Đức Phật trong lịch sử
(Phần
IV)
TRỞ LẠI URUVELÀ
Lý do đức Phật muốn viếng thăm nơi ngài
thành Ðạo một lần nữa là đến thuyết Pháp cho những gia chủ đã có lòng cúng dường
ngài thực phẩm khi ngài còn là nhà tu khổ hạnh. Kinh Tạng Pàli tường thuật một
cuộc hành trình tuyệt đẹp của ngài trên đường trở lại nơi ấy, chuyện này được
xem là đã diễn tiến trong khu rừng Kappàsiya.
Trong khi đức Phật ngồi nghỉ dưới một gốc
cây, một đám thanh niên nhốn nháo, rõ ràng thuộc giai cấp sang trọng, chạy đến
hỏi ngài xem ngài có nhìn thấy một nữ nhân chạy ngang qua đó chăng. Ðám ấy giải
thích rằng họ gồm ba mươi người đến khu rừng này cùng các cô vợ để vui chơi.
Một người trong bọn còn độc thân, đã
mang theo một kỹ nữ. Bọn họ đuổi theo tìm nàng ấy vì nàng đã trộm tài vật của họ
và chạy trốn mất.
Ðức Phật hỏi: “Này các nam tử, chư vị nghĩ thế nào? Ði
tìm nữ nhân ấy và đi tìm chính mình, việc gì tốt hơn? Các nam tử đáp: Bạch Thế
Tôn, đi tìm chính mình tốt hơn.
Ðức Phật bảo: Vậy này các nam tử, hãy ngồi xuống đây và ta sẽ
thuyết Pháp cho chư vị”.
Câu chuyện ly kỳ này có lẽ mang tính lịch
sử; chỉ riêng phần cuối hình như được các vị kiết tập Kinh Tạng Pàli “tô điểm”
thêm cho hoàn mãn Ðại Phẩm (Luật Tạng) còn kể nhiều sự kiện xảy ra trên đường đức
Phật trở lại Uruvelà với tính cách giáo dục khô cứng và cố ý biến mọi việc
thành các phép thần thông cả. Chúng ta cần theo sát các câu chuyện ly kỳ này để
có thể tìm ra vài chi tiết lịch sử trong ấy.
Gần
Uruvelà có ba anh em dòng họ Kassapa sống đời đạo sĩ khổ hạnh bện tóc (jatila)
thờ lửa và nước. Mỗi vị lãnh đạo một giáo phái. Ðạo sĩ Uruvela-Kassapa
(Ca-diếp ở Ưu-lâu - tần - loa) có năm trăm đệ tử; đạo sĩ Nadì-Kassapa (Ca-diếp ở
Bên Dòng Sông) có ba trăm đệ tử và đạo sĩ Gayà-Kassapa (Ca - Diếp ở Tượng Ðầu
Sơn) có hai trăm đệ tử, dù các con số này cũng không được xem là chính xác.
Vì mùa đông Ấn Ðộ đã bắt đầu và nhiệt độ
ban đêm không quá âm điểm, đức Phật đến am thất của đạo sĩ Uruvela-Kassapa và
xin nghỉ qua đêm trong am thất thờ lửa mà các vị đạo sĩ jatilas đang
đốt cháy. Vẻ tự tin và nhân cách của người khách lạ đã chinh phục giáo chủ
Uruvela-Kassapa khiến vị này không dám chối từ, song bảo rằng căn lều thờ lửa
có một con rắn độc khổng lồ.
Tuy nhiên đức Phật cũng không cảm thấy
hãi kinh mà rút lui, và ngài nghỉ qua đêm bình an trong căn lều “nhờ thần
lực của ngài”.
Ngài ở lại thêm vài đêm nữa trong khu rừng
gần am thất đạo sĩ Uruvela - Kassapa và khu rừng quanh ngài chiếu sáng rực lên
ba lần. Ðạo sĩ Kassapa mời đức Phật đến thọ thực buổi sáng trong am thất mình
và hết sức cảm phục khi nghe đức Phật đã được chư Thiên đầy hào quang đến thăm
viếng các đêm trước:
Đêm đầu tiên ngài được Tứ Ðại Thiên
Vương viếng, đêm thứ hai được Sakka (Indra) Thiên Chủ viếng và đêm thứ ba được
Brahmà Sahampati (Phạm Thiên Ta-bà Chủ) viếng. Ðặc điểm lịch sử của câu chuyện
này có thể là đức Phật đã đốt lửa ban đêm để chống lạnh và các loài dã thú.
Trong lúc ấy, một đại tế đàn sắp được tổ
chức hằng năm tại am thất đạo sĩ Uruvela-Kassapa, mong đợi khách hành hương đến
chiêm bái từ khắp quốc độ Magadha và đất nước Anga ở phía Ðông. Sợ rằng đức Phật
có thể lôi cuốn đám người ủng hộ phái du sĩ jatilas về phía ngài, đạo
sĩ Kassapa thầm cầu nguyện đức Phật đừng đến dự lễ tế đàn.
Biết được tâm tư của đạo sĩ Kassapa, đức
Phật khéo léo tránh xa thảo am của vị này vào ngày tế lễ. Vị này kinh ngạc vì đức
Phật Gotama có thể đọc được tư tưởng người khác nhờ tha tâm thông.
Sau khi đức Phật đã quan sát giáo chủ
Uruvela-Kassapa và đám môn đồ một thời gian, ngài thừa cơ hội vị đạo sĩ già nua
này tuyên bố khoác lác để hạ vị này xuống đất. Nói thẳng vào lương tâm vị này,
ngài bảo: “Này
hiền giả Kassapa, hiền giả không phải là một vị A-la-hán và cũng không phải là
vị đang đi trên con đường đưa đến A-la-hán quả. Lối sống của hiền giả không phải
là cách đưa hiền giả đến chứng đắc A-la-hán, thậm chí cũng không thể nhập
A-la-hán Ðạo!”.
Giáo chủ Kassapa, người mà trước kia
chưa một ai từng nói như vậy thẳng mặt, bấy giờ đã hoàn toàn thảm bại. Vội quỳ
xuống chân đức Phật, vị ấy xin được gia nhập Giáo đoàn của ngài.
Ðức Phật tỏ ra rất công bằng khi ngài
không chấp nhận ngay lập tức sự quy phục của đạo sĩ Kassapa, mà ngài bảo vị ấy
phải xét kỹ hậu quả của bước tiến này với đám môn đệ:
“Này hiền giả Kassapa, hiền giả là vị lãnh đạo trường phái 500 vị
khổ hạnh jatilas. Hãy thảo luận với cả hội chúng để chư vị có thể làm việc gì
thích hợp!”.
Ðạo sĩ Kassapa nghe lời khuyên này, với
kết quả là tất cả môn đồ đều cùng vị ấy quy thuận gia nhập trường phái của đức
Phật. Chư vị đều cắt bỏ sạch các cuộn tóc bện kia, ném bỏ các đòn gánh và dụng
cụ thờ lửa xuống sông Nerañjarà. Rồi đức Phật truyền giới Tỳ-kheo cho chư vị
gia nhập Giáo hội ngài.
Khi các cuộn tóc bện và các dụng cụ bằng
gỗ trôi bồng bềnh xuôi dòng Nerañ jarà ngang qua am thất của Nadì-Kassapa, vị
này lo sợ có tai nạn gì đó đã xảy ra cho trưởng huynh mình. Vị này đến thảo am
vị kia và Uruvela-Kassapa giải thích cho bào đệ mọi lợi ích khi gia nhập Giáo
đoàn đức Phật, và vị này cũng xin gia nhập Hội chúng Tỳ-kheo cùng với tất cả ba
trăm môn đồ.
Việc trên cũng xảy ra với đạo sĩ
Gayà-Kassapa, vị này cũng đi xem thử bào huynh có bình an chăng khi thấy các vật
thờ trôi bồng bềnh ngang qua thảo am. Rồi vị này cũng gia nhập giáo đoàn Tỳ-kheo
với tất cả hai trăm môn đồ.
Cùng với đám môn đồ mới thu nhận đông đảo
như vậy (cho dù có thể không đến con số một ngàn vị) gồm toàn các vị khổ hạnh bện
tóc jatilas trước kia, giờ đây ngài đã truyền giới làm Tỳ-kheo tại
Uruvelà, đức Phật tiến về Gayà không xa là bao, nơi đó cả đoàn dựng lều trên một
ngọn đồi cách hướng tây nam thành phố khoảng gần một dặm, tên gọi là Gayàsìsa
(Tượng Ðầu Sơn, nay là Brahmayoni).
Tại đây đức Phật thuyết bài Pháp với đề
tài ám chỉ tập tục thờ lửa của nhóm khổ hạnh jatilas. Ðó là bài Thuyết Giảng
Về Lửa (Àdittapariyàya Sutta, bắt đầu bằng những lời nói lừng danh: “Tất cả đều đang
bốc cháy!”.
Bài kinh này dựa trên lý thuyết của đức
Phật về nhận thức, theo đó không chỉ có năm mà là sáu giác quan: ngoài mắt,
tai, mũi, lưỡi và thân là xúc giác, còn có tâm (Manas) hay đúng hơn, là cơ quan
suy tưởng. Tương ứng sáu giác quan này là sáu ngoại xứ đối với con người: sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp (dhamma) hay đối tượng của tư tưởng. Ngay khi một
giác quan nhận thức (ví dụ: mắt) và ngoại xứ tương ứng (vd: các sắc) tiếp xúc với
nhau, thì nhận thức (vd: nhãn thức) sanh khởi. Bằng cách này một đối tượng được
đưa vào ý thức và được người ta nhận thức.
Mọi thực tại bên ngoài đều do sáu giác
quan đưa đến cho ta: chính sáu giác quan này tạo nên thế giới riêng tư của mỗi
người.
Tiếp theo đó là cách chúng ta nhìn đời
tùy thuộc vào bản chất các giác quan của ta, và tùy thuộc vào cách chúng mang
hình ảnh của đối tượng vào ý thức của ta mà không làm sai lạc màu sắc chân thật
của đối tượng. Nếu giác quan của người nào bị tham sân si chi phối thì tất cả
nhận thức của người ấy sẽ bốc cháy vì chúng làm sanh khởi thêm nhiều tham dục
và sân hận trong tâm người ấy: đối với người ấy toàn thế giới đang bốc cháy.
Song nếu người nào chế ngự được lục căn thì sẽ giải thoát khỏi tham dục, cấu uế
và sẽ được giải thoát sanh tử luân hồi.
Nghe nói về lửa trong ý nghĩa triết lý
thâm áo như vậy chắc hẳn đã gây ấn tượng sâu sắc trong tâm chư Tỳ-kheo trước
đây là các đạo sĩ thờ lửa theo cách cổ truyền.
CÔNG CUỘC GIÁO HÓA VUA BIMBISÀRA
Ðức Phật nhận thức rất rõ rằng thái độ của
vua chúa đối với ngài sẽ đóng vai trò quan trọng quyết định trong việc truyền
bá Ðạo Pháp của ngài. Vì thế ngài chọn Ràjagaha (Vương Xá), kinh đô vừa là
hoàng cung của vua Bimbisàra nước Magadha, nơi ngài vừa đến, làm mục tiêu kế tiếp
của cuộc du hành.
Ràjagaha cách Patna 70km về phía tây nam
gần một thị trấn nhỏ hiện nay ở Ràjgir, xưa kia là kinh đô hùng mạnh nhất ở bắc
Ấn sau Sàvatthi, kinh đô của nước Kosala. Tầm quan trọng của nó chỉ mới nổi bật
lên vào thời đó chính là nhờ vua Bimbisàra đã mở rộng cổ thành Giribbaja (Ða
Sơn) và nâng nó lên vị trí kinh đô Ràjagaha (Vương Xá).
Ngay khi đức Phật và Tăng chúng của
ngài, trong ấy có ba anh em tôn giả Kassapa cùng các vị khổ hạnh bện tóc trước
kia là môn đồ chư vị, vừa đến Ràjagaha và nghỉ ngơi tại Latthivana (Trượng Lâm)
ở phía tây nam kinh thành, vua Bimbisàra được trình tấu: “Sa-môn Gotama,
nam tử của dòng Thích-ca” đã đến, liền lập tức khởi hành cùng đại chúng quần
thần, Bà-la-môn, gia chủ, tùy tùng và vệ binh về phía khu rừng để chào mừng vị
quốc khách.
Ở cổ Ấn Ðộ, có phong tục là vua chúa
cũng như thường dân thường đi tham kiến các bậc tu hành chứ không mời chư vị đến
yết kiến. Bằng cách này vua chúa tỏ lòng kính trọng đối với chư vị đã giã từ thế
tục và cố tránh xâm phạm tự do của chư vị ấy. Ðám quần thần của nhà vua không
biết chắc ai là Ðạo Sư của đoàn, Sa-môn Gotama hay Uruvela Kassapa, nên đức Phật
đặt ra một cách vấn đáp với tôn giả Kassapa. Có lẽ cuộc đối thoại giữa hai vị
đã được dự trù trước; song dẫu sao đi nữa, nó cũng gây ấn tượng mạnh đem lợi
ích cho nhà vua và đã được đặt vào Kinh Tạng Pàli theo thể thi kệ:
Ðức Phật:
Mới đây hiền giả Kassapa
Thờ lửa tại rừng Ưu-tần-loa,
Vì lý do gì từ bỏ lửa,
Xin hiền giả nói rõ cho ta?
Tôn giả Kassapa:
Phần thưởng được do các tế đàn
Ðều là dục lạc với giai nhân,
Thế gian pháp thấy nào thanh tịnh,
Con bỏ lòng ham thích tế đàn.
Ðức Phật:
Nếu tâm hiền giả chẳng còn ham
Tìm thú vui trong lễ tế đàn,
Giờ đây lạc thú tìm đâu tá
Hiền giả nói ra thật rõ ràng.
Tôn giả Kassapa:
Con đã đạt an lạc Niết-bàn,
Không gì chấp thủ giữa trần gian,
Mỗi người tự chứng trong tâm trí,
Vì thế con nay bỏ tế đàn.
Sau khi nói xong những lời này, tôn giả
Uruvelà Kassapa liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật và tuyên bố: “Ðức Thế Tôn
là Ðạo Sư của con! Con là đệ tử của ngài! Ðức Thế Tôn là Ðạo Sư của con! Con là
đệ tử của ngài!”.
Sự đảnh lễ quy ngưỡng của đại trưởng lão
Kassapa đối với vị trí lãnh đạo tinh thần của Sa-môn Gotama ở thời điểm ấy vẫn
chưa được nổi danh mấy hẳn đã gây nhiều ấn tượng mạnh đối với nhà vua.
Âm hưởng của việc này càng tăng thêm vì
tôn giả Kassapa đã công bố các lời ấy hai lần, làm cho chúng có hiệu lực của một
lời tuyên thệ.
Ðức Phật nắm ngay cơ hội thuận lợi để
giáo hóa vì giờ đây mọi sự chú ý đều đổ dồn về phía ngài.
Ngài thuyết bài Pháp thuận thứ cho cả hội
chúng, sau đó tất cả những người hiện diện gồm luôn nhà vua đều tự nguyện làm đệ
tử tại gia của ngài.
Bản văn còn ghi lại một đoạn khác nữa
nói riêng về việc giáo hóa nhà vua. Chuyện kể rằng, khi Seniya Bimbisàra, vua
nước Magadha, đã thông hiểu Giáo Pháp, thể nhập Giáo Pháp và có lòng tin đối với
Giáo Pháp, nhà vua liền nói với đức Phật Gotama:
“Trước làm một vương tử, đệ tử có năm điều
nguyện ước nay tất cả đều thành tựu. Ðệ tử đã ước được lên làm vua, và được một
bậc Chánh Ðẳng Giác đến viếng thăm trong chính quốc độ mình. Ðệ tử cũng nguyện
cầu tự thân hành tiếp kiến bậc Chánh Ðẳng Giác với tất cả lòng tôn kính quy ngưỡng,
rồi bậc Chánh Giác ấy sẽ thuyết Pháp cho đệ tử và đệ tử có thể thông hiểu Giáo
Pháp. Nay tất cả mọi nguyện ước kia đều thành tựu. Ví như một người dựng lên một
vật đã bị quăng ngã xuống hay chỉ đường cho kẻ đã lạc lối, hay đem đèn vào nơi
tối tăm để những ai có mắt có thể trông thấy hình sắc mọi vật; cũng vậy, đức Thế
Tôn đã thuyết giảng Chánh Pháp với nhiều phương tiện, ảnh dụ. Bạch Thế Tôn, nay
đệ tử xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y Tăng. Ước mong Thế Tôn nhận đệ tử
làm cư sĩ tại gia từ nay cho đến trọn đời”.
Sau đó nhà vua thỉnh cầu đức Phật cùng
chúng Tăng thọ trai ngày hôm sau và bậc Ðạo Sư chứng tỏ ngài nhận lời bằng cách
im lặng.
Sáng hôm sau, vua Bimbisàra tự thân phục
vụ đức Phật và Tăng chúng _ một vinh dự lớn lao hiếm khi được dành
cho ai. Song nhà vua còn để dành một ngạc nhiên đầy kỳ thú hơn nữa: nhà vua
tuyên bố cúng dường một tặng vật lên “Tăng chúng với đức Phật là bậc thượng thủ”,
đó là ngự viên Veluvana (Trúc Lâm), nằm ngay trước Bắc môn thành Ràjagaha, để bậc
Ðạo Sư có thể an cư tại đó cũng gần kinh thành, nhưng lại ở trong một vùng yên
tĩnh, dễ ra vào cho khách vãng lai, mà cũng tiện ẩn dật.
Sự cúng dường được công bố có hiệu lực
pháp lý theo nghi lễ thông thường: thí chủ đổ nước trên tay người nhận vào
trong một bình bát (dĩ nhiên trong trường hợp này là bát vàng). Ðức Phật không
phát biểu lời tạ ơn long trọng nào cả, vì việc này sẽ có giá trị ngang bằng việc
cúng dường kia, như vậy sẽ tiêu hủy phước đức mà phần thí chủ đã nhận được cho
mình. Thay vào đó, ngài bày tỏ niềm hoan hỷ bằng cách thuyết một bài Pháp cho
vua Bimbisàra.
Việc giáo hóa quốc vương Magadha có thể
đã diễn ra vào tháng cuối năm 528 hay hai tháng đầu năm 527 trước CN. Niên đại
sau có lẽ đúng hơn. Vua Bimbisàra trẻ hơn đức Phật năm tuổi và vào năm ba mươi
mốt tuổi đã lên ngôi trị vì mười sáu năm rồi.
Thời ấy không có vấn đề vua Bimbisàra
quy y Phật Pháp gây nên lòng ganh tỵ của những ngoại đạo sư. Ngày xưa cũng như
nay, người Ấn đã giữ tinh thần khoan dung nhận làm tín đồ một trường phái mà vẫn
không bài bác các trường phái khác. Không có một giáo lý Ấn Ðộ nào đòi hỏi địa
vị độc tôn cả.
Trước kia vẫn có tranh chấp giữa các
giáo phái nhưng không có giao chiến và Phật Giáo cũng đặt nền tảng trên sự sống
chung hòa bình. Nhiều lần chúng ta đã nghe cách đức Phật Gotama dạy các tân tín
đồ tiếp tục cúng dường đạo sĩ các giáo phái mà chư vị ấy vừa rời bỏ.
Có nhiều dấu hiệu và không kém phần quan
trọng là lòng tín thành của nhà vua đối với đức Phật trong hàng chục năm cho đến
ngày nhà vua bị mưu sát, chứng tỏ Ðại Vương Bimbisàra đã được cảm hóa sâu sắc
nhờ Giáo Pháp đức Thích-ca.
Tính cách kỳ diệu của đức Phật, niềm tin
vững chắc do sự diện kiến ngài đem lại, dáng quý tộc và tài hùng biện của ngài
cũng như bản chất trung dung trong các quan điểm của ngài được biểu lộ qua
“Trung Ðạo”, đức độ cao thượng và đặc biệt là sức hấp dẫn huyền bí của mục đích
giải thoát ngài đề xướng _ tất cả những điều này đã làm nhà vua nồng
nhiệt mộ đạo: nhà vua cảm nhận một sức thiêng liêng khiến cho con người tràn đầy
hỷ lạc và bên trong nhà vua bừng lên một tia sáng nội tâm rọi vào cuộc sống.
Ở độ tuổi ba mươi mốt, vua Bimbisàra vẫn
còn đủ trẻ trung để được đạo Phật gây niềm hứng thú, tuy nhiên cũng đủ già dặn
để không mất tự chủ hợp lý đối với nhiệt tình. Tầm quan trọng của việc cảm hóa
vua Bimbisàra đối với sự nghiệp hoằng Pháp thành công của đức Phật không cần phải
phóng đại chút nào. Hàng ngàn thị dân Magadha noi gương nhà vua và công nhận Phật
Pháp làm thầy dẫn đường. Một số người thời ấy có lẽ đã làm thế để được vua
Bimbisàra ân sủng, nhưng phần lớn là vì tín thành mộ đạo.
Thật vậy, giáo lý mới xuất hiện này đem
lại điều mới lạ cho mọi người ở mọi giai cấp. Ðạo Pháp thu hút giới quý tộc võ
tướng vì tính cách cao thượng và thích hợp với các phận sự phục vụ quốc gia; lại
cũng thu hút giới Bà-la-môn vì tính cách hợp lý và minh bạch chính xác về nội
dung tư tưởng triết học. Ðạo Pháp cũng gây ảnh hưởng mạnh đối với giai cấp
thương nhân (Vệ-xá) bằng cách bài bác những tế lễ tốn kém trước kia vẫn được
cho là nhằm đem lại tài lợi trong thương mãi, và cũng bằng sự cảm thông cách
suy tư của giới kinh doanh nữa.
Ðối với giai cấp thợ thuyền và vô loại
cùng đinh, Ðạo Pháp hấp dẫn họ vì sự đánh giá thấp mọi đặc quyền ưu đãi về huyết
thống của các giai cấp trên. Mặc dù có phần phán xét tiêu cực về cuộc đời thế
gian, đạo Phật vẫn được cảm nhận là một tín ngưỡng của hy vọng, trình bày rõ
cho mọi người biết cách sử dụng quy luật Nghiệp Báo (Nhân Quả) để nỗ lực tiến
lên trong cái tôn ti trật tự của xã hội và sau cùng sẽ đạt giải thoát. Nhờ việc
cải hóa Ðại Vương Bimbisàra, đạo Phật đã được xã hội công nhận và trở thành đề
tài bình luận trên cửa miệng mọi người. Con đường đã mở rộng dành cho đạo Phật
truyền bá khắp nước Ấn.
TÔN GIẢ SÀRIPUTTA VÀ MOGGALLÀNA TRỞ THÀNH CÁC ÐỆ TỬ
Dĩ nhiên đức Phật Gotama không phải là vị
Ðạo Sư phi truyền thống duy nhất ở thành Ràjagaha. Một vị lãnh đạo giáo phái lừng
danh khác ở kinh đô của vua Bimbisàra là Sañ jaya. Giữa đám môn đệ của vị này,
tương truyền đã lên đến hai trăm năm mươi vị, có hai vị cao đồ đặc biệt tài giỏi
là đôi thân hữu Sàriputta (Xá-lợi-phất), và Moggallàna (Mục-kiền-liên).
Nhà tôn giả Sàriputta ở làng Nàlaka (nay
là Sarichak) gần Ràjagaha, thuộc gia tộc Bà-la-môn Upatissa. Ngài có ba anh em
trai Cunda, Upasena và Revata và ba chị em gái.
Thân phụ ngài là Vanganta và thân mẫu là
Rùpasàrì. Ngài được gọi theo tên mẹ, Sàriputta (Xá-lợi Tử). Còn tôn giả
Moggallàna thường được gọi là Kolita vì ngài sinh trưởng ở làng Kolitagàma (nay
là Kul?) cạnh làng Nàlaka, lại đồng tuổi với tôn giả Sàriputta nên hai vị vẫn
chơi chung với nhau từ thuở thơ ấu. Thân mẫu ngài là Moggallànì nên ngài được đặt
tên theo mẹ, thuộc giai cấp Bà-la-môn, trong khi thân phụ ngài là lý trưởng
làng Kolitagàma thuộc giai cấp võ tướng (Sát-đế-lỵ) vào thời ấy được xem là giới
thượng lưu.
Truyện kể rằng đôi bạn này đã quyết định
đến dự đại lễ hội hằng năm trên đỉnh núi – có lẽ là một loại hội chợ – để trở
thành các Sa-môn khất sĩ theo đạo sư Sañ jaya và sau đó hai vị liền thực hiện
ngay việc này. Hai vị hứa hẹn rằng nếu ai trong hai vị đạt tuệ giác trước thì sẽ
dạy cho người kia.
Chính trong thời gian làm đồ đệ của đạo
sư Sañ jaya, tôn giả Sàriputta đi khất thực ở thành Ràjagaha, gặp gỡ Tỳ-kheo
Assaji (Mã Thắng).
Vị này trước kia từng là bạn đồng tu của
đạo sĩ Gotama trong thời còn hành trì khổ hạnh và sau đó đã được thọ giới tại
Vườn Nai ở Isipatana làm một trong năm vị Tỳ-kheo đầu tiên ở đời này. Tôn giả
Sàriputta chú ý ngay dáng điệu cao quý và an tịnh của vị Tỳ-kheo lạ mặt này,
nên tôn giả đợi cho đến khi Tỳ-kheo Assaji đi khất thực xong rồi mới thăm hỏi
ai là bậc Ðạo Sư của vị ấy. Vị Tỳ-kheo đáp mình chính là môn đồ của vị Sa-môn
thuộc bộ tộc Sakiya, và tôn giả Sàriputta lại hỏi về Giáo Pháp của bậc Ðạo Sư.
Mặc dù đã đắc A-la-hán, Tỳ-kheo Assaji vẫn không thể trình bày đầy đủ Giáo
Pháp.
Tôn giả bảo mình mới thọ giới, chỉ vừa
tuân hành Giáo Pháp đức Phật một thời gian ngắn, nhưng cũng có thể trình bày sơ
lược nội dung. Rồi tôn giả phát biểu vần thi kệ lừng danh từ đấy về sau, đã được
mọi tông phái Phật giáo công nhận làm giáo lý căn bản:
Các pháp sinh
ra tự một nhân,
Ðức Như Lai đã
giảng nguồn căn,
Cách nào các
pháp dần tiêu diệt,
Bậc Ðại Sa-môn
cũng giải phân.
Tôn giả Sàriputta, với tài trí thông
minh phân tích và lý luận triết học vẫn thường được tán dương từ lâu nay, lập tức
thấu hiểu ý nghĩa câu nói này: “Bất cứ vật gì chịu quy luật sinh khởi (ví dụ: con
người hiện hữu với nỗi khổ đau) đều phải chịu quy
luật đoạn diệt”. Ðiều này có nghĩa là nếu không tạo nguyên nhân
để tái sanh đời sau, thì người ấy có thể thăng tiến đến trạng thái đoạn diệt, tức
Niết-bàn. Tâm bừng ngộ nhờ tuệ giác này, tôn giả vội vàng đi đến thân hữu
Moggallàna để truyền cho bạn chân lý mới này.
Tôn giả Moggallàna, một thiền giả đặc biệt
có tài năng, cũng quán triệt ý nghĩa tinh nhanh không kém bạn, nên tôn giả đề
nghị cả hai nên đi ngay đến gặp đức Phật và xin làm đệ tử ngài. Tuy nhiên, tôn
giả Sàriputta từ chối vì trước tiên hai vị phải cùng đi hỏi ý kiến đạo sư Sañ
jaya và các Sa-môn đồng bạn. Thế rồi hai vị đều làm như dự định và các vị
Sa-môn đồng tu liền tuyên bố sẵn sàng đi đến yết kiến đức Phật. Mặt khác, đạo
sư Sañ jaya, cam kết là nếu hai vị ở lại đó, hai vị sẽ được phân quyền lãnh đạo
giáo phái ấy
Khi hai vị Sàriputta và Moggallàna từ chối
lời đề nghị trên và ra đi cùng tất cả hai trăm năm mươi môn đệ đến Trúc Lâm
Tinh xá thỉnh cầu đức Phật nhận vào Tăng đoàn, đạo sư Sañ jaya thất vọng đến độ
hộc máu mồm. Trong thời gian này đôi thân hữu được đức Phật truyền giới Tỳ-kheo
và chẳng bao lâu đều đắc quả A-la-hán: tôn giả Moggallàna chỉ trong một tuần và
tôn giả Sàriputta vào tuần sau. Cả hai vị đều trở thành hai đại đệ tử của đức
Phật Gotama, và vẫn giữ địa vị ấy suốt hơn bốn mươi năm.
Không lâu sau khi hai tôn giả này trở
thành Tỳ-kheo trong Tăng chúng, đức Phật tiếp một người khách từ quê nhà Kapilavatthu.
Ðây là tôn giả Kàludàyin, tức Hắc Nhân Udàyin (Ưu-đà-di), như vẫn thường được gọi
vì màu da đen của vị ấy.
Tôn giả là bạn từ thời thanh niên của đức
Phật, được quốc vương Suddhodana phái đi tìm vương tử của ngài và thuyết phục đức
Phật về thăm kinh thành Kapilavatthu.
Kàludàyin thi hành sứ mạng với tài khéo
léo đặc biệt. Tôn giả gia nhập Tăng chúng và do vậy dễ tiếp cận đức Phật bất cứ
lúc nào. Sau đó dùng nhiều lời lẽ miêu tả linh động, tôn giả cố gợi lên trong
lòng đức Phật nỗi nhớ quê hương của bộ tộc Thích-ca. Bằng một giọng nói nồng
nhiệt chứa chan tình cảm, tôn giả minh họa vẻ diễm lệ của ngàn cây đang rộ nở
hoa, như một kẻ lữ hành dừng lại bên vệ đường ngắm cảnh sắc của vạn vật:
Bạch Thế Tôn,
nay hàng cây lấp lánh
Ðỏ thắm và
tàng cổ thụ buông thòng
Ði tìm trái,
còn hoa đỏ bao chòm
Treo lủng lẳng,
màu máu đào rực rỡ.
Ðây là lúc xin
Thế Tôn về đó
Vì muôn hoa rộ
nở khiến tâm hoan.
Khắp cả vùng
hương ngát tuyệt trần gian,
Hoa rụng cánh
báo tin lành kết trái,
Nay đúng thời
xin Thế Tôn trở lại,
Mùa này ôi bao
hỷ lạc ngập tràn:
Khí trời không
nắng gắt, chẳng đông hàn.
Tộc Thích-ca,
Câu-ly cùng chiêm bái
Khi Thế Tôn hướng
về tây đi tới
Vượt qua dòng
sông biếc Lỗ – hi – ni.
Quả thật đức Phật đã đồng ý để cho tôn
giả thuyết phục. Ngài hứa với tôn giả rằng ngài sẽ viếng kinh thành
Kapilavatthu, không phải ngay lúc ấy, mà sau mùa mưa kế đó là thời gian ngài đã
dự định an cư tại Ràjagaha. Tôn giả Kàludàyin vô cùng hoan hỉ, vội vàng trở về
Kapilavatthu mang tin lành trình Quốc vương Suddhodana. Có lẽ tôn giả cũng dùng
ngôn từ văn hoa bóng bẩy miêu tả mọi việc, vì tôn giả vốn là người tinh thông
nghệ thuật tán tụng, điều này được chứng tỏ qua các vần thơ trong Trưởng Lão
Tăng Kệ, khi tôn giả ca ngợi Quốc vương Suddhodana là thân phụ của đức Phật Thế
Tôn, và làm vinh danh cả cố mẫu thân của ngài nữa:
Bậc anh hùng
quả là người đại tuệ
Làm bảy đời
gia hệ được vinh quang,
Thích-ca, ngài
là Thiên Chủ trần gian
Vì sinh được bậc
Thánh hiền đích thật.
Tịnh Phạn
Vương, phụ thân ngài Ðại Giác,
Mẫu thân ngài
là chánh hậu Ma-gia
Dưỡng thai
nhi, Bồ-tát, trọn tâm bà.
Lúc thân hoại
tái sanh trời Ðâu-suất,
Ðức bà hưởng
tràn đầy năm Thiên lạc
Ðược từng đoàn
thiên nữ đứng vây quanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét