Thứ Năm, 1 tháng 4, 2021

NHỮNG BÀI HỌC NÔNG THÔN

Những Bài Học Nông Thôn là bức tranh quê hiện thực và huyền ảo. Cái thế giới ấy quê mà rất tỉnh, tưởng như mơ mà có thật. Cái thế giới ấy, hình như nhà nào cũng có ba ông "Phúc, Lộc, Thọ lồng kính, chăng đầy mạng nhện, trên mặt kính đầy vết cứt ruồi". Cái thế giới ấy có con diều lẩn thẩn mò lên thượng từng tìm dưỡng khí, để trốn "những thứ gió quẩn khốn nạn, hiểm nguy và đầy bất trắc ở dưới". Cái thế giới ấy có chị Hiên, chồng đi lính biền biệt, bức xúc, quẫn bách "nửa chừng xuân". Có bố Lâm ngày ngày thả diều, tìm ảo tưởng "bay lên, bay lên". Có bà Lâm già lão tám mươi, nói như Khổng Tử: "Các cụ toàn chim to", "đàn ông nó chẳng thương mình đâu. Rượu thì nó ngồi mâm trên. Ngủ thì nó đè lên mình" Có thầy giáo Triệu phát ngôn bừa bãi: "Tôi hiểu sâu sắc sự ngu của bọn có học tai hại thế nào, nó vừa phản động, vừa nguy hiểm, lại vừa mất dạy". "Sự ngu dốt của bọn có học tởm gấp vạn lần so với ở người bình dân. Vì sao? Vì chúng giả hình. Chúng nhân danh lương tâm, đạo dức, mỹ học, trật tự xã hội, thậm chí nhân danh cả dân tộc nữa". Còn dân chúng? "Dân chúng cầu lợi, mà có cầu lợi thì cũng chẳng ai cho, người ta chỉ hứa suông, hoặc thoáng có cho thì cho rất ít, lợi bất cập hại. Lợi phải do chính dân chúng tạo ra bằng sức lao động của mình. Họ cần hiểu rằng phải cần một thứ cao hơn thế nửa, đấy là giá trị chân chính cho toàn bộ cuộc sống của mình, quyền được tự mình định đoạt cuộc sống, tóm lại là tự do". Một sự phát ngôn xanh rờn như vậy dưới chân trời rực hồng một mầu lửa là nguy hiểm, và Triệu đã bị trâu điên húc ộc máu, chết tươi tức khắc.


Ngoài những trực ngôn của Triệu, bút pháp trong Những Bài Học Nông Thôn có tính chất ẩn dụ cao độ. Ẩn dụ trong ngôn ngữ bà Lâm, ấm ức trong ngôn ngữ chị Hiên, bí hiểm trong hành tung ông Lâm. Mỗi sự kiện, sự vật, hình ảnh, phong cảnh, mỗi lập ngôn đều nhập nhằng nhiều ý nghĩa. Nguyễn Huy Thiệp sử dụng ngôn ngữ như một nòng cung phức âm bắn vào đa từng xã hội: Từ hàng chóp bu "râu rậm", chân dung "lồng kính", đến loại tiên chỉ "chim to", rồi hạng nhàng nhàng ăn trên ngồi chốc lấy sức đè người, đến cả loại trâu điên cuồng tín, tay sai, đao phủ.... Mỗi chữ là một mũi tên bắn đi, trúng hồng tâm thủ phạm, kéo theo tàn quân của bọn đồng lõa. Hình ảnh nông thôn cũng là hình ảnh xã hội toàn diện, nực nồng và u uất: Kẻ trực tâm, có lòng bị hãm hại. Kẻ thông minh bị đàn áp. Sự cù lần, độc ác và mù quáng trụ trì. Tất cả lồng trong không khí bình lặng của nông thôn rực hồng một màu lửa đỏ ở phía chân trời. (Nhà phê bình Thụy Khuê)



Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Xuân Nguyên

NHỮNG BÀI HỌC NÔNG THÔN

Nguyễn Huy Thiệp

"Mẹ tôi là nông dân,
còn tôi sinh ở nông thôn..."

(Người kể chuyện)

Năm 17 tuổi, sau khi học xong trung học, tôi về nghỉ hè ở nhà một người bạn học cùng lớp tên là Lâm ở xóm Nhài, thôn Thạch Đào, tỉnh N.. Xóm Nhài nằm bên sông Canh, con sông nhỏ, mùa nước cạn, người lội qua sông được, chỗ sâu nhất chỉ ngập đến ngực thôi. Nhà Lâm ở cuối xóm, sâu trong ngõ nhỏ có hàng rào trồng cây khúc tần. Nhà lợp rạ, tường đất, ba gian hai chái. Đồ đạc trong nhà chẳng có gì. Giữa nhà kê một hòm gian dựng thóc, hai bên bốn cái gường tre, quần áo vắt trên sào buộc dọc tường. Trang trí duy nhất trong nhà là bức tranh lụa cổ vẽ hình ba ông Phúc, Lộc, Thọ với dăm dứa trẻ dâng đào. Tranh lồng trong khung kính chăng đầy mạng nhện. Lâu ngày mặt kính mờ đi, đầy vết cứt ruồi.

NHƯ SƯƠNG NHƯ KHÓI BAY

 

Waiting, tranh Han Wu Sen

NHƯ SƯƠNG NHƯ KHÓI BAY

Nguyễn Huy Thiệp

 

Mười năm trước khi chưa có công trình thuỷ điện Hoà Bình, ở Mường Lưm có một trạm thủy văn nhỏ nằm bên sông Đà, cách bến phà phía tả ngạn sang huyện lỵ Phổ Yên độ vài trăm mét. Trạm thủy văn này chuyên ghi mực nước lên xuống của con sông Đà. Giữ trạm thủy văn này là ông Trụ vốn là một nhân viên kế toán của Ty thuỷ lợi đang chờ thủ tục nghỉ hưu.

Ông Trụ tính nết hiền lành, trước có học hàm thụ cao đẳng nhưng thi trượt không đỗ. Vợ con ông ở dưới Hưng Yên, ông một mình lên Tây Bắc làm việc thế mà đã ba mươi năm. Chỉ mỗi một mình ở trạm thuỷ văn, ông Trụ lúc đầu cũng chán nhưng rồi quen đi, ở được một năm thì ông không còn chán nữa. Đến tuổi sáu mươi, người ta dễ lặp lại những thói quen vô thức kỳ quặc. Chó già, ngựa già cũng thế: chó già chỉ nằm một chỗ, ngựa già quen đi một đường.

Nguyễn Thị Lộ

 


Nguyễn Thị Lộ (1)

Nguyễn Huy Thiệp

 

Vấp phải đời phàm tục         
Chiếc thuyền tình vỡ tan...(
 2)

Họ gặp nhau khoảng giờ thìn, một ngày thu. Hôm ấy Nguyễn Trãi từ Côn Sơn trở lại Đông Đô, ông ghé nghỉ ở một quán khách ven đường. Cùng đi với ông có Hoàng môn thị lang Thái Quân Thực(3) .

Đông Đô ở thế kỷ thứ XV dưới triều vua Lê Thái Tôn(4) có vẻ đẹp trắng trợn của một thiếu phụ quý tộc no đủ, hợm hĩnh về tài san cố định và những quan điểm đạo đức khô héo của mình. Vẻ đẹp ấy có uy quyền, làm người ta yên tâm nhất thời, e sợ nhất thời nhưng chất chứa sự nhàm chán, sự làm điệu, không loại trừ khả năng bạo dâm, tóm lại là nhiều điều kiện để dẫn đến đời sống tinh thần suy đồi phi nhân tính.

Nắng ngoài đường rực rỡ. Những hàng cây cơm nguội nở hoa. Những cây dương liễu ngơ ngác buồn. Trời rất xanh. Giữa trời có đám mây trắng trông hệt dáng điệu một nhà hiền triết. Thoắt cái, gió xua mây đi, nhà hiền triết biến mất.

Nguyễn ngồi yên lặng, ông nâng chén rượu mà Thái Quân Thực vừa dốc trong nậm ra. Đúng lúc ấy thì Nguyễn Thị Lộ cùng Thị nội cung tần Trịnh Ngọc Yến bước vào. Nguyễn cũng chẳng để ý. Mắt ông đăm đăm nhìn những tăm rượu sủi lên trong chén.

Tưởng như có tiếng ong bay đâu đây. Thời tiết nóng nực, thứ nóng uể oải, rất dễ làm người ngủ gật. Câu chuyện giữa Nguyễn và Thái Quân Thực rời rạc. Thái Quân Thực biết Nguyễn đương có tâm sự trong lòng, vì vậy chuyện được vài câu, ông không nói năng gì nữa mà cứ một mình thản nhiên đánh chén. Ông kệ cho Nguyễn chìm đắm tư lự một mình.

Ở một góc quán khách, Nguyễn Thị Lộ và Thị nội cung tần Trịnh Ngọc Yến đã an vị. Người hầu bàn đang hỏi món ăn. Vẻ sốt sắng của người hầu bàn làm Nguyễn để ý. Ông ngược mắt lên nhìn và nhận ra Nguyễn Thị Lộ. Tạo hóa đã dày công chuẩn bị cho cuộc gặp này những 29 năm 9 tháng 10 ngày.

MUỐI CỦA RỪNG

 

Mường Lưm là một rẻo rất hẻo lánh ở Yên Châu. Khoảng những năm 70 ở đây chưa có đường vào. Đi bộ từ Yên Châu vào đấy chừng khoảng 6 tiếng đồng hồ. Người không quen đi bộ sẽ thấy chồn chân, máu dồn xuống hai bắp chân đau không tưởng được.


Những dãy núi đá vôi cao ngất. Khỉ nhiều vô kể, leo trèo trên những vách đá hết sức tài tình.\

Ôi tuổi trẻ! Những chuyến đi phiêu lưu mạo hiểm! Bông hoa tử huyền nào chờ ở cuối đường đi? Sương mù... Những trận mưa địa hình bất chợt ập xuống. Đi sâu vào rừng cảm nhận những hương vị của rừng, xúc động không nói nên lời.

Trước thiên nhiên, hóa ra con người là vô nghĩa lý nhất và kiêu ngạo nhất...

(Ghi chú trong truyện – Nguyễn Huy Thiệp)

Muối của rừng - Xuất bản tại Ý

Truyện ngắn Muối Của Rừng của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp

 

Hồ Cảnh Hưng

Ra đời năm 1986 tới nay, "Muối của rừng" nhất loạt được bạn đọc yêu thích và được xem là một trong những truyện ngắn viết về mùa xuân hay nhất của mọi thời đại. Trước đây, chúng ta chỉ có những truyện về mùa xuân đời sống chứ không có mùa xuân nguyên thủy ở trong rừng như thế này.

1. Tóm tắt nội dung

Một ngày mùa xuân, ông Diểu cầm súng đi săn. Ông ta đi vào rừng, bắn một con khỉ đực. Dằn co con khỉ đực cùng con khỉ cái. Ông Diểu phóng sinh cho con khỉ đực. Ông Diểu đi một mình cô đơn trong rừng trong trạng thái trần truồng không một mảnh giáp che thân khi trở về. Trên đường về, ông Diểu gặp hoa tử huyền.

Mưa

 

Người thổi sáo- Tranh Nguyễn Quang Thiều

Mưa

Nguyễn Huy Thiệp

Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nguyễn Du)

Em,

Anh bắt đầu truyện ngắn này lúc 8 giờ sáng trong một quán cà phê tồi tệ nhất thành phố. Quán vắng khách, không ai quấy rầy anh. Trời đang mưa.

Anh ngồi viết… Khuôn mặt em hiện ra trong anh. Em đang ở xa. Em đang ở đâu? Những ý nghĩ của anh hướng cả về em. Em hiển hiện. Em ngồi bên cạnh và sắp xếp những con chữ rời rạc.

Hôm ấy trời cũng mưa, mưa như trút. Anh và em ngồi trong xó tối. Trước mặt chúng ta có hai phụ nữ, một người thấp, một người cao, cả hai đều đẹp. Anh nhắc em chú ý đến cô gái cao, để tóc xõa, mỗi khi cười lại hay ngả người vào ghế. Em hỏi anh tên gười ấy. Anh bảo: “Gọi gì mà chẳng được! Tên người cũng là một thứ ký hiệu thôi. Anh gọi cô ta là N.” Em bảo: “Thế người ngồi cạnh là M. à?” Anh bảo: “Phải”.