Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

CON NGƯỜI - CHÚA TỂ?

 

Tác phẩm nhiếp ảnh vị niệm Landscape - montagnes célestes, 2004 của Liu Wei, Trung Quốc

CON NGƯỜI - CHÚA TỂ?

Hà Huy Khoái

(ngày mưa bão, đưa lại bài viết cách đây 15 năm)

Bài viết này chỉ là những suy nghĩ tản mạn của một người “ngoại đạo” nhìn tiến hóa không phải với con mắt một nhà tự nhiên học, mà của một người “bình thường”. Tôi bỗng giật mình nhận thấy, trong sự tiến hóa kỳ diệu của tự nhiên, phải chăng tạo hóa đã “lỗ” khi tạo ra con người: loài động vật “thượng đẳng” là nguyên nhân chính làm biến mất khỏi thế gian này bao nhiêu loài khác. Vả lại con người có phải là “thượng đẳng” hay không trong nấc thang tiến hóa?

1/ Hai con đường tiến hóa

Có vẻ như con người là chúa tể các loài: họ có thể bay cao hơn chim, bơi dưới nước nhanh hơn cá heo, và có thể giết chết hầu như bất cứ con vật nào, đốn hạ bất cứ cái cây nào, nếu họ muốn. Làm được như vậy bởi vì họ biết dùng các công cụ lao động ngày càng tinh xảo. Nhưng như thế có phải là “thượng đẳng” hay không? Và hơn nữa, phải chăng đó là cách tiến hóa duy nhất? Trong khi con người cố gắng hoàn thiện các công cụ, thì hình như loài vật lại cố gắng hoàn thiện bản thân mình. Cá heo có những lớp mỡ dưới da dùng để triệt tiêu lực cản của nước khi bơi, nhờ thế mà nó có thể bơi rất nhanh. Loài bướm có các “ăng ten” để nhận ra nhau từ khoảng cách hàng cây số. Có thể chỉ ra vô vàn ví dụ để chứng tỏ rằng, cây cỏ, cũng như các loài động vật khác tiến hóa theo một con đường khác với loài người, chứ không thấp hơn loài người. Chúng ta đã lấy cái thước đo của bản thân mình để áp đặt cho tự nhiên chăng? Và từ đó tự cho mình cái quyền tàn phá tụ nhiên. Nếu chỉ là con người trần trụi, thì không chắc một người thời nay đã có nhiều khả năng hơn một người thời Trung cổ. Các vận động viên có thể có những khả năng đặc biệt: chạy nhanh, nhảy cao,… nhưng điều đó chỉ càng chứng tỏ rằng, con người đã không biết tận dụng hết các giới hạn của khả năng. Không loại trừ việc con người trong tương lai sẽ còn yếu hơn con người bây giờ, khi sức vóc cơ bắp của mỗi cá thể không còn quan trọng nữa trong lao động và cuộc sống.

2/ Bảo tồn cá thể hay bảo tồn loài

Dường như mỗi cái cây, ngọn cỏ, con ong, cái kiến đều rất yếu ớt. Vậy mà không dễ để trừ diệt được sự tồn tại của một loài, thậm chí chỉ trong một phạm vi nhỏ như một khu vườn, một thửa ruộng. Tại sao “chúa tể” các loài như con người không làm được điều đó, ngay cả khi họ muốn? Hình như ở đây lại có sự khác nhau giữa con người và vạn vật. Trong sự tiến hóa của mình, các loài khác có vẻ như quan tâm đến sự bảo tồn cả loài, hơn là bảo tồn từng cá thể. Bởi vậy nên nhiều loài cây tạo ra “cánh” xung quanh hạt để dễ mang hạt bay xa, hay một mẩu rễ còn lại trong đất cũng phát triển thành cái cây hoàn chỉnh. Con người “cá nhân” hơn nhiều: họ quan tâm đầu tiên đến bản thân mình, những người gần gũi với mình, rộng hơn thì trong một quốc gia, một dân tộc. Cái gì thuộc về “loài người” nói chung thì rất ít được quan tâm. Bởi thế nên không mấy quốc gia thực sự mặn mà, thực sự dám hy sinh lợi ích của mình cho việc chống lại biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí, những đe dọa thực sự với sự tồn vong của cả loài người. Hơn nữa, con người còn chia thành từng nhóm, từng phe tiêu diệt nhau, chống lại nhau đến cùng. Thậm chí, điều đó còn là động lực của sự phát triển xã hội. Tôi không hiểu, trong cùng một loài thực vật, động vật, điều đó có xảy ra không. Và như thế, nấc thang “tiến hóa” của loài người có phải thực sự là cao nhất hay không?

Ngay cả khi bảo tồn một cá thể, có vẻ như con người cũng không hơn được các loài khác. Để duy trì sự sống cho đến khoảng 80-90 năm, con người phải “chạy đôn, chạy đáo” kiếm ăn suốt cả đời mình. Vậy mà trong khi đó, “cây chò ngàn năm trong rừng Cúc Phương” chẳng cần đi đâu, chiếm một mảnh đất khiêm tốn mà tồn tại để chứng kiến lịch sử 10 thế kỷ của loài người. Lẽ nào có thể xem là thực vật “thấp” hơn chúng ta trong nấc thang tiến hóa? Chúng ta tự cho mình cao hơn có lẽ chỉ vì ta có thể mang cưa đến diệt cây chò ngàn năm kia!

Lại là một cách phân cao thấp theo cái quyền được tiêu diệt!

3/ Con người có hiểu tự nhiên không?

Tôi xin kể một câu chuyện vui. Có một lần anh bạn tôi hỏi: “Tại sao người Việt Nam nói tiếng khác người Pháp, nhưng con gà Việt Nam tiếng gáy cũng giống gà Pháp, con chó Việt Nam tiếng sủa cũng giống con chó Pháp”. Tôi bèn trả lời: “Một ông nông dân Việt Nam hoàn toàn không biết ngoại ngữ sẽ thấy một người Pháp, một người Mỹ, một người Nga nói hoàn toàn như nhau? Vậy nên ta thấy con chó Việt Nam và con chó Pháp sủa giống nhau chỉ vì ta không hiểu tiếng chó đấy thôi!”. Anh bạn tôi chịu là phải. Xem ra con người cũng không hiểu tự nhiên, vì đặt mình ra ngoài tự nhiên, cao hơn tự nhiên. Con người không hiểu sự đau khổ của cái cây bị đốn, vì không hiểu tiếng cây. Con người đã tàn phá tự nhiên vì không hiếu tự nhiên, hoặc vì đã không nhận ra rằng, mình cũng chẳng có gì cao hơn loài khác trong tự nhiên. Sự coi thường tự nhiên đó sẽ còn dẫn đến nhiều vụ tàn sát như vụ dòng sông Thị Vải. Và cuối cùng, một số cá thể nào đó trong loài người được lợi nhờ những vụ tàn sát đó, nhưng cả loài người thì phải trá giá. Có thể phần đông hiểu ra điều đó, nhưng con người đã có thói quen quan tâm đến bản thân, đến cá thể, đến một nhóm lợi ích nào đó hơn là đến toàn thể loài người.

Các “chúa tể” bao giờ cũng muốn chứng tỏ sức mạnh và quyền lực bằng sự tiêu diệt, mà con người thì, tiếc thay, luôn xem mình là chúa tể của muôn loài.

4/ Người khổng lồ mù mắt

Có một điều đáng buồn là càng “tiến hóa”, con người càng đẩy tự nhiên ra xa mình hơn. Khi mới biết dùng gậy gộc, con người chỉ đuổi động vật ra cách mình một tầm gậy, một tầm ném đá. Đến khi có khẩu súng trong tay, họ lại buộc động vật phải chạy xa hàng trăm mét để mong tồn tại. Còn bây giờ, với loài người “văn minh” thì dù muông thú ở ngóc ngách nào cũng khó tránh khỏi bị tiêu diệt. Cùng với sự văn minh, con người đẩy muông thú, rừng rậm, cây cỏ, đẩy tự nhiên ngày càng xa mình hơn. Đó có thực sự là “văn minh”? Càng “tiến hóa”, con người càng tiêu xài nhiều hơn, tàn phá tự nhiên nhiều hơn, tự hủy hoại môi trường tồn tại của chính mình nhiều hơn. Trong cuộc tiến hóa của con người, có bao nhiêu loài đã bị xóa sổ khỏi thế gian này? Và như thế, con người có thực sự ngày càng văn minh?

Thật đáng buồn, nhưng những gì đang xảy ra khắp nơi gây cảm giác con người thời nay giống như một gã khổng lồ mù mắt: khỏe thật đấy, hùng mạnh thật đấy, nhanh thật đấy, nhưng không biết đang đi về đâu, và tàn phá ghê gớm trên hành trình của nó.

 

RẢI TRO THEO GIÓ...

Vietnam War 1972
Nhiếp ảnh gia Perry Kretz (trái), Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1 và Uwe Siemon-Netto tại mặt trận Thừa Thiên - Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Ảnh tư liệu VNCH.

Tác giả sinh 1940 tại Hà Nội, tác giả là con trai út Nhà văn Nhất Linh. Cử nhân Khoa học Đại học Saigon, Giáo sư Toán Lý Hoá, phụ trách Nxb Phượng Giang, 1973. Qua Mỹ năm 1975.

RẢI TRO THEO GIÓ... (Viết về tướng Ngô Quang Trưởng)
Tôi gặp anh tất cả bốn lần.

Bốn lần đó trải dài hơn ba thập niên. Không nhiều. Đã thế dường như trong cả bốn lần đó ngoài cái gật đầu chào chúng tôi không hề trao đổi với nhau lấy một tiếng. Anh vốn ít lời. Còn tôi thì e dè. Tôi vốn có tính rất ngại bắt chuyện với một người nổi tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại là người có quyền thế. Trong thâm tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện thì anh cũng sẽ vui vẻ bắt chuyện ngay. Đằng sau gương mặt lầm lì ít nói ấy anh là người rất bình dị. Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật đầu chào, tôi không bao giờ cất tiếng. Để đến bây giờ ngồi trước bàn máy vi tính một buổi sáng mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ, tôi viết đôi dòng về anh mà lòng không khỏi gợn chút nuối tiếc: Bài viết của tôi vì thế sẽ không ghi lại một mẩu đối thoại nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm giữa anh và tôi. Mà nào giữa chúng tôi đâu có phải người xa lạ gì cho cam? Anh là nguời rất thân cận trong đại gia đình Nguyễn Tường chúng tôi, là chồng của người em họ tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam.

Tôi nhớ lại hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần thì có đến ba anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là hình ảnh cha tôi thường thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi không khỏi có ngầm một sự hãnh diện thầm kín rằng dòng họ tôi có được một người rể như anh nổi tiếng là người thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời thật lòng:
“Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng quý mến và ngưỡng mộ”.

Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền Nam Việt Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa Tự Lực Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này. Người có thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà văn Thạch Lam, tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không có ý định viết hồi ký về anh vì thật tình tôi không biết nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm hoi.

Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đã nghe lan truyền câu chuyện về một mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô con gái lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô gái. Đó là chuyện thường tình trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại là đôi bạn rất thân nhau. Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn là nếu người nào nằm xuống trước thì người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho cô gái kia. Người phi công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đã đẩy cô em họ tôi gắn liền cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi Nhung về câu chuyện tình này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi lại thôi không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn như thế trong trí tưởng tượng của tôi.

Năm 1962 tôi ở Sài Gòn và dậy học tại trường trung học Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở tôi từ Biên Hòa về Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ Đức anh tôi đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói chuyện với Nhung thì có tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen, khuôn mặt sần sùi khắc khổ.
Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không những không đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh Trưởng.

Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế thì trên ve áo trận của anh hai bông mai đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh đã lên tướng! Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đã được thăng tướng trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt đầu có lời đồn đãi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung thì như diều gặp gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và tá túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đã từng là sinh viên nội trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi đi bộ đến thăm cô em họ, lúc này đã khó gặp vì ở một nơi rất “kín cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên đường Lê Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao cát với những họng súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng vào trong nhà báo và Nhung đã ra tận cổng để tiếp tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp. Không biết có phải vì ngôi sao trên ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy chai Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly rượu trên tay không uống, anh chậm rãi bước tới bước lui trong phòng khách, đầu cúi nhìn sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi đã là một quân nhân. Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng gần Tết, thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất, tôi đi viếng thím trong bộ quân phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Hòa. Họ hàng chúng tôi đứng chật hai bên quan tài đặt chính giữa phòng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay - chiếc mũ gắn hai ngôi sao đen - anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở bên này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân, một Thiếu úy trước một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau anh đội mũ lên đầu rồi vội vã bước ra xe đi mất.

Năm 1972 sau “Mùa hè Đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch / Tổng Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn Công Luận và tôi với cập bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá trong cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Đối phương lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít trên không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu nhào xuống giao thông hào nơi hàng trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo bản năng tự nhiên mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu xuống đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là mình đã thoát chết vì đạn đã bay qua khỏi đầu.

Chính trong lúc trú pháo này mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước khi ra Huế lần này tôi đã đi chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7.7.1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo chết. Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đã lên chức hai lần, từ Trung úy lên cố Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà tôi được nghe được rất nhiều giai thoại về anh Trưởng, “người hùng tái chiếm Quảng Trị” lúc này đã được vinh thăng Trung tướng với ba sao trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I.
Tất cả những giai thoại đó nếu được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết thành một quyển sách. Giai thoại về sự thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai thoại về lòng thương lính dưới quyền của anh cũng có.

Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích một vị sĩ quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh Trưởng hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không. Tôi trả lời không. Rồi tôi nói thêm:

“Mình chả dại. Đang ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy tống mình ra tiền tuyến thì mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người anh họ tôi cùng khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi khoe với cố vấn Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến đầu!”.

Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993 tại Virginia, tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh, hai mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng không thực lúc này đã trở thành dĩ vãng. Năm đó vào tháng 7, chúng tôi bay qua miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được tổ chức tại nhà anh cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng trong bộ thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ trông anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến tận cuối đời. Anh đích thân rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần anh, nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đã nghe những lời bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại thành khách sáo, vả lại chúng tôi là người nhà, còn thiếu gì những dịp khác để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi đã lầm. Dịp khác để gặp anh đã không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi với nhau được lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự an ủi là ba năm trước khi anh mất anh đã đọc những lời chân tình của tôi viết về anh trên trang đầu cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.

Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.

Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân.

Đã hơn 10 năm qua, trời nắng cũng như mưa, người Bừa vẫn lặng lẽ túc trực, quét dọn, hương khói ở cái miếu thờ những người không may tử nạn nằm cô quạnh trên đỉnh đèo Hải Vân (ranh giới giữa Đà Nẵng và tỉnh TT-Huế)...

Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân, nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế - Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.

Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... Ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.

Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ của anh:

“Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
Bao chiến công... cũng thế mà thôi.
Hải Vân... tro rắc bốn trời,
Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?”.

Nhất Tuấn
Nguyễn Tường Thiết

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

Thoát khỏi thân phàm

 

Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái

Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.


Tranh của họa sĩ Willem de Kooning

 

Khoảng đầu thập kỷ 1980, tôi tình cờ gặp một người đàn ông trạc tứ tuần, gầy héo lẳng nhẳng. Cuộc chuyện trò rất vui vẻ và sau khi người đàn ông đã đi rồi, tôi mới biết đấy là MQ, người có dịch một số truyện ngắn của Konstantin Paustovsky.

Tôi cho rằng nếu đã có Vũ Thư Hiên dịch Paustovsky thì người ta không cần bản dịch của ai khác nữa. Bản dịch Bông hồng vàng và Bình minh mưa đã gây ảnh hưởng đến mấy thế hệ viết văn ở Việt Nam. Vợ chồng nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi ấy cũng biết MQ và cho biết thêm: MQ là người giỏi ngoại ngữ. Anh ấy sống độc thân, hơi thất thường và tự kể là đã nhiều lần không muốn sống.

Lúc ấy tôi đã đọc tập Chiếc nhẫn bằng thép, gồm một số truyện ngắn của Paustovsky, người dịch ghi bút danh là Vũ Quỳnh. Về ngôn ngữ, tiếng Việt của anh nhàn nhạt, không chuyển được vẻ duyên dáng bảng lảng bâng khuâng của Pau. Chỉ nhớ thế, rồi tôi cũng quên con người mà tôi gặp chốc lát.Mãi đến năm 2023 đọc bài của Kim Ân viết từ năm 1998 thì tôi mới biết MQ đã nhảy xuống sông Hồng tự tử hơn ba chục năm rồi. Trước đó, MQ đã mấy lần bày tỏ rằng chỉ muốn chết. Kim Ân viết:

*

Cũng không cần phải là chuyên gia tâm thần học để biết rằng có những người sống mà không muốn sống. Họ không coi cuộc sống có một vẻ đẹp như người đời vẫn quen gắn trong cụm từ “vẻ đẹp cuộc sống”. Có những người tâm trạng u ám chỉ trong một khoảnh khắc, một thời đoạn, nhưng cũng có người triền miên trong cả cuộc đời.

Osho cho rằng những người này vốn có bản năng tự sát. Nhân nhắc lại trường hợp lịch sử một giáo chủ đi truyền đạo và bị giết hại, Osho luận về triệu chứng: “Có lẽ ông có một bản năng tự vẫn. Những người có bản năng tự vẫn thường không đủ can đảm để tự vẫn: nhưng họ có thể xoay xở để người khác mưu sát họ. Và rồi ta sẽ không bao giờ phát hiện ra rằng họ có một bản năng tự vẫn, rằng họ xúi giục ta giết họ, để cho trách nhiệm đổ xuống đầu ta” (Cuộc đời của luận sư Rajneesh Chandra, NXB Trẻ 2007, trang 86).

Từng có một vị nguyên thủ quốc gia, ở giai đoạn cuối đời, phải cùng lúc chống chọi với các đòn tấn công trong và ngoài chính đảng của mình và đứng trước nguy cơ bị ám sát. Cơ quan an ninh quốc gia nhắc nhở bà nên thay đơn vị bảo vệ nhưng bà trì hoãn. Điều đó dẫn đến việc bà bị hai sĩ quan bảo vệ sát hại. Mãi về sau dân chúng vẫn không hiểu được việc bà trì hoãn, không cho đổi sĩ quan bảo vệ khi mà nguy cơ đã rất rõ ràng. Người ta cho rằng lúc ấy bà đã hoàn toàn chán ngán chính trường, bà đã buông xuôi tất cả, muốn ra sao thì ra. Bản năng tự sát vốn nằm im đâu đó bên trong, lúc đó mới thức dậy chăng?

Trong chính trường của một đất nước, các phe phái mâu thuẫn có khi dẫn đến xung đột, huy động cả triệu người xông vào văn phòng chính phủ đập phá, lật đổ giành chính quyền. Có người có lý tưởng có mục tiêu tối thượng là giành chính quyền, đánh đổ cái cũ để thiết lập cái mới theo ý mình. Không loại trừ khả năng có nhiều người hung hãn, bản năng tự sát trong người họ được kích động và phóng đại. Nhiều người coi những cuộc cách mạng là ngày hội, hội được chết, một cảm khoái được quên cái thân này đi, được tuẫn tiết.

Trong lòng những chính thể độc tài, các lực lượng đấu tranh phần lớn phải dùng hình thức đấu tranh bí mật. Nhưng cùng lúc vẫn có những cá nhân cao giọng công khai, có khi hoàn toàn liều thân theo kiểu thách thức chính thể cho mình đi tù.

Trong giao thông hỗn loạn ở các đô thị, không riêng một nước nào, ta vẫn thấy những người xe đạp xe máy xe hơi nghênh ngang giữa lòng đường không chịu nhường đường cho xe sau, thậm chí có những kẻ phóng xe như điên dại cho thỏa chí. Họ như gửi thông điệp cho những người xung quanh: đang muốn chết đây. Có người chỉ là nói liều nhưng cũng có người nói thật tâm trạng khủng hoảng bế tắc của mình.

Cũng như thế là cảm xúc tập thể được kích động, khi đám thanh niên cuồng loạn lao vào những cuộc đua xe “quá nhanh quá nguy hiểm” - tên một bộ phim Mỹ về đám đua xe. Ở Việt Nam từng có những cuộc đua xe máy mà trước khi vào cuộc, đám thanh niên quấn sẵn lên đầu một mảnh khăn tang màu trắng.

Rồi trong quan hệ quốc tế, xung đột giữa các quốc gia nhiều khi bùng nổ thành chiến tranh, đẩy cả biển người ra chiến trường và đổ máu. Có những cuộc chiến chẳng phải mục tiêu tổ quốc cao cả gì mà nó xuất phát từ bản năng tự sát của quốc trưởng. Chỉ có điều quốc trưởng tự sát bằng mạng sống của những sinh linh mù quáng mà thôi.

Ta đang nói về bản năng tự vẫn cho nên không dành nhiều chỗ cho những trường hợp tự sát vì áp lực hoàn cảnh: vì cá cược, vì phá sản, vì thất bại trong công việc, trong tình duyên, trong học hành. Riêng người tự tử vì hổ thẹn gây ra tội lỗi thì hình như vẫn được coi là còn có lương tâm. Lại cũng có những cuộc tự hủy vì bị bức hại như anh bán hoa quả ở Tunisia. Anh bị cảnh sát tịch thu mất xe bán hàng rong. Bị dồn vào con đường cùng có thể làm cả gia đình chết đói, anh đã quay trở lại tự thiêu ngay trước đồn cảnh sát. Vụ tự thiêu của anh ngày 17-12-2010 dẫn đến phong trào Mùa xuân Arab, sự phẫn nộ trước ngang trái và bất công có dịp nổ bùng ra, biểu tình nhanh chóng lan rộng ra khắp khu vực, dẫn đến sự sụp đổ chính quyền ở một số nước Bắc Phi và Trung Đông.

                                                  Tranh của họa sĩ Vincent van Gogh

*

Một người như Hemingway, tài năng, kiêu hùng. Khi xảy ra nội chiến ở Tây Ban Nha, ông tự nguyện sang đấy viết tin và tham gia bảo vệ nền cộng hòa trước sự tấn công của phái quân phiệt nổi loạn. Ông sống một cuộc đời tung hoành, thích săn bắn, từng hào hứng tham gia vào những cuộc đi săn cá mập cá kiếm trên biển. Đẹp đẽ và đào hoa, tuổi trẻ của Hemingway chen chúc những người đẹp. Ấy thế, ông bị sốc khi bước vào tuổi già, một thời đánh đông dẹp bắc, giờ bắt đầu sa sút, dự báo sắp đến thời trí không điều khiển được thân. Tuổi già là con vật bẩn thỉu. Ông nói vậy và kề khẩu súng săn vào bên dưới cằm, tự sát ở tuổi sáu mươi hai. Người ta hiểu câu ông nói chỉ là riêng biệt hoàn cảnh của ông, cho nên thiên hạ chỉ ghi nhận mà không tranh luận. Tất nhiên cũng không thể tranh luận với người chết.

Nhưng cũng có những trường hợp bản năng tự vẫn nổi dậy khi mà đời sống quá đầy đủ quá bằng lặng, đến mức nhàm chán. Không có yếu tố bất ngờ đột ngột thình lình. Mọi sự đều tẻ nhạt, nhàn rỗi, nỗi buồn vô cớ cứ thế dâng đầy. Thế là trong tích tắc chọn ngay giải pháp cuối cùng.

“Giá mà được chết đi một lúc”, câu thơ của Nguyễn Thế Hoàng Linh nói đúng cái ý nghĩ bất chợt nảy ra trong đầu người ta một lúc nào đó. Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.

Vậy nên Nodar Dumbadze, nhà văn người Georgia, mới nói người ta nên ốm thập tử nhất sinh một lần trong đời.

Và thỉnh thoảng cũng nên đi viếng người chết. Xong đám ma, về nhà có người huyết áp tăng vọt, cũng có người sung sướng âm ỉ thấy mình còn sống.

*

Các tôn giáo hầu như đều đồng tình ngăn chặn bản năng tự hủy diệt ở con người. Phần lớn các giáo lý đều khuyên răn sống tốt đời trần thế, tu dưỡng thiện tâm, và hứa hẹn cho người tốt một chỗ ở trên thiên đường. Người tự sát dù có bất cứ lý do gì đều không được lên thiên đường, và họ bị trừng phạt bằng cách thi thể không được táng trong nghĩa trang của giáo xứ. Chỉ có thượng đế mới có quyền cho con người mạng sống hoặc đưa họ đi khỏi cuộc đời. Cho nên người tự sát thực hiện một hành động báng bổ là cướp quyền tối cao của thượng đế.

Nhưng cũng có tôn giáo cho việc tự sát một ngoại lệ: nếu đấy là sự quên thân vì nghĩa lớn, đánh bom tự sát để tiêu diệt một kẻ nguy hiểm hoặc phá hủy một tòa nhà của kẻ thù chẳng hạn. Người tự sát đó được hứa hẹn sẽ lập tức lên thiên đường hưởng lạc với hàng chục mỹ nữ vây quanh.

Đạo Phật là tôn giáo không có thần thánh, không hứa hẹn cho ai lên thiên đường hoặc dọa dẫm họ phải ra khỏi nơi đó, nhưng tất nhiên Phật giáo cũng coi việc tự hủy hoại là vô minh. Trong muôn vạn kiếp, phải khó khăn lắm mới hội đủ nhân duyên để hình thành một kiếp người. Vậy một khi được làm người, người ta phải tranh thủ dùng cơ hội hiếm hoi đó để mà tu tập tìm đường thoát khổ.

Mặt khác, quan điểm của các tôn giáo cũng có độ vênh nhất định trong xã hội hiện đại. Một trong những tình trạng không ăn khớp là khi con người phải chịu nhiều đau đớn bởi bệnh tật. Người bệnh liệt giường trong một thời gian dài hoặc phải chịu đựng cơn đau tinh thần quá mức chịu đựng có được quyền tự quyết định sinh mạng mình hay không? Giúp cho họ một cái chết nhẹ nhàng là nhân đạo hay vô nhân đạo? Hay là tư tưởng còn nước còn tát mới hợp truyền thống và đạo lý, cho dù vô vọng trước thực trạng?

Người ta vẫn thường thầm cầu khấn được khỏe mạnh cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời. Thấy mệt lên giường nằm, tưởng chỉ nghỉ ngơi một lát rồi cứ thế mà đi luôn. Nhẹ bước về trời. Người đời nói: chết như thế là chết tiên.

Nhưng rất ít ai dám nghĩ đến việc một khi mắc bệnh trầm trọng thì được ra đi bằng cách an tử (euthanasia). Người ta vẫn đánh đồng an tử với sát nhân hoặc tự sát, dám tranh giành với đấng tạo hóa quyền định đoạt số phận.

Nhân loại vẫn mãi còn định kiến với việc tự hủy diệt.

Hồ Anh Thái/Báo Văn Nghệ

 

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

MỘT CHUYỆN TÌNH

 TUÂN NGUYỄN

Tuân Nguyễn (1933-1983)

Trong bất cứ cuộc chuyện trò nào của cha mẹ tôi về bè bạn, tôi cũng thấy hai người nhắc đến một người bạn thân, người mà tôi chỉ gặp từ khi còn rất nhỏ, song ký ức về bác thì vẫn còn nguyên vẹn: khuôn mặt xương xương, ánh mắt sáng ẩn sau gọng kính đen to, chiếc sơ mi màu trắng. Tôi không rõ hình ảnh về bác hằn trong ký ức của tôi từ bao giờ? Đó có thể là ký ức của bé Mi bé tí tẹo tèo teo, bị bác bất ngờ bế thốc lên rồi dí sát mặt vào nựng. Sau này mẹ tôi kể là bà vội giằng tôi lại từ tay bác vì sợ bác làm rơi con. Đó cũng có thể là ký ức khi tôi đã lớn hơn, chừng 10 tuổi, được gặp bác vào dịp bác đến thăm mấy mẹ con sau khi đã mãn hạn tù.
“Em có nghe tin tức gì về Tuân Nguyễn không?”; “Em còn nhớ Tuân Nguyễn không?” – Luôn là những câu hỏi như thế từ cha tôi dành cho mẹ, vào nhiều dịp, nhiều giai đoạn cuộc đời, kể cả khi bác Tuân Nguyễn đã không còn.
Tôi hiểu rằng cha mẹ tôi luôn nhớ về bác, về tình bạn ấy. Sau này cha tôi có viết một truyện ngắn về bác Tuân Nguyễn. Ông nói ông viết vì yêu quí người bạn ấy, và bởi vì cuộc đời bác quá đặc biệt. Cha tôi không dùng từ “khổ”.
Tôi không thể hình dung tại sao một người có khuôn mặt hiền, ánh mắt tựa như đang cười, có đôi chút ngây thơ lại có số phận long đong đến như vậy! Chắc hẳn ánh mắt ấy, cũng như ánh mắt của cha tôi – những con người chỉ biết sống trung thực và thẳng lưng - đã từng băn khoăn tự hỏi “tại sao người ta lại bắt mình?”.
Cuộc đời của Tuân Nguyễn đã được tóm gọn qua mấy dòng bởi nhà báo Ngô Thị Kim Cúc : “Con người ấy sinh ra đời là để yêu cuộc đời và yêu con người, nhưng đã được đáp lại theo một cách hoàn toàn trái ngược. Hay nói như dịch giả Cao Xuân Hạo thì: "Tuân Nguyễn sinh ra ở đời là để đóng vai trò này: Khi có ai đó kêu lên "Trời, sao mà tôi khổ thế?", thì nhìn vào Tuân Nguyễn, sẽ thấy mình chưa phải là người khổ..."”.
Là nhà thơ có tài mà Phùng Quán phải nể phục, Tuân Nguyễn đã không có cơ hội để trọn vẹn với thơ. Gần 10 năm bị lao lý chỉ vì một cuốn nhật ký, ra tù không nhà, không cửa, Tuân Nguyễn đã phải lận đận mưu sinh, từ việc phải làm nghề đánh vécni và dọn vệ sinh ở ga Hàng Cỏ (Hà Nội) để kiếm sống, rồi sau này vào Sài Gòn dịch sách, và lấy báo cho vợ bán. Những tưởng cuộc sống của bác cũng dần ổn định thì ngày 25 tháng 4 năm 1983, trên đường đi lấy báo về, Tuân Nguyễn bị một chiếc xe tải tông vào, được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Chợ Rẫy nhưng không qua khỏi. Trước khi mất, Tuân Nguyễn có một lời trăng trối: "Đừng bắt tội người tài xế, ông ấy còn phải nuôi 8 đứa con... Lỗi tại tôi... ". Ông vĩnh biệt cuộc đời ở tuổi 50 khi chưa thực hiện được giấc mộng văn chương, khi những đau đớn trong tâm hồn chưa được giải tỏa.
Tôi đã khóc khi nghĩ về cuộc đời của bác, của cô Phương Thúy vợ bác.
Xin chia sẻ cùng mọi người truyện ngắn của cha tôi về một kỷ niệm của bác Tuân Nguyễn - người bạn thân thiết của cha mẹ tôi, gia đình tôi. (Vũ My Lan)
MỘT CHUYỆN TÌNH
1
Ra khỏi cái toa đen nồng nặc mùi nước giải và mùi thuốc sát trùng, khách ngoái nhìn cái đầu máy đang xì xì phả từng cụm hơi nước:
– Ờ, thế là kết thúc rồi, kết thúc thật rồi, một đoạn đời khốn nạn của ta.
Tay nải kẹp nách, anh lững thững bước vào ga. Trên sàn rộng không còn một chỗ trống. Tiếng ngáy đủ mọi cung bậc bay lên vòm trần.
– Mà lạ, sao mình không cảm thấy vui, cũng chẳng thấy buồn. Nhỉ?
Anh vặn người. Mấy đốt sống kêu lục cục. Lúc lắc nhiều giờ trên tàu, anh mệt, anh muốn nằm.
Ngả lưng giữa đống người kia ư? Quang cảnh trước mắt làm anh phát gớm. Chặc lưỡi, anh len ra ngoài.
– Mình đi đâu bây giờ? Không thể đến nhà ai vào cái giờ khuya khoắt này –‘ anh tự nhủ – Làm gì còn ai chờ đợi mình?
Đêm hè. Gió mát. Mấy con chuột cống béo núc chạy loăng quăng trong rãnh hè.
– Này, lượn mãi. Không chán à?
Có tiếng gọi. Tiếng con gái.
– Đi không?
Tiếng gọi rõ ràng hướng về anh. Ngoái lại, anh thấy một người đứng tựa lưng vào tường – một cô gái.
Trẻ, thân hình thanh mảnh, cặp vú nhỏ nhú lên dưới lớp vải xanh mỏng tang. Anh bất giác tủm tỉm: kiểu áo này anh biết, nó mang một cái tên đáng sợ: áo “thắt cổ mổ bụng”.
– Đi đâu cơ? – anh không hỏi cô gái, anh tự hỏi.
– Còn đi đâu nữa? Anh không hiểu à?
-Tôi chẳng có đâu để mà đi, cô ạ.
Cô gái dợm bước về phía anh:
– Sao lại chẳng có đâu để mà đi?
Anh cười. Cái cười vô nghĩa:
– Thật mà.
Giọng bả lả, cô bảo:
– Thì đi với em. Ông anh chờ tàu hở? Hai tiếng nữa mới có tàu xuôi, anh ơi. Còn khối thời giờ.
– Không. Tôi không chờ tàu. Đây là ga cuối của tôi.
– Sao ông anh cứ luẩn quẩn ở đây? Ông anh không vội về nhà?
– Không.
– Sao thế?
Anh lúng túng.
– Tôi vừa ra tù.
Cô không ngạc nhiên. Cô vui vẻ:
– Thế à? Thì đi giải đen với em. Rẻ thôi. Nhé?
Cô túm tay áo anh.
– Không được, cô ạ.
– Sao lại không được?
Anh lúng túng đáp:
– Tôi không có xu nào trong túi.
– Thế thì lượn mãi làm gì?
Anh không tìm được câu trả lời. Anh lặng thinh.
Dưới ánh sáng nhợt nhạt của ngọn đèn đường bị lũ thiêu thân quây thành vồng, anh ngồi bệt trước cửa ga, tựa lưng vào bức tường đá.
Cô gái quan sát anh, rồi đến ngồi bên anh.
– Anh không muốn về nhà?
– Không. Tôi ngồi đây chờ sáng.
– Không về nhà thì anh định đi đâu? – cô gái nhắc lại.
– Tôi đang nghĩ.
– Nghĩ thì có ra được chỗ để về không?
– Rồi tôi sẽ nghĩ ra.
Mười một năm trước anh cũng có nó, cái gọi là nhà – một căn phòng hẹp, trần thấp, bề bộn sách. Anh nhớ về nơi ở quen thuộc một thời gian dài. Rồi anh quên. Mà nghĩ đến nó làm gì chứ! Căn phòng ấy nhà nước cấp cho anh. Rồi nhà nước đưa anh đi tù. Cái phòng hết là của anh.
Hai người im lặng một lúc.
Cô gái ngẩng nhìn bầu trời đen.:
– Khuya rồi đấy.
Anh cũng nhìn theo cô.
– Dễ gần hai giờ.
– Ga có đồng hồ mà. Cô không biết xem đồng hồ?
– Không.
– Hai giờ mười lắm.
Cô gái ngẫm nghĩ. Rồi nói:
– Hay là… thế này…
– Cô bảo sao?
– Ông anh… về với em.
Anh thở dài:
– Tôi không có tiền. Thật mà.
Cô quan sát anh lần nữa. Rồi túm tay áo anh:
– Về với em. Không tiền nong gì hết.
Anh ngơ ngác. Anh không hiểu.
– Em cũng có lúc như anh mà – chẳng biết đi đâu.
– Có tiện không?
– Đừng ngại.
Cô túm tay áo kéo anh đứng lên.
2
Nhà của cô là chái hẹp một căn nhà hẹp, trong đó có một cái giường đơn, đúng hơn là một cái chõng. Chõng có đệm, có chăn. Không khí có mùi ẩm mốc.
Anh quăng tay nải xuống đất, nhìn cô đánh diêm châm ngọn đèn hoa kỳ. Nó lép bép mãi, không chịu bén lửa.
– Cảm ơn cô.
– Anh không có nhà thì đây là nhà.
– Tôi làm phiền cô quá.
Cô sửa lại vạt chăn lơi xuống đất:
– Em cũng đã trải qua cảnh ấy.
– Thật sao?
– Không phải một lần đâu. Anh cứ nằm đây, nghỉ đi.
– Thế cô nằm đâu?
– Chõng rộng. Đủ chỗ cho hai người.
3
Câu chuyện này tôi nghe bạn tôi kể. Lâu lắm rồi.
Tôi muốn ghi lại câu chuyện được nghe trong hình thức một truyện ngắn hay một bút ký, nhưng viết mãi không thành. Dưới gầm bàn đầy những trang giấy vo viên. Trong tay các nhà văn câu chuyện này chỉ một loáng là xong. Tôi thì không thể. Tôi không phải nhà văn. Nhưng không viết nó ra thì tiếc.
– Ông kể tiếp đi – tôi nằn nì – Tôi muốn nghe.
– Ờ, thì kể. Nhưng chuyện khó tin đấy.
– Tôi tin.
Bạn tôi ngần ngừ:
– Nó khó tin, nhưng là chuyện có thật. Tôi nằm xuống cái chõng ấy và thiếp đi ngay lập tức. Giữa đêm thức giấc, tôi thấy có người nằm bên. Là cô gái ấy.
Tôi cười:
– Tôi hình dung được chuyện ắt phải xảy ra.
Anh nghiêm mặt:
– Bậy nào. Tôi biết, ông, và nhiều người nữa, chắc sẽ nghĩ như ông. Rằng tôi sẽ vồ lấy cô ấy, ngấu nghiến làm cái việc con vật đực bị giam hãm lâu ngày sẽ làm. Không, hoàn toàn không phải thế. Đời tù quá dài đã làm tôi quên chuyện ấy. Nói cho đúng, tôi không nhớ tới nó. Khát vọng tự do đã che lấp mọi cảm giác.
Anh lặng đi trong hồi tưởng.
– Đó là một đêm cực kỳ hạnh phúc trong đời người. Nó chỉ xảy ra một lần, nếu anh may mắn gặp nó. Nó giống như một giấc mơ. Hơi thở đều đều của người con gái không quen biết gối đầu trên tay tôi. Nó mới thơm làm sao, mới ấm áp làm sao, mới tinh khiết làm sao. Cái hương ấy chẳng bao giờ tôi quên được. Nó giống hương hoa đồng nội ở những phút hiếm hoi khi con người cảm thấy mình với thiên nhiên là một.
Tôi nghe, chìm trong tưởng tượng.
– Rồi sau đó thì sao?
– Cô giữ tôi ở lại với cô – anh nhớ lại – Tôi mệt. Tôi ngủ ngay lập tức.
Sáng ra, cô bảo:
– Anh cứ ở lại đây. Nhìn anh, em tin anh. Anh là người ngay thật.
– Và anh ở lại? – tôi hỏi, với một chút ngạc nhiên.
Anh gật:
– Vâng. Anh không tin?
– Tôi tin.
– Nói cho đúng, một cơn sốt rét đã giữ tôi lại. Cô gái chạy đi mời bác sĩ. Ông ta đến, làm gì, tôi không biết. Tôi mê man. Khi cơn sốt lui, tôi hiểu: cô gái đã cứu mạng tôi. Mà bằng cái gì?
Anh bặm môi, nói chậm từng tiếng:
– Bằng tiền đi khách, anh ạ. Bằng tiền đi khách, thật vậy. Có cái ơn nào lớn hơn ơn ấy không?
Những gì tôi biết về bạn mình không giống câu chuyện tôi nghe..
Anh có vợ là một nhạc công chơi tam thập lục trong một dàn nhạc dân tộc, con một học giả danh tiếng. Không phải cô gái trong câu chuyện anh kể.
Tôi giục:
– Kể tiếp đi.
– Tôi kể đây. Khỏi bệnh, tôi nói với cô: “Em là người tốt nhất với anh trong đời. Nếu em không chê kẻ vô gia cư này, thì anh xin được gá nghĩa cùng em.
– Cô ấy nói sao?
Cô ấy bảo:
– Không được, anh ơi. Chúng ta không thể thành vợ chồng. Anh khác em. Anh là trí thức. Trong lúc mê man, anh lảm nhảm bằng tiếng Tây. Em không thể làm vợ anh.
– Tại sao?
– Anh không thể có vợ là một con điếm.
Tôi hỏi tiếp:
– Rồi sao?
– Tôi bảo: anh cũng là kẻ dưới đáy. Ta có khác gì nhau.
– Không đâu – cô ấy nói – Anh khác, em khác. Dù trong lúc này chúng ta cùng ở dưới đáy.
– Anh không thuyết phục được cô ấy?
– Tôi đã cố gắng, nhưng vô vọng.
– Rồi anh bỏ đi?
Anh lắc đầu, buồn bã:
– Cô ấy bỏ đi. Đi đâu, không biết. Tôi đã tìm. Không phải nhiều ngày, mà nhiều tháng. Mọi chuyện rồi cũng qua, như cuộc đời vốn thế. Tôi không biết gì hơn. Trong đám cưới với nhà tôi bây giờ, tôi nhận được một bó hoa vô danh do một cậu bé mang tới.
– Là của cô ấy?
– Trong bó hoa có một mẩu giấy.
– Cô ấy viết?
– Không phải. Mẩu giấy là của tôi, trong đó có mấy câu thơ viết vội.
– Thơ thế nào?
– Không ra gì. Không đáng để anh nghe. Điều làm tôi xúc động là cô đã giữ nó. Như một kỷ niệm về tôi. Nay cô ấy trả lại.
Chuyện này xảy ra với một nhà thơ, bạn tôi.
Tôi chỉ ghi lại chuyện anh kể. Không thêm. Không bớt.
Anh là nhà thơ không tăm tiếng. Tên anh không được nhắc đến trong các nhà thơ hiện đại.
Nhưng trong tôi, anh để lại một dấu vết không phai mờ.
Nó được tạc vào ký ức. Rõ nét. Như tạc trên đá.
Vũ Thư Hiên

trái sấu khô

Những trái sấu khô cắt đôi, được sơn thếp vàng, nhìn như hình từ trên xuống 5 vị ngồi kiết già trở thành biểu tượng của พระเจ้าห้าพระองค์ ~ Ngũ Trí Như Lai / Ngũ Phương Phật: một vật thờ và bùa hộ mệnh của người dân Lào và Đông Bắc Thái.