Bạch
Viên
Hẳn ai cũng biết chuyện Âu Dương
tướng quân bị cầm tù ở chiến trường rồi bị chém đầu ra sao và vào năm 569 sau
kỷ nguyên, lúc hàng giặc, toàn gia bị tru lục như thế nào. Có điều ý kiến lao
nhao, mỗi người mỗi khác. Người thì cho rằng ông ta đáng tội là vì nhiều đời
nhà ông được triều đình ân sủng tin cậy, giao cho việc lớn. Có đáng tiếc chăng
là tiếc cho cha con ông danh tướng một đời, công huân rực rỡ mà để ra nông nỗi
thân bại danh liệt, mắc phải tai họa
thảm khốc lạ lùng. Những người khác như Giang Tổng thì lại rất đồng tình với
ông, cho là ông phải ép mình theo giặc là thế bất đắc dĩ. Chỉ vì hoàng đế đương
thời thấy ông nắm giữ binh quyền ở phương Nam nên có bụng nghi ngờ. Kỳ thực,
những lời bàn phân vân như thế đều không đúng.
Hồi ba mươi tuổi, ông đã gặp một
việc, việc làm biến đổi hẳn tính khí, giáng một đòn chí tử vào tình cảm của ông
khiến vị Trấn Nam tướng quân đang hồi trai tráng, địa vị rực rỡ thoắt biến
thành một người bạc phước khổ đau, u uất, hận đời. Bạn của ông là Giang Tổng đã
cứu con ông, ngầm nuôi dưỡng đến khi thành nhân, từng kể về ông trong thiên
tiểu thuyết "Bạch Viên Truyện" của mình. Nhưng theo lời người tùy
viên của tướng quân là Lôi Mỗ ở Quảng Đông - ông này là một viên mạc liêu kỳ
cựu của tướng quân - thì những điều ghi chép của Giang Tổng chỉ là những mẩu
rời rạc mà thôi. Âu Dương tướng quân xấu hổ, phẫn hận mà chết vậy.
Thiên truyện này do Lôi Mỗ thuật lại
những gì ông ta từng tận mắt chứng kiến. Lôi Mỗ nay đã là một ông già sáu mươi
tuổi rồi.
Sau đây là câu chuyên do Lôi Mỗ
thuật lại:
Sau khi phụ thân của Âu Dương tướng
quân qua đời, tướng quân được thừa kế tước vị của cha, tôi là bộ hạ của người.
Vì tôi là bộ hạ của cha tướng quân nên rất được người tín nhiệm. Tướng quân có
một người vợ trẻ, dung mạo đẹp đẽ, vốn con nhà giòng giõi, tiếng tăm. Một hôm,
bỗng nhiên nàng bị bắt cóc. Chúng tôi đều biết và đều cả quyết lại là Bạch Viên
cướp đi chứ chẳng ai. Lúc dùng bữa điểm tâm, tướng quân ngồi sầu muộn một mình.
Tôi rất sợ khi nhìn sắc mặt người lúc ấy.
Hồi ấy, chúng tôi đóng ở Trường Lạc.
Trước đó đã có người cảnh cáo Âu Dương tướng quân là đi viễn chinh phương Nam -
khu vực của bọn thổ nhân - chớ nên đem theo vị phu
nhân trẻ đẹp. Vì ở đây, đàn bà con gái một khi bị bắt đi là mất tích. Chỗ ở của
tướng quân đang vây tứ phía, bất kể ngày đêm
đều bố trí vọng gác, nghiêm ngặt phòng bị, lại cắt mấy hầu gái ngủ cùng phòng
với phu nhân, mấy tên tớ trai ngủ tại phòng trước.
Đêm hôm ấy, khoảng canh hai, canh
ba, một hầu gái tỉnh giấc, nghe thấy tiếng kêu thét, nhìn lại thì tướng quân
phu nhân đã biến mất. Chẳng ai biết Bạch Viên vào bằng cách nào vì mọi cửa đều
khóa kín.
Tiếng thét hoảng hốt của con hầu làm
chúng tôi choàng tỉnh. Nó hớt hãi vụt ra khỏi phòng, còa chưa kịp cài quần áo,
gào lớn:
- Phu nhân biến mất rồi!
Chúng tôi đuổi theo tức thì. Phòng
chúng tôi ở dựng bên một đường núi, trong quân doanh, nằm dựa trên một sườn núi
cheo veo cao hàng trăm xích (thước Tàu), phía dưới là khe sâu. Vách núi đối
diện nhô ra đầy rêu phong hướng về cửa phòng chúng tôi, cách khoảng năm mươi
xích. Sớm tinh mơ hôm ấy, sương mù dày đặc, ngoài hai mươi xích không trông
thấy gì cả.
Men theo vách núi sương mù mờ mịt mà
truy lùng tên cướp nọ là việc hết sức nguy hiểm. Chỉ lỡ sảy chân, bước nhầm một
khúc quẹo là rơi tòm xuống vực thẳm, táng mạng tức thì,
uổng công truy lùng cả nửa giờ, đành bỏ cuộc.
Tưởng quân cùng chúng tôi quay về,
ông nóng nảy như điên cuồng quay sang tra hỏi con hầu. Hai tay ông bóp chặt hai
vai con hầu lắc mạnh hỏi:
- Mày trông thấy những gì, nói?
Con hầu khóc lóc thưa:
- Con chẳng trông thấy gì hết. Con chỉ nghe thấy một tiếng kêu
thét, lúc tỉnh dậy thì không thấy phu nhân đâu nữa.
Lần đầu tiên tôi thấy tướng quân nổi
giận, ông thẳng cánh tát vào mặt con hầu. Chúng tôi chưa bao giờ thấy ông điên
cuồng như vậy. Trước nay, ông vốn là người chính trực. Bọn tham mưu kỳ cựu
chúng tôi khi nghe tin ông lãnh đạo cuộc viễn chinh Tây Hưng, ai cũng bội phục.
- Các người đã ai gặp Bạch Viên chưa? Ông hỏi.
Chẳng ai trong chúng tôi thấy Bạch
Viên. Nhưng tôi cũng bảo ông là ở một thành thị xa,
cách đây hơn trâm lý (dặm Tàu), nhiều người đã gặp Bạch Viên. Có người tiều phu
thấy Bạch Viên từ xa, toàn thân trắng toát, đu đây leo trên vách núi rồi biến
vào khoảng mây trắng xóa che trùm đỉnh
núi.
- Theo ông, nó có phải là thổ nhân không? Phải chăng nó lại
đây báo thù?
Tướng quân hỏi vậy là vì trong mấy
chiên dịch gần đây nhất, tướng quân đã lùa vây khốn đốn một số phiên nhân đủ
chủng tộc vào vùng sơn động.
- Tôi không rõ. Nghe người trong thành nói hắn
thường đến thành mua bán rất đàng hoàng, khi thì đem theo một con nai, vài tấm
da chồn, hoặc nanh heo rừng; có khi đem theo một vài túi xạ hương để đổi lấy
dao bếp, dao phay hoặc các dụng cụ mộc và muối.
Hắn nói tiếng Trung Quốc rất thạo, mua bán rất ngay thẳng, nhưng tuyệt đối
không dung tha cho kẻ nào lừa bịp mình. Ai lừa bịp hắn, ngày hôm sau hoặc chỉ
nội trong tuần, thế nào người ta cũng thấy xác kẻ ấy sau lưng cắm ngập một mũi
tên.
- Trông tướng mạo nó như thế nào?
Vương tham mưu là người bản địa nói:
- Y không giống người Miêu, cũng không phải người Dao, lại
cũng chẳng phải người Hạ Lão vì y có nước da đen, người bé nhỏ, tuổi còn trẻ,
mặt có nhiều nếp nhăn. Người nào từng gặp Bạch Viên đều nói y cao năm xích mười
thốn, vai thô tròn, hai cánh tay kiên cường rất mạnh, trông như y không có cổ.
Đặc điểm kinh người nhất là đôi lông mày trắng như tuyết, lông mi, lông ngực,
lông tay, lông đùi, khắp nơi đều trắng. Lúc chạy, bàn chân áp mặt đất, còn điều
này, dáng đi của y lắc lư hệt loài khỉ, vượn, không biết có phải vì thường
xuyên bò, đi trên những đường núi đầy nham thạch mà thành thói quen ấy không
thì cũng không rõ. Chứ cứ cái dáng đi của y và những ngón chân tẻ ra xa nhau và
cặp đùi gầy mọc đầy những lông trắng mềm mại, óng
mướt thì ai cũng cảm thấy y rất cổ quái, quái đến phát khiếp.
- Y chỉ thích con gái và đàn bà trẻ thôi. Vương tham mưu nói
thêm.
Âu Dương tướng quân ngồi thừ người,
cằm gục xuống ngực, thở hổn hển nghe rõ mồn một:
- Đã ai trông thấy nó cướp phụ nữ chưa? Hoặc tìm thấy xác của
những người phụ nữ bị nó cướp đi?
- Chưa, đấy mới lạ! Vương tham mưu nói. Nếu y cưỡng hiếp những
phụ nữ ấy rồi bỏ mặc họ sống chết sao cũng được thì thế nào cũng có người tìm
được đường về, nếu không thì cũng phải tìm thấy xác của họ chứ.
- Nó có bắt cóc trẻ con không?
- Không, các bà mẹ thường đem Bạch Viên ra dọa con nít. Chúng
tôi nghe nói những phụ nữ bị y bắt cóc phần lớn từ mười tám đến hai mươi hai
tuổi. Vương tham mưu ngập ngừng một chút rồi nói tiếp. Với lại,
thưa tướng quân, y rất ít bắt cóc những người đàn bà đã có con. Việc này tôi
không hiểu tại sao, nhưng khắp miền này, mọi người đều tin rằng y không đời nào
bắt cóc những người đàn bà đã có con. Có phụ nữ còn bảo Bạch Viên rất yêu quý
trẻ con.
Âu Dương tướng qưân cảm thấy thật sỉ
nhục, nhưng cũng bó tay. Bọn tôi không ai đoán được Bạch Viên muốn báo thù hay
là muốn giỡn mặt vị tướng quân Trung Quốc? Ngoài việc mất vợ yêu, ông còn cảm
thấy thế diện của mình cùng danh dự của quân đội Trung Quốc đều bị sụp đổ tan
tành.
Quả là ông gặp phải tay cường địch
ghê gớm rồi đây, làm thế nào để bắt được tên độc hành thổ phỉ này? Theo như mọi
người vừa kể thì nó có sức mạnh siêu nhân,
lại giảo quyệt, có sức chịu đựng bền bỉ.
Việc này thật khác hẳn với việc vận trù chiến dịch.
Một bọn thổ binh được phải đi xa
mười mấy, hai chục dặm lên cao thì tít trên đỉnh núi, thấp thì xuống tận vực
khe sâu để dò tìm dấu vết phu nhân; lục tìm rất kỹ mong tìm được phu nhân đưa
về.
Khoảng hơn nửa tháng, có người trở
về báo cáo tìm được một chiếc hài thêu màu hồng của phụ nữ; cách chỗ chúng tôi
đóng ngoài ba mươi dặm, vương trên một cành cây. Như thế, Âu Dương phu nhân
không đi trên đường, chắc chắn là Bạch Viên cõng nàng đi. Chiếc hài được trình
lên tướng quân xem. Hài đã bị nước mưa thấm sũng, vừa nhũn vừa bạc màu. Tướng
quân và con hầu nhận ra chiếc hài.
Mọi người chúng tôi đều đoán nhất
định phu nhân còn sống, đang bị tù giam. Nhưng tìm Bạch Viên ở đâu bây giờ?
Chúng tôi xót xa cho Âu Dương tướng
quân. Suốt buổi chiều, ông cô độc ngồi rũ một mình. Một viên phó quan kể ông
ngồi toan dùng cơm tối rồi lại gạt mâm cơm ra không ăn. Trong ngày này, chẳng
ai dám nói gì với ông.
Sớm hôm sau, tướng quân tìm tôi, ông
vẫn chưa ăn cơm tối qua. Ông truyền lệnh:
- Lôi tham mưu, hôm nay chúng ta đi tìm phu nhân. Tôi đã quyết
định, việc chiến sự tạm thời đình chỉ. Hãy chọn một nhóm hai mươi mấy người,
cần nhất là phải cụ bị đầy đủ lương thực. Có khi phải mất đến cả tháng chưa
biết chừng. Dĩ nhiên phải có Vương tham mưu trong nhóm đấy.
Tôi tuân lệnh đi thu xếp công việc.
Chọn được hai mươi bốn tên quân trai tráng, có mấy tên là những tay thần tiễn
người bản địa, tất cả đều tinh thông võ nghệ, đao kiếm. Bọn tôi không cần phải
đem theo nhiều lương thực vì dọc đường hoa quả rất nhiều, trên núi cam mọc
hoang vô khối. Chúng tôi cũng biết cách bới khoai, lùi khoai ở bếp
lộ thiên. Vũ khí và lương thực lo xong xuôi, chúng tôi chẳng sợ gì cả. Tướng
quân là người kiếm pháp siêu quần, ngoài trăm thước có thể bắn tên xuyên qua
trái quýt.
Đi trên vùng cao thế mà thú vị. Dọc
đường phong cảnh non nước hữu tình kỳ lạ. Chúng tôi vượt qua những núi
non, qua những rừng già nguyên thủy, rồi những thác, những ghềnh, qua những
vùng bạt ngàn cây cối, đầy những dây leo to lớn, những cây hổ vĩ tung, những
cây trúc Tương Phi cao cả trăm xích, rồi còn biết bao là chim quý thú lạ có thể
săn bắn được. Những thổ dân gặp trên đường đều là những người quen. Thực ra, họ
là những người khẳng khái,
hiếu khách nhất thế giới, chỉ cần người Trung Quốc để cho họ được sống chung
hòa bình là xong tất. Tất nhiên, nếu cần báo thù thực sự thì họ cũng không ngần
ngại gì mà không chém lén một nhát dao sau lưng. Đối với họ, đó là việc bình
thường không có gì đáng kể. Họ sống bằng nghề
săn bắn và trồng tỉa. Chỉ cần đốì xử với họ công bằng tử tế thì họ chẳng bao
giờ gây sự với ai, nhưng nếu mong dò la từ họ một chút tin tức gì về Bạch Viên
thì đó là điều tuyệt đối không thể được. Bọn họ, ai cũng chỉ buông một câu:
- Không biết!
Vì vậy, tướng quân ngờ rằng chẳng
những Bạch Viên đối xử với họ rất tốt mà nhất định y còn là một vị anh hùng
khắc ghi trong tâm khảm của họ.
Chúng tôi nhắm hướng Tây Nam đi.
Phía trước là vùng Âu Dương tướng quân xưa nay chưa từng bước chân tới. Địa thế
trước mặt bỗng quang đãng, rộng rãi: một con sông rộng lòng đã cạn từ lâu, cả
một cánh rừng um tùm rậm rì đến nơi này hoàn toàn dứt hẳn, một giải núi đá khô
cằn lượn vòng vèo như mình trăn, chắn ngang phía trước, rải rác chỉ có những
bụi cỏ dại luôm nhuôm mọc xen kẽ mà thôi. Những tảng đá lớn trơn trợt cho thấy rằng có dạo nơi đây cũng là một vùng sơn cốc phì nhiêu tươi
tốt, từng có một dòng sông lớn chảy qua, đón lấy nước từ trên núi đổ xuống. Sau
đó, dường như đấng tạo hóa bỗng
dưng đổi ý, chuyển ngoặt dòng sông đi sang nơi khác. Hướng Tây, trên đất bằng,
phẳng băng một vệt, bỗng dội lên những nham núi chớn chở cao vút, dựng đứng như
những cây cột, chỉ nhìn cũng đã thấy nao lòng nhũn dạ. Thật là hiếm thấy!
Nói những nham núi này như cột cũng
không ngoa, vì những rạng núi đá vôi này bị gió mưa, hơi triều ẩm thấp xâm
thực, bào mòn hàng mấy nghìn, vạn năm nay đã trở thành những cây trụ thẳng
băng, hoặc có dáng sừng sững như những ngọn tháp thẳng tắp dữ dằn, có cái như
hình răng cưa, chót vót chọc trời.
Lúc này đưa mắt nhìn tứ bề, không
một sợi khói nhà người. Vầng dương chìm về Tây, lặn xuống đầu những rặng núi
cao như những cây cột khổng lồ này, Trong khoảng hoàng hôn, tranh tối tranh sáng
nhập nhoạng ấy, những bóng núi đổ dài ngoẵng, loằng ngoằng nằm vắt ngang khoảng
sơn cốc hoang lương tịch mịch, trông rất quái dị.
Tìm nước uống ở một vùng hoang mạc
như thế này thật là gian nan hết sức. Hiện nay chúng tôi đã đi khỏi nơi đóng
quân ngoài trăm dặm rồi. Giải sa mạc này tựa như chính là nơi bắt chúng tôi
phải dừng bước lại. Chuyên đi tìm kiếm Bạch Viên sợ rồi cũng uổng công vô ích
mà thôi.
Âu Dương tướng quân lại tỏ ra mê
luyến cái địa hình kỳ quái này, nhất định không chịu quay về. Đi qua lòng sông
cạn, địa thế dần dần cao vun lên. Sau ba, bốn dặm nữa đã thấy xuất hiện cây cỏ
càng lúc càng rườm và. Chếch về hướng Tây Nam, những dãy núi hình răng cưa dần
dần dứt hẳn, kế đó là vùng núi non hùng vĩ, thế hiếm không thể vượt qua nổi.
Dưới ánh thái dương rực rỡ, những
ngọn núi cao vọi ánh vàng giấp giới, lấp lóa như cảnh núi non thành thị, thần
bí khôn lường. Một đàn cò trắng từ trên bầu không cao xoải cánh bay về dãy núi
xa, hẳn nơi ấy là tổ ấm của chúng.
Tướng quân có ý men theo lòng sông
cạn mà đi lên đến tận đầu nguồn. Trong thâm
tâm ông vẫn còn chút hy vọng, nên lại ra lệnh cho chúng tôi đi về phía núi.
Ngày rất dài, nếu chúng tôi cứ đi liền một mạch không dừng nghỉ thì trước khi
mặt trời lặn, chúng tôi có thể tìm được một nơi để hạ trại.
Ở chỗ khỉ ho cò gáy không một bóng
người này, sau khi đi hơn tiếng đồng hồ,
bên bờ sông toàn là những hòn đá bị nước mài mòn trơn trợt,
chúng tôi đi đến một chân núi có thảm cỏ xanh mượt như nhung.
- Coi kìa! Tiểu La kêu lên. Tiểu La là tên lính hai mươi tuổi,
thông minh lanh lợi, là một tùy viên của tướng quân. Chúng tôi trông thấy một
đống đá có dấu khói lửa hun đốt, xung quanh
là tro. Nhất định là có người nhóm lò ở nơi này rồi. Trên mặt đất còn vương vãi
những vỏ cam, vỏ chuối.
Trọn hai ngày nay, trước sau chúng
tôi không thấy một bóng người, nay thấy đống tro lửa khiến chúng tôi nảy ra một
cảm giác mới là mình vẫn chưa ly khai khỏi thế giới loài người.
Tiểu La chạy lung tung khắp nơi,
kiểm tra mặt đất. Chợt hắn lại kêu lên:
- Xem này!
Bọn tôi chạy xô lại. Tiểu La chỉ cho
chúng tôi thấy một giải khăn đen, thứ đàn bà
dùng để chít đầu tóc. Tiểu La nói:
- Vật này nhất định là của phu nhân.
Dĩ nhiên, chúng tôi rất muốn tin lời
hắn, nhưng cũng chẳng thể nào tin giải khăn này nhất định là của phu nhân. Âu
Dương tướng quân cũng không thể quyết chắc có phải hay không, chỉ ngờ ngợ nhìn
đăm đăm giải khăn mà thở dài.
Mỗi khi người ta theo đuổi một việc
gì uổng công vô ích, mà tiền đồ lại ảm đạm vô
cùng thì người ta càng không thèm để ý đến thực tế, cứ buông mặc cho tưởng
tượng, lúc ấy, người ta rất nóng nảy, bồn chồn. Chúng tôi đều mong mỏi tìm thấy
Bạch Viên, choảng nhau một trận. Dĩ nhiên, chúng tôi thừa biết cường địch phía
trước chẳng phải tay vừa, nhưng chẳng thà choảng nhau một trận so với phải lặn
lội đường dài đầy buồn chán thì còn thống khoái hơn nhiều.
Dưới bầu trời sao, chúng tôi đóng
lều tạm dừng nghỉ đêm. Trời tháng sáu nực nội, lại phải đi dưới ánh mặt trời
chói chang gay gắt, cả bọn chúng tôi mệt nhoài. Tối hôm ấy, chúng tôi lăn ra
ngủ một giấc thật say.
Sớm hôm sau, chúng tôi
lên đường đi tiếp, leo lên đường núi. Trong khoảng hai tiếng đồng hồ, chúng tôi
lại đi thêm được ba nghìn xích. Chỉ thấy một khe nước nhỏ từ trong hang chảy
xuống phía dưới, sau cùng lẩn mất vào lòng đất. Một tảng đá trắng thật lớn từ dưới
vươn lên phản xạ tia nắng chói chang. Một luồng hơi nóng bốc lên. Trong những
bờ bụi, cây cối trên sườn núi, có rất nhiều gà rừng, thường thấy những loài
chim lông sặc sỡ ẩn hiện trên các cành cây. Những dây
leo thô như nắm tay uốn éo, ngoằn ngoèo buông thả rất tiện lợi cho người vin
với mà lần đi. Không khí dần loãng đi, chúng tôi đã lên đến vùng đất cao vót
rồi.
Leo đến đỉnh núi, chúng tôi thấy một
cảnh tượng kinh người. Phía sau giải núi ấy là một đập nước lớn, dùng toàn
những khối đá xẻ bằng rìu từ khối đá khổng lồ mà kiến tạo nên. Cứu cánh phải
mất bao nhiêu năm tháng, dùng phương pháp gì, do ai tạo thành, thật không thể
nào tưởng tượng nổi. Bởi vì với những khối đá khổng lồ như thế, nếu không có
những công cụ thích đáng thì chí có những siẻu nhân có tài Cự Linh Thần
mới có thể chuyển động nổi.
Hiển nhiên cái đập nước này là do
người trong núi tu sửa uốn lại đường nước, vì ở nơi đây có một đường nước rất
sâu chảy về bên trái đổ dồn xuống cái ao phía dưới. Ở một góc, dựng một tấm bia
đá, phần dưới chôn ngập vào đất, phía trên khắc những chữ quái lạ của người
Man.
Một tên quân bộ hạ người Man trong
nhóm cho chúng tôi biết chữ ấy có nghĩa là "Vùng đất trời che chở".
Dù chẳng có phiến dá dãi dầu trơ gan cùng tuế nguyệt này thì chúng tôi cũng là
những kẻ xa lìa nhân cảnh lâu rồi.
Chúng tôi đi trinh sát một hồi mới
lại tìm thấy dòng nước khi nãy chảy xiết vào sơn động, vắt ngang vùng chúng tôi
đang đứng, đối diện là một cái hào nước không thể nào vượt nổi.
Quanh núi cả nghìn dặm, nhìn hút mắt
cũng chẳng thấy một cái cầu, dù là cầu đá, cầu gỗ,
tuyệt đôi không có cái nào. Đối diện toàn là vách núi thẳng băng, cho dù có cầu
cũng vô dụng. Tựa hồ người dân núi dựng cái đập nước này chủ yếu là để phòng
ngự quân sự, chứ mục đích chẳng phải dùng để trồng cấy gì mà lại muốn dùng cả
giải núi này tạo thành một tòa thành trì kiên cố không thể công phá nổi.
Ở mé Bắc lẽ ra phải có một cửa đi vào mới phải. Chúng tôi
vòng sang phía phải, đi ngược lên phía trên dòng nước. Đi không xa mấy, gai góc
bụi rậm càng dày đặc; chúng tôi lại lạc mất dấu dòng nước. Thoát khỏi vùng bụi
bờ gai góc, chúng tôi thấy một bức tường đá hoa cương cao năm trăm xích, vượt
trổi lên tựa như vách lũy sơn thành, hình thế hoàn toàn do thiên nhiên tạo
thành. Trong đám nham đá khổng lồ ấy có một khe hở, thấp thoáng thấy từng đoạn
bậc đá. Phần rốt cùng của đoạn đường đá ấy lẩn mất trong bóng râm của những
tảng đá lớn. Không ngờ gì nữa, chúng tôi đã tìm thấy lối vào rồi. Nhưng mà, cái
thế tiến lên thì vạn phần nguy hiểm. Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngẩn, đứng ngây ra
một hồi. Tướng quân nói:
- Nơi này, trông rất quái đản, đằng sau là gì khó mà biết
được. Nếu muốn tiến vào cái thành trì thiên nhiên này, e không thể chỉ cậy vào
sức mạnh mà được. Nếu chỉ đánh nhau bằng gươm giáo cung tên thì chúng ta chẳng
sợ gì cả. Nhưng nay bị ở vào vùng lạ lẫm này, ngay cả lối ra cũng chẳng biết
đường nào mà tác chiến. Bọn người ở đây chấc chắn chẳng hoan nghênh người ngoài
tự tiện xâm nhập. Điều ấy rõ ràng chẳng ngờ gì nữa. Nhưng ta vẫn phải thám
thính một phen. Nếu có Bạch Viên trong đó, dĩ nhiên là phải có một trường kịch
chiến. Nếu không, thổ nhân nơi này chắc hẳn hiền hòa, thân thiện. Các bạn nghĩ
sao?
Chúng tôi tán thành dò thám đường
vào. Đi mút con đường có bậc đá, chúng tôi giật mình phát hiện ra đây là một
cái bẫy hãm người - một vùng bằng phẳng rộng ba mươi xích, dễ dàng
hứng chịu toàn bộ tên, giáo ở trên phóng xuống. Chỗ duy nhất có thể núp náu là
sau một tảng đá lớn có mấy xích mà thôi.
Giữa khoảng đám đá tảng lớn ấy, một
lối nhỏ ngoằn ngoèo khoảng mười bộ dẫn đến một cánh cổng bằng gỗ cứng trông rất
nặng nề, cổng đó chắn che cho bên trong, rất kiên cố. Lối vào chỉ có thể đi lọt
từng người. Thật không thành lũy nào xây dựng hoàn hảo và thiết kế xảo diệu
được như thế. Chúng tôi gõ cổng mấy cái, không ai đáp. Lắng nghe kỹ, văng
vẳng từ trong có tiếng đàn bà, trẻ con cười nói. Chúng tôi lại đập rầm rầm vào
cánh cửa và thét gọi mở cổng. Khoảng hai mươi phút sau, trên đám nham thạch ló
ra một cái đầu, hỏi chúng tôi là ai? Vương tham mưu dùng tiếng bản địa bảo họ
rằng chúng tôi là một đoàn thợ săn, tìm đường xuống phương Nam.
Người nọ thụt đầu vào, Phút chốc,
bên trong ồn ào. Chừng chúng tôi ngửa nhìn thì đã thấy mười ba mũi tên lăm lăm
chỉa thẳng vào chúng tôi, Tướng quân bảo họ là chúng tôi không có ác ý, xin họ
mở cổng cho chúng tôi vào.
Chúng tôi đã hãm thân vào tuyệt địa,
không còn cách nào khác. Cổng mở, Vương tham mưu đứng đầu, ngay trước cổng. Ông
quét mắt nhìn quanh. Hai mươi tay cung bày thành hai hàng thế trận thật tuyệt
nhắm thẳng ra cổng. Hàng thứ nhất quỳ, hàng thứ hai đứng. Vương tham mưu thấy
mình chính là bia hứng tên. Trước mặt còn năm, sáu người lăm lăm đoản đao, chia
đứng hai bên cổng, chẳng hề tỏ vẻ hoan nghênh những người mới đến, chỉ ló đầu
vào cổng, ắt bị chém rụng đầu.
Tình hình gay cấn như thế, biết tùy
cơ ứng biến mới là người dũng. Vương tham mưu mỉm cười vui vẻ tiến lên, mấy tay
đao nhất tề xáp lại, rút đao ra khỏi vỏ. Đúng lúc ấy, hai người từ trong nối
nhau chạy vụt ra. Thế là tiếng đao choeng choeng, tên bay vun vút. Trong đám
chúng tôi có ba bốn người rú lên ngã làn ra đất.
Bỗng một tiếng quát vang rền, tiếng
la "Giết" lập tức dừng. Chúng tôi ngẩng nhìn, trên cheo veo đỉnh nham
gần đó, chính là Bạch Viên, đứng oai phong lẫm liệt.
Âu Dương tướng quân rảo bước lên,
Bạch Viên bước xuống bậc thềm đón tiếp:
- Hoàn toàn do hiếu nhầm cả. Âu Dương tướng quân nói. Chúng
tôi định xuống phương Nam. Nêu được gia ơn cho mượn đường đi qua, chúng tôi vô
cùng cảm kích.
Rồi tướng quân giới thiệu một lượt.
- Tôi rất vinh hạnh. Bạch Viên đáp. Các tù trưởng khác bất kỳ
ai đối với oai vọng của Âu Dương tướng quân đều sùng kính đặc biệt. Nhưng Bạch
Viên lại lấy địa vị một chủ nhân kiêu ngạo đối đãi với tướng quân chỉ như một
khách qua đường, không hơn.
Tóc y vấn thành búi tó cũng như các
thổ nhân khác, đi chân đất. Tuy lông mày trắng rợn người, song lại có vẻ uy
nghiêm, ung dung tự tại khác thường.
- Vì ông là khách của tôi, tôi đề nghị ông ra lệnh cho bộ hạ
của ông buông bỏ đao thương cung tên xuống. Nhìn xem, tôi có đem một tấc sắt
nào đâu. Nói xong, y phá cười vang dội.
- Chúng ta đều là bạn. Bạch Viên nói tiếp. Trước nay, ông chưa
từng thấy quốc gia của tôi, chắc hẳn rất vui lòng đi thăm một chuyến chứ?
Âu Dương tướng quân bảo chúng tôi
buông vũ khí. Bạch Viên thấy vậy thích chí lắm; đối đãi với chúng tôi rất thân
thiết. Những người bị thương được vực dậy.
- Tôi thấy quốc gia của y mà lòng dấy
lên một cảm giác khó tả. Cả một giải cao nguyên mênh mông, núi non bao quanh
chót vót, cam quýt xum xuê, bưởi chanh thơm ngát, nơi nơi đồng lúa, chẳng khác
nào Bồng Lai tiên cảnh, không khí mát mẻ sảng khoái, khác hẳn không khí bức sốt
ngoài kia.
Sơn cốc quang quẻ tươi sáng, cây cối
hoa cỏ mơn mởn tốt tươi, khiến tâm thần ta lâng lâng khoan khoái, hứng khởi
thêm lừng, như thể đột nhiên lạc vào một thế giới mới mẻ. Nhà nhà đều dựng bằng
gỗ Tô Phương Mộc, mái lợp lá khô. Sàn nhà lót ván cách mặt đất chừng vài xích.
Phụ nữ và lũ trẻ con ở trần chơi giỡn vui đùa dưới ánh dương quang tưng bừng.
Những con chim anh vũ trắng như tuyết và đỏ như son bay liệng chấp chới trên
cành cây. Ở cái thế giới xinh đẹp tuyệt diệu này tưởng chừng không thể nào có
tội ác được.
- Phong cảnh quý quốc đẹp ghê! Âu Dương tướng quân vừa khách
khí vừa chân thành khen ngợi. Thật mới đáng yêu làm sao!
- Mà biên cương cũng rất hiểm yếu nữa chứ, phải không? Bạch
Viên cười sảng khoái nói tiếp.
Nhà Bạch Viên làm bằng các đồ gỗ
nặng, chắc, sàn lót bằng những súc ván thô dày, có những tấm ván dùng làm băng
ghế, Một tấm ván lớn bằng gỗ vàng tâm dùng các cành cây đóng thành bàn. Ngoài
ra trong nhà chẳng có đồ đạc gì khác. Một đám đông hiếu kỳ cười nói ồn ào kéo
đến xem bọn khách sống chúng tôi. Trong đám họ, chúng tôi thấy có cả những
người đàn bà Trung Quốc. Đã sang giờ Ngọ, họ chuẩn bị cơm nưức, mùi thức ăn cay
thơm ngon lành, hình như là món chiên xào, trong đó có các thứ rau, hương liệu
và lòng heo...
Bạch Viên có mấy vợ đều gọi là mỹ
nương, họ không giống như những phụ nữ Trung Quốc chỉ ở ru rú trong khuê phòng.
Tướng quân không nói chuyện mình bị mất vợ yêu. Có điều tôi thấy trong bữa tiệc
trưa ấy, lúc cùng chủ nhân cười nói, trông ông có vẻ căng thẳng.
Bạch Viên đề nghị sau bữa ăn trưa sẽ
dẫn tướng quân đi thăm khắp cảnh bên ngoài. Có lẽ Bạch Viên muốn chứng tỏ cho
khách — hoặc tù nhân (tôi cũng không rõ thật sự chúng tôi là khách hay tù nhân)
— của y biết rằng chạy trốn khỏi đây là điều vô vọng. Con quái vật này tuy nặng
đến cả trăm ký, nhưng hành động lại mau lẹ, nhẹ nhàng vô cùng. Nửa thân trên
nặng nề, hai vế chân hơi gầy một chút, đặc biệt thích ứng với việc đi lại vin
trèo ở nơi rừng núi, do đó thích nghi đặc biệt với sinh hoạt chốn rừng bụi.
Không biết duyên cớ gì mà màu sắc ánh sáng trong hẻm núi này soi vào đôi lông
mày trắng trên bộ mặt đỏ hồng của y trông dễ sợ đến không thể tưởng tượng được
như thế. Những nếp nhăn sâu quanh miệng và đôi má, gân nổi mạnh mẽ trên hai
cánh tay khỏe, bộ ngực nở nang dầy. Toàn thể biểu hiện một sức khỏe vũ
dũng vô song. Y dương dương đắc ý, vui khoái hả hê, như thể chẳng còn thiếu một
thứ gì trên đời, cứ như thể không hề bắt cóc vợ người khách của y vậy.
Tù trưởng và tướng quân đi trước.
Vương tham mưu, tôi và những người khác theo sau. Tướng quân thấy một người đàn
bà khoảng ba mươi tuổi dắt con nhỏ đứng ngoài cửa, ông hỏi Bạch Viên:
- Chắc cô kia là người Trung Quốc phải không?
Phải, chỗ chúng tôi cũng có một ít
đàn bà Trung Quốc. Ông có thích đàn bà đẹp không? Bạch Viên hỏi như thể không
để tâm đến chuyện vừa rồi.
Người đàn bà nọ nhìn chúng tôi lặng
lẽ, chúng tôi tiếp tục đi tới.
- Con cái của phụ nữ Trung Quốc xinh xắn hơn. Bạch Viên nói
tiếp. Ông nghĩ xem, còn gì sướng bằng lấy được đàn bà đẹp làm vợ.
Đàn ông nước chúng tôi thích vợ đẹp. Tôi rất muốn làm cho nhân dân của tôi sống
sung sướng. Nước tôi đây vật gì cũng có: nào cá, nào chim thú săn, nào gà vịt,
gạo... Chúng tôi chẳng cần dùng tiền, tôi cũng chẳng bắt nhân dân đóng thuế. Họ
lưới được cá lớn thì ăn cá lớn, lưới được cá nhỏ thì ăn cá nhỏ. Nếu ông bằng
lòng ở nán lại đến sáng mai, tôi sẽ dẫn ông đi xem nơi đánh cá của chúng tôi.
Chúng tôi chỉ thiếu muối, đàn bà... à và cả dao nữa.
- Thiếu đàn bà là thế nào? Tôi thấy đàn bà ở đây cũng khá đông
đấy chứ? Tướng quân hỏi, tôi biết ông đang dè dặt lái câu
chuyện vào đề.
- Không đủ đâu. Chúng tôi có hơn ba trăm đàn ông mà đàn bà thì
chỉ nhỉnh hơn hai trăm. Ông nghĩ xem vùng cao nguyên màu mỡ như thế này, ít
nhất cũng có thể nuôi được trên nghìn người chứ. Tôi rất mong thấy cả quốc gia
này, y nói, đồng thời tay khoát một vòng rộng,
đông đầy nhân dân, những nhân dân đẹp đẽ tươi tốt. Vậy mà, đàn bà của chúng tôi
không đủ.
- Thế ông giải quyết việc này cách nào? Tướng quân ngạc nhiên
hỏi.
Đại khái ở đây chúng tôi có ba trăm
đàn bà, ấy là kể gộp cả những người lớn tuổi. Nhưng tôi đâu cam chịu. Vì chỉ
những phụ nữ từ mười tám đến bốn mươi lăm tuổi mới có thể sinh đẻ. Đàn bà Trung
Quốc rất mắn con, đẻ rất nhiều, có một cô mười năm trước tôi đem về đây đã đẻ
liền liền một hơi bảy đứa con, đều lớn khỏe cả. Không hiểu sao đàn bà nước tôi
chỉ đẻ được hai, ba con là cùng. Tôi rất thích đàn bà nước các ông.
- Làm cách nào ông có được họ? Bắt cóc họ về ư? Lời tướng quân
dần dần sát vào đề.
- Không phải bắt cóc, tôi chỉ đem họ về thôi. Nếu người khác
có khả năng thì họ cũng có thể đến đem đàn bà của chúng tôi đi. Nhưng mà... họ
cứ thử xem?
Bạch Viên ngừng nói, cười một tiếng:
- Bọn các ông thật buồn cười. Tôi nói, ông đừng giận nhé, trai
gái các ông toàn do cha mẹ đứng ra dựng vợ gả chồng, tôi thật chả hiểu ra sao
cả. Nếu chẳng phải đích thân tôi đem cô dâu
về nhà thì tôi chẳng thèm cô ả đâu.
- Vậy ông cho cách của các ông hay hơn của chúng tôi à?
Bạch Viên sửng sốt ngó tướng quân:
- Làm thế mới vui nhộn và thú vị chứ. Này nhé, ông gặp một cô
nàng, ông yêu thích cô ta, ông cầu cha mẹ tìm cách rước cô ta về nhà một cách
êm êm thắm thắm, việc gì chú rể cũng chẳng phải động tay chân. Như thế thật
chán phèo.
- Tướng quân cảm thấy rất bực, tranh luận việc "cưới
cướp" với Bạch Viên chẳng khác nào đâm bị bông, chỉ hao hơi mỏi miệng.
- Ông dùng bạo lực cướp phụ nữ Trung Quốc về đây à? Ông nên
nhớ việc ấy chính phủ chúng tôi không cho phép đa!
Bạch Viên cười vang, như thể chính
phủ Trung Quốc đối với y chẳng mùi mẻ gì.
Chuyện đến đây, chúng tôi đã đi đến
đỉnh gò. Đứng ở đây, có thể nhìn trọn vẹn cả một vùng cao nguyên, sắc cây cỏ ở
bên kia đậm nhạt khác hẳn bên này, tự nhiên lại trông thấy rõ dòng sông. Hai
nhánh Đông Tây của dòng sông chảy ôm lấy
cao nguyên rồi ngừng lại ở vùng núi cao là vùng Tây Bộ, Bắc Bộ nơi bắt đầu mọc
lên các ngọn núi đá.
Nêu thật sự Bạch Viên có ý muốn ngầm
báo cho chúng tôi biết địa thế của nước y hiểm yếu thì y đã được như nguyện rồi
vậy.
Tỏi hôm ấy, Bạch Viên bày tiệc khoản
đãi, có thịt gà rừng, chim trĩ và cuối cùng là món ba ba. Y cực kỳ trịnh trọng,
mình mặc một cái áo da màu vàng sẫm, ngoài khoác một cái áo chẽn da voi màu
hung gụ, da nịt hai cùi tay, nhìn toàn bộ hình như là khôi giáp, rõ là đao tên
không xâm phạm nổi. Mười hai người cầm trường thương đứng xây lưng vào vách.
Bầy vợ của Bạch Viên lãng xăng qua lại bàn tiệc để tiếp thức ăn.
Chúng tôi không dám dò hỏi thôn dân
về tin tức vợ của Bạch Viên, e nhiệm vụ của chúng tôi bị người biết. Nhưng chắc
Bạch Viên cũng đã sớm biết ý định đến đây của chúng tôi rồi. Suốt
bữa tiệc, Âu Dương tướng quân sốt ruột vô ngần, còn Bạch Viên hình như cũng lộ
rõ từng bắt cóc vợ của tướng quân.
Bất chợt chúng tôi nghe tiếng đàn bà
kêu ré lên, tướng quân nhận ra ngay tiếng vợ, lập tức đứng phắt dậy. Thì ra lợi
dụng lúc bọn đàn bà mải mê công việc, phu nhân tướng quân thấy có cơ hội trốn
chạy liền vụt chạy ra, nhưng liền bị bọn đàn bà khác lôi lại. Vừa nhìn thấy
chồng, nàng liền nhào vào lòng chồng, khóc rống thế thảm.
Tướng quân hết sức vỗ về an ủi, bảo
nàng hãy nín lại đã. Bạch Viên chỉ đứng bên cạnh ngó nhìn.
- Vị phu nhân này là vợ tôi. Âu Dương tướng quân nói, bình
tĩnh đón đợi mọi bất trắc.
- Không, không phải. Bạch Viên giả vờ kinh ngạc nói.
Việc này thật khó xử a!
- Tù trưởng! Tôi đến quý xứ như một người bạn. Tôi dời quý xứ
cũng vẫn muốn như một người bạn. Xin ông để tôi đưa vợ tôi về thôi!
- Vật gì ta đã được, vĩnh viễn chẳng cho ai. Ông không được
đem cô ấy đi, cô ấy đã là của ta. Ta không thể
trả lại, như thế rất xui xẻo.
Mặt Bạch Viên bỗng lộ vẻ dữ dằn dễ
sợ, tay nắm lấy bao đao:
- Vệ sĩ! Y quát lớn. Bọn vệ sĩ lập tức rút đao ra một loạt.
- Đừng quên tôi là khách của ông. Âu Dương tướng quân nói lời
như chém đinh chặt sắt, mắt găm thẳng
vào kẻ địch. Ông biết rõ thổ nhân có lệ rất nghiêm là đối với khách
rất giữ lễ.
Tay Bạch Viên buông thõng xuống. Y
tiến lại trước mặt tướng quân nói:
- Tôi xin lỗi vì việc vừa rồi. Nhưng vì tôi cai quản tệ xứ
cũng như tướng quân cai quản quý xứ vậy. Tôi khuyên ông đừng nên nghĩ đến
chuyện cướp lại nàng. À mà hình như ông là tay thần tiễn thì phải?
- Cũng tàm tạm thôi! Tướng quân trả lời với vẻ kiêu ngạo.
- Được, vậy mai, chiếu theo tục lệ của chúng tôi, chúng ta sẽ
giải quyết việc này một cách đường đường chính chính. Y nói rồi đi lại gần phu
nhân nói. Trước khi giải quyết xong, nàng vẫn là của tôi.
Phu nhân sợ run lẩy bẩy, không biết
sẽ xảy ra việc gì.
Tướng quân bảo vợ:
- Không đến nỗi nào đâu, anh sẽ tìm cách đưa em về.
Phu nhân liền bị bọn đàn bà lôi đi.
Từ lúc ấy trở đi, không khí căng thẳng, chuyện trò cũng gượng gạo. Ấy vậy mà
xem chừng Bạch Viên chẳng có vẻ gì áy náy lương tâm cả, lời lẽ và cử chỉ vẫn cứ
như một chính nhân quân tử; cố nhiên, chúng tôi biết thêm được phong tục "cưới
cướp" của thổ nhân.
- Những người đàn bà được đem về đây đều là của tôi. Y giải
thích. Nếu sau một năm, ai không sinh con, tôi sẽ tặng cô ta cho người đàn ông
khác. Tướng quân, ông có biết phong tục của chúng tôi không? Y lại giảng giải.
Trong chủng tộc chúng tôi, các thiếu nữ mỗi năm một lần tổ
chức khiêu vũ chọn chồng. Chọn xong sẽ cùng chú rể đưa nhau vào núi, ăn ở với
nhau. Qua năm sinh con rồi mới trở về nhà cô dâu thăm cha mẹ, bấy giờ mới được
kể là đã kết hôn. Nếu không sinh con, cuộc hôn nhân coi như
không thành. Sang năm, đến kỳ khiêu vũ, lại chọn người đàn ông khác. Cứ thế đến
khi nào có chửa hoặc trở thành mẹ mới thôi.
Tướng quân cố hít một hơi, hỏi:
- Nếu cô nào không thể sinh con thì sao?
- Luân lưu thay đổi như thế, rất ít khi không sinh con. Nếu
thật không thể sinh đẻ được thì chẳng ai thèm lấy nữa. Vì vậy, xét về mặt nào
đó, làm cho mẹ con người ta chia lìa chính là phạm tội. Trai gái kết hôn chỉ là
để sinh con, còn người chồng thật ra cũng không đáng kể. Cuối cùng y nói. Ông
thấy những đàn bà ở đây, họ đều là mẹ, họ đều rất hạnh phúc.
Hôm sau tin tức về cuộc thi đấu của
các tình địch được loan truyền. Vì dịp đặc
biệt này, Bạch Viên hạ lệnh trước cuộc thi đấu sẽ cử hành cuộc khiêu vũ kết
đôi. Trai gái và bọn trẻ nít đều diện những bộ quần áo đẹp nhất.
Sáng sớm, bọn thanh niên nam nữ thấy
sắp sửa cử hành khiêu vũ thì mừng khôn xiết, bỏ tất cả mọi công việc, mặc quần
áo lễ hội kéo nhau đi chơi rêu.
Buổi "khiêu vũ chọn đôi"
diễn ra liên tục đến tận khuya. Đến khuya khi các cặp phối ngẫu đã chọn xong,
từng đôi, từng đôi đời khỏi trường múa, dìu nhau vào rừng rậm. Trường khiêu vũ
bây giờ kể như là chấm dứt.
Những cô gái tơ dương dương đắc ý,
túm năm tụm ba đi diễu qua lại, nhìn Đông liếc Tây, nhìn bọn con trai mỉm cười,
hết sức lường xét cân nhắc, để chọn lấy một người cùng mình hưởng thú qua đêm.
Ước khoảng 4 giờ, cuộc thi
đấu [khiêu vũ?] bắt đầu. Bạch Viên và đám vợ con cùng xuất hiện. Âu Dương
phu nhân vẻ mặt sượng sùng cũng đứng lẫn vào trong đám đó.
Bạch Viên mặc áo giáp da voi giống
như áo chẽn, vẻ dương dương đắc ý, gương mặt dãi đầu mưa gió của y dưới ánh mặt
trời càng lộ rõ từng nếp nhăn. Ở bao dao dắt ngang hông ló ra
hai chuôi dao, cuốn bằng dây bạc, dùng đã
lâu, lên nước bóng lộn. Y vui vẻ hớn hở trông nghiễm nhiên như một đế vương.
Mở đầu cuộc khiêu vũ rất lộn xộn,
trật tự cũng không lấy gì làm tốt. Những tay trống vỗ trống da rắn ngồi ngay
trung tâm bãi múa quanh một cột cờ cao hơn năm mươi xích. Hai người thổi tù và
dài khoảng hơn năm xích, hình dạng giống như cái loe kèn, thổi những điệu trầm
dài đến ngoài nửa dặm cũng nghe thấy. Bọn võ sĩ cầm thương đứng trên mặt đất.
Các cô đan tay nhau thành một vòng vây quanh cột cờ nhảy múa. Những giải thắt
lưng hồng thêu rất tinh xảo đẹp đẽ thắt bên mình các cô bay phơi phới. Mỗi cô
gái đều có một giải thắt lưng cưới màu hồng tự mình ra công thêu thật khéo đẹp.
Các bà mẹ đứng ở vòng ngoài nhìn xem. Bọn thanh niên trai trẻ đứng thành vòng
vỗ tay hoan hô.
Nếu cô gái nào thấy chàng trai mình
yêu thích liền lượn ngang chàng, giơ tay vẫy vẫy. Nếu chàng trai cũng yêu thích
cô nàng thì sẽ vớ lấy giải đây của nàng rồi cùng nàng nhảy. Cứ thế, tán tỉnh,
đùa vui, cười nói, ca hát. Cứ thế, thành cặp càng lúc càng nhiều. Bọn con trai
ở vòng ngoài nhảy múa, rồi lại kéo giải thắt lưng hồng của người bạn múa. Âu
Dương phu nhân đứng ngoài say sưa theo dõi, Âu Dương tướng quân càng lúc càng
bứt rứt, còn Bạch Viên tỏ ra rất hả hê, cười vui uống rượu, chăm chú xem không
chút lo lắng. Vì giả dụ sự việc xảy ra tệ nhất, bất quá y cũng chỉ mất một
người vợ là cùng.
Sau đó, Bạch Viên quay bảo Âu Dương
tướng quân:
- Tôi biết ông là một viên đại tướng, tôi không muốn có chút
xíu nào bất công cả. Chúng ta cứ theo lễ xưa của nước chúng tôi hễ kẻ nào giỏi
hơn thì thắng.
Bạch Viên mượn giải dây
lưng của một người vợ y để giải thích cách thức thi đấu. Biện pháp này chỉ dùng
khi xảy ra trường hợp hai người đàn ông tranh nhau một người đàn bà.
- Giải dây lưng rộng cỡ
bốn, năm thốn, trên thêu hình một con rắn. Buộc giải đây này trên đỉnh ngọn
sào, ai bắn tên gần mắt rắn thì người ấy được người đàn bà.
Giải dây nọ bây giờ đã được buộc
trên đầu cột cờ, đang tung bay phơi phới trước
gió. Đàn ông, đàn bà, trẻ con đứng chung quanh để chứng kiến một trường náo
nhiệt. Loại thi đấu này rõ ràng nghìn năm một thuở, khó gặp hai lần.
- Chúng ta đứng cách một trăm bước nhé, ông nghĩ sao? Bạch
Viên hỏi.
Tướng quân do dự một chút rồi bằng
lòng. Mục tiêu nhỏ như thế, vả lại ở giữa không trung quẫy động, bắn trúng
tưởng cũng đã là may mắn lắm rồi, có thể gọi là tuyệt kỹ vậy.
Tướng quân lựa lấy một bộ cung tên
thật tốt. Đám đông đứng ở xa thúc trống không ngừng, không khí khẩn trương
nhiệt liệt. Hiện giờ Âu Dương phu nhân cũng biết nàng có được tự do hay không
hoàn toàn trông vào tài cung tên của chồng.
Âu Dương tướng quân là tay xạ thủ
lão luyện, đã từng từ xa bắn trúng chim đang bay. Nhưng chim thì đều bay về
phía trước. Ông nhắm chuẩn vào cổ rắn chỗ gần cột cờ nhất. "Vút" một
tiếng, vi giải cờ dài quẫy lộn, mũi tên bắn hụt bay tuốt về xa.
- Ông không nhận kỹ hướng gió rồi. Bạch Viên khoái trá phê
bình.
Phát thứ hai, may mắn hơn, tên ghim
trúng giải dây gần cổ rắn. Bạch Viên
kêu lên:
- Hay a! Hãy bắn phát nữa đi.
Phát tên cuối cùng hoàn toàn không
trúng.
Bạch Viên bây giờ bước rảo lên, bật
thử dây cung vun vút mấy tiếng. Cây cung dài trong tay y trông như món đồ chơi
của trẻ con. Y tỏ ra rất vui sướng. Hôm nay có dịp so tài cung tên với một vị
đại tướng Trung Quốc. Y đứng thật ổn định, bất động. Tên lắp trên dây
chỉ chờ dịp phóng ra. Nghiêng đầu, có vẻ rất công phu, toàn tinh thần dốc vào
mắt, mắt lại gắn chặt vào mục tiêu. Vừa thấy giải cờ lơi lơi hơi rũ xuổng tức
thì "vút" một tiếng, mũi tên vút đi ghim ngay đầu rắn.
Nhân dân hoan hô rền như sấm, những
tay trống giáng thẳng cánh muốn thủng mặt trống. Hạ cờ xuống kiểm nghiệm kỹ thì
tên bắn trúng không còn ngờ gì nữa.
Âu Dương tướng quân nén thở, nghẹn
ngào nuốt hận; phu nhân thì nước mắt chan hòa cả mặt. Cứ công bằng mà phán xét,
đành phải chấp nhận kết quả.
- Xin lỗi nghe! Bạch Viên nói. Thật ra ông bắn cũng không tồi.
Âu Dương phu nhân òa khóc. Lúc ly
biệt, cảnh thảm không nỡ nhìn. Tướng quân nghiến răng cố trấn tĩnh.
Vũ khí để ở ngoài cửa động để chúng
tôi lúc về thu nhận mang theo. Bạch Viên đích thân tiễn tận cổng, tặng cho
tướng quân một cái trống đồng xưa.
- Đừng buồn, tướng quân ạ. Sang năm, nếu muốn, cứ trở lại, tôi
rất sẵn sàng đón tiếp. Lúc ấy nếu vợ mới của tôi chưa sinh con thì tôi sẽ trả
lại cho ông.
Năm sau, chuyện xảy ra hết sức ly
kỳ. Âu Dương tướng quân lại đi thăm vợ thì nàng đã sinh với Bạch Viên một đứa
con trai. Ông hết sức kinh ngạc, nàng giờ ăn mặc như một thổ nhân, hai tay bồng
đứa bé rất đắc ý khoe ông, bảo ông ngắm nhìn khiến tướng quân bừng bừng lửa
giận:
- Anh chắc có thể khuyên tù trưởng thả em về với anh.
Tướng quân bảo nàng.
Nhưng phu nhân rất kiên quyết nói:
- Thôi khỏi. Anh cứ về một mình thôi. Em không xa con được. Em
là mẹ của con mà.
- Em có ý muốn ở lại đây à? Anh tưởng em không thích tù trưởng
chứ. Chả lẽ em yêu hắn sao?
- Em không biết. Ông ta là cha của con em. Anh về một mình
thôi. Em ở đây vui sướng lắm.
Tướng quân sững người há miệng,
không biết nói sao. Một lúc sau, ông ngẫm nghĩ thì ra biện pháp của Bạch Viên
không ngu xuẩn như ông tưởng. Không ngờ gì nữa, Bạch Viên đã chiến thắng ông
rồi. Ông biết tại sao và vì duyên cớ gì.
Từ lần xấu hổ, nhục nhã ấy, nó giáng
cho ông một đòn quá mạnh. Từ đấy trở đi, ông không còn gượng dậy nổi nữa.
Khuyết Danh
Trích
Thái Bình Quảng Ký
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét