lên, bất thần mất đi ở mọi nẻo đường kháng chiến, những
thị trấn nổi tiếng một thời Quỳnh Côi, Ðống Năm, Cống Thần, Sêu Tiết, Hậu Hiền,
Rừng Thông... Có hàng trăm chuyện, hàng ngàn chuyện ghi đậm những dấu vết không
bao giờ phai nhoà của một thời. Cái pho sách biết sao chép ấy chắc phải dầy cả
ngàn trang, chỉ như thế thôi rồi chết hoặc gác bút cũng đủ làm nên một sự
nghiệp và những trang sách ấy chắc chắn phải hay hơn những tập ký sự nói chuyện
dông dài của các cụ ở những thế kỷ trước. Từ ngày hắn biết làm nghề, tức là từ
năm 30 tuổi (cùng trạc tuổi trong ngoài ba mươi, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam đã
hoàn thành một sự nghiệp bất hủ và đã chết rồi, Nguyễn Tuân đang thời rực rỡ
nhất của một đời văn, Nam Cao đã có Chí Phèo và Lão
Hạc. Thì họ là những thiên tài, hắn bì thế nào được!) cho tới bốn chục năm
sau hắn không để phí một giờ nào không dỏng tai, không giương mắt, sống gấp hai
gấp ba lần so với những người cùng thời làm các nghề khác để nghe cho rõ, nhìn
cho tinh và ngẫm nghĩ về mọi sự mọi việc đang diễn ra quanh hắn. Nghĩ được điều
gì hay là viết liền, được là văn thì tốt, không được là văn thì cũng là tài
liệu lưu giữ cho đời sau. Truyện dài mở đầu thời kỳ này hắn gọi là ghi chép
cũng từ cái ý không để mất đi bất cứ cái gì hắn đã ngẫm nghĩ và ghi nhận được.
Có truyện được khen, có truyện bị chê, chê thì chê hắn đã bắt tay vào viết
truyện khác rồi. Năm 1962 hắn in cuốn tiểu thuyết Một chặng đường,
sách ra bị bạn đọc chê dữ quá. Họ đang đón đợi ở tác giả Xung đột và Mùa
lạc một cái gì hơn thế, nào ngờ phải đọc những trang văn quá nhạt
nhẽo. Hắn chỉ buồn một chút vì nhân vật Nam của nông trường Ðiện Biên đã lờ mờ
xuất hiện, nghĩ là nó sẽ nhanh chóng qua đi vì thời gian này hắn đang phải theo
học một khoá chính trị cho cán bộ trung cao cấp kéo dài một năm tại Quần Ngựa.
Nào ngờ cái anh chàng thợ mộc ấy càng ngày càng hoá ra lắm lời, thì thào với
hắn mỗi đêm và cả mỗi ngày, ngay cả giờ lên lớp hắn ta vẫn tiếp tục trò chuyện.
Thế là hắn viết liền, ngay tại giảng đường, giáo viên thì giảng giải về duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, còn hắn thì bắt đầu cuộc trò chuyện dài ngày với
nhân vật chính có tên là Nam, trong cái truyện vừa Hãy đi xa hơn nữa,
truyện in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội được bạn đọc khen
ngay. Người khen đầu tiên là ông Phạm Lê Văn tức Thợ Rèn, là người bạn vong
niên của hắn từ thời kháng chiến chống Pháp ở khu 3. Ông Thợ Rèn nói: "Mấy
ông viết văn trẻ chỉ được một, hai cuốn sách đầu là đáng đọc, còn về sau, đã có
nghề hẳn hoi thì ngay đến một câu văn viết cũng không thành, sao thế nhỉ?"
Rồi ông nắm tay hắn, nhìn hắn rất ưu ái: "Nhưng Hãy đi xa hơn nữa thì
được lắm đấy, chính mình cũng mê cái thằng Nam của cậu". Sau khoá học hắn
lại ba lô lên đường về Phú Thọ, theo lời mời của người bạn cùng cơ quan, phục
viên về xã đã mấy năm, nay là chủ nhiệm một hợp tác xã nông nghiệp tiếng tăm
lừng lẫy khắp miền Bắc. Cuối năm 1963, truyện vừa Tầm nhìn xa in
liền hai số tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhân vật nửa chánh nửa tà
Tuy Kiền xuất hiện với bộ mặt ngây ngô ăn người và cái nháy mắt tinh quái của
ông ta có sức quyến rũ bạn đọc ngay lập tức hơn nhân vật chính phải có tên là
Nam nhiều.
Những năm 60 là những năm mãn nguyện của đời văn nhưng vất vả về đời người. Năm
1961 vợ hắn sinh đứa con trai thứ hai sau thằng anh sinh năm 1958 và một con
chị sinh năm 1960. Nhưng con bé nhẹ nghiệp, không phải làm con một thằng văn
nghệ sĩ, nên mất ngay sau khi sinh do bị dây nhau quấn quanh cổ. Mặt con bé ra
sao hắn không biết, chôn con bé ở đâu cũng không biết vì bệnh viện nhận lo lắng
cho tất cả. Hắn có tính lười nên bằng lòng ngay chỉ hơi buồn một tí, vợ chồng
hắn còn trẻ muốn đẻ lúc nào chẳng được. Ngay đêm hôm đó vợ vẫn nằm khóc ở khoa
sản, hắn đã thản nhiên ngồi viết đoạn kết của truyện Người tổ trưởng
máy kéo! Thế là hắn đã phạm tội bất từ, ở đời này có gan dám phạm luật trời
thì ông trời sẽ bắt một đời phải chuộc cái lỗi đã phạm. Ðứa con trai sau nặng
có 2 ký 8, bị hen suyễn từ ba tháng tuổi, hắn phải hầu hạ đứa con bệnh tật đó
trên ba mươi năm, theo nó vào bệnh viện khi hắn đã sáu chục tuổi, phải giúp đỡ
nó cho tới tận bây giờ khi nó đã bốn mươi tuổi còn hắn đã là ông già ngoài bảy
chục. Chưa hết, mười hai năm sau vợ chồng hắn còn phải chôn đứa con trai đầu
khoẻ mạnh, tháo vát, học giỏi khi nó vừa tròn 15 tuổi. Hắn giẫy giụa than khóc
mất mười năm, vợ hắn ứa sữa non, đái ra máu, thành người ngớ ngẩn mất vài năm.
Năm đó hắn đã 43 tuổi, so với cái khổ bị hắt hủi lúc còn niên thiếu thì cái khổ
mất con vào tuổi trung niên còn đau đớn hơn cả trăm lần. Từ đó hắn bắt đầu biết
sợ luật quả báo, luật bù trừ của ông trời, rất hãi cái ngông nghênh của sự được
thời, cái lấn sân lấn phần của kẻ hãnh tiến, chỉ xin nhận phần thiếu chứ không
dám tranh phần dôi, thích đứng phía sau hơn chen ngồi phía trước, thích nhường
nhịn, thích rút lui, vì tin rằng cái hụt cái thiếu của mình sẽ được bù lại cho
con cho cháu.
Trong những năm 60 hắn có hai chuyến đi rất thú vị. Một chuyến ra biển vào giữa
năm 1965 sống với một đơn vị đang chiến đấu trên đảo Cồn Cỏ trong những tháng
đầu của cuộc chiến tranh phá hoại. Và một chuyến đi vào cuối năm 1967 đến một
đại đội công binh phụ trách một tuyến đường chiến lược trên nước bạn Lào.
Chuyến ra đảo Cồn Cỏ lúc ở Hà Nội thì nghĩ sẽ được đi bằng tầu ngầm từ quân
cảng Vinh, nghe đồn thế chứ chẳng ai nói rõ với hắn là đi bằng phương tiện nào.
Tới bờ biển xã Vĩnh Kim hắn mới được biết là bọn hắn sẽ đi bằng thuyền theo
những chuyến tiếp tế hàng tuần ra đảo. Người không biết bơi lại ra đảo bằng
thuyền, chuyến đi nào cũng có thuyền đắm, hàng chìm và thuỷ thủ bơi như cá trên
biển, nghe kể lại cũng đủ sợ. Sợ thì sợ nhưng vẫn cứ phải đi, chả ai ép cả
nhưng cái nghề viết nó ép, cả nước vào cuộc chiến, người viết văn không có mặt
ở nơi đầu sóng ngọn gió thì biết viết gì về đồng đội, về nhân dân đang dốc toàn
lực cho cuộc chiến đó. Chuyến đi sang Lào cũng mất đúng bảy đêm, ngồi trên xe
tải của anh em hậu cần công binh, đêm xe chạy, ngày lại lùi xe vào các cánh
rừng nấu ăn và ngủ. Chiều khoảng 4, 5 giờ lại đưa xe ra đường 7 nhắm những dãy
núi phía Tây lao tới. Xe chạy qua những đồng cỏ rồi lại leo dần lên các mép
núi, leo cao mãi, một bên là vực, một bên dốc núi thẳng đứng, xe chạy bằng đèn
gầm, nhiều đoạn xe chạy như leo dây, người hàng nếu không chằng buộc kỹ là tuột
hết xuống vực. Trước mặt là sương mù, vén một mảnh bạt ở thùng xe nhìn ra phía
mép vực mây đùn lên từng mảng nhạt nhoà, nhễ nhại ánh trăng, mây phủ kín thân
xe, trườn vào lòng xe, nhìn người đối diện bên kia các thùng hàng cũng không rõ
mặt. Mấy đêm đầu còn sợ, mấy đêm sau quen dần rồi hết cả sợ. Ðã đi chiến
trường, dầu là một chiến trường ít bom đạn, hiền lành cũng có thể hy sinh lắm,
có lắm thứ tai nạn chết người chứ chả phải cứ giáp mặt với kẻ thù hoặc bom
vương đạn lạc. Nên mỗi lần khoác ba lô lên đường coi như một chuyến đi vĩnh
biệt, về được thì tốt, không về được cũng chẳng có gì bất ngờ, mình biết thế,
vợ con cũng biết thế. Cái năm ra Cồn Cỏ ở ngoài đó một tháng rồi trở về đất
liền, đêm đầu tiên nằm lại ở xã Vĩnh Kim, bao quanh lại vẫn là những tiếng động
quen thuộc của một vùng dân cư ở đất liền mới cảm thấy hết cái sung sướng, cái
khoan khoái của sự được trở về với cuộc sống bình thường, dầu vẫn là cuộc sống
trong chiến tranh nhưng xung quanh đã là dân, là những nẻo đường, đi bộ, đi xe,
đi mãi mãi cũng chưa thể tới chỗ tận cùng, cuộc sống là mông mênh, những cơ hội
để sống cũng mông mênh, nghĩ lan man một lúc rồi ngủ thiếp tới gần trưa, tiếng
máy bay đã vang động từng tốp trên bầu trời, rồi lại nghe những tiếng nổ nhưng
xa lắm, mờ nhạt lắm, như đã không còn chiến tranh nữa. Nằm lại một ngày rồi nằm
lại đến gần một tuần cho giãn xương cốt mới lên xe đủng đỉnh chạy về Hà Nội.
Năm ngày sau khi qua thị xã Ninh Bình, qua Gián Khuất, qua Phủ Lý, cứ bồi hồi
như đã xa cách các địa danh này từ lâu lắm. Trời lại mưa to, từ Thường Tín về
Hà Nội trời đã ngớt mưa nhưng mặt đường vẫn ngập nước lấp loáng ánh điện. Xe đỗ
ở nhà số 4 Lý Nam Ðế vào khoảng nửa đêm. Phòng làm việc của anh Thanh Tịnh vẫn
còn sáng đèn, hắn đứng ở ngoài cổng sắt gọi với lên: "Anh Thanh Tịnh, em
đã về đây!" Tiếng gọi sung sướng trong đêm vắng vang lên suốt một đoạn
đường. Anh Thanh Tịnh mở cửa chớp ngó đầu nhìn xuống: "K. phải không? K.
về rồi đấy à?" Giọng anh lạ lắm, như chưa tin hẳn hắn đã về, đã lên tiếng
gọi ở dưới đường kia! Rồi anh nói ngay: "Hai mẹ con cô ấy mới từ chỗ sơ
tán về lúc chiều". Thế là hắn xốc lại ba lô đi bộ về nhà hắn ở mép sông
Hồng, cách tạp chí chưa đầy một cây số. Trời lại mưa nhỏ, từ mặt đê vào khu tập
thể K.95 phải qua một quãng đường đất lầy lội, hắn tụt đôi dép lốp cầm tay, bấm
ngón chân lên mặt đường trơn, bước rất nhanh gần như chạy, một bên là hồ, một
bên là bãi trồng mía, gió thổi hun hút, lá mía đập vào nhau rào rào, trong lòng
hắn chưa bao giờ rạo rực như thế, nhiệm vụ với tạp chí đã hoàn thành, tài liệu
để viết trong một chuyến đi vào những ngày đầu của chiến tranh xem ra phải viết
được vài trăm trang, lại vẫn còn sống, lại vẫn được về với vợ với con. Cả hãy
nhà tối đen, im lặng trong giấc ngủ, hắn ra vòi nước rửa chân, vặn nước rất
nhỏ, cọ chân rất khẽ, rồi bước lên hè nhà, kéo rộng cánh cửa sổ hé mở, vợ con
hắn đang ngủ trong nhà, hắn khẽ gọi, gọi tới lần thứ hai hơi lớn tiếng, thế là
vợ hắn vùng dậy nói từ trong màn: "Anh vẫn còn sống về với vợ con đấy
à?" Vợ hắn bật đèn nhìn hắn chằm chằm, có vẻ như còn ngờ con người thật
của chồng đang đứng trước mặt, có thể là một giấc mơ, cũng có thể là hồn ma,
chết trẻ là thiêng lắm. Thằng con trai thứ hai cũng từ trong giường nhảy ra ôm
chặt lấy một bên chân: "Bố về rồi à?" Thì ra theo lời vợ hắn kể, từ
một tháng nay cả cơ quan đều biết tin chuyến thuyền ra đảo tám chiếc đã bị bão
và tàu địch đánh bật ra biển Ðông, thuỷ thủ và khách ra đảo chết trên tám chục
người, chỉ còn có dăm người sống sót (thật ra là chuyến trở lại đất liền vào
đêm sau của tám cái thuyền đã đưa bọn hắn ra đảo). Tin nói nhỏ nhưng chắc chắn
lắm, chỉ còn đợi thông báo chính thức sẽ làm lễ truy điệu. Vợ hắn nói mẹ và
thằng con lớn đang ở trại trẻ chưa được biết nhưng bà cụ đã ngờ rồi vì những
cái nhìn không thẳng thắn của các bà cụ khác cũng theo cháu đi sơ tán và những
lời hỏi thăm nhiều ý tứ của bố mẹ những đứa trẻ tới trại thăm nuôi con mỗi
tuần. Và bà đã khóc với con dâu. Nếu hắn chết thật thì vợ hắn nuôi nổi làm sao
hai đứa con, rồi nó cũng còn trẻ chả lẽ ở vậy nuôi con tới già, thời xưa là
thế, nhưng thời bây giờ đàn bà goá sống với đàn ông con trai trong một cơ quan,
nói đùa nói tục từ sáng tới tối, giữ được thân còn khó hơn đi trên chông nhọn.
Trong một gia đình mất một người đàn ông là mất tất cả. Con dâu đi lấy chồng,
con cái về với bà nội, một nồi cơm trộn với mì sợi, một đĩa rau muống luộc và
bát nước chấm là nước rau đánh cà chua pha muối, mắt hắn đã từng được chứng
kiến, nên sự trở về của hắn gần như một phép lạ, trong một thoáng tất cả lại
trở về cái trật tự bình yên như trước đây. Ðêm ấy hắn lại nghĩ những người bạn
trong cơ quan lên đường vào chiến trường B2 từ năm 1962, thấm thoắt đã ba năm.
Trường hợp của Nguyễn Ngọc Tấn gần như là một biểu tượng của sự chia ly thời
chiến. Năm 1955, Tấn tập kết ra Bắc vẫn để lại một người vợ ở Sài Gòn hoạt động
nội thành và một đứa con gái do ông bà ngoại nuôi. Bảy năm sau Tấn lại trở vào
Nam, để lại một người vợ ở Hà Nội (vì Tấn đã ly hôn với vợ cũ do thiếu những
tin tức chính xác về một trường hợp nếu Tấn còn sống chắc anh sẽ rất ân hận) và
anh cũng phải một lần nữa nghiến răng dứt áo lên đường, không dám nhìn lâu đứa
con trai mới được vài tháng tuổi. Và con nhiều bạn hữu khác nữa, cả ông Nguyễn
Văn Bổng, anh ấy vào chiến trường tuổi cũng đã lớn, anh hơn bọn hắn cả chục
tuổi, để lại ở Hà nội một gia đình cũng đông đảo. Cho nên cái vui đã thoát chết
một lần, lại được về với vợ với con thêm một thời gian nữa, gần như là một tội
lỗi khi nghĩ tới những người đang ở xa và chưa biết đến bao giờ mới trở về.
Năm 1967, hắn tới một đại đội công binh anh hùng chốt giữ một đoạn đường chiến
lược trên đất bạn, khi xe dừng lại ở một đoạn đường heo hút, không còn nhìn
thấy gì ngoài một biển mây và sương sáng trắng ánh trăng, tham mưu phó trung
đoàn ở trong buồng lái mở cửa xe nhảy xuống, nhìn vào thùng xe có hắn ngồi
trong đó, hét to: "Anh K., đến rồi đấy!" Hắn choàng tỉnh dụi mắt xách
ba lô nhảy xuống, cặp chân cứng đơ như chân giả, hỏi lại: "Ðã đến rồi
hả?" Người kia rút một điếu thuốc Ðiện Biên châm lửa cho hắn hút, nói thì
thào: "Chúc mừng chuyến đi an toàn, tất cả chúng ta đều khoẻ mạnh, an
toàn". Hắn rít một hơi thuốc quá ngon, đáp hững hờ: "Ðã vào chiến
trường bất cứ lúc nào mà chả gặp nguy hiểm". Tham mưu phó cười mỉm, vẻ bí
mật: "Chuyến đi này cái nguy hiểm dính chặt vào mỗi chúng ta từng giây
kia". Hắn hỏi, giọng đã tỉnh hẳn: "Có gì đặc biệt hả anh?" Tham
mưu phó nhe răng cười, chỉ thấy hàm răng mờ trắng trong đám râu: "Cái
thùng xe của ta chở toàn kíp mìn. Anh ngồi trên những thùng kíp mìn cả tuần nay
đấy chứ!" Người hắn như đột ngột hạ nhiệt độ, lạnh toát và bắt đầu run,
nhưng mọi sự đã thuộc về những đêm trước rồi. Sau này mỗi lần nhớ tới chuyến đi
hắn lại nghĩ ngay đến cuốn phim nghẹt thở của Pháp được xem vào cuối những năm
50, Salaire de la peur (Ðồng lương khủng khiếp), một cái xe
tải chở những thùng chứa đầy một chất lỏng chỉ cần va mạnh là nổ, lại thấy đầu
ngón chân, đầu ngón tay buốt lạnh. Hắn về đến Hà Nội khoảng 6 giờ chiều ngày
chủ nhật, xe dừng ở cuối phố Lò Ðúc có căn hộ của thằng em ruột, vì các gia
đình ở chân cầu Long Biên phải sơ tán cả phố. Ðứa con trai sau bị suyễn nên
không gửi trại trẻ được, ngày ngày theo mẹ lên cơ quan sơ tán ở nhà Ngân hàng
trung ương, là một khối nhà xây bằng đá đồ sộ, có một tầng hầm dài rộng như một
dãy phố. Hắn chỉ buồn con hắn đã lên bẩy mà chưa nhận được mặt chữ. Ðường phố
buổi tối đông người dần, đèn đường đã bật sáng nhưng vàng tối như đèn dầu. Con
hắn đứng ở cửa, cổ đeo dây chìa khoá, nó chờ mẹ từ chỗ sơ tán thăm bà nội và
anh về chứ không nghĩ là bố sẽ về. Nó bước lại nắm chặt lấy tay bố nó, mặt rạng
rỡ: "Bố về! Bố có mua gì không?" Hắn cười: "Ở chỗ các chú bộ đội
chỉ có mìn với bộc phá chứ có gì mà mua. À, có rất nhiều kíp mìn nữa, nhưng trẻ
con không được chơi kíp mìn".
24.
Cuối năm 1968, Mỹ ngừng ném bom miền Bắc. Ðầu tháng 11 hắn lên trại trẻ đón
đứa con trai sau về Hà Nội. Nó vẫn lên cơn hen mỗi dêm, vì trời đã bắt đầu
lạnh. Ở với bà nội không chừng bà sẽ ốm theo cháu. Cuộc chiến tranh phá hoại
kéo dài bốn năm chỉ mới tạm dừng vì cuộc chiến tranh lớn vẫn chưa kết thúc,
nhưng dứt tiếng bom đạn một ngày là vui được một ngày, ngày sau lại bom lại đạn
cũng chả sao. Từ năm 15 tuổi cho tới năm 38 tuổi chưa có ngày nào hắn được sống
trong cái cảm giác hoàn toàn yên ổn, có thể hình dung một cách chắc chắn những
năm tháng thuộc về tương lai. Tương lai một cá nhân, một gia đình phụ thuộc vào
tương lai của đất nước. Một đất nước trên hai chục năm luôn chao đảo trong sóng
to gió lớn. Ðánh thắng Pháp mới chỉ thắng có một nửa, còn một nửa nước Mỹ sẽ
thay Pháp giữ chặt lấy, sẽ trở thành thuộc địa mới của Mỹ với tay sai mới, quân
quyền mới, thế trận mới. Mỹ không phải là Pháp nhá, nên trận chiến mới này sẽ
có nhiều gian nan, trở ngại không thể ngờ, không chỉ ở trong nước mà cả ở ngoài
nước vì Mỹ vẫn là bá chủ hai phần ba thế giới. Nước mình sẽ là cái gì trong sự
tính toán vị kỷ giữa các cường quốc trên bàn cờ chiến lược. Sống ở Hà Nội ngay
từ năm 1962 đã có nhiều người trong cơ quan đeo ba lô lên đường vào các chiến
trường phía nam rồi. Cuộc chiến tranh mới đã bắt đầu nhen nhóm. Những người ở
lại tuy ngày ngày vẫn về nhà ăn cơm với vợ con, đêm đêm ngủ cạnh vợ nhưng trong
lòng đã mất hết mọi yên tĩnh, đã hoá ra bất an vì chả ai có thể ngồi yên khi
bạn bè lần lượt đi vào các chiến trường. Vả lại một thế hệ lớn lên trong chiến
tranh, lập nghiệp, lấy vợ sinh con trong chiến tranh lại không được sống dài
ngày ở những nơi cuộc chiến đang diễn ra ác liệt thì cũng không thể hiểu hết
được cái khả năng chịu đựng và thích ứng của chính mình và những người đương
thời.
Cho nên Mỹ vừa ngưng ném bom miền Bắc được một tuần là hắn lao vào Quảng Bình,
Vĩnh Linh ngay. Hắn muốn được sống ở Vĩnh Linh ít ngày, tuy không còn bom đạn
nhưng đám cháy chỉ vừa mới tắt ngọn, tàn đỏ vẫn chưa lụi hẳn, khói bom vẫn chưa
tan hẳn, những mất mát còn nguyên vẹn, những nỗi đau cũng còn nguyên vẹn, không
chừng cái đau lúc này còn day dứt hơn vì đã có một khoảng thời gian yên tĩnh để
ngấm nghía về những cái đã mất đi mãi mãi của một gia đình. Hai bên bờ sông
Gianh đã có những túp lều mới dựng bán nước, xôi, thuốc lá. Ngồi ở quán chờ phà
đã được nghe bao nhiêu chuyện, chuyện còn mới cả, nói rằng trẻ con ở các xã
Hương Thuỷ, Hương Dũng chăn bò chăn trâu ở vùng đồi nghe tiếng máy bay tới gần
vẫn bình thản như không, tới lúc một đứa hô: "Hướng 34, tăng độ cao, chui
vô hầm ngay!" lúc đó chúng mới tản ra nhảy xuống hầm. Một ông nói, chúng
tôi làm giao thông hào từ giáp Quảng Bình đến tận sông Bến Hải khoảng hai chục
cây số từ Vĩnh Tú, Vĩnh Nam, Vĩnh Hoa đến Vĩnh Tân, Vĩnh Giang, Vĩnh Quang. Lại
có giao thông hào liên thôn, liên xã. Trong năm 1968, toàn dân Vĩnh Linh không
ai đi trên đường cả. Một người khác nói, dân chúng tôi chỉ có một nghề đi bể,
nó đánh bể thì làm lộng, trong lộng cũng bị đánh thì làm cá trên sông nhưng gặp
khó khăn về thuyền, về lưới, về cách làm. Sông có bom từ trường thì đi câu ở
ruộng, làm lưới nhỏ trên ruộng, làm vẫn đủ ăn. Buổi chiều qua Ðồng Hới, cổng
thành Ðồng Hới như bị chẻ đôi. Nhà máy gỗ sát cầu Dài mất hẳn. Thanh Hoá, Vinh,
Ðồng Hới trở nên giống nhau vì tất cả chỉ còn là những đống gạch vụn. Chiều hôm
sau qua phà Quán Hàu, rất nhiều thuyền chở gạo trên sông Nhật Lệ, mỗi thuyền
chở khoảng 5 tấn. Bộ đội trùm vải dù vác các bao gạo 50 cân chuyển lên xe. Mấy
cô nhà thuyền ngồi ở mũi thuyền xé cua bể nấu cơm chiều, nói chọc nói ghẹo gì
đó mấy anh bộ đội rồi họ cười lanh lảnh, tiếng cười trong trẻo vô tư vang vọng
cả một khúc sông. Những cánh buồm trắng và nâu chạy lờ lững ngoài sáng một đoạn
dài rồi như bị hút vào vùng tối huyền bí của chân núi. Khung cảnh sông nước vào
lúc chiều đã có cái buồn hiu hiu của một ngày thanh bình, một ngày sống bình
thường như những ngày chưa có chiến tranh. Ðêm đó hắn ngủ tại nhà hầm của khu
đội Vĩnh Linh, được chủ nhà đãi một bữa cơm thịnh soạn, tuy chỉ có một con gà
luộc chấm muối và hạt tiêu xanh và một bát nước dùng lơ thơ vài cọng hành,
không có rau, đến cỏ và lá tre cho trâu bò ăn cũng hiếm nói gì rau. Còn thiếu
rau xanh hơn cả đảo Cồn Cỏ năm nào. Ngồi trò chuyện một lúc thì có hai o dân
quân tới thăm. Một o tên là Lương, một o tên là Phú, đều ở tuổi 19, họ đã dùng
đại liên 12 ly 7 bắn rớt một máy bay F4H vào tháng 11 năm 1967. O Lương kể :
" Khoảng 5 giờ chiều, trời hơi mù, có hai chiếc F4H bay rất cao rồi một
chiếc lao thẳng xuống trận địa, bọn em đã lấy sẵn góc độ, tầm hướng rồi, nổ
súng luôn. Ðạn bay từ dưới lên một cột thẳng rồi toả ra như bông sen chụp lấy
thân máy bay. Máy bay xịt lửa, kéo vệt lửa bay đi, bản đồ và ghế phi công rơi
vào nhà hầm của khu hội phụ nữ, còn thằng phi công nhảy dù xuống Gia Ninh cách
trận địa khoảng ba cây số". Khu đội trưởng Vĩnh Linh nói tiếp: "Tôi
đứng ở cửa hầm ngó xuôi cũng đã biết có một F4 trúng đạn nhưng không rõ là bộ
đội bắn hay dân quân miềng bắn, một lúc thì thấy hai con nhỏ Lương và Phú chạy
lại, người trắng toát như không còn máu kêu thét từ xa: "Tụi em bắn rớt
máy bay rồi đó!" Tôi phải nói ngược lại để tụi nó khỏi mừng quá mà đứng
tim: "Tụi bay nói trạng, tao có thấy chi mô?" O Lương phải báo cáo
thêm, tụi nó bắn có 36 viên đạn, báo luôn cả góc độ tầm hướng, và nhắc cả con
heo bốn chục ký mà uỷ ban đã hứa thưởng cho đội nào bắn rớt mày bay". Hắn
hỏi: "Lần đầu bước vào cuộc chiến đấu các o có thấy sợ không?" O Phú
nói rất sợ, năm hoà bình Vĩnh Linh thuộc miền Bắc, là vùng đất tự do, bọn họ
mới có 6 tuổi, có nghe tiếng nổ, có nghe nói người chết vì bom đạn nhưng ở xã
khác, mắt chưa thấy người chết bao giờ, mãi tới năm 1965 mới nghe tiếng máy bay
gào rú trên đầu, bom nổ chỗ này chỗ kia, gà bay, lợn kêu, chó chạy, người cũng
chạy quáng chạy quàng cả, lần đầu giáp mặt với chiến tranh mà. O Lương đã suýt
chết một lần vào năm 1966, bom nổ cạnh hầm, đất phủ lên hầm còn thiếu ba tấc
đầy bẩy mét (?) Ðào đến 12 giờ đêm vẫn chưa tới, lúc kéo người lên phải cạy máu
đông ở miệng, nằm đúng mười chín ngày mới lò dò đi lại được. O Phú lại kể
chuyện bắt phi công Mỹ cuối năm 1965, vào giờ giữa trưa, nhìn thấy cái cẳng
thằng phi công đu đưa đu đưa dưới cái dù, bu xung quanh có hàng chục cái trực
thăng, phản lực bay rầm trời rầm đất. Nhưng cái dù lại rơi vào trong rú, Phú
lao theo cứ nhìn dấu giầy mà vọt đi, tới một bờ sông trong rú thì nhìn thấy cái
lưng nó, trong súng có năm viên đạn, bắn theo một viên cảnh cáo, nó ngồi thụp
xuống co người lại, bắn luôn hai phát nữa rồi chạy tới lấy cái đài con đeo bên
người nó, lấy dây dù lúc nào cũng sẵn trong người để trói biệt kích, trói hai
khuỷu tay quặt ra sau nhưng không bắt cởi giày, cũng không bịt mắt, nó đi chậm
thì nó cực mà mình cũng nhọc. Nó trẻ lắm, chỉ hơn em khoảng một hai tuổi nhưng
rất to con, cũng phải nặng hơn tạ, nó ăn bơ uống sữa dư đủ chứ đâu có ăn rau ăn
khoai mà vẫn không được no như mình. Hắn nghe chuyện chả ghi chép gì cả, cứ
nhìn chằm chằm hai cô gái xạ thủ của đất lửa, trạc tuổi vợ hắn lúc mới làm quen
nhau, hắn 24, vợ hắn 19, dáng người cũng gọn gàng như thế nhưng vợ hắn trắng
hơn, hai o này da ngăm ngăm nâu nhưng cái cười thì giống hệt, tươi tắn, dễ gần.
Và cả hai đều có những bàn tay, bàn chân rất to như chân tay của nam giới. Hai
cô gái ở một vùng đất đã thành bùn thành bụi vì bốn năm bom đạn, không còn nhà,
không còn cây, không còn những vạt rau xanh, nhưng ruộng cấy lúa vẫn còn, trước
mắt hắn là những cánh đồng lúa đang vào gặt vụ mùa, thì sự có mặt của các o dân
quân đã làm dịu hẳn, tươi hẳn cả một khung cảnh chết chóc, khô cằn. Họ đẹp từ
khuôn mặt, dáng đi, giọng nói, tiếng cười và cả những bàn chân, bàn tay hơi thô
cũng vẫn rất ưa nhìn, như là tặng vật của ông trời vẫn dành lại cho một vùng
đất không bao giờ chết, không bao giờ bị huỷ diệt. Nếu chỉ nhìn cảnh tượng trên
mặt đất của các xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Chấp thì quả là cuộc sống đã bị
huỷ diệt như mình đã bị ném lên mặt trăng vậy. Nghe anh em kể có những tháng
của năm 1968 cả khu vực Vĩnh Linh chỉ thấy khói và bụi bom bao bọc cả bốn phía như
cả hành tinh đã bốc thành khói, khói quẩn suốt ngày, bụi khói như bụi đất dính
vào người có mùi khét. Bom rải thảm của B.52, bom sát thương, bom đào khoan,
bom bi, có đêm nó nã pháo tử Cồn Tiên, Dốc Miếu sang tới 5000 quả, bắn suốt
đêm, có ngày có 95 lần chiếc B.52 rải bom từng đợt, giờ nào cũng có từng tốp
B52 bay ì ì trên trời, rồi chớp xanh chớp trắng nhấp nhoáng trong khói khắp mặt
đất. Nhưng không nghe thấy tiếng nổ vì hai tai đã ù đặc, rồi mắt cũng như bị
loà bị mù vì khói, không thở được, không nói được vì khói, cũng không chạy được
vì chân tay như đã bị những vòng khói siết chặt. Có một chuyện nghe như đùa mà
là chuyện có thật. Một bà mẹ đã ngoài bảy chục tuổi chui vào hầm chữ A đào ngay
trong nhà. Bom nổ, nhà bị sập, hầm bị lấp, đang cho người vào kéo bà lão lên
thì bà nói vọng ra: "Ðể mẹ ăn xong miếng trầu rồi ra". Dân Vĩnh Linh
vốn nổi tiếng là dân nói trạng mà! Có một điều làm hắn rất kinh ngạc là Vĩnh
Linh lấy đâu ra người mà gánh vác quá nhiều việc. Vì nhiệm vụ chính của lực
lượng dân quân không chỉ là bắn máy bay mà còn sản xuất và chuyển hàng từ Bắc
vào Nam qua sông Bến Hải. Chỉ trong chín tháng của năm 1968 đã phải huy động
136 ngàn công chuyển hàng từ Bắc vào Nam. Lại còn công làm giao thông hào liên
thôn, liên xã, công làm trận địa pháo cho bộ đội, công lấp các đoạn đường bị
bom đánh cho xe qua, bao nhiêu là việc mà nhìn quanh quẩn đâu có thấy người.
Trong một đêm ngày 3 tháng 2 năm 1967, dân quân xã Vĩnh Thuỷ nhận lệnh làm 8
cây số đường, 3 cầu và 3000 gánh bổi lót đường cho xe pháo ra gần mép biển đánh
tầu chiến. Rồi còn phải tiếp tục đào địa đạo nữa, mỗi chiếc cuốc chim ngắn cán,
một cái xẻng lưỡi sắc như dao cạo cũng ngắn cán, một cái rổ, mấy chục mét dây
chão và một cái trục quay, đêm nào cũng phải đào, có đoạn đào sâu 20 mét, có
đoạn sâu 30 mét, đào ở mọi hướng mà đều có điểm để gặp nhau thành các ngã ba
ngã tư như một thị trấn dưới lòng đất. Trên mặt đất như vùng đất chết, dưới
lòng đất vẫn là một Vĩnh Linh đang sống, đang chiến đấu, có những trạm y tế
kiêm nhà hộ sinh, có vườn trẻ, có cả câu lạc bộ biểu diễn văn nghệ, chả học
kinh nghiệm nơi nào cả, thấy cần là làm, vừa làm vừa học cách làm và học cả
cách sống dưới lòng đất. Tới đâu cũng gặp các cô gái, một thế giới toàn phụ nữ
đảm đang đủ mọi việc của thời chiến, vẫn cười đùa, vẫn làm duyên làm dáng và
đôi lúc vẫn nghĩ tới chuyện chồng con. Trong chiến tranh vẫn lấy chồng được,
vẫn sinh con được, chứ đâu phải đợi tới ngày thống nhất đất nước! Mười năm nữa
chiến tranh mới kết thúc thì thành bà già cả bọn sao? Một cảnh tượng dọc đường đến
xã Vĩnh Chấp làm hắn nhớ mãi. Một hố bom lọt vào giữa bốn cây mít, rễ sát đất
đều bị tiện cụt mà cây vẫn sống, một đàn lợn teo tóp như một lũ chuột leo lên
tụt xuống quanh miệng hố bom. Một bãi bùn với những thân cây cháy đen bị tiện
ngang, trơ trụi, lầy lội. Một cái nhà sát miệng hầm bị cháy từ lâu, mái tranh
lợp trên như mới cắt nửa xanh nửa vàng, có một cây cột điện vẫn còn nguyên các
bình sứ cách điện đưa vào làm cột chống mái nhà. Bếp đun ở cửa hầm, có một cái
chạn, mấy cái rá, có cả một cái liễn bằng đất nung. Một điểm sống đã nhú lên
trên vùng đất mặt trăng sau ngày ngừng bắn phá mới khoảng mươi ngày chứ mấy.
Một anh bộ đội ở đường 9 vào xã mua chè, đội mũ tai bèo cũng là khăn lau mồ
hôi, đeo đủ thứ quanh người, cái nào cũng có vỏ bọc vằng vải bạt, đang kể
chuyện cho mấy o dân quân nghe về dốc Bà Ðịnh, dốc Anh Trỗi, dốc Anh Bé. Anh ta
nói năm 1965 mới vào chiến trường đã bị sốt rét ngay, cặp nhiệt độ lên tới 42
độ người đã mê đi tưởng chết, mà rồi qua khỏi, từ đó chẳng còn ốm đau gì nữa,
bệnh chê mà bom đạn cũng chê, chắc là sẽ sống được tới già. Một o hỏi:
"Anh bị sốt rét có báng không?", anh kia cười, hàm răng trăng bóng:
"Leo dốc thót bụng lại, thở lên đến ức lấy đâu ra báng!" Hắn đến xã
Vĩnh Linh chỉ để nghe công tác đảm bảo giao thông trên các trục đường qua địa
phận của xã. Một hố bom trên mặt đường phải bỏ vào đó 550 gánh bổi, hai mươi
mét khối đá và gạch, chặt cả cây cối, hòm tủ ném xuống hố bom. Vẫn không đủ,
sau phải dỡ cả nhà đưa ra mặt đường, nhà bí thư, chủ tịch đập trước, sau đó là
nhà của dân, phải đăng ký để đập nhà từng đêm, chứ đập sạch bữa sau lấy gì mà
lấp. Có nhà chị Mẹt, chồng cụt chân, năm con dại, nhà ba gian mới làm cũng xin
cho dân quân vào đập. Xã phải ngăn: Từ từ, chiến tranh còn dài, mần một lần,
làn sau lấy chi mà mần. Bà con có quyền đăng ký nhưng không có quyền tự đập
nhà". Hắn ngồi với một nhóm dân quân bất ngờ được gặp cả giờ, hỏi đủ mọi
chuyện. Một o mặt hơi rỗ mà vẫn xinh lắm, giọng nói như hát hỏi hắn: "Eng
là phóng viên mặt trận à, da eng trắng rứa chắc là mới đến Vĩnh Linh lần
đầu?" Hắn nói, cũng là ngượng quá nên phải khoe: "Năm 65 tôi có đến
Vĩnh Kim đợi thuyền ra Cồn Cỏ nên không đi được nhiều trong đất liền". Ánh
mát cô bé dịu lại, thân thiện: "Bọn em cũng ao ước được ra Cồn Cỏ để phục
vụ các anh trên đảo nhưng chưa có dịp nào". Hắn lại nói: "Ở trên đảo
chỉ toàn là đàn ông thôi, các o mà ra đó lên ngôi nữ chúa hết!" Cô bé lại
cười: "Chu cha! Sướng hí, ở trong ni chỉ có ông già mụ lão với bọn con gái
chúng em thôi, đàn ông con trai đi sạch nên mọi việc ở nhà bọn em phải làm
hết". Cô bé nói tiếp, mỗi lần nghe xã giao việc người cứ chết lặng vì lo,
người còn một nhúm mà trăm thứ việc, lấy người đâu làm, làm lúc nào, không ăn
không ngủ cũng không có thời gian để làm; ví như có lệnh trong ba ngày phải mở
10 cây số đường cát, đào 250 hố cá nhân, làm ba trận địa để bộ đội đưa pháo ra
mép biển. Người giao việc cứ nói như không, bọn em phải mọc thêm mấy chân mấy
tay để làm cho tròn mọi việc. Mà vẫn còn mấy chục mẫu ruộng chưa cấy, vẫn còn
mấy trăm tấn gạo để gần bến phà nội trong một đêm phải bốc hết lên xe, lại còn
người đi tải đạn, người đi cáng thương binh... Rồi cô gái kết luận: "Việc
của bọn em các anh bộ đội đóng quân ở đây chỉ nhìn cũng đủ ngán. Chỉ có nữ mới
làm được thôi, làm không tính tới ăn, không tính tới ngủ, làm hết ngày này qua
tháng khác suốt bốn năm nay, không nghỉ ngày nào, không đau bệnh ngày nào, mấy
anh có làm được như bọn em không?"
25.
Sau chuyến đi vào Vĩnh
Linh hắn thương vợ hơn, tôn trọng vợ hơn, và tự nhận vợ hắn quả đã có công lao
rất lớn trong cái sự nghiệp văn chương của hắn, là một nửa sự nghiệp của hắn.
Hắn vốn lười, lại kém tháo vát ở những việc không tên, lại sống trong cái thời
nửa chiến tranh nửa hoà bình mọi thứ đều thiếu thốn. Trong gần hai chục năm gia
đình hắn chỉ có mỗi cái quạt tai voi dùng trong mùa hè, cái quạt về sau lại
hỏng một bộ phận nào đó không quay được, cứ chĩa thẳng về một phía mà thổi gió
nên trẻ con nằm vài ngày là ho sốt ngay, nên vợ hắn phải dùng quạt nan quạt
suốt đêm. Nghĩ lại cái cảnh tượng ngủ trưa mùa hè ở Hà Nội vừa thương vừa nhớ,
ba con nằm ba góc chiếu, chồng nằm trên nền đất, còn vợ nằm ghé nửa chiếu nửa
đất, cái quạt nan trên tay phe phẩy không lúc nào ngưng, lắm lúc buồn ngủ quá
vợ hắn vật cánh tay cầm quạt lên người chồng, là hắn đã cằn nhằn: "Em ngủ
rồi à, không quạt nữa à?" thế là cánh tay cầm quạt lại nhấc lên, hơi gió
lại thoang thoảng bay qua người và hắn lại tiếp tục ngủ. Nói cho cùng vợ hắn
lấy hắn, rồi về sống ở Hà Nội, lại làm cái nghề liên quan đến nghệ thuật là sự
lựa chọn nông nổi. Lầm lẫn tai hại. Ðất Hà Nội và đất nghệ thuật cần cái giả
dối hơn là cái chân thật, vui buồn giả dối, nhan sắc giả dối, học vấn cũng giả
dối, mọi sự giả dối ấy đều rực rỡ, loé sáng dưới các lớp đèn mầu của thành phố
và cái thật thà, cái hồn nhiên, cái mộc mạc của những vừng quê hoá ra thô lỗ,
hoá ra vênh váo, không thể ăn khớp trong cái guồng máy nịnh người, lừa người
của cuộc sống thành phố. Vợ chồng hắn sống với nhau đã 45 năm, vợ hắn cũng đã
là người của thành phố từng ấy năm mà vẫn không bỏ được thói quen mời khách ăn
cơm là cầm cả bát cơm lẫn đôi đũa ấn vào tận tay khách, cứ như vẫn bày cơm trên
nia trên mẹt đặt dưới đất của cái thuở xa xưa nào. Mới lấy nhau chồng đã dặn vợ
ăn cơm ở thành phố khi nhai không nên há to miệng, không nên nhai cơm, húp
canh, cắn cà thành tiếng vừa khó nghe vừa khó nhìn. Lại cãi người ăn chứ có
phải ma ăn đâu mà không có tiếng động, với lại có đi ăn cơm khách bao giờ mà
phải quá giữ ý, còn khách đã mời đến nhà là khách thân cả, chồng thành phố vợ
gái quê ai chả biết. Người già lục phủ ngũ tạng tanh bành hết duy hàm răng vẫn
trắng đều, vẫn khoẻ, cắn miếng cà nghe cứ giòn tan, các con nhìn nhau cười, còn
chồng thì nhăn mặt, gần năm mươi năm ngồi ăn cơm với nhau mỗi lần nghe vợ cắn
quả cà anh chồng vẫn cứ phải nhăn mặt. Ðã bảo vợ sống ở thành phố phải biết che
đậy, biết giả dối, chả hại ai cả chỉ để giữ mình khỏi thành trò cười thôi. Dạ
vâng một hồi lúc tối, sáng hôm sau vẫn sống nguyên như cũ, bảo không thể sống
khác được, ăn khác đi ăn không ngon, nói khác đi nói không xuôi, vậy biết làm
sao hở trời! Ði lĩnh gạo ở bếp ăn của chồng, thấy bạn chồng đứng chơi ở
cổng Tạp chí Văn nghệ Quân đội là xuống xe ngay để vào chào.
Một người hỏi: "Cái thằng ấy không lấy gạo giúp vợ lại bắt vợ tới lấy
à?" Thế là nói một thôi một hồi, nào anh ấy bận viết, nào anh ấy lười, mọi
việc nhà đều đùn cho vợ, vợ đẻ cũng trốn, con đau cũng trốn, trốn đi tỉnh, trốn
vào ngủ ở cơ quan, nhà em là sướng nhất đấy! Bạn của hắn đều là lính cả, lính
đã đùa thì gái thành phố còn phải hãi nói gì gái quê. Nên họ mới nói rằng họ không
bao giờ bắt vợ phải làm việc nhà, không bao giờ bắt vợ xếp hàng đi chợ hoặc tệ
hơn bắt vợ đi lấy gạo ở bếp cơ quan. Vợ họ là những bà hoàng, chỉ có sinh con,
nuôi con vì đàn ông không thể thay được nên đành chịu để vợ phải chịu cái đau,
cái vất vả một mình. Ðể bù lại họ đã... Họ nói đùa nói giỡn nhưng vợ hắn lại
nghĩ là thật cũng giận chồng mất mấy ngày vì chồng đã coi mình như con ở, không
tôn trọng vợ, giúp đỡ vợ như các bạn của chồng. Nhưng khi hắn hỏi: "Vậy
mấy bà ở quê em, là các bà chị của em, chồng đi đánh Pháp suốt tám, chín năm, ở
nhà nuôi con một mình, vừa chạy giặc càn, vừa chạy bữa ăn thì trách ai?"
Thế là cúi mặt, tủm tỉm cười: "Chuyện! Thời xưa khác thời nay khác".
Hắn được thể lại nói: "Thế thời nay không phải là thời chiến tranh à? Một
dãy nhà này đã có ba bà vợ nuôi con một mình để chồng đi B, các bà ấy than thở
với ai?" Thế là im luôn, thì đã bảo vợ hắn vốn nhẹ dạ cả tin mà. Ở thành
phố, lại sống trong giới nghệ thuật, đôi lúc cũng nên nói dối một tí cho bạn
vui, mình cũng vui, như một thứ tra dầu, bôi mỡ cho cỗ máy sinh hoạt chạy êm
hơn, nhẹ hơn. Chả hạn, bạn cho sách, gặp lại nhau nên nói dối một tí:
"Mình mới đọc một lượt, có ấn tượng tốt lắm, để đọc thêm một lần nữa mới
có ý kiến được" hoặc " Ðọc rồi, cuốn này viết được lắm; thích hơn cuốn
trước". Nghe bạn bè nói thế mình nói theo một câu; chả mất gì mà bạn lại
vui. Hoặc gặp một cô bạn làm nghề ngâm thơ, đọc truyện đêm khuya, cũng nên khen
dối một câu là giọng vẫn truyền cảm lắm, giọng vẫn đẹp lắm, hoặc cô bằng tuổi
vợ tôi, mỗi lần gặp cô về nhìn lại vợ thấy bà ấy già hẳn. Dẫu cô em có thét
lên: "Ðừng có nịnh! Cái miệng ông nói ai mà tin!" Nói thế nhưng mà
thích lắm đấy, vui lắm đấy. Ðó là nghệ thuật sống của những người ở thành phố.
Hắn cũng đã bảo vợ chớ nên thật thà quá, thật quá là lạc điệu, thi thoảng cũng
nên nói dối một tí cho giống với mọi người. Và vợ hắn đã tập nói dối, với ai,
với ông Hữu Mai là một ông đùa không cười, một người hay nói dối như hắn cũng
không dám nói dối với Hữu Mai. Ông Hữu Mai hỏi: "Anh ấy vừa có cuốn sách
dầy lắm, chị tiêu làm sao cho hết tiền nhuận bút?" Nghĩ là bạn chồng nói
thế để hỏi vay tiền, vợ hắn vội nói: "Chả được bao nhiêu đâu anh ạ, cầm về
có ít lắm". Lại hỏi: " Ít lắm à, có được một ngàn không?" Chối
ngay: "Làm gì được nhiều thế hả anh? Chỉ có mấy trăm thôi". Ông đùa
không cười nhăn mặt đầy vẻ thông cảm: "Họ tính toán thế nào mà lạ thế nhỉ?
Như chúng tôi một cuốn sách gần hai trăm trang phải được lĩnh chín trăm mấy
chục đồng tiền nhuận bút. Anh ấy tính hiền quá nên họ dễ bắt nạt, chứ nhầm lẫn
gì mà lại tính hụt tới quá nửa số tiền có thật. Anh ấy không dám nói thì để tôi
nói cho, chiều nay tôi sẽ sang hỏi đám tài vụ của nhà xuất bản giúp chị".
Cái số tiền ông Hữu Mai nói đúng cả số chẵn lẫn số lẻ nên mặt vợ hắn vừa đỏ vừa
tái, vội thanh minh cho chồng: "Chắc là nhà em mới đưa cho em một ít, chưa
đưa cả". Ông bạn chồng lại ra vẻ giận dữ: "Hắn giữ lại một nửa để làm
gì, để cho gái hả, cái thằng ấy thế mà hỏng, ông Vũ Cao biết chuyện là kỷ luật
nặng đấy!" Lại cuống quýt thanh minh một lần nữa: "Chắc không phải
đâu, có khi nhà em đưa cho mẹ em giữ cũng nên". Vẫn chưa buông tha:
"Chị cũng phải hỏi bà cụ cho biết chứ, hơn sáu trăm bạc đâu phải ít tiền.
Chị không dám hỏi cứ để tôi hỏi". Hỏi mẹ chồng một số tiền mà cả vợ lẫn
chồng đều chưa nói tức là muốn giấu, còn chết nữa! Chả lẽ vợ hắn phải oà khóc
và thú nhận là đã nói dối. Thấy cô gái quê đến nói dối cũng không biết cách nên
ông hay đùa nghĩ cũng thương tình: "Trong mấy ngày tới chị phải hỏi anh ấy
xem đầu đuôi thế nào. Bọn tôi đã lĩnh tiền nhuận bút là phải đưa hết cho vợ, có
cần tiêu gì lại xin vợ chi cho. Vợ là nội tướng mà lại!" Tối về nghe vợ kể
lại câu chuyện đối đáp với ông Hữu Mai, hắn vừa giận vừa buồn cười. Khốn nạn ai
bảo lấy vợ nhà quê đem lên thành phố làm gì, lại sống chung với những người làm
văn làm báo làm nghệ thuật mới thành trò cười cho chúng bạn. Vợ hắn cũng là
diễn viên đoàn kịch nói của quân đội được mấy năm, diễn vai nào cũng hỏng,
giọng thì mượt mà nhưng không biết cách diễn, ra sân khấu đi lại cười nói cứ
cứng đơ, đành phải vào vai ma, trùm một cái khăn xô trắng từ đầu tới gót, bước
qua bước lại trong cái tranh tối tranh sáng, hoặc vào vai quần chúng hò hét,
nói qua nói lại dăm ba câu trong đám người lố nhố ở một góc sân khấu. Thì vẫn
cứ là người làm nghệ thuật, vẫn phải học nghề làm nghệ thuật, tối về lại hỏi
chồng ông đạo diễn Nga này là người như thế nào, ông viết kịch Ðức kia là người
như thế nào, và rất nhiều thuật ngữ của nghề diễn mà hắn cũng chỉ mới được nghe
lần đầu. Hắn tuy là người viết văn nhưng lại rất sợ bàn chuyện văn chương và
những lý luận này khác của văn chương. Hắn chủ trương chấp nhận mọi phong cách
nghệ thuật, mọi cách nhìn, mọi quan điểm rồi tuỳ cái tạng của mình mà thâu nạp,
biến hoá. Vợ hắn thấy chồng trả lời thờ ơ mọi câu hỏi cho rằng hắn là thằng ích
kỷ, chỉ muốn tiến bộ một mình, không muốn dắt kéo vợ cùng tiến theo. "Anh
sợ vợ anh đầu óc mở mang thì không dễ bắt nạt như trước chứ gì?", vợ hắn
đã có lần đay nghiến hắn thế. Hắn liền hỏi lại, chị Sửu ở đoàn chèo có học hành
gì đâu, đàn bà đã lớn tuổi mà say sưa tối ngày thì là cái giống loài gì? Vợ hắn
nín thinh, hắn lại nói tiếp: "Chị ấy thuộc cái giống loài các nghệ sĩ rất
có tài, tài bẩm sinh, em đã xem chị ấy diễn trích đoạn Suý Vân giả dại rồi
đấy! Học thế nào được, bắt chước thế nào được mà cũng chả có phương pháp nào,
lý luận nào giải nghĩa nổi. Nó là cái huyền bí muôn đời của nghệ thuật".
Nhưng vợ hắn không thể nghe ra, không thể hiểu nổi và về già đã nói thẳng:
"Anh đã coi khinh tôi, ruồng rẫy tôi từ ngày ấy".
Cũng trong những năm ở đoàn kịch, vợ hắn chả có vai diễn nào khiến người xem
phải nhớ, nhưng sau mỗi chuyến đi của đoàn vợ hắn vẫn có thêm rất nhiều bạn bè
thuộc nhiều quân chủng mà đoàn kịch tới phục vụ. Có ông cán bộ cấp trung đoàn
viết cho vợ hắn: "Trong những ngày được gần gũi đoàn anh chỉ để ý có mình
em thôi, mọi lời nói của em đều đẹp, mọi cử chỉ của em đều đẹp, em là đại diện
cho mọi vẻ đẹp của các cô gái quê vùng đồng bằng Bắc Bộ..." Cũng như các
cô gái vùng đất lửa Vĩnh Linh, họ đều rất trẻ, rất đẹp nhưng là cái đẹp trong
hy sinh, trong vô vàn những vất vả của mỗi ngày, cái đẹp trong khói lửa chiến
tranh. Nếu kéo các cô ấy ra khỏi môi trường họ đã sống, theo chồng ra Hà Nội để
làm một nhân viên cửa hàng mậu dịch hay một cơ quan nào đó thì họ lại trở thành
các cô gái nửa quê nửa tỉnh rất khó chịu, rất vô duyên vì họ đã phải chối bỏ
những cái vốn là phép mầu của mình để học đòi những cái vốn là khắc tính của
mình.
Trong những năm 60 hắn viết rất khỏe, cái nào hắn viết cũng đọc được cả, các
nhà phê bình đã nói về hắn khi kết bài là "một cây bút trẻ có triển
vọng". Năm 1960 hắn được giải nhất truyện ngắn Một cặp vợ chồng của
tuần báo Văn Nghệ. Rồi hắn viết truyện vừa Chuyện người tổ
trưởng máy kéo đăng trên Tạp chí Văn nghệ. Năm 1961 hắn
đưa in tập truyện ngắn đầu tiên Mùa lạc. Năm 1962 in tiếp tiểu
thuyết Xung đột quyển 2. Năm 1963 ra tiếp tiểu thuyết Một
chặng đường và các truyện Hãy đi xa hơn nữa, Tầm nhìn xa,
Người trở về, Gia đình lớn. Năm 1968 in tiểu thuyết Ðường trong
mây.
Nửa năm sau những năm 60 chiến tranh đã lan ra cả nước. Miền Bắc sau
mười năm được sống trong hoà bình lại phải đối mặt với bom đạn của chiến tranh,
không phải chỉ một vài năm mà sẽ kéo dài tới ngày cả nước đã giành được độc lập
và thống nhất. Mình thì quyết tâm thế nhưng Mỹ cũng không thể chịu thua, một
cuộc chiến tranh của Mỹ, không chỉ có tiền bạc, sinh mạng lính Mỹ mà có cả danh
dự một siêu cường ký cược vào đó. Nên hắn lo lắm. Một đời người phải tham gia
những hai cuộc chiến tranh lớn, là cuộc đọ sức dài ngày giữa một nước nghèo và
yếu với những nước giầu và rất giầu, mạnh và rất mạnh, quả là ê ẩm. Chả có việc
gì được hoàn thành trọn vẹn trong vòng mười năm hoà bình cả, gia đình dang dở,
nghề nghiệp dang dở, thậm chí đến chỗ ở, chỗ làm cũng tạm bợ, cũng có thể đổi
thay. Và không thể hình dung trong mười năm nữa mình sẽ như thế nào, vợ hắn đã
tỏ rõ cái gan lì, cái tháo vát, cái tự lập và coi những vất vả của cuộc sống
thời chiến chả đáng là cái gì. Vẫn cười đùa, vẫn làm đẹp theo sự chỉ dẫn của
chúng bạn, tính toán mọi việc thản nhiên, bình tĩnh như có thể sống với những
cái không bình thường, những cái tạm bợ đến hết đời. Một gia đình bỗng chốc
phải chi tiêu những mấy nơi, mẹ và con trai lớn đi sơ tán ở trại trẻ quân đội,
hắn có lúc làm việc ở Hà Nội có lúc làm việc ở nơi sơ tán, còn vợ và con nhỏ
lại ở một nơi sơ tán khác cùng với cơ quan. Một tuần vợ hắn vẫn phải về Hà Nội
một lần, ngủ lại một đêm để sáng sớm hôm sau đến của hàng nhà thờ mua hàng ở
các ô phiếu, phiếu thịt, phiếu cá, phiếu nước chấm, cả phiếu đậu phụ cũng phải
mua. Thịt lọc nạc làm ruốc hay kho mặn, mỡ rán lấy mỡ đổ vào các lon gigô, cá
kho mặn hoặc rán, đậu phụ cũng rán, làm hì hụi cả buổi trong một khu nhà rộng
mênh mông chỉ còn lưa thưa vài bóng người, lại là khu dân cư ngay dưới chân cầu
Long Biên, cầu lại chưa bị sập nên máy bay quần đảo cả ngày, còi báo động cũng
hú suốt ngày, và những tiếng loan báo trên đài máy bay tới gần, máy bay đã bay
xa ra rả từ sáng đến tối như đã là một phần của cuộc sống thành phố. Khoảng 3
giờ chiều, vợ hắn buộc các làn túi vào xe đạp lên chỗ trại trẻ đưa thức ăn cho
mẹ và thăm con, đi vào những giờ máy bay hoạt động mạnh nhất, cứ đạp xe lững
thững, vừa đạp vừa tính toán những việc phải làm, số tiền phải chi tiêu và
chương trình sẽ phải đến nơi này nơi kia trong tuần, tuyệt nhiên không để ý đến
còi báo động, đến tiếng loa báo xa gần của máy bay, và cả tiếng bom nổ nếu
không phải ngay trên đường mình đi, vợ hắn nói với hắn thế. Vợ hắn đến chỗ mẹ
và con trời đã xâm xẩm tối, lại lăn vào nấu nướng một bữa ăn tươi, giặt giũ
khâu vá quần áo, trò chuyện với gia đình cho bà cháu ở trọ, biếu quà, gửi tiền
trọ mỗi tháng, sáng hôm sau lại đạp xe sang cơ quan của chồng, ra chợ mua thức
ăn làm một bữa cơm thành phố để chồng và các bạn chồng được ăn ngon một bữa,
khoảng gần tối mới trở về cơ quan của mình, tắm rửa và cho con nhỏ ăn, hỏi han
công việc phải làm trong ngày mai và những ngày tới. Những công việc của vợ hắn
trong năm năm sơ tán cũng là những công việc của chị Vách vợ ông thiếu tá hàng
xóm, cũng là gái quê lên tỉnh, học vấn chỉ viết được một chữ ký, suốt những năm
ở cùng một dãy nhà hắn chưa bao giờ nhìn thấy vợ chồng họ đi sóng đôi với nhau,
cũng không thấy họ đi xem phim xem kịch cùng với con cái (giống hệt vợ chồng
hắn). Ông chồng suốt ngày đọc sách, nghiên cứu, viết lách những gì gì, ăn cơm
riêng, ngủ phòng riêng như ông chủ. Rồi ông ta phải nằm bệnh viện cả năm vì bị
tai biến mạch máu não và chết ở bệnh viện. Hai con trai học hành dang dở, chả
có nghề ngỗng gì, sau ngày bố chết thằng anh tự dưng mắc bệnh tâm thần, lúc đi
trại, lúc ở nhà, hai đứa con gái xấu xí, lòng khòng, đã hăm mấy tuổi vẫn chưa
có thằng con trai nào tới thăm hỏi, chọc ghẹo. Bà mẹ ngày một già đi, sáng sáng
đội thúng xôi ra đầu đường ngồi bán cho những người đi làm sớm ăn vội. Bà vẫn
cười nói suốt ngày, như đã lấy cái vui thay cho cái buồn, lấy cái cười để át đi
tiếng khóc. Truyện ngắn Ðời khổ viết về bà Vách hai chục năm
sau chính là chuyện của vợ chồng hắn, là sự tự nhận lỗi và bày tỏ lòng biết ơn
đối với vợ theo cái cách của hắn, dẫu sao vợ hắn vẫn may mắn hơn bà Vách vì
công sức một đời đã được chồng con đền bù. Nhưng vợ hắn lại không cần được đền
bù bằng cái danh của chồng hay sự trưởng thành của con cái, vợ hắn vẫn nói:
"Tôi không cần cái danh của anh, cũng không cần tiền bạc của chúng nó, tôi
cần cái tình cảm kia, sống được một năm như vợ chồng bác Ðiềm rồi chết tôi cũng
hả!" Bác Ðiềm là bà chị ruột của vợ hắn, hơn em gái gần hai chục tuổi, chị
sinh con đầu thì mẹ sinh con út, em bú chị, cháu bú bà, mẹ chết sớm thì chị
buôn bán nuôi em, coi em như con. Năm hắn lấy vợ thì ông anh rể của vợ đạp xe
xích lô, còn bà chị thì buôn bán vặt vãnh ở cửa ga Hà Nội, con cái làm các nghề
vất vả nhưng lương thiện và họ không hề hỏi vay tiền vợ chồng hắn bao giờ.
Chính hắn cũng thích đến chơi nhà bà chị vợ và ông anh rể, nhà của họ ở trong
ngõ sâu của phố Khâm Thiên, hơi lầy lội khi trời mưa và rất chật với một gia
đình có những năm người. Mà lại hay bày cỗ bàn mỗi lần giỗ tết, khách mời ngồi
chen nhau trên cái phản mộc, còn con cháu trải chiếu ngồi chen chúc dưới đất.
Mâm mời khách có mọi đồ xào nấu của một bữa cỗ, còn mâm dưới chỉ có một đĩa
thịt ba chỉ luộc, miến xào lòng và một nồi to canh bánh đa nấu với cua. Mà vui
lắm, cười đùa rầm rầm, mặt ông lão đã đỏ ửng sau vài chén rượu, bắt đầu nói
năng huyên thuyên, bà vợ cũng uống rượu rồi bước ra giữa nhà vừa hát vừa múa vì
bà có máu đồng bóng. Con cháu ngồi xung quanh nhìn mẹ nhìn bà hò hét cổ vũ. Ðó
là cảnh tượng một gia đình hạnh phúc, một cặp vợ chồng hạnh phúc như ước ao từ
thời còn trẻ của vợ hắn. Những lúc giận dữ với chồng với con, vợ hắn lại gầm
gào: "Thà tôi lấy một thằng phu hồ, một thằng đạp xe xích lô nhưng là vợ
chồng thật, còn lấy một ông nhà văn vừa có danh vừa có tiền nhưng sống với nhau
như khách trọ tôi cũng chả thiết đâu!" Vợ là của hắn, là tài sản của hắn,
là một nửa của chính hắn lại có thể nghĩ về hắn lầm lẫn đến thế sao!
26.
Những năm 70 cũng là những năm hết sức quan trọng đối với một đời văn cũng như
một đời người của hắn. Ông Trời đã chiều hắn một nửa, ít người được chiều đến
thế. Nhưng ông cũng trừng phạt hắn một nửa, cái sự trừng phạt vừa bất thần vừa
tàn nhẫn. Từ những năm này hắn mới hiểu ra lời khuyên của các cụ từ những ngày
xửa ngày xưa: "Mất nhiều cũng chớ vội buồn, được nhiều cũng chớ vội
vui". Trong mất có được, trong được có mất, nhất là được nhiều là tai hoạ
sẽ tới liền nếu không biết giữ cái ngấn chừng mực. Khi vợ hắn sinh đứa con gái
út vào năm 1970 liền được bạn bè bình luận: "Cái số thằng ấy đến là may
mắn, muốn sao được vậy". Lại có người nói: "Nó có biết buồn là gì,
một đời người không có buồn, không có thất bại làm sao viết được văn!" Thế
là hắn bắt đầu sợ, vì đã linh cảm được một tai hoạ rất lớn đang tìm đường đến
hắn, đến vào lúc nào, bằng cách nào thì hắn không thể biết, nhưng chắc chắn sẽ
xuất hiện vào lúc hắn bất ngờ nhất. Cũng trong năm 1970 hắn đưa in một lúc hai
cuốn tiểu thuyết: Ra đảo và Chủ tịch huyện. Cuốn Ra
đảo viết rất công phu nhưng bị chê vì tác giả đã lạm dụng tiếng địa
phương quá nhiều. Quả thật cái giọng Quảng Trị, ngôn ngữ Quảng Trị là hết sức
thích hợp với một vùng đất sóng gió, cát đá, bão tố. Con người cũng như được
tạc bằng đá, cây cối của vùng đất này cũng gân guốc, nhọn sắc, đất và người đều
đã quen với biến động, với chinh chiến từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, đất
không hiền, người cũng không hiền và tiếng nói càng không hiền. Hắn là người
hiền lành, thích nhân nhượng, thích rút lui nên rất ngưỡng mộ những tính cách
đối nghịch: cái dũng mãnh, cái không khoan nhượng, cái quyết liệt. Và hắn đã
tìm thấy những cái hắn thiếu ở những con người dọc ven biển Quảng Trị. Nhưng sự
sùng mộ thiếu tỉnh táo ấy đã làm hỏng cuốn sách về phương diện nghệ thuật. Còn
ở Chủ tịch huyện hắn và các nguyên mẫu bao giờ cũng có một
khoảng cách, cái khoảng cách về tầm nhìn, tầm nghĩ, cái khoảng cách về tư
tưởng. Tức là các nhân vật văn học đều cao hơn, đẹp hơn, lý tưởng hơn những mẫu
người có thật, kể cả nguyên mẫu là một ông bí thư tỉnh uỷ nào đó. Vì cảm nhận
của nghệ sĩ do đọc nhiều, biết nhiều, lại làm nghề nghệ thuật nên bao giờ cũng
tinh tế, nhạy bén hơn các nguyên mẫu mà họ chọn lựa. Với hắn chỉ cần nghe một
tiếng cười, nhìn một ánh mắt, nắm một bàn tay là đã biết được phần nào người
nói chuyện với mình là đáng tin hay không đáng tin, là người có thể cộng tác
được hay chỉ nên quen biết qua loa rồi quên đi. Và hắn đã truyền những kinh
nghiệm của hắn cho các nhân vật của mình. Nói cho đúng các nhân vật văn học của
hắn chỉ mượn các nguyên mẫu có cái vỏ ngoài, cài phần xác, còn cái phần hồn,
cái phần tư tưởng của nhân vật thì vẫn là hắn, bất kể họ là bí thư tỉnh uỷ hay
chỉ là chủ tịch một xã, là một nhà báo hay một lãng tử, một ông già đã gần kề
cái chết hay một chàng trẻ tuổi đng háo hức bước những bước đầu tiên trên đường
đời. Chủ tịch huyện được bạn bè khen, bạn đọc khen, còn ông
Nguyên Hồng gặp hắn ở quán bia đường Trần Hưng Ðạo liền giơ một bàn tay lên và
bảo: "Này, Chủ tịch huyện viết tốt đấy!"
Khoảng cuối năm 1970, hắn được đi dự Hội nghị các nhà văn Á Phi cùng với nhà
văn lão thành Tô Hoài, họp ở New Delhi - Ấn Ðộ cùng với đoàn nhà văn miền Nam
là Phan Tứ và Thu Bồn. Cả hai đoàn đều phải qua Mátxcơva, ở lại mấy hôm rồi
cùng lên đường với các nhà văn Liên Xô trên một chuyến máy bay. Hắn đến
Mátxcơva lần này là lần thứ hai cách lần thứ nhất mười ba năm. Lần trước hắn đi
cùng đoàn Thanh niên Việt Nam tham dự Festival Thanh niên 1957, đi bằng xe lửa,
qua Trung Quốc ở lại ít ngày rồi đi xe lửa tiếp qua vùng đất Viễn Ðông của Liên
Xô rồi tới Mátxcơva. Chuyến đi cuối năm 1970 đi bằng máy bay IL.62, lần đầu
tiên trong đời hắn được đi máy bay mỗi lần lên xuống muốn nôn thốc, rồi hắn lại
nghĩ lẩn thẩn như một anh nhà quê, cái ống thép bọc kín chứa mấy trăm con người
bay lơ lửng từ Á sang Âu lỡ nó rơi một cái thì sao nhỉ ? Cho đến bây giờ mỗi
lần đi máy bay hắn đều nghĩ nếu bất thần nó rơi xuống thì sao nhỉ? Thì chết cả
nút chứ còn sao! Nên hắn sợ lắm, cứ bước chân lên máy bay là sợ. Hắn rong chơi
nước ngoài khoảng nửa tháng rồi về, ở nhà được khoảng một tháng thì được lệnh
đi chiến dịch Ðường 9 Nam Lào. Hắn đến nơi thì chiến dịch cũng đang hồi kết
thúc. Bộ Tư lệnh chiến dịch giới thiệu hắn xuống một đơn vị xe tăng, rồi hắn đi
la cà các đơn vị bộ binh khác, giữa các đợt đi ngắn ngày hắn lại về nằm khu lán
của các phái viên thuộc nhiều Tổng cục của Bộ Tổng tư lệnh. Họ đã thay nhau đi
xuống các binh chủng trong suốt chiến dịch để kiểm tra, đôn dốc những công việc
của chuyên ngành nên mỗi người có cả một kho chuyện còn chưa nhạt mùi máu và
mùi khói đạn của chiến trường, tối tối lại ngồi quây quần trên những tấm giát
nứa thay giường, căng thêm một tấm vải dù lớn chắn gió, pha một bình nước trà
đặc, hút thuốc cuốn, thuốc điếu, thuốc lào; bình luận, tranh cãi, tán róc đủ
thứ chuyện, từ chuyện lính đến chuyện quan cho mãi tới nửa đêm. Chắc hẳn cái
ông Vũ Trọng Phụng cũng đã được nghe vô khối chuyện buồn cười của cái thời ông
ở những căn phòng chật chội, bẩn thỉu mà khách trọ mỗi đêm đều là dâng làng bẹp,
dân nghiện lúc đã no thuốc thì thiếu gì chuyện để nói, toàn là những chuyện đã
được chắt lọc, được ép nén thành biểu tượng, những điển hình cùng với những câu
nói cửa miệng trong dân gian thời ấy, Xuân Tóc Ðỏ, bà Phó Ðoan, cụ Cố Hồng và
cả một lũ lĩ người ngợm của một thời nhố nhăng chắc đã lần lượt xuất hiện trong
những câu chuyện phiếm quanh những ngọn đèn dầu lạc của dân nghiện cả. Chính là
các bạn hút có danh và vô danh đã cung cấp cho Vũ Trọng Phụng những mẩu chuyện
quý giá, những điển hình quý giá để ông có thể xây dựng được cuốn tiểu thuyết
hoạt kê bất hủ Số Ðỏ. Tất nhiên phải có cái thiên tài của Vũ Trọng
Phụng nữa. Chính trong những ngày đi lang thang với nhiều đơn vị tham gia chiến
dịch, gặp đủ mọi người cần gặp, nghe đủ mọi chuyện, toàn là những chuyện có thể
vào thẳng văn chương được cả mà hắn đã nghĩ rất nhiều đến một tài năng tiểu
thuyết rất mạnh mẽ mà hắn vô cùng ngưỡng mộ: Vũ Trọng Phụng.
Giữa năm 1971, không quân Mỹ lại bắn phá trở lại những tỉnh thuộc khu 4, thưa
thớt hơn nhưng cuộc sống trong đó lập tức trở lại thời chiến như những năm 1965
đến 1968. Trong đợt bắn phá này, bên báo bạn mất hai người: anh Tô Ân và Tuấn.
Hắn không thể nào quên được cái cảnh tượng đau đớn của gia đình Tuấn buổi chiều
làm lễ truy điệu anh tại trụ sở báo Quân đội Nhân dân. Anh là con
trai duy nhất của một dòng họ rất hiếm con trai. Bố mẹ sinh anh khi họ đã lớn
tuổi, anh đã có vợ con nhưng đứa con đầu lại là con gái, nghe nói vợ anh đã
mang thai, hy vọng đứa con sau là con trai thì cái mất của hôm nay chưa phải đã
mất hoàn toàn. Cả hai cụ đều đã gần tám chục tuổi, tóc bạc phơ, bà dựa vào ông
cứ run bần bật, ông cũng run, cả hai dúm xương da cứ dính vào nhau, đến một
giọt nước mắt khóc con cũng không thể có, chỉ thấy hai tròng con mắt ngầu đỏ
như đã bị đốt cháy. Hắn cùng bạn bè đến trước mặt hai cụ, đầu cúi xuống như kẻ
có tội, là cái tội hắn đã có hai con trai nối dõi mà hắn vẫn còn sống, còn bạn
hắn đến một giọt máu lưu lại cho bố mẹ dựa vào đó mà sống tiếp cũng không có.
Ông trời cũng bất công, có gia đình ở Hà Nội, hắn đi lại từ năm còn học tiểu
học, có năm con trai vừa là đàn anh của hắn vừa là bạn hắn đi đánh Pháp suốt
tám năm, đến ngày hoà bình lần lượt trở về đủ năm người, không phải năm mà là
tám người vì có thêm ba cô con dâu nữa, thêm hai đứa cháu nội là mười người, đi
năm về mười là chuyện có thật. Còn một chuyện thương tâm nữa, là cái hồi sau
của buổi lễ truy điệu, cũng là nghe nói chứ chưa hẳn đã là chuyện thật, cũng
mong thế. Ấy là người vợ của Tuấn, y tá một bệnh viện, đã ngầm phá cái thai đã
ba tháng. Vì chồng chết thì ai nuôi các con của cô, nuôi một đứa thì được chứ
nuôi hai đứa chịu sao thấu. Bố mẹ chồng thì quá già, các bà chị chồng đều
nghèo, xưa nay em trai vẫn giúp các chị chứ các chị giúp thế nào được em dâu.
Cô ấy lại còn trẻ, mới ba mươi tuổi, gái goá hai con thằng đàn ông nào dám
rước. Thương chồng và bố mẹ chồng thì vẫn thương, nhưng vì nhà chồng mà phải
sống khốn khổ nhiều năm tháng còn lại thì không nên mà cũng không thể. Cái việc
phá thai bảo là tàn nhẫn cũng được, mà bảo là nhân đạo cũng được, vì một người
đã chết mà hành hạ những ba người còn sống, theo hắn mới thật là tàn nhẫn.
Trong thâm tâm hắn ủng hộ việc làm của vợ bạn, hãy cứu lấy những người còn sống
là việc quan trọng nhất, nên làm nhất. Hắn là nhà văn có tư tưởng tự do và cấp tiến
mà lại. Nhưng vợ hắn về già lại nói với hắn trong nước mắt: "Anh đi rồi
anh viết, hết cuốn này đến cuốn khác, người đưa kẻ đón, chả có lúc nào anh phải
buồn cả, nhưng vợ anh một đời hầu hạ bố con anh mà không được một lời động
viên, một câu nói âu yếm, chỉ có cau có với gắt gỏng thôi, sống như thế là khổ
lắm nhưng tôi còn biết đi đâu bây giờ, ở với ai bây giờ. Chả lẽ lại về quê sống
một mình chờ chết!" Lời nói ấy là lời nói từ đáy sâu địa ngục vọng lên, và
cái người đã tạo ra cảnh địa ngục trần gian cho vợ mình lại chính là nhà văn tự
do có tư tưởng cấp tiến. Trong một con người chả lẽ lại cùng tồn tại hai cách
nghĩ hai cách sống trái ngược nhau đến thế sao!
Năm 1972 Mỹ ném bom trở lại thành phố Hải Phòng và rải mìn ở cảng, dữ dội hơn
những năm trước. Các cơ quan của quân đội và dân sự lại rục rịch sơ tán lần thứ
hai. Lần này mẹ hắn đi sơ tán với em trai hắn vì đã yếu nhiều. Còn hắn cho
thằng lớn đi cùng với cơ quan của hắn vì nó đã lớn. Thằng bé mới 15 tuổi nhưng
lực lưỡng, tháo vát như trai 18. Nó tự nguyện nhận làm những việc nặng phụ giúp
chị nấu cơm người địa phương được cơ quan thuê đến nấu cơm cho bộ phận sơ tán.
Lại nhận giúp các bạn đào hầm tại các gia đình đến trọ, tổ chức sinh hoạt văn
nghệ mỗi tối để các bạn khỏi buồn, rồi viết cả đơn xin được tòng quân đánh Mỹ
dẫu chưa đến tuổi. Những ngày nghỉ nó không đi chơi đâu cả, gánh phân ra ruộng
giúp gia đình bố con hắn ở nhờ, giúp chị chủ nhà nấu cơm mỗi sáng sớm để chị có
thì giờ chăm lo cho mấy đứa nhỏ trước khi đi làm. Và rất say mê nghe chuyện chiến
trường của chú Ngô Thảo, vì chú là người của chiến trường mới được điều về tạp
chí phụ trách phần phê bình, lý luận. Nó là đứa con có đầy đủ phẩm chất một
công dân xã hội chủ nghĩa, là nhân vật tích cực trong các sáng tác văn học của
bố nó. Nhưng thằng em nó, một đứa làm nghề kinh doanh gặp may mắn mấy năm gần
đây đã bình luận về người anh cả nhân ngày giỗ của anh với bố: "Nếu ông H.
còn sống thì cũng chỉ làm được một anh viên chức gương mẫu nhưng nghèo kiết là
cùng, người tốt thế thì còn làm gì hơn được. Không chừng con lại phải cấp lương
tháng như với ông K." Bố nó bảo: "Nếu còn anh H. thì làm gì có mày,
tao đã có hai thằng con trai là quá đủ đâu cần đến một thằng thứ ba".
Thằng con út cười toe toét: "Thế là số bố may mắn đấy, bố luôn luôn gặp
may mà, thời này mà bố mẹ có trong nhà những hai thằng viên chức ăn lương tháng
thì có muốn ăn bát phở mỗi sáng cũng phải tính toán". Nó nói một cách
trắng trợn, một cách đáng ghét nhưng chả lẽ lại bảo không đúng? Trong thời gian
phải rời Hà Nội đi đến những nơi sơ tán, mỗi gia đình phải làm thêm bao nhiêu
việc mà chỉ có hai vợ chồng, các con đều còn nhỏ cả. Trong khu tập thể tai hoạ
đã giáng xuống hai nhà trong những ngày này, một bà bị bom trên cầu phao sông
Hồng trên đường đi thăm con, một bà bị xe quân sự cán chết ở Phùng trên đường
về Hà Nội. Hai người đàn ông với một lũ con dại, với một đống công việc, không
có người chia sẻ, mắt trõm sâu, môi nhợt trắng, mặt mũi lem nhem những râu ria
không kịp cạo, nhìn vào mặt bạn hắn muốn ứa nước mắt. Còn hắn, hắn vẫn là người
sung sướng. Lúc con còn nhỏ thì mẹ chồng chia sẻ mọi khó nhọc với con dâu để
hắn yên tâm đi viết. Lúc con đã lớn thì con thay mẹ hầu bố để bố ngồi viết.
Ngồi viết mà được con hầu cơm, hầu đào hầm nơi ở, hầu đun nước nóng để bố tắm
một tuần hai lần khi trời vào rét và cũng một tuần hai lần giặt quân áo cho bố.
Ðợt sơ tán thứ nhất hắn còn phải đạp xe đến cơ quan của vợ đưa tiền hàng tháng
và nhiều thứ lặt vặt, đợt sơ tán thứ hai mọi sự đi lại hắn đều nhờ con cả. Hắn
chỉ có một việc ban ngày ngồi viết, tối đến thì ngồi tán chuyện nhân tình thế
thái với ông giáo chủ nhà, nguyên chủ tịch xã những năm đánh Pháp, mới trở lại
nghề gõ đầu trẻ khoảng mươi năm nay. Cả hai ông bà đều ăn nói nhỏ nhẹ, cử chỉ
khoan thai, đều thưa dạ với nhau, kính nhau như khách, thoạt nhìn hắn cũng
ngượng, hơi khó chịu, với những người ruột thịt mà còn gò bó thế thì cái phần
tự do của mình được dùng vào lúc nào. Nhưng ở lâu lại thấy chỉ có sự kính trọng
lẫn nhau mới tạo được sự gắn bó và ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên với
truyền thống của gia đình, bất chấp mọi thay đổi của thời cuộc. Người ở nông
thôn mà xem ra cách sống lại văn minh hơn nhiều gia đình ở Hà Nội. Như gia đình
của hắn chẳng hạn, gia đình trí thức mà sống buông tuồng, tuỳ tiện, bắt đầu từ
chính người chủ gia đình, rồi đến vợ con cũng quen theo cách sống đó, cười nói
rất to, gắt gỏng nhau cũng rất to, ăn cơm trải chiếu dưới đất, nồi nhỏ đặt
giữa, nồi lớn đặt cạnh mâm, vừa ăn vừa dặn bảo công việc, nhồm nhoàm, hể hả, mồ
hôi chảy nhễ nhại trên mặt bố mặt con như gia đình của mọi người lao động. Hắn
thích thế, hắn tự hào được sống như thế vì hắn là nhà văn của giai cấp vô sản,
thù ghét mọi biểu hiện của tầng lớp quí tộc và tư sản. Về già hắn mới biết, ở
các xã hội trước, giai cấp vô sản là tầng lớp nghèo khổ nhất nên không làm chủ
được vận mệnh của mình, tất cả đều tuỳ thuộc vào sự may rủi. Công ăn việc làm,
dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, nuôi dạy con cái ăn học gặp cơ may thì mọi
sự trót lọt, không gặp may thì gia đình chia ly, con cái mỗi đứa đi một phương
kiếm sống hoặc phải đi ăn đi ở cho những người giầu có trong họ, có chí và có
điều kiện theo học thì học cũng giỏi, nhiều người rất giỏi, còn tự buông thả
thì suốt đời vô học. Do nghèo đói nên gia đình thiếu kỷ cương, gặp đâu hay đó
vì không thể tính trước, không có điều kiện để tính trước bất cứ việc gì sinh
ra thói quen tuỳ tiện, rồi do quá túng thiếu, do buồn chán không tìm được lối
thoát lại sinh ra cờ bạc, nghiện hút. Một gia đình như thế rất hiếm hoi sinh
được nhân tài, vì nhân tài cũng như thiên tài đều phải được nuôi dưỡng, được
chăm bón trong những môi trường thuận lợi. Chả nói đâu xa cứ lấy ngay chính hắn
làm một ví dụ, người như hắn nếu không gặp được thời thế đổi thay thì suốt đời
chỉ là anh làm công, lại nhút nhát, lại kém tháo vát thì chỉ làm thằng gác đêm
tại các biệt thự hay các công sở ở Hà Nội. Cách mạng đã đưa hắn lên thành một
người có danh vọng, nhưng cách mạng không thể thay đổi được nếp sống buông
tuồng, tuỳ tiện từ nhỏ của một gia đình không có người đàn ông làm chủ, không
có nguồn thu lợi nào bền vững đủ để tính toán được những việc của tương lai,
cũng không có truyền thống học hành, giao tiếp và một nếp sống căn cơ như những
gia đình đã nhiều đời ở Hà Nội. Hắn là người gặp thời mà nên. Thời thế có thể
thay đổi vị trí xã hội của hắn nhưng không thể thay đổi được nếp nhà của hắn.
Bây giờ hắn đã là người có danh, ngấp nghé tầng lớp thượng lưu của xã hội nhưng
nhìn vào những ngày giỗ tết của nhà hắn thì vẫn là một gia đình bình dân thuộc
tầng lớp nghèo của xã hội, cỗ bàn bát nháo, cúng kiếng bát nháo, cha con vợ
chồng trò chuyện với nhau cũng bát nháo. Muốn thành một gia đình có nền nếp kỷ
cương thì phải bắt đầu từ đời hắn ngay từ những năm hắn mới lập gia đình. Cũng
vẫn còn chưa quen, hắn chưa quen, vợ hắn càng không quen nên phải có ý thức
nhắc nhau cho trở thành thói quen. Sang đời con hắn may ra mới bắt đầu thuần
thục, đến đời các cháu hắn mới trở thành thói quen, sống khác đi, xử sự khác đi
là không thể làm đượ, không thể chịu nổi. Hắn có một người bạn lớn tuổi, biết
nhau từ thời đầu chống Pháp, là đồng hương, đồng đội, về sau còn là người cùng
một cơ quan, đó là nhà thơ XuânThiêm. Chồng là con ông ấm, vợ là con ông tuần,
một đời khổ sở vì cái lý lịch quan lại nên cả vợ lẫn chồng đều cố gắng tự cải
tạo thành người bình dân để khỏi bị chú ý. Nhưng tới ở đâu dầu chỉ là một căn
phòng rất chật hẹp bà vợ vẫn phải mua mấy thước vải xô may rèm che các cửa sổ.
Dẫu đã là người của giới lao động họ vẫn không thể quen sống trống trải, sống
toang hoác không có một tí gì riêng tư để giữ kín. Con cái những gia đình sống
không có kỷ cương chúng chỉ sợ có pháp luật, nếu lừa được pháp luật, hối lộ
được pháp luật thì mọi cái đều có thể đối với chúng, kể cả hiếp người, giết
người. Lại trở lại gia đình ông giáo. Lần sơ tán thứ nhất thì người con trai
thứ hai của ông (con bà cả đã mất) vừa lên đường đi bộ đội, ở một đơn vị cao xạ
đóng tận mãi Quảng Bình. Lần sơ tán thứ hai hắn vẫn ở nhà ông nhưng ông già đi,
buồn hơn vì đứa con ở pháo cao xạ đã hy sinh vào giữa năm 1968 ở Ninh Bình. Anh
trai nó cũng chuẩn bị lên đường theo đoàn cán bộ giáo dục của tỉnh vào miền
đông Nam Bộ. Bữa cơm chia tay bố con, hắn cũng được mời tham dự. Anh con trai
lớn của ông giáo kém hắn mươi tuổi, đã có vợ và hai con nhưng đều là con gái
cả. Anh vừa ăn vừa nói chuyện với bố mẹ và mẹ kế, toàn những chuyện đâu đâu
không đả động gì tới chuyện đi ở. Người vợ chỉ ngồi xới cơm cho chồng, gắp thức
ăn cho bố và hai con, mắt toàn nhìn xuống. Bà mẹ kế cười nói gượng gạo, có lúc
bà chống đũa nhìn chằm chằm cô con dâu, vè mắt của bà cứ đỏ dần lên. Lúc tiễn nhau,
hắn đứng trong hè nhìn theo hai bố con ông giáo cùng đi ra cổng rồi bất chợt
người con trai quay lại ôm chầm lấy bố, dụi đầu vào vai bố và cứ đứng nguyên
như thế rất lâu. Người con dâu đi theo cũng quàng tay ôm lấy lưng bố chồng, hai
đứa con gái, một đứa ôm chân bố, một đứa ôm chân ông nội. Một gia đình cắn răng
chịu đựng mọi đau đớn để những đứa con được làm tròn nghĩa vụ với tổ quốc trong
thời chiến.
Từ tháng 3 đến đầu tháng 8, hắn không đi đâu cả, miệt mài ngồi viết cuốn tiểu
thuyết Chiến sĩ tại nhà ông giáo. Tháng 9 hắn ôm một cặp bản
thảo về Hà Nội đưa cho nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hai tháng
sau nhà xuất bản trả lời nhận in, sẽ đưa vào kế hoạch in quí I năm 1973, khoảng
tháng 5 sách sẽ được phát hành. Tết năm Quý Sửu là một cái Tết rất vui, tiền
tiêu không thiếu vì hắn đã nhận của nhà xuất bản một khoản tiền ứng trước, đất
nước hoà bình, lần này chắc là lâu dài, con cái đã lớn, trước mắt sẽ là những
năm an nhàn hơn, hắn sẽ trượt dần vào tuổi 50 một cách êm ái, mãn nguyện vì hắn
vốn cũng chả có ước mơ gì quá cao xa ngoài tầm tay với. Nhưng tới giữa tháng 5
thì thằng con khoẻ mạnh nhất, tháo vát nhất và rất yêu bố bị chết đuối ở sông
Hồng. Chỉ trong vòng có một tiếng vắng mặt nó mà hoá ra mất nó mãi mãi. Hắn
không tin được, không có cách gì khiến hắn tin được hắn đã mất một đứa con, lại
là đứa trẻ hắn gửi gắm mọi hy vọng, mọi niềm vui của một đời người. Bỗng chốc
mất trắng cả, tất cả trong một sớm một chiều hoá ra vô nghĩa. Hắn vật vã khóc
than như đàn bà, ruột quặn đau, cái đau có thật, cái đau sinh lý, dẫn đến nghẹt
thở. Mất con đau đớn đến thế ư? Vợ hắn đau đớn đết bật ra sữa non, đái ra máu
tươi, nằm lăn lộn ở một góc đường để chờ con từ bờ sông trở về như mọi chiều nó
vẫn đi bơi và trở về theo lối ấy. Những lúc tỉnh táo hắn lại chợt nghĩ đến gia
đình ông giáo. Ông cũng đã mất một đứa con trai khi nó ở tuổi hăm hai, là lao
động nông nghiệp chính của gia đình khi bố mẹ đã già. Nhiều năm sau hắn còn
biết người con vào Nam dạy học đã trở về nhà sau ngày đất nước thống nhất, sống
với bố mẹ, vợ con được một năm thì bị cảm đột ngột và mất trên đường cáng đến
bệnh viện. Chết đột ngột trong dân nay nói là bị cảm mạo phong hàn mà chết, chứ
cái chết ấy cũng là bệnh của chiến trường. Một người chết chưa vợ con gì, một
người chết mới có hai đứa con gái, ông giáo sẽ không bao giờ có cháu đích tôn
nối dõi, một dòng họ bị mất hương khói từ đây. Nghe nói ông gắng gượng sống
thêm được vài năm rồi bị liệt, nằm thêm mấy năm nữa mới mất. Một người già hầu
một người già nằm bất động trong năm gian nhà vắng lặng, lạnh lẽo, cái buồn ấy
là cái buồn thiên cổ, cái buồn của thân phận làm người.
27.
Năm 1974, hắn trở lại cái nghề làm báo, viết một lúc cho mấy tờ báo: Nhân
dân - Văn nghệ - Tạp chí Tác phẩm mới. Vẫn là làm báo nhưng văn chương dồn
nén hơn, câu chữ lợi hại hơn, được bạn đọc bình luận sôi nổi, cả khen và chê,
nhất là các bài báo nối tiếp nhau mỗi sáng chủ nhật trên báo Nhân Dân.
Rồi vở kịch ngắn để đọc Ðối mặt, bài báo Chúng tôi chăm sóc
tài năng trẻ, truyện ngắn Người mơ mộng, tạp văn Nghĩ
về anh L.M ít nhiều đều có tiếng vang trong giới yêu văn chương của
thủ đô. Thoạt đầu thì vui về sau hoá ra không vui và hắn không viết nữa, nói
cho đúng là không viết được nữa, ý tưởng, câu chữ đã mất tự do, mất tự tin thì
làm sao quyến rũ được bạn đọc. Và đã có ý kiến của lãnh đạo: "Nó viết lách
linh tinh chẳng qua là cứ quẩn quanh ở Hà Nội nghe chuyện hay có ít, chuyện dở
thì nhiều, cho nó vào chiến trường một thời gian để rèn luyện là tốt đấy".
Thế là hắn chuẩn bị vào miền Nam đang ở trong tình thế nửa hoà bình nửa chiến tranh
và quân ta cũng đang chuẩn bị một chuyện gì đó rất lớn và từ rất lâu rồi, phải
ít ngày sau hắn mới được biết đầy đủ. Người cùng đi với hắn một chuyến đi nghĩ
là thường như mọi chuyến đi mà hoá ra một chuyến đi lịch sử, một đời chỉ được
một lần là đủ mãn nguyện. Người đó là Lê Lựu, bạn thân thiết của hắn từ đầu
những năm 60. Năm đó Lê Lựu rủ hắn về quê anh ở Khoái Châu, hắn đã ở lại nhiều
ngày, rồi đi đi về về trong khoảng nửa năm, trở thành người trong gia đình của
Lựu. Chú ruột của Lựu là chủ tịch huyện Khoái Châu, anh ruột của Lựu là chánh
văn phòng Uỷ ban huyện và một dây những anh em con cháu vừa ở làng, vừa ở huyện
ở tỉnh, là một kho tư liệu về người về việc của một dải đất bãi ven sông Hồng
trong vòng nửa thế kỷ. Cũng như hắn đã về viết ở Phú Thọ theo lời rủ rê của anh
Tuế, nguyên trưởng ban hành chính của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Có
bạn bè ở những nơi mình sẽ ở lại và sẽ viết là hết sức thuận lợi. Người của địa
phương dễ thân dễ tin cậy một người viết báo là bạn bè của người nhà mình, còn
hắn cũng cảm thấy thân thuộc ngay cả cảnh cả người cái nơi vừa đặt chân đến.
Chuyến về Phú Thọ hắn viết được Tầm nhìn xa, chuyến về Khoái Châu
hắn viết được tiểu thuyết Chủ tịch huyện, là những sáng tác về cuộc
sống nông thôn những năm hợp tác hoá nông nghiệp thành công nhất của hắn, có
nhiều bạn đọc nhất.
Chiếc xe con quân sự đi vào chiến trường tới quãng trên Thường Tín thì dừng
lại, bà cụ sinh ra Lựu cùng ông anh ruột của Lựu từ vùng đất bãi của Khoái Châu
đi đò qua sông Hồng từ sáng sớm đã đón đợi sẵn, mang theo rất nhiều thức ăn để
anh em ăn dọc đường. Ai ngờ buổi sáng lên đường bữa ấy cũng là ngày bắt đầu của
một loạt những ngày tháng rất vui, vui đến nghẹt thở. Với hắn chuyện nước đã
vui mà chuyện nhà cũng vui, như người được cởi trói và được đẩy ra khỏi cái
ngục tù u ám những chuyện buồn. Ấy là vợ hắn vừa sinh đứa con trai út thay thế
cho đứa đã mất. Chuyện như một ao ước hão huyền mà lại là thật. Ngay từ tháng
vợ mang thai hắn đã lo. Vợ hắn lại cả quyết sẽ sinh con trai hắn lại càng lo.
Vợ có mang được hai tháng đi thử nước tiểu, khoa phụ sản của bệnh viện 108 căn
cứ trên xét nghiệm bảo là chửa ngoài dạ con. Hắn bảo phải huỷ thai nhưng vợ hắn
kiên quyết giữ vì đã nằm mơ thấy một thằng bé rất bụ bẫm níu chặt lấy chân
mình. Tức là đầu óc vợ hắn đã không bình thường rồi, đau đớn quá buồn bã quá
rồi lại đòi có mang, rồi lại nói một cách chắc chắn sẽ là con trai, không là
điên còn là gì! Vợ chồng tranh cãi ầm ĩ suốt cả tuần, người bảo bỏ, người nói
giữ, nếu không cho giữ thì cả hai mẹ con sẽ đâm đầu xuống sông Hồng, ai mà giữ
nổi người muốn được chết, đòi được chết. Hắn sợ quá, tin chắc những ngày tới sẽ
là những ngày rất u ám đối với gia đình hắn. Cái thai lớn một cách bình thường,
rồi nó đạp đau nhói, đạp loạn lên như nó đang đá bóng trong bụng mẹ nó, đạp mạnh
thế, nghịch ngợm thế hẳn là thằng cu rồi. Vợ hắn nói một cách chắc chắn, một
cách tin tưởng nhưng hắn vẫn chưa thể tin. Vì hắn đã được nhiều nay trời bắt đi
một đứa con hắn thương yêu nhất cũng là lẽ công bằng, có được có mất, được lúc
trẻ mất lúc già hoặc ngược lại, không một ai ở đời này lại được hết. Ðược hết
là sẽ có lúc mất ráo. Có hai gia đình được trời cho một lúc được hết, rồi lại
lấy đi sạch sẽ cũng trong một lúc, ở Mỹ là gia đình John Kennedy, ở Việt Nam là
gia đình Ngô Ðình Diệm. Mẹ hắn cũng phải nói: "Vợ anh dạo này tính nết thế
nào ấy, ai hỏi cũng nói nhất định sinh con trai, lỡ sinh con gái thì nó vứt con
đi à?" Một tối ăn cơm xong vợ kêu ngâm ngẩm đau bụng, hắn đưa vợ vào cơ
quan ngủ nhờ rồi lại nhờ anh lái xe của cơ quan giúp đỡ nếu trong đêm vợ chuyển
dạ đẻ. Dặn dò xong hắn về nhà đọc sách, rồi cho các con đi ngủ, hắn cũng ngủ
rất say, chỉ cầu trời cho mẹ tròn con vuông, còn trai hay gái hắn đều thương
hết. Sáng hôm sau, hắn cho các con ăn sáng, đưa con nhỏ ra nhà trẻ rồi mới
thủng thẳng đạp xe vào bệnh viện. Người trực khoa sản nghe tên vợ hắn nói ngay:
"Chị ấy sinh rồi, con trai, nặng 3 ký 8, sức khoẻ của hai mẹ con đều
tốt". Hắn ngây người vì quá mừng, lại hỏi lần nữa: "Nhà tôi sinh con
gái hay con trai?" Chị kia cười: "Anh mong con trai lắm hả, cả ba ca
đẻ trong đêm đều sinh con trai hết, con anh nặng nhất, gần bốn ký". Hắn
hối hả đạp xe về nhà mẹ, bà cụ hỏi: "Nó sinh rồi hả? Con gái phải
không?" Hắn làm ra vẻ thất vọng: "Vâng, con gái". Mẹ hắn an ủi:
"Con nào cũng là con, con gái hiếu thuận còn bằng mấy con trai ấy
chứ". Hắn nhìn mẹ rồi cười hết cỡ: "Sinh con trai, mợ ạ, thế mới tài,
cầu sao được vậy nhá!" Bà mẹ cũng cười nhưng còn ngờ: "Nó bảo nhất
định sẽ sinh con trai, mà là con trai thật à?" Về nhà hắn vẫn chưa hết
bàng hoàng, ông trời đã tha hắn thật ư? Ông lại rộng lượng với hắn đến thế sao?
Vừa lấy đi thấy hắn buồn quá lại lập tức cho lại! Hắn sẽ đặt tên đứa con mới
sinh là Hoàn, có nghĩa là trả lại. Nguyễn Thế Hoàn. Thằng anh vừa mất là Nguyễn
Thế Huỳnh. Mấy đứa trẻ con nhà hàng xóm đứng thập thò ngoài cửa nhìn vào, một
đứa hỏi: "Cô sinh rồi hả chú?" - "Sinh rồi" Lại hỏi:
"Là trai hay gái?" - "Trai!" - "Chú đặt tên em là
gì?" - "Hoàn, Nguyến Thế Hoàn". Một đứa nói: "Nguyễn Thế
Hoàn, không hay, sao chú không đặt Nguyễn Khải Hoàn, nghe hay hơn?" Hắn
ngồi sững, hỏi lại: "Cháu nói cái gì?". "Khải Hoàn, Nguyễn Khải
Hoàn!" Hắn nói ngay: "Ừ, Khải Hoàn, Nguyễn Khải Hoàn, có lý đấy. Cảm
ơn cháu". Nhân bảo như thần bảo, con hắn sinh ngày 3 tháng 1 năm 1975. Năm
1975 là năm đại khải hoàn của Việt Nam, cả dân tộc khải hoàn sau ba chục năm
chinh chiến. Nhưng lúc này hắn chưa thể biết những gì hắn được chứng kiến sau
hai tháng nữa. Theo chương trình ở nhà, hắn với Lê Lựu sẽ vào Tây Nguyên nhưng
mới vào đường Trường Sơn lại nhận được lệnh trở lại đi theo hướng chủ yếu,
đường 1, ở bộ phận của trung tướng Lê Quang Hoà, phó chủ nhiệm Tổng cục chính
trị. Ngày 26 tháng 3 bọn hắn vượt qua sông Thạch Hãn thì quân ta đã giải phóng
Huế. Thế là quân tướng vào thẳng Huế vào một buổi chiều. Ngồi trên xe nhìn qua lớp
rào hai bên đường thuộc ngoại vi thành phố thấy các cô gái Huế mặc bộ đồ trong
nhà nhiều mầu và in rất nhiều hoa hoặc các đường kẻ sặc sỡ nom rất vui mắt, hắn
đã lạ lắm. Các đường phố rất vắng, nhiều nhà cửa sắt mở toang nhưng không có
người, giày dép, quần áo, túi xách, hòm làn vứt ngổn ngang dọc đường như vừa
qua một cơn hoảng loạn, chắc đã có nhiều người rời nhà chạy ra đường nghe ngóng
rồi nhập theo dòng người đi luôn. Không có đánh nhau trên đường phố mà lại có
nhiều lỗ đạn trên tường và trên nhiều cánh cửa sắt, bắn lẫn nhau sao? Những
người Huế còn ở lại nhìn xe bọn hắn chạy qua vẻ mặt bình thản, có nhiều người
giơ tay vẫy. Mấy ngày sau hắn và Lê Lựu, Xuân Sách cùng với Hữu Mai, Hồ Phương
vừa mới tới Huế đến thăm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Suốt mấy ngày ở Huế hắn chỉ
nghe có một dòng nhạc của Trịnh Công Sơn ở mọi nhà, mọi nơi, một âm điệu buồn
buồn, không thay đổi, như lời tâm sự, như lời cầu nguyện của cả một thế hệ trẻ
ở các đô thị miền Nam. Hắn sẽ không thể quên một tối ở uỷ ban quân quản, những
người Huế mới ở rừng xuống ngồi quây tròn nghe một người Huế nổi tiếng là Trịnh
Công Sơn ôm đàn hát. Lời ca của Sơn đẹp và mênh mông như thơ, là những bài thơ
rất đẹp và cũng rất lạ nhưng tác giả lại không thuộc hoàn toàn và những người ở
rừng về lại nhắc lời cho người đang hát từng đoạn, rồi họ cùng hát theo vang
vọng cả gian phòng lớn. Lê Lựu, Xuân Sách, nhạc sĩ Huy Du và hắn còn được làm
quen với một nhà tư sản thương nghiệp tên là Kim ở đường Phan Bội Châu, gần như
tối nào bọn hắn cũng có mặt ở nhà ông ta để nghe nhạc qua dàn máy Akai và nghe
mọi chuyện về Huế dưới các chính quyền cũ. Mùa xuân năm 1968 ông Kim cũng ở lại
Huế một mình để đón quân giải phóng; lần này ông cũng ở lại Huế cùng với người
con trai lớn để đón những người kháng chiến trở về, lần này chắc là các anh sẽ
ở lại đây mãi mãi, Mỹ đã bỏ thì miền Nam phải thuộc về cách mạng rồi, ông ta
nói chắc chắn thế. Rồi bọn hắn cũng gặp các nhà sư ở Huế, là các nhân vật nổi
tiếng một thời, góp phần làm sụp đổ chính quyền Ngô Ðình Diệm trong vụ án Phật giáo
cuối năm 1963. Những ông sư trí thức rất ham làm chính trị, rất muốn có phần
quyền lực của nhà chùa trong chính quyền mới. Và các em sinh viên của nhiều
trường đại học, rất trẻ trung, rất nồng nhiệt tham gia các công việc xã hội
trong những ngày đầu của một thành phố vừa được giải phóng. Họ ăn mặc đẹp,
gương mặt cũng đẹp, cử chỉ thanh lịch, cười nói thơ ngây như một biểu tượng của
hy vọng về một nước Việt Nam thống nhất trong vận hội mới. Ngắm nhìn họ trong
mấy ngày cùng lao động để làm sạch đẹp thành phố và cùng gìn giữ trật tự với
lực lượng cảnh vệ của quân đội, hắn đã thoáng linh cảm hình như thế hệ của bọn
hắn đã hoàn thành tốt đẹp sứ mạng của mình, từ nay về sau sẽ là công việc của
một lớp người khác, có cách sống và cách nghĩ khác, vẫn tiếp nối những tinh hoa
của cha anh nhưng họ sẽ khẳng định mình bằng những tiêu chuẩn giá trị không
hoàn toàn giống với bây giờ. Rồi hắn lại nghĩ tiếp, vậy sắp tới hắn sẽ phải
viết như thế nào, bạn đọc chủ yếu của hắn sẽ là những ai, chuyện nông thôn và
chuyện bộ đội, các đề tài ruột của hắn sẽ có ý nghĩa gì trong cơ cấu xã hội
những chục năm tới. Hắn tự đánh giá hắn chỉ là một tài năng do thời thế tạo nên
chứ không phải do trời đất tạo nên, nên không thể tiên đoán những gì chưa xảy
đến. Những ý tưởng hay, độc đáo của hắn đều từ những từng trải, những chiêm
nghiệm của chính cuộc đời hắn mà có chứ không từ những lời phán truyền huyền bí
nào mà có. Vậy thì hãy để sự từng trải mới của hắn sẽ chỉ vẽ cho hắn phải viết
cái gì, viết như thế nào để những người trẻ tuổi của hôm nay vẫn là bạn đọc của
hắn, vẫn mong chờ hắn, và vẫn tìm được cái họ cần trong những trang văn của
hắn. Trước ngày lên đường vào mặt trận Quảng Ðà trong cuộc hành quân dài mà mục
tiêu cuối cùng là Sài Gòn, bọn hắn đã được một vị trong hoàng tộc nhưng có quan
hệ với kháng chiến từ nhiều năm trước tổ chức cho các văn nghệ sĩ trong quân
đội được đến chào bà Từ cung. Bọn hắn xin được gặp Ngài buổi sáng, nhưng các
buổi sáng là giờ niệm Phật của Ngài, nên bọn họ sẽ được tiếp vào giờ gần trưa.
Năm ấy bà Từ cung đã ở khoảng tuổi trong ngoài chín mươi, người thấp nhỏ, tóc
búi rất thưa nhưng mới lốm đốm bạc, mặc cái áo dài hàng tơ nhuộm đen như các bà
già ở Huế, đi hài, buớc đi rất nhẹ như lướt trên nền gạch. Ngài chỉ tay cho bọn
hắn ngồi hai hàng ghế dựa, sơn son thếp vàng, còn Ngài ngồi vào ghế giữa cạnh
cái bàn nhỏ. Hắn ngồi bên tay trái Ngài, nhìn thành kính một nhân vật đã chứng
kiến bao nhiêu biến động của lịch sử trong gần một thế kỷ ở những cơ quan quyền
lực cao nhất, mà vẫn còn sống, một người đàn bà quyền uy còn sót lại của vương
triều Nguyễn, người đại diện cuối cùng cho một lối sống, cho những quan niệm và
vô vàn các mối quan hệ thức tạp của các vương triều phong kiến đã vĩnh viễn
thuộc về lịch sử. Hắn nhìn bà lão đầy vẻ ngưỡng mộ, bà lão cũng nhìn lại hắn một
lúc lâu, ánh mắt rất trẻ, rất vui, giống hệt cái cảnh bà cháu gặp nhau sau
nhiều năm xa cách. Bà cụ nói: Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp rất quý tôi, năm 1945
con tôi ( [1] ) có được mời ra Hà Nội làm việc với Ông. Ông có gửi thư
thăm hỏi tôi và những người trong hoàng tộc". Thoạt nghe một bà cụ gọi
lãnh tụ của mình là Hồ Chí Minh, hắn cũng phật ý vì chưa từng nghe ai gọi trống
không thế, ngoại trừ các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Nhưng đây
là các nhân vật lịch sử nói về nhau, họ có cùng một đẳng cấp, lại sinh cùng
thời, một người đại diện chính quyền phong kiến đã kết thúc về mặt lịch sử, một
người là đại diện cho chính quyền dân chủ vừa mới bắt đầu. Rồi Ngài lại nắm một
bàn tay hắn, dẫn hắn tới trước một khung hình mạ vàng, có hình một người đàn bà
rất đẹp, mặc triều phục ngồi trên ngai vàng: "Con có biết ai đây
không?" Hắn định buột nói: "Nam Phương hoàng hậu!", thì bà cụ đã
nói ngay: "Là ta đấy, cũng là một người đàn bà, lúc trẻ thì đẹp rứa về già
lại xấu rứa!". Ôi, bà ngoại! Chín chục tuổi đầu mà vẫn biết nói những câu
rất hóm của người còn trẻ. Ngài lại nói: "Khi chiến sự lan rộng, Nguyễn
Văn Thiệu đã cho máy bay riêng đón tôi vô Sài Gòn. Nhưng tôi không đi, tôi là
người con dâu cuối cùng của triều Nguyễn, sớm tối phải chầu hầu liệt Thánh, còn
đi mô!" Rồi Ngài nhìn hắn cười rất hồn nhiên. Những ngày tháng còn lại bà
cụ chỉ sống với những người đã chết, một vương triều đã chết. Bà vẫn ngồi trước
mặt hắn nhưng chỉ một câu nói bà đã lùi dần khỏi tầm nhìn của hắn, lùi mãi vào
cái quá khứ đã xa thăm thẳm.
28.
Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, hắn và các bạn đồng nghiệp của nhiều cơ quan báo
chí của Hà Nội và Ðà Nẵng theo đường số 1 vào thẳng thành phố Sài Gòn vừa được
giải phóng trưa ngày 30 tháng 4. Trong khoảng hai chục năm hắn đã được bước vào
hai thành phố lớn sau ngày được giải phóng. Một lần vào Hà Nội sau chiến thắng
Ðiện Biên Phủ, và lần sau vào Sài Gòn sau chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Ngày vào Hà Nội hắn tìm mẹ và em theo địa chỉ cũ hắn được biết nhưng không gặp,
chủ nhà mới dọn đến cũng không biết họ đã đi đâu. Hắn đến thị xã Hà Ðông lấy
một số tài liệu rồi trở lại quân khu đóng ở thị xã Phủ Lý lòng tràn ngập buồn
bã, thất vọng. Phải một tháng sau hắn mới nhận được tin chính thức qua người
bạn cùng toà báo là hoạ sĩ Phan Bá Thọ, lúc này đã về Tổng cục Chính trị để
chuẩn bị cho cuộc triển lãm lớn nhân ngày thành lập quân đội vào tháng 12 năm
1954. Lần này vào Sài Gòn hắn vẫn chưa biết rõ bố hắn và bà mẹ già còn sống hay
đã mất, còn ở Sài Gòn hay đã theo con cháu chạy ra nước ngoài trong những ngày
hỗn loạn vào giữa tháng Tư. Nhưng hắn vẫn tìm vì vẫn có một chút hy vọng mơ hồ
rằng họ vẫn còn sống, còn ở lại Sài Gòn và bố con hắn sẽ được gặp lại nhau.
Trong một buổi tối gặp gỡ tình cờ giữa mấy anh em viết văn ngoài Hà Nội với mấy
anh viết văn của Sài Gòn, theo hắn nhớ có vợ chồng nhà văn Vũ Hạnh, nhà văn Mai
Thảo tới tìm gặp nhà thơ Xuân Thiêm, hình như họ có thời cùng học ở trường Ðỗ
Hữu Vị, nhà văn Lưu Nghi tới tìm gặp nhà văn Nguyễn Văn Bổng... hắn có hỏi dò
địa chỉ những người thuộc giới quan lại miền Bắc di tản vào miền Nam cuối năm
1964. Nhà văn thời bây giờ có thể có quan hệ xa gần với những người làm nghề tự
do, hoặc giới doanh nhân, giới sĩ quan chứ ít ai biết tới giới quan lại. Các
ông quan của chính phủ Nam triều do Pháp bảo hộ đã thuộc về một thời xa xưa lắm
rồi. Hắn đã thất vọng, bỗng dưng một hôm nhạc sĩ Huy Du rủ hắn cùng đi thăm một
ông bác họ cũng thuộc giới quan lại ngoài Bắc thời trước gọi là cụ phủ Trước.
Thế là hắn đi ngay, hắn rất tin là ông cụ Trước có biết bố hắn nhưng lại sợ ông
ấy thốt ra: "À, tôi biết, nhưng ông ấy mất rồi, mới mất..." Hắn mong
mỏi được gặp lại bố và mẹ già còn khoẻ mạnh, còn tỉnh táo chỉ để thoả mãn một
khao khát rất tầm thường, rất xoàng xĩnh là "được mặc áo gấm về
làng". Áo mặc cũng chưa phải gấm võ gì, chỉ là áo lính thôi nhưng là người
tử tế, có vợ con, có nghề nghiệp đàng hoàng, không đến nỗi mẹ đã là phường
"mèo mả gà đồng" (như mẹ già đã mắng thẳng mặt mẹ hắn như thế) thì
con cái không là quân lưu manh cũng phường trộm cướp chứ làm sao có số phận
khác được! Không ngờ ông cụ Trước vừa nghe hắn nói xong liền cười ngay:
"Còn sống, cả hai ông bà đều còn sống, chắc là chưa đi đâu đâu, đã già rồi
còn đi đâu nữa. Nhưng tôi không nhớ phố, cũng không biết số nhà, để xem nào,
anh nên đến nhả bà Ðại, bà này là cháu gọi ông cụ nhà anh là cậu. Nhà bà này
ở..." Hắn ngồi nhờ xe hơi của nhà văn Nguyễn Chí Trung đến ngay nhà cái bà
Ðại nào đó. Nhưng bà ấy không có nhà, chỉ có một ông chồng đã ngoài bảy chục
tuổi với hai cô gái giúp việc, nhìn thấy hai ông lính Việt Cộng sầm sầm bước
vào căn hộ thì sợ lắm, sợ đến không nói được. Mãi một lúc sau ông già mới bảo:
"Bà nhà tôi không có nhà, có chuyện gì cần xin mời hai ông khoảng gần trưa
quay lại". Hắn phải nói ngay hắn là ai, tới nhờ bà nhà giúp việc gì, toàn
việc vui cả, việc trong nhà cả, không có gì khiến ông bà phải lo lắng. Nét mặt
ông lão như giãn ra, ông đã hơi cười: "Ông cụ bên nhà mấy bữa nay người
gày rộc hẳn vì có bao nhiêu tin đồn, nghe hãi lắm. Vậy ông là... sao không nghe
ông cụ nói bao giờ...". Rồi ông nói nhà bố hắn chỉ cách chung cư này có
một dãy phố, đường Quý Cáp, số nhà xanh căng xanh (55). Xuống các bậc thang của
toà nhà chung cư đầu gối hắn như nhũn ra, hắn xúc động thật sự, giận thì vẫn
giận nhưng vẫn thương, vẫn là cha con xa cách nhau còn kém một năm là vừa tròn
ba chục năm mới được gặp lại. Lần gặp sau cùng vào tháng 6 năm 1946, ngày ấy mẹ
con hắn đang ở nhờ nhà ông chú họ bên bố, trong cái ngõ cụt gọi là ngõ Yên Bái
bây giờ, qua dãy tường chắn ngang trước nhà là khu nghĩa địa Tây, nay là khu
nhà tập thể Nguyễn Công Trứ. Hắn nằm quay mặt vào tường, đắp cái vỏ chăn mỏng,
tiếng người bố thầm thì những gì dài dòng lắm, có vẻ khó nói lắm, còn mẹ hắn
không nói gì cả, chỉ khóc thôi, khóc cũng rất nhỏ. Rồi nghe bố hắn nói:
"Tôi bây giờ cũng gặp nhiều khó khăn lắm. Chả giúp gì được mấy mẹ con đâu.
Người ta sống được thì mình cũng sống được". Rồi nghe tiếng giày của ông
bước ra cửa, hắn quay người lại còn thoáng nhìn thấy bố đã bước ra đến giữa
vuông sân, lưng rất thẳng, tóc rất đen, mảng gáy rất trắng, vẫn là một người
đàn ông còn trẻ, mới 46 tuổi chứ mấy. Hắn nhìn mẹ hắn, bà vẫn ngồi lặng lẽ một
chỗ, cũng không ngoái đầu nhìn theo người đàn ông đã từng làm bà vui, bà buồn,
đã cùng bà chống đỡ những cơn ghen tuông của người vợ cả gần hai chục năm, nay
đã biến đổi tâm tính, vứt bỏ ba mẹ con bà một cách lạnh lùng vì thời cuộc đổi
thay, từ nay họ sống hay họ chết ông không cần quan tâm tới nữa. Cái gia đình
thêm này chỉ là kết quả của những năm tháng dại dột, dư thừa của thời trai trẻ,
bỏ đi cũng chả có gì phải ân hận, phải hối tiếc. Và bây giờ, sau ba chục năm
cách mạng, chiến tranh, đất nước chia dôi, gia đình phân ly nay tiếng súng đã
tắt, khói lửa chiến tranh cũng đã tắt, tất cả lại hợp dần lại làm một, Nam Bắc,
cha con, anh em, cả vợ chồng nữa, như một chuyện thần tiên, một chuyện trong mơ
mộng, một chuyện không thể có thật mà hoá ra lại là thật, thật đến từng ngày,
thật ngay lúc này, hắn vẫn còn sống và sắp gặp lại những người đã đuổi hắn đi.
Hắn trở lại không phải là một kẻ khố rách áo ôm dẫn một lũ người rách rưới là
vợ con hắn đến gõ cửa một gia đình quyền quý xin tiền, xin ăn, xin ân huệ mà là
một nhà báo, một nhà văn của phe cách mạng, phe chiến thắng, của đội quân chiến
thắng tới gặp một gia đình hắn đã từng là một thành viên bất đắc dĩ. Nhà của bố
hắn là nhà trệt, mặt nhà hẹp, có một vuông sân nhỏ làm vườn, nhà của giới viên
chức nhỏ được nhà nước cho thuê, hẳn thế. Hắn kéo chuông, cửa nhà trong mở và
bà mẹ già của hắn mang kính râm như người đang đau mắt bước ra. Vẫn là gương
mặt quen thuộc rất hiền của những người đàn bà xưa, tóc vấn khăn vẫn đen chỉ
hơi lốm đốm bạc phía trước trán, dáng di chậm chạp, đứng trong cánh cửa phần
trên có chấn song sắt, hỏi ra: "Ai hỏi gì thế?" Hắn nói nhỏ:
"Thưa mợ con là K. đây!" Bà cụ như sững sờ khoảng vài giây rồi tươi
ngay nét mặt: "K. hả? Cả nhà mong con mãi". Thế là bao nhiêu oán thù
ti tiện của kẻ mới làm nên với bố mình, với mẹ già mình trong phút chốc mất
sạch, chỉ còn thương thôi, còn mừng thôi, mừng bố mẹ vẫn còn sống, mình vẫn còn
sống để có ngày được gặp lại nhau. Nhưng ông cụ đi vắng, bà cụ nói: "Cậu
đi cắt tóc, tự dưng ông lão chống gậy bảo đi cắt tóc, đầu ngứa quá". Hàm
răng đen của bà vẫn đều, chưa rụng cái nào, năm nay bà vừa tròn bảy mươi, mẹ
hắn bảy mươi mốt, bà thứ nhất hơn bà chính thất một tuổi, lại xấu hơn, lại đã
có một đời chồng mà sao ông già lại mê được nhỉ? Cũng là duyên số thế nào! Hắn
ngồi chờ một lúc thấy mặt bà cụ tuy tươi tuy mừng nhưng vẫn thoáng có cái ngượng,
cái lo, nó tuy là con cái trong nhà nhưng lại là một thằng Việt Cộng, tức là
một thằng cộng sản, là cái quân thâm hiểm, đã nghĩ không bao giờ phải gặp lại
mặt nó như âm dương đôi ngả, bỗng chốc nó lại lù lù hiện ra ngay ở cổng nhà!
Hai mẹ con ngồi đối mặt nhau nhưng không phải là mẹ ruột với con ruột, ngoài
vài lời thăm hỏi cũng chả biết nên nói với nhau những gì thêm nữa, vì một người
muốn giấu và một người cũng chưa dám nói. Ví như phải hỏi các anh chị hiện giờ
ở đâu, đã có gia đình riêng chưa, họ làm những nghề gì, còn ở Sài Gòn hay đã đi
di tản. Cũng còn phải hỏi hiện nay bố mẹ ở với ai, các cụ sống bằng nguồn tiền
nào. Thời thế thay đổi thì sẽ sống ra sao. Mẹ con không nói những chuyện cần
nói ấy thì còn biết nói gì. Cái năm hắn về Hà Nội để tìm mẹ và em sau ngày giải
phóng thủ đô, phải tìm đến lần thứ hai hắn mới biết mẹ đang sống với gia đình
người cháu gọi bà là cô ruột. Anh ấy là y sĩ của chế độ cũ. Bà cũng không có
nhà, cũng phải ngồi chờ vì bà hàng ngày phải đi bán trầu vỏ ở cùng một dãy phố.
Ðã cho người đi gọi bà về nhưng hắn sốt ruột quá lại chạy ra ngoài ngóng, cũng
lo lắng, hồi hộp không biết sau năm năm xa cách mẹ hắn có thay đổi gì nhiều
không. Một lát sau hắn nhìn thấy bà cụ gánh đôi xảo từ xa đi lại, nhìn dáng
người bước lểu đểu hắn nhận ngay ra mẹ, liền chạy ào lại, kêu to:
"Mợ!" Bà cụ đứng sững lại, hất nón nhìn người gọi, nhận ra con, thế
là nước mắt tràn ra chan chứa. Chả nói được câu nào cả. Hắn bước đi bên cạnh mẹ
cũng chỉ hỏi được một câu: "Mợ vẫn khoẻ chứ? " - "Vẫn khoẻ, năm ngoái
bị bệnh thương hàn đã tưởng chết". Mẹ con chỉ nói với nhau được có thế
nhưng vẫn là nói rất nhiều bằng cái im lặng và những bước đi im lặng bên nhau.
Về đến nhà mẹ hắn lại một câu thứ hai: "Thằng Toàn năm nay 19 rồi, nó cao
cũng gần bằng anh mà gày lắm. làm sư bác ở chùa Hoè Nhai". Hắn nói:
"Bán hàng thế này có đủ ăn không?" - "Ăn thì đủ nhưng lúc ốm đau
thì lo lắm, cháu chứ có phải con đâu mà nhờ vả mãi được". Chả có câu nào
mẹ nhớ con, mẹ mong đợi con, con về mẹ mừng lắm. Hắn cũng thế, chả nói được câu
nào tình cảm như hắn vẫn nghĩ về mẹ trong năm năm xa mẹ.
Hắn ngồi chờ bố nghĩ ngợi mung lung một lúc lâu rồi xin phép về hẹn chiều sẽ
quay lại. Bà mẹ già đứng lên tiễn, cũng không bảo ở lại ăn bữa cơm trưa đoàn
tụ, không nói gì cả cứ như người cùng ở một thành phố lâu lâu lại thăm nhau để
biết tin tức. Cũng có nhiều chuyện để nói nhưng không thể nói, đã biết hắn là
người thế nào mà nói. Khoảng ba giờ chiều hắn quay lại, người ra mở cửa chính
là bố hắn, vẫn nhận ra ngay nhưng đã lạ lắm, người gày tóp, tóc bạc trắng, bước
di lom khom. Hai cha con cùng bước vào nhà lặng lẽ. Ông cụ nhìn hắn nói đi nói
lại một câu như chả có chuyện gì quan trọng hơn để nói: "Không thể nào
nhận ra anh, anh khác quá". Hắn cười mỉm: "Con năm nay bằng tuổi cậu
lúc con về Nam Ðịnh". Bố hắn sinh năm Canh Tý, 1990, hắn sinh năm Canh
Ngọ, 1930, năm 1945 bố hắn 45 tuổi, năm 1975 hắn cũng đã 45 tuỏi. Hai cha con,
hai thời thế, hai số phận. Bố hắn lại nói: "Cái năm ấy chẳng qua là do
hoàn cảnh...". Lời nói cứ nhẹ như không. Hắn nói liền: "Cậu mợ chả
nên nhắc lại chuyện cũ làm gì. Ðược gặp lại cậu mợ là con rất mừng". Hắn
đã nói rất thật lòng, cha con được gặp lại nhau sau mấy chục năm sóng gió đổi
thay mới là chuyện lớn, chuyện quan trọng còn những oán giận một thời chỉ là chuyện
nhỏ nhoi, vô nghĩa. Lúc chia tay bố hắn cũng không giữ lại ăn cơm, cũng không
hẹn một bữa nào đó quay lại cùng ăn với gia đình một bữa cơm. Ðúng là họ đang
có một chuyện gì đó rất khó nói, có thể nói với mọi người cùng cảnh ngộ nhưng
không thể nói với đứa con đang ở phía bên kia. Và rất nhiều chuyện nửa vui nửa
buồn sau đó mà hắn là nhân vật chính. Hắn đã rất chủ dộng và cũng biết điều
trong mọi mối quan hệ, có nghĩa là người chiến thắng vẫn khiêm tốn, vẫn là đứa
con của gia đình, đứa em của dòng họ, thưa gửi với mọi người kể cả với người
làm ở các gia đình anh chị vì họ đều đã lớn tuổi. Hắn vừa trò chuyện vừa quan
sát, và trong khi trò chuyện hắn luôn đặt mình là người đối thoại để không làm
họ phật lòng, không làm họ buồn thêm và không giở giọng tuyên truyền chính trị
bao giờ. Hắn quan niệm những việc đang diễn ra mỗi ngày, mọi người đều nhìn
thấy, đều nghe thấy, là một thực tế có sức lay chuyển nhiều tín điều trước đây
của họ. Một ông anh là thượng sĩ của chính quyền Sài Gòn, một người có những
hai bằng tiến sĩ, hỏi hắn: "Tại sao lại có thể thế?", hắn trả lời rát
nhũn nhặn: " Anh biết nhiều hơn em, nhưng nó đã là thế tất phải có những
nguyên do rất xác đáng để nó trở thành như thế, phải tìm hiểu nó chứ không thể
không chấp nhận nó". Chuyện nhà của hắn lại lồng trong chuyện nước ở vào
một thời điểm lịch sử của dân tộc, mọi sự việc diễn ra trong tháng 5 năm 1975
đối với riêng hắn cứ như trong một kịch bản sân khấu theo cách viết cổ điển,
lại thấm đẫm tính lãng mạn, hơi suớt mướt một chút, hơi "cải lương" một
chút, cha con gặp nhau, Nam Bắc gặp nhau, quân xâm lược phải ra đi, dân tộc
Việt Nam đã giành được độc lập hoàn toàn, thống nhất được quốc gia sau hơn một
thế kỷ nằm gai nếm mật. Quá đẹp như trong sự tưởng tượng của một tài năng văn
chương hơi tầm thường, hơi đơn giản.
Hắn viết kịch Cách mạng như chép lại vở kịch của chính đời
hắn. Chỉ khác là hắn loại hết mọi cảnh sướt mướt gặp gỡ, thăm hỏi, kể lể mà đưa
ngay ông bố vào một tình huống hết sức khó chịu: trong những thành đạt của đứa
con ông đã có phần công lao nào trong đó; ông có dám viết thư xin lỗi mẹ hắn
hiện vẫn còn sống và đang ở Hà Nội? Hắn đã buộc ông phải đối mặt với chính
mình, tự vấn mình và thú lỗi với khán giả. Hắn đã buộc các chính khách khôn
ngoan của Sài Gòn phải trả lời những câu hỏi của một đại uý đội quân thất trận
về thời thế, về thắng bại và cả về nhân cách của những người cầm đầu một quốc
gia khi phải lựa chọn giữa quyền lợi của cá nhân và tính cách mạng, tài sản của
dân chúng mà họ có trách nhiệm phải bảo vệ. Các nhân vật trong vở kịch buộc phải
tranh cãi nhau, tố cáo nhau và nói hết những điều đã lâu họ rất muốn nói nhưng
chưa có dịp để nói. Những lời nó tự bào chữa mà lại hoá ra tự buộc tội, đã từ
lâu chỉ là lời nói thầm, nói với chính mình chứ chưa dám nói với ai này buộc
phải nói công khai, nói không úp mở mà không có mặt một thằng Việt Cộng nào
đứng đó gây áp lực cả. Việt, nhân vật gây sóng gió trong một gia đình, một dòng
họ không xuất hiện một lần nào trên sân khấu, hắn chỉ hiện diện qua lời đối
thoại của những người khác, màn kéo lên lại nghe nói hắn mới ở đây và chỉ vừa
đi khỏi. Và các cuộc tranh luận vắng mặt hắn mới thực sự bắt đầu. Tất nhiên sự
thắng bại trong cuộc sống không dễ dàng, rành rọt như trên sân khấu. Sau những
ngày lãng mạn (cũng chỉ có một chút thôi) của cuộc trùng phùng cha con (hoàn
toàn không mong đợi), ấy là diễn giải một cách văn chương, chỉ còn là sự tính
toán tầm thường, thì vào cái lúc hỗn loạn có được một đứa con ở phe chiến thắng
cũng là điều hay. Nhưng khi thời thế đã phân định rõ ràng, những tin đồn nhảm
thưa dần đi, những cái lo sợ vô lý cũng nhạt dần đi thì sự có mặt của hắn chẳng
những không cần thiết mà còn gây phiền phức vì cứ buộc phải nghĩ lại nhiều
chuyện không muốn nhớ. Hắn càng ăn ở tử tế lại càng khó chịu, hắn được họ hàng
tiếp đón như một thành viên chính thức của họ tộc, một thành viên sang trọng,
hắn có mặt ở đâu là họ chỉ ngồi quây quanh hắn, trò chuyện với hắn và quên luôn
các người con của bà chính thất, thì có thể nói tức đến ứa máu, đến ngạt thở.
Năm 1976 hắn ra vào Sài Gòn đến vài lượt, lần nào vào hắn cũng đều có quà biếu
bố mẹ, nhưng cái nhìn của ông bố cứ gườm gườm, ông có thể ngồi trước mặt hắn cả
giờ mà không hề mở miệng, còn bà mẹ già thì cười rất nhạt, cái cười ớn rợn như
của thuở nào. Thì ra họ chẳng thay đổi tí gì, vẫn còn nguyên vẹn cái ghét cái
căm của ngày xưa, còn hơn cả ngày xưa. Tại sao thế nhỉ? Về sau hắn mới hiểu,
người ta có thể tha thứ cho kẻ đã làm nhục mình chứ không thể tha thứ cho kẻ đã
làm mình phải xấu hổ. Tha thứ cho những người đã từng làm nhục mình cũng là một
khoái cảm của người thành đạt. Còn với kẻ đã làm mình phải xấu hổ thì tự giải
thoát bằng cách nào? Phải bỏ hẳn cái mặc cảm là mình đã bị thua! Người ta có
thể nhận là đã thua với người ngoài (cũng khó đấy!) nhưng không bao giờ dám
nhận là thua với người trong gia đình. Thua ngay ở chỗ trốn nấp cuối cùng là
thua hoàn toàn, thua triệt để, dẫu là thua với một đứa con!
Vợ hắn cũng thế. Cô ta có thể nhẫn nhịn chồng lúc còn trẻ vì họ vẫn bình đẳng
trong trách nhiệm, trong kiến tạo một gia đình, anh kiếm ra tiền, anh có danh
vọng nhưng tôi lại sinh cho anh những đứa con và chăm sóc nuôi dạy chúng khôn
lớn. Anh có công tôi cũng có công, chả ai sống bám vào ai cả. Lúc trẻ hắn cũng
đã nói với vợ nhiều câu rất tệ nhưng vợ hắn không để ý, không có mặc cảm thua
kém chồng nên không chấp những câu nói thiếu cân nhắc của chồng. Hắn là người
đọc sách, lại làm nghề của chữ nghĩa nhưng sống với vợ con giống hệt một người
lao động làm nghề nặng nhọc, ăn to nói lớn, cười đùa rổn rảng, cáu gắt om xòm,
sống quá hồn nhiên gần như tự nhiên đã để lại nhiều di chứng xấu cho con cái.
Và vợ chồng hắn cãi nhau cũng giống hệt những gia đình bình dân, cãi nhau lúc
sáng đến chiều đã làm lành, cãi nhau lúc tối đêm đến lại lăn vào nhau như chẳng
có chuyện gì đã xảy ra. Nhưng về già thì phải sống khác, phải sống bằng những
lề luật dã thành nếp nhà mới giữ được sự tôn nghiêm trước con cháu. Phải có
nghệ thuật sống già. Ví như người già không nên nói to, cười to, không nên cáu
gắt, la lối, khuyên bảo nhẹ nhàng thì được nhưng ra lệnh một cách nghiêm khắc là
rất không nên, giới thiệu kinh nghiệm thì tốt nhưng khẳng định kinh nghiệm thì
nên tránh. Có nhiều việc nên im lặng, nên lờ đi thì tốt hơn là biết, còn đã
biết thì phải chọn người, chọn lúc để nói, có việc nói với con trai nhưng có
việc chỉ nên nói với con dâu, có việc nên để vợ nói, lại có việc phải chính
mình nói. Có khi nhờ đứa cháu nói lại tốt hơn chính ông bà nói. Ðều có luật cả.
Luật vẫn thay đổi theo thời nhưng sự tôn nghiêm của những người già trong một
gia đình thì xưa là thế nay vẫn là thế. Tóm lại về già phải sống bằng văn hoá
chứ không thể sống bằng bản năng. Hắn rất sợ lời tán tụng: "người già mà
tính trẻ". Thế là ra quái rồi, là nên lo chứ còn mừng nỗi gì!
Vợ chồng hắn về già không phải lo tiền bạc, không phải lo con cái, thế là sướng
lắm, mà lại hoá ra có nhiều phiền muộn, vì giữa họ chưa tìm ra được một cách
sống hợp lý của tuổi già. Cả hai đều lớn lên trong thời cách mạng và chiến
tranh, của các cuộc cải cách xã hội, của sự đối nghịch giữa cách sống phong
kiến, tư sản và cách sống xã hội chủ nghĩa, nói cho thật, cũng chả ai biết cái
xấu, xấu như thế nào, cái tốt, tốt như thế nào, và gia đình mình phải sống như
thế nào. Ðại khái sống có quá nhiều phép tắc, nhiều lễ nghi là cách sống của
phong kiến, tư sản, sống hồn nhiên, giản dị, dễ dãi, có phần tuỳ tiện là cách
sống của người vô sản. Những tiêu chuẩn giá trị mới chưa thành phong cách sống
của một quốc gia, là nếp sống của mỗi gia đình, ở nơi công cộng thì sống và nói
một cách khác, ở nhà sống với vợ con lại sống và nói một cách khác. Trong lề
lối làm việc ở các cơ quan nhà nước lúc họp bàn, ra nghị quyết thì rất đàng
hoàng, rất dân chủ nhưng trong quan hệ với dân, với nhau thì lại thiếu dân chủ
và rất phong kiến. Người sống ngay thẳng, thật thà ngày một hiếm, người sống
mưu mẹo, dối trá ngày một nhiều, con dối cha, vợ dối chồng, trò dối thầy, cấp
dưới dối cấp trên, dân chúng dối nhà nước và ngược lại. Trong chiến tranh mọi
người đều sống vì nghĩa lớn, đức hy sinh trở thành tính cách bao trùm của một
dân tộc, mọi tham vọng cá nhân nhất thời bị loại bỏ, sống nay chết mai thì lúc
sống phải cho đàng hoàng, lúc chết phải cho oanh liệt. Vào những năm ấy đã có
một vị lão thành cách mạng trong một lúc cảm khái đã phải thốt lên: "Con
người thời cộng sản chủ nghĩa cũng chỉ mong được như thế này". Và một vị
khác cũng nói: "Ra ngõ gặp anh hùng!" Thời sau người ta hay đem những
câu nói rất chân thật của một thời thành chuyện khôi hài lúc trà dư tửu hậu là
rất nhầm. Cũng như lấy cái thật của một thời khái quát thành cái thật của mọi
thời lại càng nhầm.
Nhiều năm trước hắn đã nghĩ, thời trẻ vất vả, thiếu thốn vẫn chịu được chỉ mong
về già đời sống dư dật, con cái trưởng thành, được an nhàn tí chút là đã có
phúc lắm. Về già hắn được sống đầy đủ hơn thời trẻ nhiều, hầu như không có gì
phải lo mà hoá ra cuộc sống gia đình lại ngột ngạt hơn cả những năm còn trẻ. Có
lúc hắn đã nghĩ đến cái chết để thoát khỏi cảnh ngộ nửa khóc nửa cười này. Với
hắn là một tai hoạ bất thần ập xuống, không thể tính trước, không thể ngờ tới
nhưng nghĩ cho kỹ, một gia đình sống tuỳ tiện, sống không có kỷ cương làm sao
tránh được bi kịch lúc đã về già. Lấy ngay cái gia tộc của hắn làm một ví dụ:
Ông nội hắn có những bốn bà vợ, bốn dòng con mà những đứa con của các dòng thứ
vẫn rất hiếu kính với mẹ già, anh em một đời chăm sóc lẫn nhau và cả con cháu
của nhau. Ðó là cách sống của các danh gia vọng tộc nên sự hoà thuận của anh em
con cháu còn giữ mãi cho đến tận bây giờ, sau gần một trăm năm. Bà mẹ già của
hắn xuất thân tầm thường, gặp may mà vào được nhà quan, lấy được chồng quan nên
không biết cách ứng xử cho đúng với sự tôn nghiêm của một dòng họ, sinh ra ghen
tuông, sinh ra hận thù, không chỉ hại đời mình mà còn hại cả đời con đời cháu.
Cũng là một gia đình không tạo được gia pháp gia phong, nên chưa được một đời
mà cả phúc lẫn lộc đều cạn kiệt, con cháu ly tán không kết tụ thành một tộc hệ,
vinh dự cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia.
29.
Từ năm 1980 tới 1988 hắn viết được năm cuốn tiểu thuyết, mỗi cuốn chỉ khoảng
dưới 200 trang: Gặp gỡ cuối năm - Thời gian của người - Ðiều tra về một
cái chết - Vòng sóng đến vô cùng - Một cõi nhân gian bé tí. Và cả năm
cuốn đều đọc được cả, đều được hắn chọn đưa vào Tuyển tập tiểu thuyết in
năm 2001. Có thể nói cả năm cuốn sách đó đều do phần đất phía Nam của tổ quốc
ban tặng cho hắn. Cho hắn đề tài, cho hắn ý tưởng, cho hắn nhân vật và bao trùm
là tư tưởng dân chủ của một miền đất đã thoát khỏi tư tưởng phong kiến từ lâu.
Mỗi nhân vật là một phát hiện, một kinh ngạc đối với hắn, vì hắn chưa từng
biết, chưa từng gặp. Ngay đến những người thân thuộc trong gia đình cũng mỗi
người mỗi vẻ và người nào đối với hắn cũng đều quan trọng, đều hấp dẫn trong sự
tìm hiểu mãi mãi của hắn về lai lịch của con người. Hắn gặp Quân vào những ngày
đầu tiên của Sài Gòn vừa giải phóng tại gia đình, rồi gặp anh ở quán cà phê với
bạn bè, gặp anh lang thang ở khu chợ bán chó, bán cây kiểng, rồi gặp anh ở Hà
Nội tại một cơ quan hết sức quan trọng như là một chuyện không thể có thật, mà
hoá ra có thật. Nhận được ra một nhân vật có thể chuyển tải được ý tưởng của
mình là đã tìm đuợc việc làm cho những ngày sắp tới. Còn nhận được ra nhân vật
của mình trong môi trường hoạt động quen thuộc của họ tức là cuốn sách đã được
viết non nửa. Hắn đã gặp ông Hai Riềng tại khu vườn ươm của nông trường cao su
Dầu Tiếng, gặp chị Ba Huệ tại văn phòng huyện uỷ huyện Thống Nhất tỉnh Ðồng
Nai, gặp linh mục Vĩnh tại nhà thờ chánh toà của Sài Gòn, gặp anh Mười tại xã
Ðốc Binh Kiều của tỉnh Ðồng Tháp, và gặp các nhân vật "phản loạn"
muốn cải tạo giáo hội Cao Ðài cho phù hợp với vận hội mới ngay tại vùng đất của
toà thánh Tây Ninh. Mỗi người trong bọn họ lại kéo theo hàng loạt bạn bè, người
thân, kẻ thù chìm nổi trong sóng gió của chiến tranh trong suốt ba chục năm,
người đã lạ, chuyện đời của họ lại càng lạ, hắn nghe họ kể ngày này qua tháng
khác, đi về cả năm cái nơi hắn sẽ viết mới dần dần nhập vào hồn cốt những mẫu
người rồi ra sẽ là các nhân vật văn học trong cái thế giới tiểu thuyết của hắn.
Cũng rất may các nhân vật ấy đều là người cùng thời với hắn, dẫu nghề nghiệp
khác nhau, cảnh ngộ khác nhau, số phận khác nhau nhưng vẫn hiểu nhau hoàn toàn,
lấy chính mình mà hiểu họ, lấy sự từng trải của mình hoà lẫn với sự từng trải
của họ, nhưng hồn cốt là của hắn, lắm lúc chính hắn cũng không phân biệt được
trong một nhân vật phần nào là của người, phần nào là của hắn. Thông thường câu
chuyện là của đời, giọng kể là của hắn, hắn đến với bạn đọc chủ yếu là nhờ vào
cái giọng kể, nó là từng trải, là nỗi niềm, là tâm sự, là cái vui và cả nhiều
cái buồn suốt một đời của hắn. Giọng kể chính là cái hồn của hắn đã nhập vào chữ
nghĩa, nhịp điệu để được đi sóng đôi với bạn đọc cho đến trang cuối cùng của
cuốn sách. Tất nhiên chỉ ở những cuốn sách hay mới có giọng kể, còn ở những
cuốn sách dở thì giọng kể quen thuộc đã biến mất chỉ còn lại một kẻ thuật
chuyện vô danh và vô duyên thôi. Theo hắn năm cuốn sách viết trong những năm 80
đều có giọng kể riêng cả.
Trong tám năm hắn viết năm cuốn sách, lại đã ở vào quãng tuổi ngoài 50 xấp xỉ
60, viết như thế là khoẻ, sức viết có thể sánh ngang với vài vị nhà văn tiền
bối, nhưng lại là những năm hắn và vợ con phải sống túng thiếu nhất, vất vả
nhất. Tiền nhuận bút không thay đổi nhưng cuộc sống của người cầm bút đã thay
đổi trong sự di chuyển từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài Bắc lương
chồng đại tá, lương vợ thiếu tá đã là một gia đình vào bậc trung lưu trở lên,
chưa kể còn có tiền nhuận bút thêm vào. Ở thành phố Hồ Chí Minh ăn vẫn theo chế
độ bao cấp nhưng tiêu thì chả ai bao cho, mà cái tiêu ở một thành phố lớn thì
vô chừng, vài lần đóng góp giỗ tết, ma chay, cưới xin là coi như hết nhẵn. Năm
ấy viên chức nhà nước, sĩ quan quân đội không phải trả tiền nhà, tiền điện,
tiền nước nên mới có "phong trào" ăn cắp điện làm nước đá bán cho các
quán giải khát. Một tủ làm đá giá tiền khoảng hai chỉ vàng, có nhà hàng xóm có
ba tủ, hai lớn một nhỏ. Năm vào Sài Gòn vợ chồng hắn không có một phân vàng
nào, có vài chỉ vàng đã gửi lại cho các em bán dần nuôi mẹ ốm. Thế là vợ hắn
phải đi làm thuê, tức là nhận cho người ta đặt tủ đá ở nhà mình, tiền bán đá
chia đôi. Một ngày một đêm lấy được ba mẻ đá cục, bỏ vào các lon nhỏ. Nhưng chỉ
khoảng 3, 4 giờ đã có thể gỡ ra vài chục lon nước đặt trong cùng đã thành đá,
nếu chịu khó một ngày cũng có thể được thêm một trăm viên của riêng mình, không
phải chia với ai cả. Nhưng mà cực. Nửa đêm đang ngủ say với chồng con chợt nghĩ
tới mòn "đá ăn cắp" đó là vợ hắn liền vùng ngay dậy chạy sồng sộc vào
mở tủ đá, dùng chính bàn tay mình xỉa thẳng vào và lấy ra những cục đá trắng
toát. Tiểu thư thành phố không thể làm được, chỉ có các cô nông dân với bàn tay
to và khoẻ mới dám làm, làm như không, chả thấy mệt nhọc gì. Vợ hắn đã được bạn
bè của Ðoàn văn công sau này là Ðoàn Kịch tặng danh hiệu "B. xe tăng"
vì sức khoẻ và sự tháo vát trong những công việc nặng nhọc còn hơn các công tử
thành phố nhiều. Vệ sinh doanh trại, dọn kho phim và chuyển kho phim những năm
sơ tán vợ hắn bao giờ cũng là tướng tiên phong. Năm chửa đứa con thứ ba đã được
năm sáu tháng, cơ quan cho xe lên vùng đất sản xuất dỡ khoai, dỡ sắn gì đó, vợ
hắn xung phong xin đi, cản thế nào cũng không được, còn nói: "Các anh
không cần em đi luộc sắn cho các anh ăn à? Nấu xôi sắn tươi rưới thêm tí mỡ
hành còn ngon hơn nem công chả phượng". Thế là cô ấy được đi. Tới nơi cô
ta tổ chức dỡ sắn, bóc sắn, làm món xôi sắn như đã hứa, giờ nghỉ cầm dao phát
chặt đám cây nhỏ mọc lúp xúp quanh đồi, chặt chơi bời thôi mà cũng được mấy
gánh củi vứt lên xe phải đun được cả tháng. Ðêm đi đẻ buổi chiều còn đèo bằng
xe đạp các thứ quần áo chăn màn và đồ dùng lặt vặt về nhà mẹ chồng vì vợ hắn sẽ
nằm cữ ở đấy, bãi Phúc Xá sắp vào mùa lụt rồi.
Vợ hắn đẻ thằng út, nhà không có ai giúp, nhờ chồng nấu cơm, nấu cháo, nấu nước
tắm cho con nhỏ và giặt tã lót mấy ngày đầu mặt chồng nhăn như mặt khỉ, động
nói động gắt mà nào có phải việc của hàng xóm. Gái đẻ bị chồng xử tệ là dễ uất
lắm nhưng vợ hắn vẫn cười, nói năng với chồng vẫn dịu dàng vì cô ấy biết tính
chồng, người lười phải làm việc vặt là khổ tâm lắm, chứ không phải lòng dạ đã
thay đổi, nên không chấp. Có một chị lớn tuổi đã nói với vợ hắn: "Thằng
chồng có lúc nó là bố mình, có lúc là con mình, cứ nghĩ thế là bỏ qua được
hết".
Trong những năm ở Hà Nội, gia đình hắn chưa bao giờ phải thiếu tiền, hắn chưa
bao giờ phải nghĩ đến tiền, phải tính toán, cân nhắc việc tiêu tiền. Tiền lương
tiêu đã không hết lại còn tiền nhuận bút. Hàng xóm hỏi vay năm hào một đồng,
mỗi lần gặp người cho vay lại xin khất, giọng nói nét mặt nom rất thảm. Nhà văn
không phải lo sinh kế, không phải chạy tiền là chả hiểu bao nhiêu về những
người đang sông quanh mình, văn chương hoá ra cao xa, hoá ra trong veo vì thiếu
hẳn cái đục của trần gian, mùi bùn của trần gian. Nên trong rất nhiều năm hắn
chả viết được gì về cái khu tập thể bám theo ven sông của hắn. Phải vào sống ở
thành phố Hồ Chí Minh hắn mới trở lại làm nhà văn của mọi thời, nghĩa là luôn
luôn thiếu tiền. Và những người có tiền, có quyền coi thường hắn, khinh rẻ hắn,
dẫu hắn là một đại tá, lại là một nhà văn. Bà Ðại là bà chị con cô con cậu, con
trai và hai người con gái sang Mỹ ở từ trước năm 1975, còn lại ở thành phố chỉ
có cô con gái út, con rể và hai đứa con của họ. Mấy năm đầu mỗi lần hắn đến
chơi với chị, cháu gái, cháu rể đều chào: "Cậu đến chơi ạ", những đứa
trẻ khoanh tay cúi đầu: "Ông đến chơi". Hắn cũng chưa hỏi xin hỏi vay
tiền các bà chị bao giờ, nhưng các chị cho gì đều nhận, mà của cho cũng nhếch
nhác lắm, là cho người nghèo, người không được trọng. Lâu dần mỗi lần hắn đến
chơi cũng chả ai buồn chào hắn, đến chơi tay nhẹ lúc về tay nặng, toàn thứ tập
tàng nhưng không nhận lại phải mua, nhà có tiền không dùng nhưng nhà nghèo vẫn
phải dùng. Chị và các cháu sẽ khinh nhưng vợ con lại mừng, thôi, lấy cái vợ con
mừng làm nước rửa đi cái nhục, chả sao cả. Con trai lớn nhờ bạn xin mãi mới
được chân chạy bàn của một khách sạn nhà nước. Nhưng lúc con được về chơi cả
nhà xúm xít nghe nó kể nó đã được ăn những món gì, đến tên gọi cũng lạ nói gì
đã được nếm, toàn thức ăn thừa, nhưng làm bồi được ăn thừa là sướng hơn các em
ở nhà rồi, con chị xuýt xoa, thằng em gầm gào: "Ngon thế mà chỉ biết ăn
một mình". Còn bố mẹ thì sung sướng lắm vì con được ăn những miếng ngon.
Rồi nó bị đuổi việc cùng với mấy đứa bạn do bị nghi đã lấy cắp khăn trải
giường. Rồi lại được nhận làm tiếp vì kẻ cắp từ ngoài trèo vào chứ không phải
người ở trong khách sạn nhưng con hắn phải đổi đi làm nhà hàng khác, nhỏ hơn,
lương ít hơn. Thế là hắn phải chạy đến xin với giám đốc cho con được ở lại vì
nó đã quen việc. Hắn ngồi chờ ở hành lang, hai tay thu vào lòng, điệu bộ lo
lắng, khúm núm. Giám đốc bước vào cùng với các trợ lý, hắn đứng bật lên, giám
đốc hất hàm hỏi: "Bác là ai, đến có việc gì?" Hắn phải nói thật nhanh
lời xin của mình rồi nín lặng chờ đợi. Giám đốc nhìn quanh quéo một lát, hình
như ông ta đang đợi ai đó chứ chả để lọt tai những lời nói đã được tính toán
đến từng chữ của hắn rồi bảo: "Bác cứ về đi, nếu nó phải làm nơi khác bác
có bằng lòng không hay xin thôi việc hẳn." Hắn cười mếu: "Dạ, thưa
anh, tuỳ anh quyết định" Nhà thơ Trần Nhật Thu có sáng kiến tổ chức một
quán ăn mà đội quân chạy bàn là các văn nghệ sĩ vừa hấp dẫn khách ăn vừa có
tiền nhét túi cho các nghệ sĩ. Nhưng quán ăn không thành nên hắn vẫn thất
nghiệp. Lại có lời mời hắn tới ngủ đêm tại một nhà hàng, là ông bảo vệ nhưng
được ngủ ở phòng giám đốc có máy lạnh, có điện thoại, được ăn bữa cơm chiều,
bữa điểm tâm sáng, lương tháng khoảng vài trăm, vừa nhàn vừa đỡ túng. Hắn cũng
nhận nhưng chờ mãi không thấy ai nhắc lại, rồi cũng thôi. Bạn bè có gợi ý hắn
viết hồi ký thuê cho một số vị giám đốc các ngành công nghiệp có thành tích nổi
trội, tên tác giả là của người bỏ tiền, mình chỉ là thợ sắp xếp câu chuyện, đẽo
gọt chữ nghĩa, nếu sách viết hay có nhiều bạn đọc, có dư luận tốt thì còn được
thưởng thêm tiền. Nhưng hắn từ chối phắt. Xưa nay hắn chỉ viết những gì hắn
thích, xác của người hồn của hắn, chứ chưa viết thuê bao giờ. Ðói chết thôi chứ
hắn kiên quyết không đi làm cái nghề hầu bút. Hắn cũng có tài viết truyện trinh
thám, gián điệp nhưng hắn nhất định không dính vào, chuyện săn người, bắt người
chỉ là cái vỏ, còn cái ruột phải là những vấn đề khác cần nói hơn, đáng nói
hơn. Ðói thế, túng thế mà vẫn viết được năm cuốn sách tiếp tục một phong cách,
tiếp tục một dòng tư tưởng, chính hắn cũng phải tự khen sống thế là được, viết
thế cũng là được, có thể chưa hay nhưng không làm tổn hại đến nhân cách của một
cây bút.
[1]( ) Ông Vĩnh Thị (Bảo Ðại)
30.
Năm 1990, hắn vừa tròn
sáu mươi tuổi, là cái tuổi đã hoàn thành mọi việc lớn để chuẩn bị cho cái chết.
Nhưng nhìn vào đâu hắn cũng thấy buồn. Buồn nhất và lạ nhất là sự tan vỡ của
Liên bang Xô Viết và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu. Các thiết chế
về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội của một quốc gia hùng mạnh vào bậc nhất
của hành tinh chỉ một sớm một chiều sụm hẳn xuống, nằm thẳng đơ và rã ra như đã
mỏi mệt đến cùng cực. Các chính khách nổi tiếng một thời khi ánh hào quang của
một siêu cường vừa tắt, lập tức hiện ra như một đám viên chức già nua cũ kỹ,
hoàn toàn bất lực trước tình thế mới. Thế giới mất thế quân bình trở nên hỗn
loạn với các cuộc chiến tranh vô lý và kéo dài về sắc tộc về tôn giáo. Bao
nhiêu niềm tin cao đẹp của những năm đầu thế kỷ bỗng chốc hoá ra vô nghĩa. Văn
chương, học thuyết, kinh sách chỉ là những trò chơi trí tuệ phù phiếm vì đã chả
làm gì được để ngăn chặn hai cuộc thế chiến, và cũng chả làm gì được trước những
la hét, hành động rồ dại của một nhân loại đã mất hết những kinh nghiệm lịch sử
trở nên nông nổi, hung bạo. Hắn rất buồn nhưng không hoang mang vì chất viết
của hắn luôn lấy xung đột, lấy sự phát triển biện chứng làm nền của mọi câu
chuyện. Xưa nay hắn vốn đã không tin câu chuyện thần tiên về một thiên đường
dưới hạ giới. Con người vốn có nhiều khiếm khuyết lại muốn tạo dựng một xã hội
thật hoàn hảo, không có khiếm khuyết là chuyện không thể có, là chuyện không
thật. Xã hội Nga và con người Nga hiện giờ là rất chân thật, thật hơn thời còn
là Liên Xô nhiều, vì họ đã phơi bày cái mạnh cái yếu của một dân tộc, một thể
chế hết sức tự nhiên, không che giấu. Hắn rất ngưỡng mộ ông Putin, tổng thống
Liên bang Nga hiện giờ, ở ông hắn nhận ra một chính khách kiểu mới, có phong
cách một nhà lãnh đạo quốc gia ở thế kỷ 21. Hắn thường so sánh hai nhân vật
kiệt xuất của nền chính trị Nga trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đó là Lê nin
và Putin. Cả hai ông đều lên cầm quyền trong một bối cảnh xã hội hết sức rối
ren, Lê nin phải nói rất nhiều và viết cũng rất nhiều. Còn Putin không nói gì
cả, cũng không viết gì cả cứ lặng lẽ làm, cắm cúi làm, cũng không hứa hẹn gì
nhiều, lại còn nói với cử tri xin đừng trông đợi quá nhiều ở ông, ông làm gì có
phép lạ để trong một thời gian ngắn có thể thay đổi được tất cả. Nói thế là một
nhà chính trị rất chân thực, rất có lương tâm.
Những năm 90 cũng là những năm cuối của đời hắn, hắn hay nghĩ lại những năm
tháng đã qua, những việc đã làm, những người đã gặp, rồi bằng sự từng trải của
tuổi tác hắn đã nhận ra vẻ đẹp của đời thường và sự bất biến của những tính
cách mới được xác lập trong nửa thế kỷ qua sẽ thành máu huyết của dân tộc,
thành tính cách Việt Nam. Nói thì dễ nhưng hiểu được vẻ đẹp của đời thường với
riêng hắn cũng phải mất nửa thế kỷ. Nhận ra vẻ đẹp một cách nên thơ, trong ánh
sáng của bình minh thì hắn đã nhận ra từ Mùa lạc, Hãy đi xa hơn nữa từ
những năm hắn mới 30 tuổi. Nhưng nhận ra vẻ đẹp của thất bại, của vất vả, trầm
luân trong cái quầng sáng vàng úa của hoàng hôn thì phải từ năm hắn đã 50 tuổi
khi hắn viết Hai ông già ở Ðồng Tháp Mười. Mãi mãi hắn không
quên được ông già thư ký của một trạm máy kéo ở Ðồng Tháp Mười, người gày nhỏ,
tóc bạc trắng, đứng đơn độc dưới tán cây gáo cổ thụ nhìn theo cái xuồng máy của
bọn hắn rẽ nước rời xa một rẻo đất mà hắn nghĩ sẽ không bao giờ có dịp quay
lại. Cũng năm 1990 hắn trở lại làng Tả Thanh Oai, tục gọi là làng Tó, nằm bên
tả ngạn sông Nhuệ. Ðó là quê của nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao Ngô
Thì Nhậm, đất phát tích của dòng họ Ngô Thì và được gặp hậu duệ của dòng đích
tên là Trác, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp. Năm 1944, hắn mới 14 tuổi cùng
mẹ và em tản cư về làng Tó, quê của một bà bạn của mẹ, tránh máy bay Mỹ. Mẹ hắn
phải đến trình báo với lý trưởng làng và biếu quà, ông này cũng thuộc dòng Ngô
Thì. Mấy mẹ con tới xin ở nhờ ngôi chùa làng gọi là chùa Thắm, cách mộ ông bà
Ngô Thì Nhậm có một quãng đường ngắn. Một năm ở chùa, hắn thuộc lòng mọi cung
cách trong sinh hoạt của các sư, mối quan hệ giữa sư cụ trụ trì với các sư đệ tử
trông nom các chùa khác, rồi ngôn ngữ nhà chùa, ngôn ngữ của đám con nhang đệ
tử, của các vãi. Trong kháng chiến chống Pháp mấy năm đầu mẹ và em hắn cũng ở
nhờ chùa Phương Cái kề sát thị xã Hưng Yên. Hai mẹ con bán hàng xén ở chợ Bảo
Châu, không đủ ăn lại làm nghề bóc vỏ hạt sen, chủ đầm sen không trả tiền mà
trả công bằng các đấu hạt sen ăn thay cơm, vừa đói vừa thèm cơm lại ăn mày cơm
nhà chùa. Rồi sư cụ cho em hắn làm tiểu chùa, mẹ làm vãi chùa quét dọn, hầu hạ
sư cụ, chùa nuôi luôn cả hai mẹ con cho tới ngày cụ mất. Thời đi kháng chiến
hắn đã làm y tá một trạm xá của tỉnh đội Hưng Yên cũng là một ngôi chùa làng,
chùa Cốc thuộc huyện Kim Ðộng. Mãi mãi hắn không thể quên sư bác chùa Cốc hơn
hắn vài bốn tuổi, đẹp và thanh mảnh như bông huệ, là chị cứu thương, chị nấu
cơm, rồi giặt giũ, khâu vá quần áo cho các thương bệnh binh và bằng cái vẻ đẹp
thoát tục chị đã làm ngôi chùa trạm xá thành nơi an ủi, tĩnh dưỡng về cả tinh
thần. Những ngôi chùa làng với những nhà sư làm quần quật từ sáng sớm đến nửa
đêm, làm ruộng làm vườn, gánh rau ra chợ bán, ủ tương, đóng oản mà mặt vẫn
tươi, không than khổ bao giờ, không kêu khó bao giờ, từ bi hỉ xả là những kỷ
niệm đầy yêu thương và rất đẹp của hắn những năm còn trẻ. Những tình cảm ấy,
những nhớ nhung ấy hắn đều đưa vào truyện vừa Sư già chùa Thắm và ông
đại tá về hưu. Một nhà sư đã rời bỏ một môi trường vốn rất u tĩnh của kẻ
xuất gia bỗng chốc nhốn nháo bởi những thói hư của thế tục, lại trở về ngôi
chùa vô danh từ đó ông đã ra đi, để tìm lại chính mình. Một đại tá quân đội sau
nhiều chục năm nam chinh bắc chiến nay trở về làm ông già bình thường sống với
con gái và cháu ngoại. Mọi tham vọng đã thuộc về quá khứ, cái nghĩa vụ làm trai
thời chiến đã hoàn thành, đôi bạn tưởng là rất xa nhau về lý tưởng về cách sống
lại cảm thấy rất gần gũi nhau khi cùng ngắm cảnh hoàng hôn.
Hắn ở lại Tó vài ngày và ở với gia đình Trác, vì Trác là chủ nhiệm hợp tác xã
mà cũng vì muốn được quan sát kỹ hơn một giọt máu của cái dòng họ đã sinh ra
nhiều nhân vật nổi tiếng về cả chính trị lẫn văn chương trong lịch sử Việt Nam
thời cận đại, xem thử có còn dấu tích gì lưu giữ được cho đến hôm nay. Càng trò
chuyện với Trác hắn càng buồn cười vì ông cháu hôm nay chả giống chút nào vói
các cụ tổ nổi tiếng thời xưa. Trác không đọc sách và cũng không thích đọc sách,
chả biết một tí gì về công tích và văn chương của các cụ tổ nhà mình. Trác đã
đi lính chiến đấu ở mặt trận Thừa Thiên, hết chiến tranh lại sống sót thì về
nhà đi cày, gặp thời buôn bán dễ dãi thì đi buôn làm giầu như mọi người. Sáng
chưa rõ mặt người vợ Trác đã đội thúng bánh cuốn tráng trong đêm ra đầu làng
chờ xe buýt lên Hà Nội, khoảng trưa đã về lại ra đồng làm mầu hoặc bắc nồi rượu
nấu. Chồng buổi sáng ra nhà để máy xay xát mới mua nhận thóc xay, chiều ra trụ
sở hợp tác xã, sau bữa rượu tối hai vợ chồng lại chụm đầu tính toán tiền thu
chi trong ngày. Mà vui lắm, ai cũng có việc làm, việc nào cũng kiếm ra tiền,
tháng này vài triệu, tháng sau vài triệu, một năm là bao nhiêu triệu, hy vọng
gần, tham vọng cũng nhỏ nhoi, còn việc thì làm hết việc đặt lưng xuống là ngáy
bằng sấm, Trác nói thế. Còn nói: "Em bốn mươi tuổi rồi đấy nhưng ai cũng
bảo chỉ ngoài ba chục là cùng, chả lo gì hết, việc nước có cấp trên lo, việc xã
có xã lo, em chỉ lo mỗi việc của hợp tác xã, từ ngày khoán hộ làm chủ nhiệm cũng
nhàn lắm". Nói rồi cười, lại tớp một ngụm rượu, nhai một miếng thịt, sướng
thế mà bảo chưa sướng thì thế nào mới là sướng. Ờ, nghĩ thế cũng phải, làm
người nổi tiếng mà làm gì, toàn chết bất đắc kỳ tử với chết yểu thôi. Ngô Thì
Sĩ giận con là Ngô Thì Nhậm phải uống thuốc độc tự sát năm 54 tuổi. Ngô Thì
Nhậm thì bị kẻ thù đánh gần chết ở Văn Miếu, thọ 57 tuổi; Ngô Thì Chí, em Ngô
Thì Nhậm, tác giả Hoàng Lê nhất thống chí, hưởng dương có 35
năm. Làm anh chủ nhiệm hợp tác xã mãn nguyện, mặt phẳng lì như trẻ thơ, sáng
làm đĩa bánh cuốn ăn với giò với chả, tối làm cút rượu nhắm với dồi lợn, với
thịt chó. Mọi người đều sống như thế cả, suốt chiều dài của lịch sử người dân
chỉ có mấy việc phải làm, đi lính khi nước có chiến tranh, rồi đi cày, lúc rảnh
rỗi thì đi buôn, truyền từ đời này sang đời nọ, chả tiếng tăm gì cả, chả lưu
danh gì cả nhưng bãi hoang, rừng rậm đã thành làng, thành ruộng, thành đường,
thành các dòng họ, thành dân tộc, thành quốc gia, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ,
anh em, bè bạn, hàng xóm láng giềng của các danh nhân, danh tướng. Họ là những
vật liệu nguyên sơ, luôn luôn có sẵn, chỉ đợi một nháng lửa, một trận gió là
lập tức bùng cháy thành ánh sáng, thành hào quang làm rạng rỡ cả một thời. Viết
về những số phận nhạt nhẽo, tầm thường với những vui buồn bé nhỏ là rất có lý.
Vì không có cái nhạt nhẽo của một ngày, một đời, của nhiều đời thì lấy gì mà
nuôi dưỡng những nhân vật xuất chúng, kỳ tài. Và... tất cả bỗng nhiên thay đổi
trong con mắt của hắn. Nói một cách ngoa ngôn hắn có thể viết được tất cả những
gì nằm trong tầm nhìn tầm nghĩ của hắn. Hắn đã bước vào một thời kỳ viết mới ở
tuổi sáu mươi, bắt đầu từ cái truyện ngắn miêu tả cái thân phận buồn cười của
chính hắn trong cái buổi giao thời, từ cái thời kinh tế được chỉ huy bằng các
biện pháp hành chính, xã hội xếp hàng dọc đợi đến lượt mình mua hàng, in sách,
đề bạt và cả đợi lượt được thi thố tài năng sang cái thời kỳ kinh tế theo cơ
chế thị trường, theo luật cung cầu, đồng tiền chỉ huy tất cả, nó là bản vị mới
của mọi giá trị, "là tiên là phật" như lời ca của một bài đồng dao
thời hiện đại. Nhưng hắn sinh ra là để sống trong trật tự, trong xếp hàng chờ
đến lượt mình, ngoan ngoãn, khiêm nhường, làm sao có đủ bản lãnh để nhảy vào
một thế giới cạnh tranh. Có người khuyên, hãy viết truyện tình báo, gián điệp,
truyện ái tình tay ba tay tư, truyện giám đốc ăn cắp tiền công và ngủ với các
cô thư ký, và tên sách phải đặt cho kêu, gợi được sự tò mò, bìa sách phải có
đàn bà đẹp, con gái đẹp, có súng và xác chết, hãy làm thử đi, làm được đấy, mấy
cô thợ may ở Ðồng Nai còn viết được tiểu thuyết mỗi năm vài cuốn, huống hồ là
một nhà văn chuyên nghiệp. Hắn đành cười xoà và nhận thua, cái thời này đâu còn
là của hắn mà lại mong xuất đầu lộ diện. Hắn chỉ viết được những gì hắn muốn
viết, hắn viết về cái nhạt nhẽo, cái tầm thường của mỗi ngày, của một đời vậy.
Trước hết viết ngay chính hắn trong cái truyện Anh hùng bĩ vận. Bạn
đọc tìm đọc và mủm mỉm cười, thế là thắng rồi. Rồi hắn viết ngay chính bà chị
hàng xóm sống với nhau gần hai chục năm ở xóm lũ. Một người vợ tự nguyện làm nô
lệ cho một ông chồng rất vô tích sự mà vẫn sợ người ta giận rồi người ta bỏ thì
khổ. Với chị ông chồng đã là thần linh rồi, phải chiều chuộng, sớm tối nhang
đèn chứ không nên trách, không nên oán và cũng không nên buộc ông chồng phải
chú ý, phải nhúng tay vào những việc nhơ nhớp của cõi phàm, như lương đưa không
đủ nên nợ chưa trả được, con không được bố dạy dỗ nên học kém, ham chơi thành
đứa trẻ, như... Trong truyện vợ chồng chị Vách có nhiều chi tiết của chính vợ
chồng hắn, vợ hắn là chị Vách, còn hắn cũng không đến nỗi tệ như ông chồng của
chị, cũng là người có tiền và có danh nhưng cách đối xử với vợ thì chẳng sai
chút nào. Viết về người lại được dịp tự cười với mình nên câu văn vừa hoạt vừa
vui, viết rất nhanh, rất thoải mái, truyện Ðời khổ được bạn
đọc hoan nghênh ngay. Khi tới thăm động Từ Thức ở Nga Sơn hắn chỉ chú ý có gia
đình anh thương binh mù, còn bỏ ngoài tai cặp vợ chồng thần tiên Giáng Hương -
Từ Thức. Chuyện thần tiên là chuyện để giải trí còn chuyện cặp vợ chồng anh
thương binh là một biểu tượng của tính cách Việt Nam. Người chồng vì lòng kiêu
hãnh dám chấp nhận thử thách, người vợ vì lòng kính trọng người đàn ông mà chị
ngưỡng mộ tự nguyện bù đắp cho anh bằng một gia đình yên ấm mà chỉ riêng có một
mình chị phải gánh chịu mọi nỗi nhọc nhằn. Ðó là truyện Cặp vợ chồng
duới chân động Từ Thức. Rồi lại chuyện một bà hàng xóm, là người làm tương
ngon nổi tiếng còn sót lại của đất Cự Ðà, đòi lên Hà Nội để ẵm cháu đích tôn,
thành một bà vú già nửa quê nửa tỉnh, sống gượng gạo, giả dối, con dâu thì
lườm, con trai thì gắt vì bà không được sống đúng với nghề nghiệp của mình, với
môi trường của mình. Cũng như một người viết văn thì rất tồi nhưng làm công
việc quản lý, quản trị thì tuyệt giỏi, trong nửa năm cầm quyền đã thay đổi hẳn
bộ mặt cơ quan. Hãy múa võ trên mảnh đất của mình, chả ai dám tranh tài với anh
cả (Người của nghề). Lại có một chuyện nếu không phải là hắn cũng khó có
nhà văn nào nhận ra và viết được. Ấy là một người sống vì quá tôn trọng đồng
loại lại bị chính đồng loại khinh lờn. Cũng là chuyện của chính hắn khi thằng
con lớn bảo hắn sống bình dân quá, nói năng khiêm nhường quá, nói với ai, kể cả
với đám trẻ con cũng vâng cũng dạ nên hàng xóm đâm coi thường. Hắn nói:
"Sống tử tế, sống khiêm tốn người ta không thích à?" Nó cãi: "Ở
đời người ta thích được làm bạn với người giầu người sang chứ ai thích đánh bạn
với người hèn, người nghèo". Hắn cười: "Ai dám bảo tao hèn?" Nó
cũng cười: "Không hèn nhưng dáng điệu của bố lắm lúc cứ khúm núm thế
nào." Khoảng những năm 80 khi viết tiểu thuyết Ðiều tra về một cái
chết, đoạn viết về đội Trấn, một người theo đạo Cao Ðài đăng lính sang Pháp
tham dự thế chiến 2, được tặng huân chương, được thăng cấp đội, có lần qua Mã
Ðảo liền vào thăm hộ pháp Phạm Công Tắc đang bị quản thúc ở đấy. Năm ở nhà ông
Hộ pháp ngồi trên ngai rắn, giáo đồ quỳ dưới đại điện, cái khoảng cách ấy đã
gây uy, gây nghiêm cho người cầm đầu mối đạo, tạo nên những ấn tượng thiêng
liêng với giáo đồ. Ở nơi bị quản thúc ông hộ pháp cũng giống như mọi can phạm
chính trị khác, còn đội Trấn lại là người có công với nước Pháp, được đặc cách
tới thăm bạn tù thành thử ông giáo chủ hoá ra ông già bé nhỏ, tầm thường trong
cách nói, cách cười, cách hỏi han. Vầng hào quang bao quanh vị giáo chủ đã biến
mất thì lòng tin mê muội của giáo đồ cũng lập tức tàn lụi theo. Ðó là nguyên
nhân sâu xa cái chết bí ẩn của đội Trấn khi anh trở về toà thánh và được đức hộ
pháp cho trông nom cơ Thánh vệ. Ðội Trấn chỉ là một nhân vật hắn được nghe
thoáng qua khi trò chuyện với mấy người trong đạo. Còn lại là hắn bịa hết, bạn
đọc Cao Ðài viết thư hỏi hắn: "Ông viết rất đúng về Hai Trấn, ai kể cho
ông biết được những chuyện đó thế?" Chính hắn cũng không tự biết tại sao
hắn viết được thế, chẳng qua là đoạn trước mở lối cho đoạn sau, câu trước kéo
theo câu sau, hình ảnh gọi hình ảnh, câu chữ gọi câu chữ mà thành chứ còn biết
tại sao! Ðột nhiên lại nghe thằng con trách móc cách sống quá nhũn nhặn của
hắn, liền nhớ ngay tới ông Bột và câu chuyện buồn cười về cách đánh giá của đám
đông hình thành trong nháy mắt. Truyện ngắn Sống giữa đám đông đã
được viết như thế. Rồi chuyện về một bà cô tài sắc vẹn toàn mà một đời vất vả,
lúc trẻ thì vì chồng, về già thì vì con (Má hồng); chuyện về các bà chị
tiểu thư, sống đài các và cô độc trở thành các cô cấp dưỡng cho Sở Liêm phóng
năm cách mạng vừa thành công, và cái kết cuộc tầm thường chả nên thơ chút nào
của mấy bà (Ðã từng có những ngày vui); chuyện một ông anh đẹp trai, một
tiểu đoàn trưởng có tiếng thời Hưng Yên bị Pháp chiếm đóng vớ phải một bà vợ
lắm mưu, hám quyền thành một ông già tàn tạ lúc cuối đời... Nhiều chuyện lắm,
thì ra cái "thực tế" của đời hắn cũng đến là lắm chuyện và chuyện nào
cũng có thể viết được cả. Nếu so vốn sống thì hắn sống nhiều hơn, biết nhiều
hơn, từng trải cũng nhiều hơn và sống cũng lâu hơn, tuổi hắn gần gấp đôi tuổi
các ông Nam Cao, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, hắn chỉ thua các ông ấy về văn
thôi, vì đã không sinh được một nhân vật văn học nào có sức quyến rũ lâu dài
như Xuân Tóc Ðỏ và Chí Phéo. Thua xa! Mà thua là phải vì chúng là những đứa con
tinh thần của các thiên tài. Ðã nói tới cái tài trời cho là hết nói, hết lý lẽ,
nó mãi mãi là một bí mật mà không có nhà lý luận văn học nào phân tích được cái
cơ cấu huyền diệu của nó. Nó không có mẫu số chung, nó là muôn vàn cách, mỗi
thiên tài một cách riêng, cái tài ấy chỉ nảy sinh ở riêng con người ấy, có một
tiểu sử riêng như thế ấy. Ngưỡng mộ thì được, tò mò tìm hiểu thì vô vọng. Ðã
bảo nó là một bí mật của tạo hoá mà. Khi viết truyện ngắn Nghệ nhân ở
làng, người thì có thật, nghề phải học khoảng một buổi, chi tiết là của
nhiều người ghép lại, nhưng cái hồn của truyện là của riêng hắn, là một mơ mộng
táo bạo và vô vọng của chính hắn, ấy là lần tìm những bí mật trong sáng tạo của
các thiên tài. Nhà văn Stéfan Zweig, một tác giả viết nhiều tiểu sử các danh
nhân mà hắn rất mê đọc từ những năm hắn mới 30 tuổi, cũng có tham vọng y như
hắn, tìm hiểu những cơ cấu sáng tạo của các thiên tài. Ông này rất giầu, lại có
cái thú sưu tầm những bản thảo nổi tiếng của các nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ, giá
đắt bao nhiêu cũng mua. Từ những trang bản nháp với những sửa chữa, những gạch
xoá, những lấy lại, những thêm vào, ông lần mò những dấu vết dẫn đến những hình
tượng nghệ thuật bất hủ của các thiên tài. Chính ông cũng là một tài năng văn
chương lỗi lạc của châu Âu, có bạn bè là những tên tuổi sáng chói khắp các châu
lục, lại có lòng ái tài, hắn đọc của ông cũng được biết thêm nhiều lắm, hoàn
cảnh lịch sử, môi trường xã hội, tiểu sử cá nhân, những tình huống kỳ lạ mà các
thiên tài ấy phải đối mặt, những bức xúc bất thần, những nỗi đau, những đối
nghịch, những mơ mộng, những tuyệt vọng... tất cả đều được nghiên cứu tỉ mỉ, có
văn bản rõ ràng. Chàng sĩ quan công binh của binh đoàn sông Rhin, Rouget de
Lisle trong một đêm xuất thần của năm 1792 đã làm lời và nhạc bản quốc ca của nước
Pháp Marseillaise trong hoàn cảnh nào, sau đó ông ta lại sống
vô danh và nghèo khổ cho tới lúc mất. Ông là thiên tài của một đêm. Nhạc sĩ
thiên tài Ðức Haendel đã sáng tác bản thánh ca Le Messie trong
tâm trạng ra sao vào lúc cuối đời. Và Dickens với cuốn tiểu thuyết đăng nhiều
kỳ trên báo Những cuộc phiêu lưu của ông Pickwick. Rồi cái thế giới
đen tối đầy những đối nghịch của Fédor Dostoiewski. Một nhà quý tộc muốn được
làm người bình dân, một đời khắc khoải vì sự tự hoàn thiện, Léon Tolstoi. Ông
Zweig không chỉ tìm hiểu những giây phút ngây ngất của hân hoan, của tự do, làm
bùng cháy ngọn lửa sáng tạo mà còn cả những giây phút đen tối nhất, ảm đạm nhất
của tấn bi kịch tới hồi kết thúc của Marie Stuart, của Marie Antoinette, của
Napoléon, của Fouché. Ðại để là những giây phút có sức nặng của một nhân loại,
mãi mãi gây hứng thú tìm hiểu, ngõ hầu có thể nhận ra trong thoáng chốc cái
huyền cơ của tạo hoá. Ðọc thì vui chứ cũng chả hiểu gì thêm cái mà mình muốn
hiểu. Bởi vì từ ngày mới cầm bút cho tới tận hôm nay hắn vẫn thắc mắc những
công việc có tính chuyên môn, tính kỹ thuật để tạo dựng các nhân vật bất tử
Xuân Tóc Ðỏ, Chí Phèo. Hình như không có kỹ thuật gì, không có bí mật gì, vẫn
là chuyện đời, chuyện tai nghe hàng ngày, mắt thấy hàng ngày, quen cả, rất quen
của vô vàn tính cách Chí Phèo, Xuân Tóc Ðỏ khi các biểu tượng điển hình của nó
chưa xuất hiện. Có điều trong đời thường thì nó nhạt nhoà, thô lậu, tản mát, có
chất liệu nhưng chưa có hình thù, chưa có tên gọi, sống lẫn với mọi người hoặc
ngay trong một người, khi nhận ra thì người ta chỉ buông một câu chửi: đồ lưu
manh, quân mất dạy, thằng ăn vạ! Thế là xong. Nhưng bây giờ thì những tính cách
ấy đã có tên gọi hẳn hoi, có hình thù hẳn hoi để thiên hạ có thể chỉ tay day
mặt, có thể chế giễu, lên án và cũng nhận ra cả sự bất lực để loại bỏ cái nòi
giống ấy ra khỏi cộng đồng. Hắn tin rằng ngay các cha đẻ của chúng cũng không
thể ngờ mình đã sinh ra những đứa con quỉ quái bất tử, chỉ là viết trong một
lúc hết sức sảng khoái, viết để đùa giỡn, viết để trả thù mọi sự bất công ở
đời. Viết để chửi đời qua miệng một thằng lưu manh mới sướng, mới hả. Nó càng
nói những câu ngây ngô, ấm ớ càng khoái. Dùng Xuân Tóc Ðỏ để chửi cái xã hội
nhố nhăng là tuyệt nhất. Cũng như dùng Chí Phèo để chửi cái đám hương lý kỳ hào
bẩn thỉu mà hống hách, chửi thẳng mặt, không cần che giấu cũng thật hết ý. Viết
cho hả giận, cho bõ uất. Chính là cái giận cái uất lâu ngày lại nhân gặp một
chuyện thương tâm, hoặc một chuyện vô lý rót thêm vào lập tức bùng cháy thành
lửa xanh và cả một thế giới tưởng tượng với hình thù, câu chữ loé sáng, lung
linh như hiện ra cho mà viết, như đọc lên cho mà viết, viết như mê đi, như
nương theo một chỉ dẫn nào đó, người viết thành công cụ được điều khiển từ rất
xa, từ rất sâu, viết mà cũng không biết mình đang viết những cái gì. Người ta
thường gọi trạng thái khác thường ấy là xuất thần, vừa là mình vừa không phải
là mình. Hắn chỉ tiếc Vũ Trọng Phụng mất năm còn quá trẻ, môi trường sống quá
hẹp, cái biết về các tầng lớp phía trên còn quá ít nên không dám để Xuân Tóc Ðỏ
dấn bước tiếp những cuộc phiêu lưu mới, mà cái thằng lưu manh ấy cũng đã đủ
lông cánh để lao vào những trò chơi có tầm vóc lớn hơn rồi. Tức là hắn muốn
Xuân Tóc Ðỏ phải được trúng cử vào nghị viện thành nghị sĩ, từ đó mà được giao
tiếp với những "týp" người còn vô lý hơn nhiều, buồn cười hơn nhiều,
là cái thế giới quan lại của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Chắc chắn sẽ
lại là một cuốn sách rất hay (Số đỏ quyển 2 chẳng hạn), viết về
cuộc phiêu lưu của một tên bất lương vào cái thế giới bất lương của các chính
khách ở xứ này trước năm 1945 để bạn đọc có dịp được cười thật thoả thuê, cười
đến nghẹn thở. Nếu viết được thế thì Số đỏ sẽ trở thành một
kiệt tác của thế giới mất.
Hình như hắn đang dò tìm những lối đi đã bị xoá sạch của một tác phẩm nổi tiếng
của văn chương Việt Nam thì phải. Cũng là bàn suông thôi, chứ tài cán như hắn
làm sao dám mon men tới cái lãnh vực siêu nhiên ấy. Nhưng có một sự thật là hắn
muốn có được cái công thức làm nên sự bất tử, cái công thức huyền bí của những
người gọt tượng xưa có thể khiến các pho tượng gốc sống lại và trò chuyện rì
rầm mỗi đêm, những pho tượng đã trở thành linh vật tại các đền, phủ, chùa, miếu
của một thời. Ðó là cái ước ao kiêu ngạo của một anh thợ đục đẽo tượng gỗ ở
làng, và cũng là một ao ước vô vọng của chính hắn. Truyện viết thì giản dị,
khiêm tốn nhưng ý tưởng chứa đựng bên trong là sự day dứt khôn nguôi. Chả hiểu
bạn đọc có cảm nhận được những điều không thể nói của hắn không?
31.
Những năm 90 hắn đã có bạn đọc ở thành phố Hồ Chí Minh, nhiều tờ báo lớn
yêu cầu hắn gửi truyện ngắn, bút ký, tạp văn cho trang văn hoá văn nghệ của
báo. Cứ mỗi tờ nuôi hắn một dạo, thoạt đầu là báo Tuổi trẻ, rồi
báo Lao động, rồi báo Công an thành phố, khi Tạp
chí Văn hoá Văn nghệ của Bộ Công an ra mắt bạn đọc hắn lại
được mời viết bài thường xuyên. Ðó là những tờ báo có nhiều bạn đọc, ban biên
tập biết lấy con mắt xanh đối đãi với người cầm bút nên trả tiền nhuận bút rất
hậu. Hắn đến với các tờ báo ấy như một thành viên của toà soạn, ấm áp, tin cậy,
cười nói thoả thích như thời đang sống ở tạp chí Văn nghệ Quân đội của
những năm 60 và nửa đầu những năm 70. Cái không khí bạn bè trong nghề trọng
nhau, tin nhau đã giúp hắn giữ được ngọn lửa của tuổi trẻ, của người trong
cuộc, tham gia vào cuộc tranh luận âm thầm về sự lựa chọn những cách sống về
những giá trị mãi mãi còn nguyên vẹn đã làm nên tính cách Việt Nam. Thành phố
Hồ Chí Minh và các báo của thành phố đã nuôi hắn cả phần xác phần hồn để hắn có
thể bước vào một thời kỳ sáng tác mới hào hứng, sôi nổi như những năm hắn mới
có ba mươi tuổi. Có Tết hắn có truyện ngắn đăng trên bốn tờ báo của Hà Nội và
của thành phố, còn trong kia thì hầu như tháng nào hắn cũng có bài không của
báo này thì báo kia. Mãi mãi hắn biết ơn những người bạn mới quen biết của
thành phố, bạn trong nghề và bạn khác nghề bằng những chăm sóc rất thiết thực,
rất chân tình đã giúp hắn giữ được niềm tin, niềm vui và rất nhiều hy vọng để
hắn có được những năm tháng đầy ắp những ý tưởng mới mẻ, chủ đề mới mẻ, cách
viết mới mẻ, để có thể ngày nào cũng được viết những trang văn mới, đã sang
tuổi 60 lại được tái sinh thành một cây bút trẻ, càng viết càng tự khám phá
những vỉa mạch còn nguyên sơ chưa có thì giờ đụng chạm đến. Về già hắn vẫn được
sống trong hồi hộp, trong hy vọng của người đang tiếp tục cuộc chiến với chữ
nghĩa khi thắng khi thua, khi vui khi buồn, không ngồi không ngày nào, không để
đầu óc rảnh rỗi ngày nào, sống vội hơn, viết cũng vội hơn vì hắn có thể sai
khiến cái đầu nhưng không thể sai khiến trái tim của hắn, xem chừng mỗi ngày
một mệt mỏi hơn, uể oải hơn và hình như đã muốn xin được nghỉ ngơi hoàn toàn.
Nếu như hắn có trái tim của người ba mươi tuổi nhỉ, không chừng hắn sẽ tìm ra
nhiều bí mật của cái nghề cầm bút cũng nên.
Sau ngày về Tó, được trò chuyện với Ngô Thì Trác thuộc con cháu
dòng đích của Ngô Thì Nhậm, hắn thay đổi hẳn lãnh vực quan tâm, không phải là
trái cây, thân cây mà là bộ rễ cây, vùng đất ươm trồng của cây, là cái đống nhờ
nhờ, hỗn mang, chưa có hình thù mầu sắc gì cả. Là một Ngô Thì Trác, đã bốn chục
tuổi đầu mà chả có một ham mê gì, một khuynh hướng gì về chính trị, văn chương
ngoài việc mưu sinh, việc kiếm tiền, sáng lo việc sáng, tối lo việc tối, với
những mong ước gần, những hy vọng gần, môt người bình thường với những công
việc bình thường, là cái cõi nhân gian bé tí, nhờ nhờ mà hắn đang sống, vợ con
hắn đang sống, lại không đáng để hắn viết sao, lại không có một nghĩa lý gì
sao?
Ở thành phố Hồ Chí Minh lắm lúc hắn rất nhớ Hà Nội, nhớ các mùa của Hà Nội, các
đường phố của Hà Nội, nhớ bãi Phúc Xá và những mùa lụt lên ở nhờ cơ quan, nhớ
lúc lấy vợ, lúc sinh con, nhớ cái năm con đã lớn mở khoá dây lưng kêu lách cách
và dựng xe đạp ở một góc sân cùng với bạn bè. Mỗi ngày nhớ một tí, lúc rảnh rỗi
lại nhớ, đêm nằm khó ngủ cũng nhớ. Nhớ cả những tiếng rao quà lúc hắn còn nhỏ ở
Hà Nội, tiếng rao xôi lúa lúc tờ mờ sáng ở phố Hàng Bún, tiếng rao phở đêm ở
ngõ Hăm Bốn Gian, tiếng rao cháo đỗ xanh chè đỗ đen các trưa hè dọc phố Huế.
Hắn còn nhớ cả cái xe thùng có vòm mui sơn vàng, ngựa kéo, bán bánh mì nóng với
miếng chả trâu rắc muối tiêu kẹp giữa mỗi sáng mùa đông ở phố Sinh Từ năm hắn
mới sáu, bảy tuổi. Bạn bè, người thân, những kỷ niệm của một thời ấu thơ, một
thời thanh niên, của mọi sự bắt đầu của một đời người, trong xa cách, trong nhớ
nhung bỗng hiển hiện hết sức rõ ràng trong một vùng sáng nhạt hơi mờ ảo của
hoàng hôn, gần như đã tãi hết lên trang giấy, chân dung, ngôn ngữ, hình ảnh còn
đọng lại, chi tiết đã được năm tháng lưu giữ, tất cả đã sẵn sàng chỉ còn đợi
hắn cầm bút tô lại, viết lại... Hắn mở đầu các truyện viết về Hà Nội bằng Một
người Hà Nội rồi Tiền, rồi Danh phận, rồi
đến Ðã từng có những ngày vui, Chị Mai... đội ngũ những gương mặt
thân quen đồi được viết, đòi được nói cứ dài dần mãi ra nhốn nháo, chen chúc.
Một nữ luật sư kiêm nghệ sĩ dương cầm, một cặp vợ chồng tài tử giai nhân chồng
đạo diễn vợ diễn viên là kỷ niệm về một Hà Nội vừa được giải phóng. Viết về ông
Kim Lân đã thấy thấp thoáng bóng ông Trọng Hứa đứng phía sau, hai ông có gương
mặt và vóc dáng nhìn xa rất giống nhau, và cũng vì sự nhầm lẫn tai hại ấy mà
ông Trọng Hứa giận hắn cho tới ngày mất. Viết về người Hà Nội hôm nay lại nhớ
đến người Hà Nội của ngày xưa, tất nhiên người của hôm nay quyến rũ hắn hơn
nhưng khi họ trò chuyện với hắn, thậm chí còn chửi hắn một cách oan uổng thì
hắn lại sợ cái hôm nay quá, cái hôm nay trơ tráo, trắng trợn, có thể nói bất cứ
câu gì, làm bất cứ chuyện gì nếu không có những ràng buộc của một Hà Nội kinh
kỳ ngày xưa ngăn giữ lại. Hắn đã trải lòng ra gần hai năm trời, lúc nghỉ lúc
viết, ngoài những chuyến ra Hà Nội để "nạp thêm năng lượng" mới, hắn
không đi đâu cả, không nghĩ gì khác để khỏi làm loãng những mơ mộng của hắn
đang dồn về một vùng kỷ niệm, về những con người đang lùi dần vào quá khứ mỗi
năm mỗi xa hơn, một mờ dần. Chính hắn cũng đang lùi dần vào quá khứ bằng cái
thái độ dửng dưng như đã tách ra, đã thoát ra những tin tức, những trao đổi của
bạn bè, của con cái về những thay đổi này khác trong giới quan chức nhà nước,
về nền kinh tế thị trường với vô vàn chuyện hay và chuyện không hay của nó, về
đầu tư và hội nhập, về những triệu phú đô la mới của Hà Nội và những cuộc phá
sản hết sức thương tâm ở các thành phố lớn... Tất cả những chuyện lớn chuyện
nhỏ cứ rì rầm như mỗi lúc một xa dần đi, nhỏ dần đi, chả còn một chút quan
trọng nào nữa. Tức là hắn sắp trở về với hư vô rồi, để hoà nhập vào cái khối
hỗn mang không hình, không sắc của trời đất. Nếu tính từ truyện ngắn đầu
tay Ra ngoài được in trên tạp chí Lúa mới của
Chi hội Văn nghệ liên khu 3 năm 1950 thì hắn đã có trên năm chục năm trong nghề
gấp gần năm lần tuổi nghề của Vũ Trọng Phụng, gấp hai lần tuổi nghề của Nam
Cao, cái gì cũng hơn hai ông anh cả, thời thế tiểu thuyết hơn, bạn bè đông đảo
hơn, đi nhiều hơn, biết nhiều hơn, thời gian để viết cũng nhiều hơn, lại được
nhà nước cho nhà, chữa bệnh và nuôi ăn cả đời mà những đứa con tinh thần lại
yếu đuối còi cọc, đi mới được nửa cuốn sách đã chân nọ đá chân kia, mặt mũi méo
mó, ăn nói chẳng đâu vào đâu, không còn ra cái giống người, cái ngữ ấy có chết
non chết yểu cũng là đáng. Là làm sao thế nhỉ? Còn sao giăng gì nữa! Là do hắn
kém tài so với các bậc đàn anh, chứ nếu có được cái tài như hắn mong muốn thì
thiếu gì cách để tạo ra những hình tượng nghệ thuật có thể chuyển tải toàn bộ
tư tưởng của hắn tới bạn đọc. Kém tài là cái chính nhưng cũng còn có những quan
niệm chưa chuẩn xác về các chức năng của nghệ thuật một thời; về sự thiếu niềm
tin của bạn đọc vào lòng yêu nước và khuynh hướng cách mạng bẩm sinh của các
nghệ sĩ nên hay nghi ngờ, hay bắt bẻ; về tính ganh ghét giữa các tài năng nhỏ
với các tài năng lớn nên hay bày ra những chuyện ngoài nghệ thuật để hãm hại
nhau; có cả sự thiếu bao dung, thiếu thông cảm của những người làm công tác
quản lý nghệ thuật với những cá tính bất tuân, ngang tàng của một vài tên tuổi
lớn, mà theo hắn, họ làm thế chẳng qua để trêu chọc cho vui, để làm giai thoại
trong giới, chứ bản chất các nghệ sĩ có tài lớn là hết sức hiền lành, hết sức
chất phác, họ là một với tiến bộ, phát triển chứ chưa bao giờ là vật cản. Và
còn một điều này nữa, mỗi lần nghĩ đến hắn lại bật cười với chính mình, vì cái
lỗi này phải chia đôi, nhà nước chịu một nửa, các nghệ sĩ chịu một nửa. Ấy là,
chế độ mới với tấm lòng ưu ái hơi quá mức đã biến các nghệ sĩ của mình thành
một tầng lớp viên chức với tham vọng viên chức, ganh ghét viên chức, tính toán
viên chức, là các viên chức nhà nước lúc thâm nhập thực tế, lúc sáng tác, lúc
quan hệ với nhau, chả giống tí nào với cách sống cách viết của các bậc tiền bối
trong nghề những chục năm đầu của thế kỷ. Và những vui buồn, lo lắng của giới
viên chức càng không giống với các nhân vật văn học của họ. Các nhân vật đều
phải tự nuôi mình còn các nghệ sĩ đều được nhà nước nuôi. Giữa những người tự
nuôi và những người được nuôi có một khoảng cách xa lắm, chả lẽ thương vay khóc
mướn mà làm được tác phẩm nghệ thuật lớn sao? Chuyện văn chương của hắn tới đây
cũng nên chấm dứt. Hắn phải trở lại câu chuyện gia đình của hắn, chuyện vợ
chồng hắn, vì những oan ức đó mà hắn có nhu cầu tự nhìn lại mình và viết nên
cuốn sách này. Từ năm hắn được một lúc hai giải thưởng văn học lớn đã nghĩ vợ
con sẽ rất vui vì được làm vợ làm con một người nổi tiếng, nào ngờ lại là điểm
bắt đầu của một tấn bi kịch gia đình hết sức vô lý và buồn cười. Trong sự
nghiệp của hắn có tới một nửa là của vợ, vậy mà trong lời phát biểu với báo chí
hắn chỉ nói tới thời thế và bạn bè, chả đả động một tí gì tới người bạn đường,
người cộng tác, người chịu phần vất vả nhất của một gia đình để hắn có một nơi
trú ngụ ấm áp, êm ái, yên tâm ngồi viết. Xưa nay nhiều nhà văn chả được bất kỳ
giải thưởng nào vẫn nghĩ được ra vô vàn cách để tưởng thưởng công lao cho vợ
mình. Lẽ ra khi đi nước ngoài nhận giải thưởng hắn phải dành hẳn một số tiền,
cũng chả nhiều lắm, mua một món quà có giá trị tặng vợ. Ðằng này hắn chả mua gì
cả, đưa phong bì tiền cho vợ, nói một câu: "Bà xem có đứa nào cần tiền thì
cho nó một ít". Vợ hắn nín thinh, mặt lạnh ngắt, lúc nào cũng nghĩ đến
con, không có vợ mà có được con sao? Có lần đi họp ở nước ngoài với ông anh Tô
Hoài thấy ông chọn lựa mua sắm rất nhiều thứ cho vợ hắn đã cười thầm: "Ông
này sống cũng Tây nhỉ?" Tây là thế, còn Ta thì sao? Người đàn bà sống với
mình là vật sở hữu của mình việc gì phải chiều chuộng nịnh bợ. Ngẫm cho cùng bố
hắn bỏ mẹ hắn như vứt cái áo cũ cũng có cái lý của nó, dòng họ hắn chưa bao giờ
tôn trọng thật sự người đàn bà trong gia đình cả. Xưa nay đi họp ở nuớc ngoài
về hắn chưa hề mua một món quà nào đáng giá để tặng vợ, thuở trẻ có thể bỏ qua,
về già đối xử với nhau thế ắt hẳn muốn ruỗi nhau ra chứ gì. Nên vợ hắn phải tỏ
cho hắn biết hắn muốn bỏ vợ cũng không dễ đâu. Tất nhiên ở thời buổi này người
đàn ông bỏ vợ cũng nhiều mà chả có điều tiếng gì, là quyền tự do cá nhân, luật
pháp nào can thiệp được. Miễn là được các con bằng lòng, miễn là người bố không
được đụng chạm đến tài sản đang có của gia đình. Từ nay ông có ốm đau, đi nằm
bệnh viện, rồi chết, rồi ma chay đã có bà vợ mới lo, các con bà vợ mới lo, còn
bọn chúng sẽ đứng ngoài, vừa bớt được một người già phải chăm sóc, lại vừa được
tiếng sống rất tân tiến, rất hiện đại. Cho nên vợ hắn phải ngăn chặn hắn từ lúc
chỉ mới có ý định, mới bắt đầu chán gia đình, chán vợ con. Những tháng đầu hắn
phản ứng rất quyết liệt những lời buộc tội vô lý đó, hắn không thế tại sao lại
dám nói thế. Tiếng gầm thét của hắn bộc lộ sự tức giận của một ông chủ, ông chủ
đã hy sinh một đời cho gia đình thì vợ con (một thứ tôi tớ tự nguyện) phải biết
ơn ông chủ, không được phép nghĩ sai, hiểu lầm. Hiểu lầm là có tội. Ðã thế vợ
hắn cũng chứng tỏ cô ta ngờ vực chồng là có chứng cớ. Chứng cớ nào, tôi không
làm những chuyện vớ vẩn đó làm sao có chứng cớ! Vợ hắn nói thủng thẳng là có,
có nhiều. Ví như mỗi lần có chuông điện thoại, vợ chưa kịp cầm thì chồng đã
nhao lại cầm vội lấy không có ý gian làm sao phải vội vã thế? Nói điện thoại
thì nói thầm thì, rồi cười khùng khục đầy khoan khoái, trai gái nói với nhau
mới có vẻ mặt ấy, giọng cười ấy, đừng có chối, tôi sống với anh gần năm chục
năm tôi lại không biết! Ðứng ở cửa nhà mà nhìn ra ngoài đường vợ hắn cũng cằn
nhằn, rồi nói rất thiểu não: "Anh đừng nhìn đàn bà con gái đi ngoài đường
đắm đuối như thế, tôi khổ tâm lắm". Hắn có tật nhìn hiếng, xem tivi mắt cứ
như nhìn ra đường, vợ hắn cũng nói buồn bã: "Anh đợi ai mà nhìn ra ngoài
nhiều thế?" Mỗi lần có bạn đọc, bạn viết là đàn bà con gái tới nhà là hắn
chết khiếp, nếu lại vớ phải một bà bạn có tính hay đùa thì địa ngục nứt ngay
dưới chân liền. Thậm chí hắn đi ăn sáng, uống cà phê sáng, vợ hắn cũng đứng ở
cửa chờ, lại hỏi: "Anh đi những đâu mà lâu thế?" Có lúc lại căn dặn:
"Bây giờ bệnh Siđa đầy rẫy, anh phải cẩn thận". Rồi lục tìm ví tiền:
"Tiền bữa nọ còn nhiều thế tiêu những gì mà đã hết rồi, tôi bảo, có ra
ngoài cũng chỉ nên cầm năm chục, một trăm, chứ cầm nhiều là bọn gái điếm có lột
hết". Cứ như hắn đã biến thành một kẻ cuồng dâm, thấy đàn bà là lao lại,
bất kể sáng tối, vắng người hay đông người, cứ như mọi ngõ ngách đều có nhà
chứa, có thể chui vào đó làm mọi chuyện bậy bạ trong vòng dăm mười phút ai biết
đấy là đâu. Hắn quát: "Sao lại không ai biết, hàng xóm láng giềng biết,
các con biết, tôi biết. Tôi sống đốn mạt thế còn dám nhìn mặt con cái à?"
Trong hai năm trời gần như ngày nào hắn cũng phải nổi điên vài lần, da mặt lúc
đỏ lúc tím, huyết áp lên một cách khủng khiếp, sáng tối đều uống thuốc hạ huyết
áp mà mặt vẫn nóng phừng phừng, đầu nhức như búa gõ. Hắn đã nghĩ đến chuyện bị
tai biến mạch máu não, sẽ là một đống thịt nằm vài năm rồi mới được chết, chả
lẽ đến lúc đó vợ hắn mới chịu buông tha hắn sao? Chả lẽ hắn phải uống một liều
thuốc ngủ rồi tợp thêm một ly rượu mạnh để kết thúc cho nhanh những ngày khốn
khổ cuối đời này. Hắn tâm sự với các con về cái cảnh ngộ không thể lường trước
và cả ý định sẽ tự kết thúc sự sống của mình, thì đứa lớn cười, đứa nhỏ cũng
cười như chúng vừa được nghe một chuyện hết sức kỳ quái, hết sức buồn cười.
Thằng lớn nói: "Bố nghĩ là đã chuẩn bị mọi chuyện chu đáo để được sống mấy
năm yên ổn lúc cuối đời nhưng lại quên mất mẹ, đúng không nào? Một người như mẹ
làm sao có thể gây phiền cho bố đuợc, phải không?" Nó đã bốn mươi tuổi,
cũng là đứa chịu đọc, chịu nghĩ, chắc nhận xét của nó cũng không đến nỗi vô cớ.
Thằng nhỏ ăn nói bỗ bã hơn: "Trường hợp của bố cũng là hiếm đấy, ra ngoài
bố được đẩy lên tận mây xanh, về nhà lại bị bà vợ kéo xuống tận đáy vực".
Con gái cũng cười: "Chả ai ở đời được hoàn toàn mãn nguyện cả, được cái
này thì mất cái nọ, cũng là lẽ công bằng". Thằng lớn lại nói tiếp:
"Thà để mẹ kéo bố xuống bùn còn hơn để người khác kéo. Mẹ kéo thì còn gỡ
được, chứ người khác kéo thì hết gỡ". Thằng nhỏ nói: "Ðã lên cao thì
phải chuẩn bị có ngày xuống thấp, xuống thấp trong nhà chả hơn à? Câu trên là
bố vẫn nói, còn câu sau là của con". Ðúng, chính hắn đã từng nói như thế,
chuẩn bị như thế, chỉ không ngờ cái người kéo hắn xuống lại chính là "kẻ
nô lệ một đời" của mình. Cũng là sự trừng phạt xứng đáng thôi, ở đời chả
có sự ngông cuồng nào lại không bị trừng phạt, chả có sự mãn nguyện nào lại
không phải trả giá, chỉ có điều cách trả giá và cái lúc phải trả giá thì luôn
luôn bất ngờ, một người luôn canh chừng bản thân như hắn cũng phải bàng hoàng
mất gần hai năm vì những sự việc không thể tính trước.
Và hắn bắt đầu viết, do một như cầu tự giải thoát mà hắn viết.Viết lại một
truyện dài cũng là một bất ngờ nữa, vì đã mười năm nay hắn không nghĩ là hắn
còn viết được truyện dài. Nay hắn cần viết một truyện dài là để có thì giờ ngẫm
nghĩ về tất cả, có công việc phải bận bịu, phải lo lắng sẽ bớt đi những bực bội
của một tuổi già thiếu may mắn. Và càng ngẫm nghĩ về mình hắn càng nhận ra
những lầm lỗi trong cách ăn ở với bạn bè, với vợ con. Thì đã có lúc nào hắn
thật quan tâm tới cái phần máu thịt đã cùng lo lắng, buồn vui suốt mấy chục
năm. Không để ý tới họ thì họ chỉ như những thực tế đơn giản, vô tri, chỉ biết
làm theo sự chỉ huy của một người chồng, một ông bố rất có trách nhiệm với vợ
con nhưng lại buộc họ phải hoàn toàn phụ thuộc vào những quyết định lớn nhỏ của
mình. Họ không có cuộc sống riêng sao, không có những yêu ghét tính toán và
những hy vọng của riêng họ sao? Trách nhiệm của chính nhà văn là phục vụ con
người, là bằng tài năng của mình tháo bỏ mọi tín điều, mọi trói buộc để con
người được nghĩ ngợi tự do hơn, hành động tự do hơn, để họ có thể huy động toàn
bộ ý chí và năng lực của họ vào cái sự nghiệp mà họ đang ấp ủ. Cái đó gọi là
nghệ thuật phục vụ nhân sinh. Cho nên người cầm bút do chức trách của nó bao
giờ cũng là một chiến binh tình nguyện của cuộc đấu tranh cho quyền tự do và dân
chủ của con người, từ gia đình mình trở đi. Chứ ai có thể ngờ người chiến sĩ
của dân chủ lại là tên độc tài trong gia đình. Và hắn đã bị những tên "nô
lệ về tinh thần" trừng phạt lại một cách đích đáng cũng là điều dễ hiểu.
Càng viết hắn càng thấy nhẹ nhõm, càng thấy buồn cười vì cái cảnh ngộ trớ trêu
của mình. Hắn đã biết tội và vui vẻ nhận sự trừng phạt, dầu rằng sự trừng phạt
ở ngay nơi trú nấp cuối cùng là hết sức khó chịu, là rất khó chấp nhận. Có thể
nhận tội với xã hội rồi chạy về trú nấp ở gia đình. Xã hội nhiều người lắm
việc, không ai có thì giờ nhìn chăm chú mãi một người, chỉ quan tâm có lầm lỗi
của một người, cộng đồng vốn mau quên cả công lẫn tội. Nhưng trong một gia đình
mọi người nhìn nhau chằm chằm từ sáng đến tối, chả quên cái gì, và có thể nhớ
từ đời này qua đời nọ nên rất khó chịu. Khó chịu ở gia đình lại không thể tìm
ra nơi trú nấp nào khác ngoài nhà nhân tình, tiệm hút, sòng bạc, đó là chuyện
ngày xưa. Còn bây giờ có một số ông chồng trong giới viết văn từng chạy trốn
gia đình bằng các cuộc phiêu lưu vặt, gọi là đi thực tế và các trại viết dài
ngắn, đi mãi cũng phải về, chả giải quyết được gì. Còn hắn, hắn chạy trốn vào
trang giấy, hắn đã trốn vào đó nhiều lần, mỗi dòng viết phảng phất như một lời
thú tội, vừa viết vừa điều chỉnh lại cách sống của bản thân bằng những cách
sống dũng mãnh hơn, phóng khoáng hơn, nhiều nghị lực hơn của các nhân vật hắn
ngưỡng mộ. Hắn sống tốt hơn, thông minh hơn, có thêm nhiều người thương, bớt đi
những người ghét hoàn toàn là nhờ vào những trang viết từ trẻ đến già. Một đời
người đi rồi viết, năm này qua tháng khác, chả chơi bời gì, chả có lúc nào thử
quên đi cái nghề của mình, cái nghiệp của mình, làm người hoàn toàn tự do với
những nhu cầu bẩm sinh của con người, hồn nhiên, ngu muội, mắc lầm lỗi giống như
mọi người, nhiều lần thất bại như mọi người, có nghĩa là được chìm nổi cùng với
thiên hạ chứ không chỉ biết vui buồn trên trang giấy, phiêu lưu, thành bại trên
trang giấy. Sống thông qua số phận các nhân vật của mình đâu phải là đã sống,
không sống đến triệt để, đến tận cùng làm sao viết được những câu văn đời
người, mãi mãi còn gây thắc mắc cho nhiều thế hệ bạn đọc. Một nhà văn thành
công một đời chưa hẳn đã là thành công, chỉ là một viên chức nhà nước với những
thành công vặt vãnh trong cái nghề của anh ta, trong phòng giấy của anh ta, một
thứ văn chương giống như đời người mà chưa hẳn là đời người, một đời người chỉ
cần một trăm trang sách, là máu, là nước mắt một đời trút vào đó, chứ máu đã
bôi lên vài ngàn trang sách lại là máu loãng rồi, máu pha nước lã rồi, máu nhân
tạo rồi. Thành công của hắn có thể chỉ là thành công giả, còn những khốn khó
của vợ để gìn giữ sự yên ấm của một mái nhà lại là những khốn khó có thật, khốn
khó sinh con, nuôi con với bao nhiêu vất vả lo lắng, chạy vạy của nhiều năm
trong chiến tranh, lại nhiều năm tháng trong một thứ hoà bình phấp phỏng, trong
vô vàn thiếu thốn, thiếu gạo, thiếu thịt, thiếu sữa, thiết bột ngọt, thiếu vải,
vải đen may quần cho vợ, vải đẹp và mềm cho các con, thiếu cả kim chỉ, mỗi lần
mua được một thứ thiếu sau bao nhiêu mưu mẹo, nhờ vả, giành giựt, vợ hắn đạp xe
về, ôm hàng về, mặt tươi rói từ ngoài cửa: "Mua được rồi, vừa vặn đến mình
là hết!" Ðó cũng là thành công, thành công trong cuộc sống khó khăn của
mỗi ngày, thành công đó chả có bằng khen, phần thưởng, huân chương, huy chương
nào ngoài vẻ mặt rạng rỡ của chồng, cái cười rất tươi của chồng, và một câu nói
dịu dàng, hàm ơn: "Vất vả cho em quá thôi, thế là anh đỡ lo hẳn rồi... các
con đang thiếu, nhà mình đang thiếu..."
Hắn hãy nhìn kỹ lại vợ đi, nhìn chăm chút một lần thử coi, sau hơn bốn chục năm
phục vụ cho sự nghiệp của chồng được xem là thành công vào lúc này nhưng ai mà
biết được những bạn đọc chục năm tới sẽ đánh giá như thế nào! Còn vợ hắn từ một
cô gái nông thôn hơi ngây ngô nhưng mà đẹp, cái đẹp khoẻ mạnh của đồng ruộng đã
sinh cho hắn những đứa con thông minh, tháo vát và ngoan, thích ứng được với
cuộc sống hôm nay, đã là một bà già đi lại lom khom, tóc bạc quá nửa, cái nhìn
bạc phếch ngơ ngác trên một gương mặt đã nhỏ đi rất nhiều, đã héo lại, đã khô
lại với màu da vàng nhạt, với nhiều vệt xám ở má ở thái dương, chỉ có hàm răng
là vẫn đều như xưa, vẫn trắng như xưa, vẫn nhận ăn phần xương của gà của cá,
nói thì thào với chồng: "Ðể tôi ăn xương cho, ông ăn phí lắm!" Vậy
còn muốn dành lại cho ai nữa mà vẫn sợ ăn tiêu phí phạm, con cái đã có nơi có
chốn cả rồi. Nghĩ tới đó nước mắt hắn tự nhiên ứa ra. Vợ hắn nói: "Mấy
tháng nay ông thay tâm đổi tính làm tôi cũng lo". Hắn cười: "Làm
người chồng tốt hơn cũng lo à?" - "Lo chứ, lúc sắp xuôi tay là hay đổi
tính lắm" - "Năm nay tôi đã bảy mươi ba rồi, có chết cũng là tận số,
không còn chết non chết yểu gì đâu!" - "Cả đời mãi đến lúc này mới
được an nhàn một chút, ai muốn chết sớm!" Hắn đùa: "Bà giam tôi như
giam tù cả mấy năm tôi còn muốn sống thêm làm gì". Vợ hắn nhìn hắn bằng
cặp mắt nhăn nhúm, mờ đục: "Ông cứ sống như ý ông thích, ông đừng có bỏ
tôi là được".
Hắn lắm lấy bàn tay chỉ còn da với xương của vợ, ngồi nhìn lặng
một lúc lâu, rồi bảo: "Những thứ bà giúp tôi đều là những thứ giá trị
thật, mãi mãi không thay đổi, còn những gì tôi cống hiến cho đời như tôi thường
nghĩ, đến lúc này tôi lại phân vân không rõ nó có là giá trị thật như những gì
bà đã cho bố con tôi không?"
Hết
Nguồn: Tạp chí Nhà Văn, Hà nội 2003
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét