ĐƯỜNG SẮT HÀ NỘI CÔN MINH
DO PHÁP XÂY DỰNG HỒI ĐẦU THẾ KỶ XX (khởi công năm 1904, khánh thành năm 1910)
Trong thế kỷ 19, chính
quyền thực dân Pháp đã tích cưc phát triển mạng
lưới mậu dịch và một cơ sở hạ tầng giao thông hữu hiệu giữa Đông Dương và Tây
Nam Trung Quốc. Động cơ chính cho nỗ lực này là tạo thuận lợi cho việc xuất
khẩu hàng hóa châu Âu sang Trung Quốc. Xây dựng một tuyến đường sắt, Pháp có
thể truy cập vào tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản và thuốc phiện của Vân Nam,
đồng thời mở ra thị trường Trung Quốc rộng lớn cho các sản phẩm của Đông Dương
như gạo, cá khô, gỗ và than đá.
Trước
khi xây dựng tuyến đường sắt, các cơ quan phương Tây ước tính thời gian để đi
từ Hải Phòng (cảng biển gần nhất đến hầu hết địa bàn Vân Nam) đến Côn Minh suôn
sẻ nhất cũng phải 28 ngày: 16 ngày bằng tàu thủy động cơ hơi nước và sau đó lên
một chiếc thuyền nhỏ trên Sông Hồng. đển Manhao (685 km), sau đó 12 ngày đường
bộ (312 km).
Đường
sắt Vân Nam-Việt Nam từ Hà Nội (Việt Nam) lên, vượt qua sông Hồng đến Hà Khẩu,
thành phố biên giới phía Trung Quốc, và từ đó đi thẳng lên phía bắc đến Côn
Minh. Với chiều dài toàn tuyến là 800 km, đoạn trên đất Vân Nam giữa Hà khẩu và
Côn Minh là 465 km.
Vào
cuối thế kỷ 19, khi người dân Paris còn coi tàu điện ngầm như những con quái
vật ở dưới đất, thì nước Pháp đã giành được từ chính quyền nhà Thanh đặc quyền
xây dựng và vận hành đường sắt ở Vân Nam. Đó là một cuộc cách mạng thế kỷ khi
tỉnh Vân Nam cổ đại và huyền bí chịu chấp nhận nền văn hóa châu Âu và công nghệ
hiện đại khác hẳn với truyền thống Trung Quốc. Trong quá trình xây dựng, cả
người Trung Quốc và chuyên gia phương Tây đều phải trả một cái giá khủng khiếp.
Hà
Khẩu, thành phố cuối cùng ở biên giới phía nam tỉnh Vân Nam đối mặt với Lào Cai (Việt Nam ) ở bờ bên
kia sông. Dự án sáu năm xây dựng đoạn đường sắt dài 465 km từ đây lên phía bắc
(trên lãnh thổ Trung Quốc) được khởi công vào tháng 1 năm 1904.
Với
trình độ công nghệ và nền công nghiệp Pháp cách đây hơn một thế kỷ, việc xây
dựng một tuyến đường sắt dài hàng trăm km qua cao nguyên đất đỏ Vân Nam núi non
trùng điệp cần đến một quyết tâm chính trị lớn cộng với với tầm nhìn, sự dũng
cảm và nỗ lực làm việc rất cao; không có những điều kiện này sẽ không thể nào
thực hiện được một trong những dự án tuyệt vời nhất của lịch sử xây dựng đường
sắt. Tuyến đường sắt này đại diện cho công nghệ - kỹ thuật cao nhất vào đầu thế
kỷ 20. Khoảng 80% chiều dài của tuyến chạy giữa các ngọn núi nguy hiểm và dốc
đứng. Trong khoảng cách đường chim bay chỉ 200 km giữa Hà Khẩu ở cao độ 76 m so
với mực nước biển và Mông Tự ở cao độ 2000m trên mực nước biển, mức chênh lệch
cao độ trên 1.900 m, còn đoạn giữa Baogu đến Baizhai chỉ 44 km mà chênh lệch
cao độ đến 1.200 m, điều chưa bao giờ thấy trong lịch sử ngành xây dựng đường
sắt thế giới.
Để
hoàn thành dự án nhanh nhất vởí chi phí thấp nhất, người ta chia tuyến Hà khẩu
đến Côn Minh thành 12 công đoạn riêng biệt, được thi công đồng thời.
Công
ty xây dựng đường sắt Vân Nam-Pháp đã tuyển dụng hơn 60.000 người Trung Quốc từ
khắp đất nước Trung Hoa và hơn 3.000 kỹ sư Pháp, Mỹ, Anh, Ý và Canada cùng tham
gia xây dựng. Dọc theo tuyến đường sắt dài 465 km này, đã xây dựng 107 cầu
đường sắt vĩnh cửu và 155 đường hầm; đã đào 1.66 triệu mét khối đất, đá và xây
hơn 3.000 cây cầu tạm, cùng với các tuyến đường vận tải cho công trường.
Công việc xây dựng được ví như xây Vạn Lý Trường Thành - 1905 |
Trong hơn sáu năm, số phận của trên 60.000 công
nhân Trung Quốc và 3.000 kỹ thuật viên nước ngoài gắn bó với đường sắt. Những
khó khăn mà họ gặp phải vượt ra ngoài sức tưởng tượng của những người ra quyết
định ở Paris .
Khí hậu ngột ngạt, đặc biệt là xung quanh khu vực thung lũng sông Nam Khê (Nanxi jiang, -楠溪江), nơi nhiệt độ mùa hè có thể vượt quá 40oC; không khí ẩm ướt và ngột ngạt, và thường xuyên tồn tại khả năng xảy ra các bệnh nhiệt đới và bệnh dịch hạch. Thống kê cho thấy trong sáu năm đó, 12.000 con người xấu số đã nằm lại dọc theo con đường dài 465 km này, trong đó 10.000 người chết trong thung lũng sông Nam khê (Nanxi), hầu hết là những người lao động Trung Quốc đến kiếm sống đã bỏ mạng. Cũng có hàng trăm người Pháp và những người nước ngoài khác từ xa đến xây dựng tuyến đường sắt này, đã không bao giờ còn có ngay trở về chốn quê nhà nữa.
Khí hậu ngột ngạt, đặc biệt là xung quanh khu vực thung lũng sông Nam Khê (Nanxi jiang, -楠溪江), nơi nhiệt độ mùa hè có thể vượt quá 40oC; không khí ẩm ướt và ngột ngạt, và thường xuyên tồn tại khả năng xảy ra các bệnh nhiệt đới và bệnh dịch hạch. Thống kê cho thấy trong sáu năm đó, 12.000 con người xấu số đã nằm lại dọc theo con đường dài 465 km này, trong đó 10.000 người chết trong thung lũng sông Nam khê (Nanxi), hầu hết là những người lao động Trung Quốc đến kiếm sống đã bỏ mạng. Cũng có hàng trăm người Pháp và những người nước ngoài khác từ xa đến xây dựng tuyến đường sắt này, đã không bao giờ còn có ngay trở về chốn quê nhà nữa.
Cầu Wishbone |
Một
trong nhiều cây cầu dọc theo tuyến đường là cây cầu sắt kết cấu thép dài 67,15
m trên sông Sicha (Tứ Cáp Hà, -四哈河) ở lưu vực sông Nam Khê (Nanxi). Cấu
trúc thép xinh đẹp và tinh tế này được gọi là "Cầu Wishbone"(Người
Trung quốc gọi là Cầu có dạng chữ Nhân). Cấu trúc này và tháp Eiffel ở Paris đều là những tuyệt phẩm của công nghệ thời đó, nhưng
khác với tháp Eiffel hiền hòa ở thủ đô Paris ,
"cầu Wishbone" đứng doạc cẳng cheo leo giữa 2 vách núi cao vút và dốc
đứng, cả hai đầu cầu đều chui vào đường hầm. Khách đi tầu tưởng như đang khiêu
vũ với tử thần, nhưng trong thực tế từ khi hoàn thành vào năm 1909 đến nay, cầu
nầy chưa bao giờ gây sự cố bất lợi cho giao thông đường sắt, và hầu như cũng
chưa phải thay một cái bu-lông nào.
Từ
trong rừng lao ra với tiếng còi "wooh wooh" vang rền của nó, đoàn tàu
với đầu máy động cơ hơi nước như cây “gậy rút đất” trong chớp mắt đưa Vân Nam
từ xa về gần gũi với thế giới. Và từ lúc đó Côn Minh yên tĩnh đã trở thành một
thành phố trên các động mạch giao thông quốc tế; ngày và đêm con tàu tiên tiến
chạy bằng hơi nước của Pháp như con thoi đưa giữa Hà khẩu và Côn Minh, mang lốp
cao su Michelin và xe hơi đến.
Các
đoàn tàu chở các loại hàng hóa phương Tây khác nhau đến cho người dân miền nam
Vân Nam ,
và làm cho thị trường hàng hóa của Côn Minh trở nên phong phú. Các gia đình khá
giả đua nhau dùng đồng hồ "quả quít" bỏ túi và bàn là, phụ nữ mang
bít tất nylon, bánh mì Pháp xuất hiện trên bàn ăn; sau đó, ở các thị trấn dọc
theo đường sắt, cốc cà phê đen vị đắng đã trở thành thức uống được lựa chọn cho
các cụ già khi khi chuyện trò đàm đạo.
Từ
năm 1911 đến 1912, thông qua tuyến đường sắt này mà Vân Nam đã gửi những nhóm
sinh viên đầu tiên đến du học ở châu Âu và châu Mỹ. Năm 1912, Vân Nam xây dựng
trạm thủy điện đầu tiên tại Đập Shilong (Thạch Long), đã nhập khẩu các máy phát
điện Đức qua đường sắt này.
Năm
1918, Côn Minh giới thiệu công nghệ và thiết bị Pháp để xây dựng các công trình
cấp nước sinh hoạt, và đã trở thành thành phố đầu tiên ở Trung Quốc có nước
máy. Năm 1923, các mạng điện báo và điện thoại được thiết lập ở Côn Minh và các
đơn vị trọng lượng quốc tế đã thay thế hẳn đơn vị “cân” truyền thống của Trung
Quốc.
Các nhà ga trên tuyến đường khá đơn sơ, mang dáng dấp châu Âu |
Đồng
thời, Đường sắt Vân Nam -
Việt Nam
cũng mang kiến trúc, văn hóa, tôn giáo và nghệ thuật theo phong cách Pháp đến
các thành phố dọc theo tuyến đường của nó.
Xe
lửa chạy tuyến đường này hoạt động cho đến năm 2000 thì phía Trung Quốc đình
chỉ cho nên sau đó tàu từ Hải Phòng lên phải dừng ở Lào Cai. Đoạn đường bên
Trung Quốc bỏ hoang. Lý do nêu ra là đường ray này khổ hẹp (1,000m), chính phủ
Trung Quốc có kế hoạch đến năm 2015 xây dựng lại chặng đường sắt từ Côn Minh
đến biên giới Việt Nam theo khổ tiêu chuẩn quốc tế (1,435m), để tạo cơ sở cho
việc lập một tuyến đường sắt liên Á theo kế hoạch sẽ nối từ Côn Minh đến
Singapore.
Hiện
nay (7/2017), trên đoạn Côn Minh – Hà Khẩu, Trung Quốc đã chuyển sang khai thác
tuyến đường sắt đôi khổ lớn 1,435m, cho phép tàu chạy quay vòng với khả năng
khai thác có thể lên đến 30 chuyến tàu/ngày đêm. Việt Nam vẫn còn sử dụng đường sắt đơn
khổ 1m với tần suất khai thác trung bình từ 18,19 chuyến tàu/ngày đêm.
Thị trấn biên giới bên sông Hồng |
Tàu
chạy từ Côn Minh đến biên giới Việt - Trung sẽ phải dừng lại dỡ hàng sau đó xếp
lên tàu Việt Nam
từ biên giới Việt - Trung về Hải Phòng, và ngược lại. Đây là chưa kể đến “tải
trọng trên mét” của đường sắt khổ rộng Trung Quốc lớn hơn rất nhiều so với
đường sắt khổ hẹp hiện có của Việt Nam .
(nguồn FB GS Nguyễn Văn Ngọ)
Các bài cùng chuyên mục.1. Đường sắt Vân Nam -Việt Nam (1)
2. Đường sắt Vân Nam - Việt Nam (2)
3. Đường sắt Vân Nam - Việt Nam (phần cuối)
4. HÌNH ẢNH ĐƯỜNG SẮT VÂN NAM- VIỆT NAM
Một bài viết rất thú vị. Xin cảm ơn.
Trả lờiXóa