La Vang là một Thánh địa tôn nghiêm của những người Việt Nam theo
đạo Công giáo, nằm ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Trung tân Thánh địa là một
nhà thờ được xây dựng lại vài lần và là nơi hành hương quan trọng
của những người Công giáo Việt Nam. Thánh địa La Vang được Tòa thánh Vatican
phong là Tiểu Vương Cung Thánh Đường La Vang.
Thánh đường La Vang được biết đến với tuổi thọ đã 200 năm tuổi.
Cũng giống như thánh địa Mecca của những người theo đạo Hồi, La Vang rất được
du khách mộ đạo tìm đến cầu nguyện.
Tâm thức thờ Mẫu hay Mẹ Cả là phổ biến trong mọi nền văn hóa. Đơn
cử việc sùng bái các di tích Thánh Mẫu Maria trên thế giới đã khiến các di tích
này trở thành tâm điểm hành hương của tín đồ Thiên Chúa giáo, như Lourdre
(Pháp), Fatima (Bồ Đào Nha), Plaza del Pilar (Tây Ban Nha), Guadalupe (Mexico)…
Ở Việt Nam, cách thị xã Quảng Trị vài cây số, ở huyện Hải Lăng, La Vang không
chỉ là một thánh địa hành hương của người Công giáo Việt Nam…
Trải qua nhiều thăng trầm, La Vang nhiều lần phải tái thiết. Trong
các cuộc tái thiết đó, quần thể tượng ở thánh địa này là công trình sáng tạo
của điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ (còn gọi là Bernard Huệ, sinh năm 1936 ở Huế)
cùng với sự cộng tác đắc lực của người học trò tài ba của ông là Mai Chửng. Khi
ấy Lê Ngọc Huệ mới tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Montpeller (Pháp), đang
là giáo sư Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế, ông đã thổi một luồng gió mới của chủ
nghĩa hiện đại vào điêu khắc Việt Nam.
Quần thể tượng được thực hiện từ năm 1961-1962, gồm 15 pho đặt
trên bệ, chất liệu tổng hợp từ xi măng trắng, nằm dọc cân xứng hai bên đường
lát đá và rải thảm cỏ từ cổng tam quan đi vào trong khuôn viên Công trường Mân
côi. Diện tích công trường 30 x 480 mét. Khuôn viên này dẫn đến đền thờ và lễ
đài ngoài trời, cũng là hình ảnh thu nhỏ của đàn tế Nam Giao ở Huế.
Cây đa nhân tạo bằng bê-tông của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, tượng Mẹ đứng giữa 3 cây đa khổng lồ tượng trưng cho Ba Ngôi (ngôi Cha, ngôi Con ngôi Thánh Thần) và như một thế tam tài (Thiên Địa Nhân) của triết học Đông phươngMùa Hè năm 1972, công trường Mân Côi bị bom đạn cày xới lỗ chỗ, một số bức tượng bị tan nát hoặc bị sứt mẻ trầm trọng. Chỉ còn ba cây đa nhân tạo nơi đài Đức Mẹ là vẫn đứng vững, nguyên vẹn. Dấu tích hoang tàn kéo dài đến năm 1975. Từ năm 1995, Công trường Mân Côi đã được tái thiết hầu như nguyên trạng ban đầu với thành rào bao quanh, sân cỏ, trồng cây, đèn cao áp, lối đi được lát gạch chạy thẳng từ cổng tam quan đến lễ đài, và quần thể tượng bị hư hại cũng đã được phục chế.
Cuộc cách tân về tư duy điêu khắc
Chủ đề 15 pho tượng của Lê Ngọc Huệ tương ứng với sự chiêm ngắm 15
mầu nhiệm Mân Côi gồm 5 sự vui, 5 sự thương và 5 sự mừng. Về mặt nghệ thuật,
nhóm tượng La Vang lần đầu tiên mang phong cách hiện đại trừu tượng vào điêu
khắc hiện đại Việt Nam, mà ở đây là sự kết hợp những khối hình học được tinh
giản và cách điệu hoá, đạt tới mức vừa trừu tượng vừa cụ thể, cũng là trào lưu
của nghệ thuật hiện đại phương Tây, vốn trở về việc tái tạo nghệ thuật nguyên
thuỷ của các nền văn hoá. Tuy vậy, quần thể tượng vẫn chủ ý giữ tính tượng
trưng và biểu hiện để gần gũi với quần chúng hơn.
Điều đáng kể ở đây, không chỉ có sự cách điệu hình khối, Lê Ngọc
Huệ đã nỗ lực đem đường nét vào trong điêu khắc để tạo hiệu quả về bóng sáng
tối giữa các mảng hoặc khối với tiết điệu đầy thi vị, vừa như phương tiện dẫn
dắt thị giác tập trung vào ý nghĩa hàm súc trong từng pho tượng khi chiêm
ngắm.
Xem kỹ quần thể tượng với 3 bộ thì thấy mỗi bộ về hình thể điêu
khắc súc tích được cái ý tưởng cốt yếu của từng chủ đề. Ở bộ 5 sự vui điêu khắc
chủ yếu dùng những đường nét cong đầy nữ tính, hình khối tròn mềm mại, hài hoà,
khi vận dụng đường uốn lượn nhịp nhàng của cử động và y phục. Điều này phù hợp
với những chủ đề giàu tình cảm như cảnh thiên thần truyền tin hoặc tình cảm
giữa người nữ với nhau, việc sinh đẻ, tình mẹ con. Điêu khắc trong bộ 5 sự
thương lại chủ yếu dùng những mẫu khối hình học lập thể táo bạo và mãnh liệt
thích hợp để diễn tả nỗi khắc khoải và thống khổ vừa trong nội tâm và thể xác
của Chúa trong cuộc khổ nạn. Còn với bộ 5 sự mừng, những đề tài hân hoan, thăng
hoa và tôn vinh, thì hình khối điêu khắc hầu hết trở về với hình khối mang tính
tượng trưng, với đường nét tròn đầy của nữ tính để diễn tả trạng thái viên mãn,
nhất là với các bức thể hiện Đức Mẹ.
Quan trọng, dù ít người biết
Lê Ngọc Huệ từng ở trong uỷ ban chuyên môn về mỹ thuật trong cuộc
Triển lãm Mỹ thuật đệ nhất, gồm 22 quốc gia, tổ chức tại công viên Tao Đàn, Sài
Gòn vào tháng 10/1962. Tại cuộc triển lãm này, Lê Ngọc Huệ và Điềm Phùng Thị là
hai nhà điêu khắc quan trọng nhất của Việt Nam được mời gởi tác phẩm. Cả hai
ngẫu nhiên trùng phùng qua hình tượng trụ cột tâm linh hướng tới những khát
vọng hoà bình, gia đình và tổ tiên: Lê Ngọc Huệ với Trụ cột hòa bình, Điềm
Phùng Thị với Trụ thần vật,ví như những trụ vật tổ (totem poles)
hay trụ tượng nhà mồ Tây Nguyên ngày đêm đứng canh giữ giữa cõi sống và cõi bên
kia là nơi cư ngụ của tổ tiên. Chúng ta hầu như không có thông tin về hoạt động
nghệ thuật của nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ kể từ sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm
năm 1963; ông đã sang Pháp sau đó.
Tác phẩm của Lê Ngọc Huệ để lại tuy chỉ trong một giai đoạn ngắn
nhưng có những giá trị đóng góp lâu dài đối với nghệ thuật điêu khắc hiện đại
Việt Nam. Quần thể tượng là 15 đóa hồng mầu nhiệm chất chứa nhiều trạng thái
cảm xúc từ bi tráng đến thăng hoa của con người, vượt cảnh giới thế tục qua sự
cứu chuộc của tôn giáo và nghệ thuật, và nằm trong một không gian và thời gian
kết tinh của tâm linh qua những thăng trầm của lịch sử.
Có lẽ không tình cờ khi Quảng Trị là nơi 21 năm phân cách hai miền
Nam - Bắc với vĩ tuyến 17; nơi có dòng sông Thạch Hãn đẫm “mồ hôi của
đá”; nơi trải qua nhiều tang thương của hơn 200 năm phân tranh Trịnh - Nguyễn,
“Mẹ thương con ra cầu Ái Tử”; nơi được mệnh danh là “con đường buồn thiu” trong
chiến tranh 1946-1954; và cuối cùng là nơi gánh chịu điêu tàn nhất của thời
1960-1975, lại trở thành nơi kết tụ tinh hoa của những thăng hoa nghệ thuật.
Quần thể kiến trúc hiện tại chưa có gì nhiều kể từ sau chiến
tranh, ngoại trừ cây đa nhân tạo bằng bê-tông của kiến trúc sư Ngô Viết
Thụ và tháp chuông của ngôi Thánh đường đổ nát qua chiến tranh được giữ
lại. Tượng Mẹ đươc đứng giữa 3 cây đa nhân tạo khổng lồ tượng trưng cho Ba Ngôi
(ngôi Cha, ngôi Con ngôi Thánh Thần) và như một thế tam tài (Thiên Địa
Nhân) của triết học Đông phương,
Quảng trường Đức Mẹ La Vang từ cổng đi vào hai bên là một quần thể
điêu khắc diễn tả 15 sự thương khó của Đức Mẹ được đắp bằng xi măng cốt
thép. Những tác phẩm điêu khắc trên là của nhà điêu khắc Lê Ngọc Huệ (tốt nhiệp
khoa điêu khắc trường Mỹ thuật Pari) thực hiện khoảng đầu thập niên 60,
sau những bể dâu còn tồn tại và đứng vững đến ngày nay.
Đường nét của những tác phẫm được sáng tạo theo lối hiện đại, mảng
khối chồng chất lên nhau trông đơn giản mà hùng vĩ vô cùng.
Sau đây xin giới thiệu thêm nhóm tượng 15 mầu nhiệm Mân Côi ở La Vang
Nhóm tượng 1: NĂM SỰ VUI
Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai. |
Đức Mẹ đi viếng bà thánh Isave |
Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. |
Đức Mẹ tìm được Chúa Giêsu trong đền thánh. |
Nhóm tượng 2: NĂM SỰ THƯƠNG
Nhóm tượng 3: NĂM SỰ MỪNG