Mùa hoa
cải bên sông - Một câu chuyện tình có thực.
Nguyễn
Quang Thiều
Đấy là
một cô gái còn rất trẻ. Năm cô mất cô mới 23 tuổi. Cô mất cùng với một thai nhi
trong bụng. Cô mất trong chính lòng của con sông Đáy mà cô đã gắn bó từ khi vừa
sinh ra. Bởi cô đã có con, một thai nhi, mặc dù chưa có chồng. Cho nên tôi coi
cô đã là một người đàn bà.
Trong
truyện ngắn "Mùa hoa cải bên sông" tôi viết gần 20 mươi năm trước có
một nhân vật nữ tên là Chinh. Chinh sống cùng gia đình trên chiếc thuyền. Họ
không được phép lên bờ vì lời nguyền của cha cô. Nhưng cuối cùng cô đã lên bờ
vì tiếng gọi của màu hoa cải vàng quyến rũ và bởi tiếng gọi của tình yêu với một
chàng trai sống trong một xóm trại ven sông. Khi biết cô có thai, cha cô
đã trừng phạt cô và đưa cả gia đình đi mất tích. Truyện ngắn này được đạo diễn
Khải Hưng làm thành phim "Lời nguyền của dòng sông" và giành huy
chương vàng Liên hoan phim truyền hình quốc tế tại Bỉ năm 1993. Đấy là bộ phim
truyền hình Việt Nam đầu tiên giành được một giải lớn như vậy. Đạo diễn Khải
Hưng đã hỏi ông Chủ khảo Liên hoan phim vì sao ông trao giải cao nhất cho bộ
phim đó thì ông ta trả lời: “Vì nó rất Việt nam. Nó là của dân tộc anh”. Khi
truyện ngắn này ra đời, nhiều người thích nhưng không tin trên đời lại có câu
chuyện như vậy. Xin thưa, bảy mươi phần trăm của truyện ngắn này là sự thật. Và
Chinh là một cô gái có thật và được tôi giữ nguyên tên của cô. Khi phim này chiếu
trên truyền hình, tôi về quê và sang sông thăm một người bạn học cũ. Bố cô đã
già lắm nhưng vẫn chèo đò cho khách sang ông. Con đò mà Chinh thường chở tôi
sang sông đi học đã quá cũ nát. Ông nói với tôi ông đã được xem bộ phim đó. Lúc
đó tôi rất lo bị ông mắng vì đã mang chuyện gia đình ông lên phim. Nhưng ông chỉ
nói thế và rồi lặng lẽ chèo đò cho tôi sang sông.
"...
Trở về như một ngọn gió vừa ngân vang, vừa buồn bã và vừa thương nhớ..."
Tôi có
hai năm học phổ thông ở trường cấp III B ở An Mỹ bên kia sông thuộc huyện Mỹ Đức,
Hà Tây. Bởi thế mà hàng ngày tôi phải đi đò sang bên kia sông đi học. Người lái
đò cho tôi qua sông là Chinh. Chinh là một cô gái không nhan sắc, mắt cô bị kém
thị lực từ lúc sinh ra. Mỗi khi tôi cất tiếng gọi đò thì dù đang làm gì cô cũng
xuống bến chèo đò cho tôi sang sông. Cô ngước đôi mắt kém thị lực nhìn về phía
bờ bên kia và chèo đò. Nhiều lúc tôi lo cô sẽ không đưa tôi đúng bến và con đò
có thể trôi đi cách bên rất xa. Nhưng ngay cả những chiều tối hoặc những
ngày mưa cô vẫn cập đò đúng bến. Có lẽ cô chèo bằng một giác quan khác. Lúc nào
xuống bến chèo đò cho tôi, cô cũng mang cho một một thứ gì đó. Lúc thì bắp ngô,
lúc thì củ khoai, lúc thì những trái cây trong vườn nhà cô. Cô đã quen giọng của
tôi. Ngay cả những chiều mưa, đứng từ bên kia bờ sông, tôi chỉ cần cất tiếng “Ơi” là cô đã nhận ra tôi và vội vàng xuống bến chèo đò sang sông đón tôi. Và
lúc nào cũng vậy, khi thấy bóng cô xuất hiện từ đầu con đường phù sa chạy từ
xóm trại xuống bên là tôi thấy lòng rạo rực.
Gia
đình cô từng sống lênh đênh trên đò dọc sông Đáy mấy đời. Họ bắt cá, cào hến và
lấy cát bán cho những cư dân hai bên bờ sông để sinh sống. Mãi đến ngày hòa
bình họ mới cập lại bến làng tôi và xin định cư trong một xóm trại nhỏ bên sông
và làm nghề chèo đò ngang đưa khách qua sông. Thực sự tôi không biết quê quán họ
ở đâu. Thường là vừa chèo đò cô vừa hỏi việc học hành của tôi. Cô bảo cô thèm
được đi học nhưng nhà cô ngèo phải bỏ dở để cào hến, thả lưới bắt cá và chèo đò
kiếm tiền nuôi gia đình. Có một lần trời mưa, khi chèo đò ra giữa sông cô bảo
tôi chui vào lòng đò có mái che. Cô bảo tôi ngôi chơi và để mặc đò trôi đi đâu
thì trôi. Nhưng tôi sợ và đã chối từ. Sau đó, tôi thấy cô không nói gì và
chèo đò rất mạnh như tủi thân và như giận dữ. Mưa chảy tràn trên mặt cô. Sau
này tôi nghĩ có lẽ cô đã khóc. Cho đến bây giờ tôi cũng không dám nghĩ đó là
tình cảm của cô giành cho tôi. Sau này tôi đi học xa, mỗi khi vào làng bán cá
hay bán hến gặp mẹ tôi, cô lại hỏi: “Thiều có viết thư về không cô giáo?”. Và lần
nào mẹ tôi mua hến, cô cũng đong bơ hến đầy hơn đong cho những người khác trong
làng. Nếu lần đó mà tôi về nghỉ thì cô thường biếu thêm cho mẹ tôi một bơ hến
và nói: “Cô giáo nấu hến với canh bầu cho Thiều ăn”. Cô biết tôi là người thích
ăn canh hến nấu với bầu trắng trồng ngoài bãi sông. Những lúc về quê nghỉ hè,
tôi thường ra xóm trại để mong gặp lại cô. Nếu không thấy cô ngoài bến sông,
tôi lại gọi đò và hy vọng cô xuống chèo đò để tôi được gặp cô. Thấy tôi cô hỏi
có phải tôi sang bên kia sông thăm bạn học cũ không. Tôi đã nói dối cô. Tôi
không dám nói với cô rằng tôi gọi đò để lấy cớ gặp cô mà thôi.
Sau khi
học xong, tôi vào thành phố Hồ Chí Minh làm việc. Hai năm sau tôi về thăm quê.
Và mẹ tôi đã nói cho tôi biết cô đã mất. Mẹ tôi là người biết rất nhiều chuyện ở
quê. Có lẽ mẹ tôi là một bà giáo già nên mọi người hay đến kể chuyện cho mẹ tôi
nghe. Nhiều câu chuyện tôi viết là do lời kể của mẹ. Chuyện cô mất là một câu
chuyện làm tôi đau đớn mãi. Một ngày, bố cô phát hiện cô có thai. Ông đã trói
cô vào cột nhà và đánh cô để tìm ra ai là cha của cái thai nhi trong bụng
cô. Nhưng cô không nói cho ông bố biết. Cô xin bố mình để cho cô nuôi giữ cái
thai đó. Bố cô không chấp nhận lời cầu xin của cô. Ông bắt cô uống thuốc lá của
người Mường bên kia sông để phá thai. Vì một cô gái không chồng thời đó mà có
thai là một chuyện khủng khiếp đới với gia đình họ. Nhiều đêm, cô quỳ xuống bên
mép giường của người bố cho đến sáng để xin ông hãy thương cái thai nhi trong bụng
cô mà cho cô sinh nở. Nhưng cô đã không thay đổi được sự tức giận và đau đớn của
người bố. Người bố đã cưỡng bức cô uống thuốc phá thai.
Một buổi
sáng thức dậy, gia đình cô không thấy cô. Họ đã đi tìm cô những không thấy. Năm
ngày sau, người ta thấy xác cô nổi ở đoạn sông cách bến sông làng tôi chừng dăm
cây số. Có người nghĩ bố cô đã đẩy cô xuống sông. Nhưng đó là chuyện của người
độc miệng, ác ý. Người làng tôi không tin chuyện đó. Mẹ tôi bảo là cô tự tử sau
khi phải phá thai. Trong những ngày về thăm quê lần đó. Tôi đã đạp xe đến đoạn
sông mà người ta vớt xác cô. Lòng tôi buồn bã và trống rỗng vô cùng.
Mấy năm
sau một người em trai của cô đã có vợ nhưng lại có con với một cô gái mắc bệnh
tâm thần ở làng tôi. Gia đình cô gái tâm thần mang đưa bé trả lại cho gia đình
cô. Và cứ ngày ngày cô gái tâm thần đó đến ngồi trước cửa gia đình cô và lúc cười
lúc khóc. Có người nói cô gái tâm thần đó bị hồn của Chinh nhập vào để trả thù
bố cô đã không cho cô sinh con và làm cô phải tự tử. Rất nhiều người làng tin
câu chuyện đó. Khi tôi đưa nghệ sỹ Nhân dân Bạch Diệp về quê tôi chọn cảnh làm
bộ phim Thời gian của dòng sông chuyển thể từ truyện ngắn "Hai người đàn
bà xóm trại" của tôi. Tôi đã kể câu chuyện về Chinh cho bà nghe và đưa bà
đến xóm trại và chỉ cho bà ngôi nhà của Chinh.
Thời
gian cứ trôi đi, tôi đã bắt đầu già. Con sông Đáy chưa một ngày ngừng chảy ra
biển. Nước sông cũ không bao giờ trở lại trên bến sông làng tôi. Nhưng con đò
và Chinh vẫn thi thoảng trở về trong ký ức tôi. Trở về như một ngọn gió vừa
ngân vang, vừa buồn bã và vừa thương nhớ.
Rút từ
bản thảo cuốn sách "Hồi tưởng về những người đã khuất"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét