Thứ Ba, 19 tháng 3, 2024

Về mối u tình của Tào Thực với người chị dâu

 

Một phần bức tranh Lạc Thần phú đồ - Cố Khải Chi.

Về mối u tình của Tào Thực với người chị dâu

Phạm Xuân Hy

A- Lăng Ba Vi Bộ (淩波微步)

Trong tiểu thuyết võ hiệp «Thiên Long Bát Bộ» của Kim Dung, nhân vật Đoàn Dự có thế võ khinh công tuyệt kỹ gọi là «Lăng Ba Vi Bộ».

Thật ra, bốn chữ này không phải do Kim Dung sáng tạo ra, mà ông đã mượn bốn chữ này  trong một  bài phú nổi tiếng lãng mạn trữ tình, được các văn học giả Trung Quốc xưng tụng là bài phú kiệt tác của thời nhà  Ngụy đời Tam Quốc, tức là bài “Cảm Chân Phú” do Trần Tư Vương Tào Thực, một đại văn hào tài hoa phóng khóang viết ra vào năm 223.

Có nhà phê bình văn học cho rằng thông qua nữ thần sông Lạc Thủy, tác giả đã sử dụng nhiều mỹ từ, trí tưởng tượng phong phú, kể lại sự tương ngộ lãng mạng trong mơ của ông với Mật Phi, vị nữ thần của sông Lạc thủy, từ vóc dáng tiêu sái thóat tục, phẩm hạnh đoan chính trang nhã, bước đi uyển chuyển nhẹ nhàng, đến chuyện tác giả được nữ thần đem gối đầu ra tặng, và nỗi lòng tương tư  thương nhớ của ông khi hai người chia tay nhau,  mà về sau có người cho đó, chính là hình ảnh của Chân thị,  người chị dâu, vợ Ngụy Văn Đế Tào Phi, mà ông đã đem hết lòng ngưỡng mộ.

Bài phú này cũng trở thành đề tài tranh luận lâu đời về mối u tình của ông với Chân Hoàng Hậu.

Ở đây tôi  chỉ xin trich một đọan ngắn, trong bài phú, đó là lời Tào Thực kể lại cho người đánh xe ngựa của mình, về thể thái, dáng đi, điệu bộ, sắc diện của Nữ Thần Sông Lạc mà ông đã mơ thấy:

休迅飛鳧,飄忽若神,;淩波微步,羅襪生塵。動無常則,若危 若安。進止難期,若往若。轉眄流精,光潤玉顏。含辭未吐,氣若幽蘭。華容婀娜,令我忘餐

Hưu tấn phi phù, Phiêu hốt như thần, Lăng ba vi bộ, la mạt sinh trần, động vô thường tắc, nhược nguy nhược an, tiến chỉ nan kỳ, nhược vãng nhược hoàn, chuyển miện lưu tinh, quang nhuận ngọc nhan, hàm từ vị thổ, khí như u lan, hoa dung a na, lịnh ngã vong sán

Tạm dịch:

Nàng (tức nữ thần Lạc thủy) có vóc dáng nhẹ nhàng như ngỗng trời bay, ẩn hiện vô thường, biến ảo quỷ xuất thần một. Chân lướt  trên sóng, đi những bước nhanh nhẹn nhỏ bé, tiến  về phía ta, làm bụi nước bay  lên  bám vớ  lụa như những giọt thủy châu.Hành vi, cử chỉ, đều lạ kỳ không chuẩn mực. Tưởng như hấp tấp, mà  hóa ra nhàn nhã. Tiến thoái, động tĩnh đều như không định trước. Có lúc, ta tưởng  nàng như sắp dời xa mà hóa ra lại gần. Rồi nàng đưa mắt nhìn ta, dung nhan như ngọc nhuận, ôn hòa mà thanh khiết. Miệng như muốn nói, mà  e ấp thẹn thù. Hương thơm như u lan tán phát. Phong thái yêu kiều khả ái, khiến lòng ta đắm đuối si mê, quên ăn mất ngủ.

Mấy chữ  “ - Lăng Ba Vi Bộ”, trong bài phú này đã được Kim Dung mượn để đặt tên cho miếng võ khinh công trấn môn, tuyệt kỹ của Đoàn Dự  trong Thiên Long Bát Bộ như trên đã trình bầy.

Thực tế, trong võ thuật, không hề có thế võ nào mang tên là “Lăng Ba Vi Bộ”. Đây là  chữ, là ngôn ngữ, của Tào Thực. Cũng thế, Đoàn Dự trong «Thiên Long Bát Bộ», cũng chỉ là một nhân vật “ảo”, của Kim Dung. Nhân vật  “thật”, Đoàn Dự, là một hoàng đế của nước Đại Lý, như đã trình bầy ở trên.

 

B- Bối cảnh Tào Thực viết «Cảm Chân Phú»

Chân Lạc

Các nhà nghiên cứu văn học sử Trung Quốc thường  chia tác phẩm văn học của Tào Thực làm hai thời kỳ: tiền kỳ và hậu kỳ.

Vào thời tiền kỳ, Tào Phi với Tào Thực là những nhân vật chủ yếu tập đoàn văn nhân của Nghiệp Thành, chuyên du sơn ngọan thủy, làm thơ ngâm vịnh, viết những bài văn, bài phú nói lên cái lý tưởng chính trị của mình, khai sinh ra những  tác phẩm phản ánh những tình thế  động đãng thời cục, những nỗi  cực khổ  trong đời sống của nhân dân.

Còn về thời hậu kỳ, chủ yếu  thơ văn của Tào Thực đa số mô tả  nỗi bi phẫn, uất ức do ông bị người anh là Tào Phi tìm cách chèn ép bách hại. Bài «Cảm Chân Phú» là đại biểu tác phẩm của ông  thời kỳ thứ hai này.

Bài «Cảm Chân Phú» được các nhà phê bình văn học Trung Quốc xưng tụng là một  tác phẩm kiệt xuất của Tào Thực, nếu đem so sánh với bài «Cửu Ca» của Khuất Nguyên thì có thể ngang ngửa. Bài phú này là bài phú đại biểu cho thời kỳ văn học Kiến An.

Theo bài tự của tác giả trong sách Văn Tuyển, thì vào năm Hoàng Sơ tam niên, tức năm 222, tác giả từ kinh sư trở về phong địa, trên đường đậu thuyền nghỉ đêm bên bờ sông Lạc Thủy, đã thông qua sự tưởng tượng mộng ảo, cấu tứ ly kỳ, lời văn mỹ lệ, viết bài “Cảm Chân Phú”, mô tả sự tương ngộ của tác giả với nữ thần sông Lạc Thủy là Mật Phi, rồi hai người yêu nhau, nhưng cuối cùng, vì “thần” và “người” khác biệt nhau, không thể sống với nhau được, đành phải chia ly đau sót.

“Cảm Chân Phú” tuy chiụ ảnh hưởng của “Thần Nữ Phú” của Tống Ngọc nhưng về kỹ thuật thì tỷ dụ sinh động, tiến bộ, đẹp đẽ hơn. Tình tiết như sóng gợi dạt dào, lúc lên lúc xuống. Ngôn ngữ cấu tứ ly kỳ diễm tuyệt, người đọc xong vẫn còn cảm thấy dư vận lan man bất tận.

Có thuyết cho rằng Tào Thực viết “Cảm Chân Phú” là vì  thương nhớ nàng Chân thị, người chị dâu, vợ Tào Phi. Sau đó hơn bốn trăm năm, vào năm Hiển Khánh tam niên, đời Đường Cao Tông, tức năm 658, Lý Thiện, một văn học gia đời Đường, làm chú giải  sách “Văn Tuyển” có viết như sau:

Đông A Vương (Tào Thực) cuối đời nhà Hán muốn lấy con gái Chân Dật (tức Chân thị) nhưng không tọai nguyện. Khi Tào Tháo hồi binh, đem Chân thị gả cho Ngũ Quan Trung Lang Tướng Tào Phi, khiến cho Tào Thực hết sức bất bình. Ngày đêm tơ tưởng, đến bỏ cả ăn ngủ.

Sau khi Chân thị chết được hai năm,  đến năm Hoàng Sơ tứ niên, tức năm 223, Tào Thực đến Lạc Dương để triều kiến Ngụy Văn Đế Tào Phi. Phi có lẽ như hối hận, sai con là Thái Tử là Tào Duệ, người con do Chân thị sinh ra, mở tiệc và bồi tiếp Tào Thực. Tào Thực nhìn thấy cháu, tưởng nhớ đến Chân Thị, lòng đau sót miên man. Bất giác rơi lệ.

Sau bữa ăn, Tào Thực được Tào Phi ban cho di vật của Chân thị. Đó là một chiếc gối đầu có dát ngọc và đai bằng vàng. Tào Thực mang chiếc gối đầu của người Chân Thị trở về phong địa của mình.Trên đường về, Thực đậu thuyền bên bờ sông Lạc Thủy. Nhân vì lòng quá bi thống thương nhớ Chân thị, lại thêm đường trường lao lụy mệt mỏi, thần trí mông lung hoảng hốt, đứng ngồi không yên, Tào Thực bỗng mơ màng cảm thấy bóng Chân thị yểu điệu thướt tha từ xa lướt gió xuất hiện, nói: “Lòng thiếp vốn phó thác cho chàng, mà không được tọai nguyện. Chiếc gối đầu này là của thiếp mang theo khi lấy Ngũ Quan Trung Lang Tướng (chức của Tào Phi khi chưa cướp ngôi nhà Hán), nay xin hiến tặng chàng”. Sau đó nàng sai người đem châu báu tặng cho Thực. Thực cũng đem ngọc bội tặng lại. Rồi cùng nhau hoan lạc. Cả hai vừa xót xa vừa bi thống. Xong thì biến đi.

Lúc Tào Thực hoảng hốt tình dậy. Té ra chỉ là một giấc Nam Kha. Khi về đến phong địa của mình ở Chân Thành, hình ảnh  tao ngộ trong mộng với Chân thị bên bờ sông Lạc Thủy vẫn còn làm cảm kích, tâm hồn, đầu óc TàoThực, lại thêm văn tứ dồi dào, nhân thế, Tào Thực mới viết «Cảm Chân Phú  ».

Về sau, Ngụy Minh Đế Tào Duệ, con của Chân Thị, lên nối nghiệp Tào Phi, tránh tiếng cho mẹ,  mới đổi «Cảm Chân Phú» thành «Lạc Thần Phú  ».

Từ bài viết của Lý Thiện, người đời sau mới đặt thành nghi vấn Tào Thực vì quá yêu Chân Thị mà viết «Lạc Thần Phú».

C- Phải chăng vì yêu người chị dâu mà Tào Thực viết «Lạc Thần Phú» ?

Lạc Thần phú đồ (洛神赋图), vẽ lại Lạc Thần

Sau khi bài Lạc Thần Phú ra đời khỏang 300 năm, đến đời nhà Lương, con của Lương Võ Đế, là Thái Tử Tiêu Thống, cùng với các văn nhân đương thời sọan một tuyển tập thi văn đầu tiên của Trung Quốc, đem bài Cảm Chân Phú của Tào Thực, xếp vào hạng «tình lọai». Rồi mãi đến thời nhà Đường, Lý Thiện, như đã thuật ở trên, viết chú dẫn về «Văn Tuyển», thuật lại Tào Thực có ý muốn lấy Chân Thị, không thành, đến nỗi bỏ ăn mất ngủ. Rồi sau, Tào Phi lại đem gối đầu của Chân Thị  ban cho Tào Thực.

Như vậy, có thật Tào Thực vì  yêu người chị dâu họ Chân của mình mà viết “Cảm Chân Phú” không ?

Câu hỏi này đã trở thành một đề tài tranh luận kéo dài cả ngàn năm nay, vẫn chưa có câu trả lời dứt khóat.

Trên diễn đàn văn học Trung Quốc, có hai quan điểm chống đối lẫn nhau.

– Những lý luận phủ nhận Tào Thực yêu Chân Hậu

Chân thị là vợ Tào Phi, mà Tào Thực là em của Tào Phi. Em mà dám ngang nhiên yêu chị dâu mình, cho dù yêu lén, đứng về mặt đạo lý «anh em», đó là điều bất nghĩa. Đứng về mặt quân thần, đó là điều «bất trung», một tội mà cổ nhân thường gọi là «đại nghịch bất đạo». Dựa trên lý luận như thế, các nhà nho xưa, nổi tiếng trên diễn đàn văn học đã đua nhau đứng lên  phản bác, đả kích.

Đại khái, những lập luận của phe phản đối có thể tóm vào những điểm sau đây:

1- Bản chú thích «Văn Tuyển» của Lý Thiện, không có lời chú dẫn như trên đây, mà do Vưu Mậu, người đời Tống  nhầm lẫn khi san đính lại.

2- Không thể nào có khả năng  xẩy ra việc Tào Thực yêu chị dâu mình được. Tào Thực phải lo giữ «thủ cấp» của mình, không thể có đủ can đảm dám viết một cách bộc bạch rõ ràng  nối «Cảm Nhớ Chân Hậu», vì khi đó Tào Thực đang bị Tào Phi ép bức, nhân có sự tranh chấp về quyền hành chính trị và quyền nối ngôi báu.

3- Làm em mà muốn chiếm vợ của anh mình, đó là hành vi ô nhục của cầm thú. Vả, kẻ làm anh (Tào Phi) lẽ nào an nhiên để cho em làm bôi nhọ vợ mình sao? Rồi kẻ làm con (Tào Duệ Ngụy Minh Đế), lẽ nào lại an nhiên chịu để cho người chú ruột làm mất danh dự của mẹ mình sao? Nên Tào Duệ đã đổi tên bài phú từ “Cảm Chân Phú” thành “Lạc Thần Phú”! Vả lại chữ Chân còn có nghĩa là Chân Thành, phong địa của Tào Thực.

4- Khi làm chú giải «Văn Tuyển», Lý Thiện thụật lại rằng Tào Phi đem chiếc gối đầu của Chân thị đưa cho Tào Thực coi, rồi đem gối đó ban cho Tào Thực, đó chẳng qua chỉ là một sự bịa đặt, không hợp lý, cho dù «lão lý đình dù» cũng chẳng làm, huống hồ là một bậc văn nhã  vương hầu  như Tào Thực .

5- Tào Thực sinh năm 192 CN; còn Chân thị sinh năm 182 CN, luận về tuổi tác thì Tào Thực ít hơn Chân Thị 10 tuổi, khó có khả năng Tào Thực, lúc 12 tuổi cầu xin cha mình là Tào Tháo, cưới một người thiếu phụ đã 20 tuổi, đã có chồng (tức Viên Hy), để làm vợ.

Do Lạc Thần Phú là một bài phú hay, có nhiều ảnh hưởng trên văn đàn, thêm vào đó là sự cảm động về bi kịch luyến ái của Chân Thị và Tào Thực, nên người đời truyền tụng bảo nhau, và nhất định coi  là nữ thần Lạc Thủy là Chân Thị.

- Những lý luận đồng tình cho Tào Thực viết “Lạc Thần Phú” là  vì yêu Chân Hậu

Năm 204, sau khi Tào Tháo phá vỡ Nghiệp Thành, Tào Phi lấy được Chân thị, Tào Tháo chẳng những không được nghỉ ngơi, mà còn vất vả hơn vì phải lo sửa sọan chiến tranh, chinh phục miền nam. Tự nhiên, Tào Phi ở địa vị là con trưởng cũng vì thế, luôn thường phải xa nhà, đi ra chiến trường. Vì thế, Chân thị trở thành phòng không lạnh giá.

Trái lại, Tào Thực còn ít tuổi, bản tính lại không thích chiến tranh giết chóc. Vì được ở nhà, Tào Thực thường có cơ hội ở bên người chị dâu Chân Thị, tình cảm dần dần sinh sôi nẩy nở. Lúc đó Chân thị mới có 20 tuổi. Tào Thực mới  lên mười. Rồi thời gian trôi đi, Tào Thực cũng trưởng đại dần, dù có đem lòng yêu người chị dâu có nhan sắc “phong hoa tuyệt đại”, biến nàng thành nữ thần trong tâm hồn của mình,  là một điều rất có khả năng xẩy ra.

Tài tử giai nhân, từ ngàn xưa muôn đời vốn là hay duyên nợ. Vả lại,  người đời thường có câu nói: “Yêu nhau ai tính tuổi bao giờ”. Ngòai ra, đứng về mặt ái tình tâm lý, chẳng có gì để quả quyết khẳng định rằng vì cách biệt tuổi tác thì không thể yêu nhau được. Bằng cớ, ngay Tào Phi cũng  kém Chân Hậu năm tuổi, mà vẫn lấy Chân Hậu làm vợ.

Và nhà thơ Hoàng Cầm, ông đã chẳng từng kể lại rằng lúc chỉ mới 12 tuổi, ông đã phải lòng, yêu một cô láng giềng xinh đẹp lớn hơn mình 8 tuổi. Rồi vất vả ngược xuôi. Từ đồng chiều cuống dạ. Đến nắng vãn bên sông. Ông cố đi tìm một thứ lá gọi là “Lá Diêu Bông”, không biết là lá gì, để mong được làm chồng người chị hàng xóm xinh đẹp đó. Nhưng khi tìm được lá rồi, thì người chị hàng xóm đã đi lấy chồng. Ông tiếc công mình, chỉ biết buông tiếng thở dài não nuột:

“Diêu Bông hời ! Ới Diêu Bông! »

Và, bài thơ “Lá Diêu Bông” được ra đời  năm 1959, trở thành một bài thơ được nhiều người yêu thích ngâm ngợi, và được nhiều nhạc sĩ phổ thành những bản nhạc trữ tình, thật đẹp.

Nhưng nhắc đến Lạc Thần Phú, tất nhiên không thể không nhắc  đến «chủ nhân công», những nhân vật chính, của bài phú này: Chân Hậu, và Tào Thực.

D- Sơ lược về Chân Hậu ( )


Chân thị hay Chân Hoàng Hậu, vợ Ngụy Văn Đế Tào Phi, không rõ tên, sinh năm Quang Hòa ngũ niên đời Hán Linh Đế, tức năm 182, mất năm 221, người Vô Cực Trung Sơn, (nay thuộc huyện Vô Cực tỉnh Hà Bắc), là con gái của Thượng Sái Lệnh là Chân Dật, mẹ là Trương thị. Theo kể lại, khi Trương thị lâm bồn, thấy một ông tiên vào trong phòng, lấy ngọc y đắp lên người bà, ít lâu sau sinh ra Chân thị.

Lúc Chân thị lên 3 tuổi thì cha qua đời, có viên thầy tướng là Lưu Lương xem tướng Chân thị nói: «Đứa con gái tướng quý không thể nói hết được». Chân thị từ bé đến lớn, tính tình rất là điềm đạm trầm tĩnh. Lúc Chân thị lên tám tuổi, ngoài cửa có biểu diễn trò mã hí. Mọi người trong nhà cùng tất cả các chị em đều kéo nhau lên lầu để xem, duy có một mình Chân thị không đi. Mọi người đều lấy làm lạ hỏi, thì Chân thị trả lời:

- Trò đùa đó, há lại để cho đàn phụ nữ coi hay sao?

Lên chín tuổi, Chân thị học đọc,  học viết, nên mượn bút của người anh để dùng. Người anh mới hỏi:

- Em đàn bà nhi nữ thì nên học nữ công, chứ học chữ để làm gì? Không lễ để ra làm nữ quan hay sao?

Chân thị đáp:

- Cổ xưa có bậc hiền giả nào không lấy những thất bại và thành công của tiền nhân để kiểm nghiệm mình, nếu không biết đọc sách thì làm sao mà biết được.

Bấy giờ, gặp lúc thiên hạ đại loạn,thêm liên tiếp nhiều năm mất mùa đói kém. Ai ai cũng đem kim ngân, châu bảo, báu vật để đổi lấy thức ăn. Chân thị bảo với mẹ:

- Lúc này lọan lạc, sao mẹ không đem ngọc ngà bảo vật ra bán đi. Giữ lại trong nhà sẽ mang họa đấy. Kẻ vô tội, nhưng đeo ngọc ngà mà trở thành có tội. Lại thêm hàng xóm họ hàng đều đói kém cả,  chi bằng đem thóc ra mà phát chẩn cho họ, mà lấy chút ân huệ.

Cả nhà nghe Chân thị nói thế đều khen là hiền thục. Đến tuổi cập kê, Chân thị lấy con giai Viên Thiệu là Viên Hy. Viên Hy tuy thuộc lọai quý công tử, nhưng chắc không phải là kẻ biết «thương hoa tiếc ngọc», nên Chân thị có tả một bài thơ thuộc loại «Khuê oán», kể cuộc sống buồn chán của mình, trong bài «Đường Thượng Hành».

Bấy giờ Viên Thiệu chiếm cứ bốn châu là Ký, Tinh, U , Thanh, binh lực rất là hùng hậu, oai trấn tứ hải. Nhưng năm 200 CN, xẩy ra trận chiến Quan Độ, Viên Thiệu bị Tào Tháo đánh cho cho đại bại thê thảm. Sau Viên Thiệu bị xấu hổ, uất ức sinh bệnh mà chết.

Hai người con của Thiệu là Viên Thượng và Viên Đàm tranh quyền kế vị, đem binh đánh lẫn nhau, làm tiêu hao thế lực của Viên Thiệu còn lại. Tào Tháo thừa cơ  tấn công Lê Dương. Viên Đàm, Viên Thượng chống đỡ không nổi, bỏ chậy đến Nghiệp Thành. Nhưng hai anh em nhà họ Viên «thế bất lưỡng lập», tìm đủ cách tiêu diệt lẫn nhau. Sau Viên Đàm phải chạy sang cầu cứu Tào Tháo. Cuối cùng Tháo tiêu diệt được  toàn bộ lực lượng của Viên Thiệu.

Năm 204, Tào Phi mới có 18 tuổi, cũng theo cha đánh đông dẹp bắc. Sau khi phá vỡ được Nghiệp Thành, Tào Phi từng ái mộ tiếng Chân thị là người mỹ lệ, xông thẳng vào phủ của họ Viên. Rút kiếm. Nhẩy xuống ngựa đi tìm. Lúc tiến vào hậu đường, Tào Phi chỉ thấy một phụ nữ vào tuổi trung niên, ngồi khóc một mình ở đấy. Có một thiếu phụ cũng đang run rẩy sợ hãi ôm chân mà khóc. Người đàn bà trung niên ấy chính là vợ của Viên Thiệu, người họ Lưu. Còn người thiếu phụ  là con dâu của Viên Thiệu, vợ Viên Hy, chính là Chân thị, bị Viên Hy bỏ lại khi vội vã đem đám tàn binh bại tướng chạy đến Liêu Tây.

Chân thị tuy mặt mũi đẫm lệ, son phấn nhạt nhòa nguệch ngọac, nhưng trông vẫn xinh đẹp chẳng khác gì như “phù dung xuất thuỷ”, «liên hoa đặm sương», dánh dấp e lệ hãi hùng, càng làm cho vẻ đẹp diễm kiều của Chân thị thêm não nuột.

Tào Phi không cầm nổi lòng đám đuối, bèn tiến lại gần, vén tay áo lau những hạt lệ đang lăn trên gò má của Chân thị.

Qủa nhiên, thấy Chân thị  bậc tuyệt thế giai nhân, sắc diện như hoa đào,  lóng lánh như hoa hạnh.Tào Phi vội vã tự  xưng tên họ của mình, và bảo nàng cứ an lòng.

Vợ Viên Thiệu nghe nói là thế tử con của Tào Tháo, liền bảo với Chân Thị vái chào. Chân thị e ấp thi lễ, khẽ đưa mắt kín đáo nhìn Tào Phi, thấy Tào Phi nghi biểu phong lưu anh tuấn, trong lòng cũng bớt lo lắng. Còn Tào Phi lúc đó cũng ngây người ra, lòng bàng hoàng mừng rỡ.

Chợt có tiếng người lao xao từ ngòai bước vào. Té ra Tào Tháo. Tào Tháo cũng từng nghe  người ta nói đến sắc đẹp của Chân thi, nên hỏi ngay đến gia quyến thân thuộc của Viên Thiệu. Tào Phi bèn vào trong hậu đường dẫn Lưu thị và Chân thị ra. Tào Tháo nhìn thấy Chân thị  qủa là «ngư trầm lạc nhạn, tuyệt thế giai nhân», trong lòng cũng cảm thấy rung động, bèn hỏi Lưu thị :

- Sao  nhà chỉ có hai người thôi à ?

Lưu thị đáp:

– Các con thiếp đều đã bỏ chạy cả. Duy còn lại có người con dâu thứ hai này ở lại hầu hạ mà thôi. Nay nhờ thế tử gia ân bảo toàn, thật là vạn hạnh.

Tào Tháo nhìn sang bên cạnh thấy Tào Phi hai mắt cứ đăm dăm nhìn Chân Thị, trong lòng thầm hiểu Tào Phi muốn gì.

Tào Phi bèn vội vã thưa với Tào Tháo :

– Đời con chẳng mong gì khác, chỉ xin được người con gái này làm vợ, được như vậy là đủ mãn nguyện rồi. Xin cha nghĩ cái phận con chưa có gia đình mà thành toàn cho.

Tào Tháo không thể từ chối, miễn cưỡng đồng ý, liền nhờ mai mối hỏi Chân thị, vợ của Viên Hy, làm vợ cho Tào Phi, rồi chọn ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn.

Nhất quyết lấy bằng được một người đã có chồng để làm vợ chứ không phải làm thiếp, lại hơn mình năm tuổi, đủ cho thấy Tào Phi rất là ái mộ sắc đẹp của Chân thị.
Năm sau, Chân thị sinh ra Tào Duệ, tức Ngụy Minh Đế sau này.

Chân thị có thói quen kết tóc mỗi ngày một kiều. Tương truyền rằng  Chân thị mỗi buổi sáng đều theo tư thái của  một con rắn lục để kết kiểu. Các kiểu tóc của Chân thị được người  gọi là Linh Xà Kết .

Năm Kiến An nhị thập ngũ niên, tức năm 220, Tào Tháo qua đời. Tào Phi lên kế vị Ngụy Vương. Cùng năm, Tào Phi ép Hán Hiến Đế nhường ngôi cho mình, đọat ngôi nhà Hán, chính thức xưng đế, đặt tên nước là Ngụy, đô ở Lạc Dương, phong Chân Thị là Phu Nhân.

Trong hậu cung, Tào Phi có khá nhiều nội sủng.Trong đó phải kể đến Quách thị là người được sủng ái nhất, lại là người nhiều mưu kế, giỏi nịnh nọt, Tào Phi có ý muốn phong làm Hoàng Hậu, nhưng vì còn có Chân thị là vợ chính thức, nên không phong ngay.
Do Quách thị dèm pha, Chân thị bị thất sủng và bị Tào Phi lưu  ở Nghiệp Thành.

Được một năm sau khi lên ngôi, năm 221, lúc đó Chân thị sau nhiều năm dài làm vợ Tào Phi, cũng đã phấn nhạt hoa tàn, hương sắc không còn làm Tào Phi đắm đuối như buổi ban đầu nữa, thì Phi bắt đầu dở chứng «chán cơm mê phở», sủng ái Quách thị, rồi nhân vì mấy câu thơ của Chân thị viết để  hòai niệm phút «sơ kiến ban đầu lưu luyến ấy», khi Tào Phi gặp nàng, nay không còn nữa. Nàng tự ví mình bây giờ  chỉ như chiếc quạt hoa, khi gió thu về, bị cất vào kho, không được sử dụng:

人生若只如初见,何事西风悲画扇

Nhân sinh nhược chỉ sơ kiến, Hà sự tây phong bi họa phiến ?

Cuộc đời nếu chỉ như gặp nhau lúc đầu, thì chiếc quạt hoa kia đâu phải chịu cảnh phũ phàng khi gió thu v?

Với lời thơ ví von thương cảm ấy, Chân thị bị Tào Phi gán cho tội là có lời oán trách, sai sứ giả đến «tứ tử », tức ban ân cho cái chết, bắt ép nàng phải tự tử, đúng vào lúc Chân thị 39 tuổi.

Tương truyền rằng, khi chết Chân thị không có người lo táng liệm. Lại còn bị Tào Phi nhẫn tâm, nhỏ nhen ra lệnh không cho phép phủ mặt bằng gấm lụa như tập quán thời bấy giờ, mà chỉ cho phép phủ trên mặt nàng, bằng chính tóc của nàng. Và phải chôn úp sấp, cho không hưởng được áng dương. Còn miệng thì nhét đầy cám bã, không dùng ngọc ngà châu báu như nghi thức chôn cất của các bậc quý phi vương hầu thời bấy giờ, vì sợ nàng tái hồi dương thế. Hoàn toàn trái với những nghi thức trong lễ táng của người Trung Hoa thời đó, gọi là «phạn hàm 飯含».

Tình lang ơi! Sao nỡ bạc với nhau đến thế làm gì!

Cái chết của Chân Hậu quả là một cái chết oan ức, đầy thảm khốc.

Đọa đầy chi bấy hóa công, «hồng nhan bạc mệnh» ,đến thế thì thôi.

Mãi đến năm 226, khi Tào Duệ lên ngôi, biết mẹ chết oan, mới phong Chân thị là «Văn Chiêu Hoàng Hậu». Sử sách thương nàng, thường gọi là Chân Hoàng Hậu, hay Chân Hậu.

Theo Bùi Tòng Chi chú thích sách «Tam Quốc Chí» của Trần Thọ có dẫn một đọan trong «Hán Tấn Xuân Thu» cho biết thêm chi tiết liên quan đết cái chết của Chân thị như sau :

初,甄 诛,由郭 宠,及 殡,命 面,以 口,遂 后,使养 帝。帝 之,心 怀 念,数   状。郭 (),何以 我?且 子,可 父, 邪? 怒,遂 之,敕 使 事。Sơ, Chân Hậu chi chu, do Quách thị chi sủng, cập tẫn, mệnh bị phát  phúc diện, dĩ khang tắc khẩu, tọai lập Quách hậu, sừ dưỡng Minh Đế, Đế tri chi, tâm thường hoài niệm, số khấp Chân Hậu tử trạng. Quách Hậu viết: ’Tiên đế tự sát chi, hà dĩ trách vấn ngã, thả nhữ vi nhân tử, khả truy cừu tử phụ, vi tiền mẫu uổng sát hậu mẫu‘ Minh đế nộ, tọai bức sát chi, sắc tẫn giả sử như Chân Hậu cố sự -

Lúc bấy giờ, việc Chân Hậu bị giết có liên quan đến việc Quách Hậu được Tào Phi sủng hạnh, chừng  lúc sắp đem vào áo quan, sai người để cho tóc phủ mặt, và lấy cám đổ đầy miệng Chân Hậu, sau đó lập Quách thị làm Hoàng Hậu và nuôi Tào Duệ. Tào Duệ biết chuyện, trong lòng thường hoài niệm thương nhớ Chân Hậu, nhiều lần khóc hỏi cái chết của mẹ mình. Quách Hậu trả lời rằng: Giết bà ấy là tiên đế (tức Tào Phi), sao lại trách hỏi ta. Vả ngươi là con cái, lẽ nào lại thù hận cha mình đã chết rồi, và vì mẹ chết oan mà giết mẹ nuôi mình. Tào Duệ nổi giận, sai người ép Quách Hậu chết và sai người tẩm liệm y hệt như Chân Thị ngày trước.

E- Sơ lược về Tào Thực (曹植)

Bức tranh bối cảnh Thật bộ thi của Tào Thực.

Vợ trước của Tào Tháo là Lưu thị sinh ra người con trưởng là Tào Ngang, bị chết trong trận đánh ở Uyển Thành.Người vợ sau của Tào Tháo là Biện thị, sinh được bốn người con là Tào Phi, Tào Chương, Tào Thực, Tào Bưu.

Tào Thực (192-232) là một đại thi nhân nhà Ngụy thời Tam Quốc, tự là Tử Kiến, người Tiêu Huyện, Bái Quốc (nay là Hào Châu tỉnh An Huy). Một thi nhân tài ba mà các nhà văn học đời sau từng khen, xếp và hạng «thượng đẳng» thời Ngụy, Tấn; Nam Bắc triều.

Tào Thực bẩm sinh thiên phú có trí nhớ dai,  đọc sách nhiều, từ nhỏ Tào Thực đã tỏ ra thông minh xuất sắc hơn người. Mười tuổi, Thực đã thuộc lầu hơn mười vạn lời từ phú, và thơ văn. Xuất ngôn thành luận, hạ bút thành chương, khiến Tào Tháo rất lấy làm kinh ngạc mới hỏi Tào Thực:

- Ngươi nhờ người khác làm hộ phải không ?

Tào Thực đáp :

- Xin cha cho con thử ngay trước mặt.Con nói ra là thành luận, hạ bút là thành văn.Việc gì con phải nhờ ai làm.

Lịch sử Trung Quốc kể lại rằng năm Kiến An thập ngũ niên, tức năm 210, Tào Tháo cất Đồng Tước Đài, lúc đó Tào Thực 19 tuổi, được Tháo bảo làm bài phú «Đồng Tước Đài Phú» để ca tụng vẻ đẹp của đài này. Bài phú rất được Tào Tháo tán thưởng và khen ngợi, nên phong cho Tào Thực làm Bình Nguyên Hầu, đồng thời  còn khuyến khích Tào Thực, nói :

- Trước kia ta còn là một viên lệnh doãn, đồn binh, cũng chỉ mới hai mươi tuổi, nhớ lại những việc làm hồi ấy, thì không lấy gì làm thẹn, nay con cũng đã trưởng thành, lẽ nào lại  không cố gắng lên.

Trong thâm tâm Tào Tháo còn tin rằng  trong số các người con, Tào Thực là người có thể «định đại sự».

Bỏ trưởng lập thứ, thường là cái mầm tranh đọat ngôi báu trong nhiều triều đại ở Trung Quốc.

Tào Tháo được tiến tước Vương vào năm Kiến An nhị thập nhất niên, tức năm 216; lúc đó thì con trưởng của Tào Tháo là Tào Ngang bị chết trong trận đi đánh Trương Tú rồi.

Người con thứ ba là Tào Chương là một người võ biền, chỉ có nguyện vọng làm tướng cầm quân nơi chiến trường. Tháo vốn yêu mến người con út là Tào Xung nhưng đã yểu tử. Việc tranh ngôi báu, còn lại chỉ có thứ tử là Tào Phi và người con thứ ba là Tào Thực.
Nhưng năm Kiến An nhị thập tứ niên, tức năm 219, lúc đó Tào Phi đã được phong làm Thế Tử, nhưng trong lòng vẫn chưa yên, vì Tào Tháo vẫn còn để tâm thương Tào Thực, phong cho Thực làm Nam Trung Tướng Quân, Hành Chinh Lỗ Tướng Quân, cùng với lão tướng Từ Hỏang cầm quân đi giải cứu cho Tào Nhân đang bị Quan Vũ vây khốn. Trong tính toán của Tào Tháo, Tào Thực sẽ thắng lợi đến quá phân nửa, trong trận này sẽ lập được quân công.

Tào Phi thấy vậy,  bèn ra tay trước,  Phi từ Nghiệp Thành trở về Hứa Xương, mời Tào Thực uống rượu,  đàm đạo tình huynh đệ. Uống rượu cho đến lúc Tào Thực say túy lúy, bất tỉnh nhân sự, không còn thụ mệnh cầm quân nổi nữa.

Tào Tháo thấy Tào Thực như vậy,  làm mất niềm hy vọng của mình, bèn rút lệnh không phái Thực đi nữa.

Đến lúc Tào Tháo lâm chung, không gọi các cố mệnh đại thần đến bên giường, cũng không gọi Tào Phi, và cũng không gọi Tào Thực, mà chỉ gọi Tào Chương đến. Sau này Tào Chương gặp Tào Thực, có cho Tào Thực  biết: «Phụ thân gọi em đến, nói là muốn nhường ngôi báu cho anh»

Nhưng ngôi Thế Tử đã vào tay Tào Phi rồi.

Sự thù ghét, đố kỵ, ý muốn bách hại Tào Thực đối với Tào Phi là do việc tranh dành quyền lực và ngôi báu mà ra.

Ngoài ra; còn một nguyên nhân nữa giữ phần quan trọng, chính là mối u tình sâu đậm của Tào Thực đối với Chân thị, vợ của Tào Phi.

Theo «Chiêu Minh Văn Tuyển-Quyển 19» của Tiêu Thống cùng một số văn nhân biên soạn vào thời nhà Lương đời Nam Triều, thì Tào Thực cũng đã từng muốn lấy Chân thị làm vợ, nhưng Chân thị đã bị Tào Phi phỗng tay trên mất, khiến cho Tào Thực hết sức bất bình, đêm ngày tơ tưởng. Bỏ ăn quên ngủ.

Nguyên văn chữ Hán trong «Chiêu Minh Văn Tuyển»:

王,漢 女,既 , 夜,廢

Ngụy Đông A Vương, Hán mạt cầu Chân Dật nữ, ký bất tọai. Thái Tổ hồi dữ Ngũ Quan Trung Lang Tướng, Thực thù bất bình, chú tư dạ tưởng, phế tẩm dữ thực

Đông A Vương nhà Ngụy, cuối thời nhà Hán, muốn lấy người con gái của Chân Dật, nhưng lúc trở về, Ngụy Thái Tổ Tào Tháo đã gả cho Trung Lang Tương. Tào Thực rất bất bình, đêm ngày tưởng nhớ Chân thị, bỏ cả ăn uống.

Đến khi Tào Phi phế Hán Đế lên ngôi, Tào Thực liền bị Tào Phi giáng làm An Hương Hầu, và nhiều lần, Tào Phi có ý muốn giết Tào Thực, nhưng nhờ sự ngăn cản của người mẹ là Biện Thị, Tào Thực được thóat chết.

Theo truyền thuyết, Biện Thái Hậu, tức mẹ của Tào Phi và Tào Thực, từng có lần nói với Tào Phi rằng :

Ngươi đã từng giết con ta là Nhậm Thành Vương, (tức Tào Chương), nay lại muốn giết nốt Trần Lưu Vương, như vậy ta chẳng còn muốn sống nữa.

Đến khi Ngụy Minh Đế Tào Duệ, con của Tào Phi và Chân Hậu, lên nắm quyền bính, cũng có lúc mời người chú về triều. Tào Thực cũng từng khởi thảo những kiến nghị chính trị tốt đẹp, nhưng Ngụy Minh Đế Tào Duệ bị các triều thần ngăn cản, và bị nghi kỵ. Do đó, trong suốt thời kỳ Tào Duệ ở ngôi, đến cuối đời  Tào Thực vẫn là người ôm chí lớn mà bất đắc chí.

Cuối cùng, năm 232, Tào Thực bị  khốn quẫn u uất, buồn rầu mà chết.

Nay tại phía nam cách 20 dặm huyện Đông A tỉnh Sơn Đông còn có ngôi mộ của Tào Thực.

Tào Thực cũng chính là người sớm nhất cảnh cáo sự chuyên quyền của họ Tư Mã.

Tào Thực từng rất lấy làm lo ngại việc quyền lực của Tào Duệ bị rơi vào tay người khác, nên Thực từng dâng biểu cáo giới Tào Duệ.

Nhưng Tào Duệ lại đang dựa vào tài năng của Tư Mã Ý  để chống cự lại cuộc bắc phạt của nhà Thục Hán, không để ý đến lời khuyên của người chú.

Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, mối uy hiếp của nhà Thục Hán không còn nữa, Tào Duệ bắt đầu đam mê thanh sắc, săn bắn, không chịu chỉnh đốn những cơ cấu quyền lực ở trong triều. Dẫu rằng trước khi băng hà, Ngụy Minh Đế Tào Duệ từng lựa chọn và phó thác  Tào Sảng,  một người trong tông thất, nhưng là người không có kinh nghiệm thực tế về chính trị. Và một người nữa là quyền thần Tư Mã Ý, kẻ đã nắm quyền hành quân sự lâu đời. Nên đến khi Tư Mã Ý  muốn chiếm đọat thiên hạ của họ Tào, thì họ Tào đã mất hết lực lượng để chi trì xã tắc. Trở tay không kịp.

Còn về mặt văn học, Tào Thực là một đại thi nhân đời Hán. Tạ Linh Vận, văn học gia người nhà Tống thời Nam Triều, từng có lời nói ca tụng, và đo lường tài năng của Tào Thực bằng câu nói, trở thành thiên cổ danh ngôn, lưu truyền đến ngày nay:

« \Thiên hạ tài hữu nhất thạch, Tào Tử Kiến độc chiếm bát đấu, ngã đắc nhất đấu, thiên hạ cộng phân nhất đấu   石,曹子  建(植)獨   斗,我 得一斗,天 分一斗 -Tài trong thiên hạ có một thạch, Tào Tử Kiến một mình chiếm tám đấu, ta chiếm một đấu, cò  một đấu chia cho thiên hạ (một thạch bằng mười đấu, hay 100 thưng».


Những tác phẩm dưới đây được coi là chủ yếu của Tào Thực:

Tặng Bạch Mã Vương Bưu  赠 白 马 王 彪,

Đây là một danh tác của Tào Thực. Khi đó, Tào Thực cùng hai anh em Tào Bưu và Nhậm Thành vương Tào Chương 曹章 vào triều. Đến Lạc Dương, Tào Chương bị chết một cách ám muội. Lúc trên đường đi về, hai anh em Tào Thực, Tào Bưu lại bị quan lại đi theo tìm cách hãm hại, không cho ở cùng một chỗ. Tào Thực phẫn uất viết bài thơ này tặng Tào Bưu trước khi chia tay.

Bài thơ gồm 7 chương. Hai chương đầu nói lên sự vất vả dọc đường sau khi rời sông Lạc và phần nào hé lộ nỗi niềm bi phẫn. Chương ba nói lên ý chính tức những điều ông quá bức xúc vì bị cắt chia tình cốt nhục và bị chèn ép về chính trị. Chương bốn tả cảnh thu buồn bã. Chương năm thuật lại cái chết của Tào Chương và nêu lên dự cảm về kết cục bi đát của những người thân còn lại. Chương sáu mở đầu bằng những lời động viên Tào Bưu nhưng kết thúc vẫn là những vần thơ chứa chan đầy nước mắt. Chương cuối nói lên nỗi lòng lúc chia tay và dự đoán khả năng ly biệt mãi mãi.

Bạch Mã Thiên  白马篇,

Bài này còn có tên Du hiệp thiên 遊俠篇 (theo Thái bình ngự lãm 太平御覽), là một bài nhạc phủ, thuộc Tạp khúc ca từ, nhưng không có lời cổ mà do Tào Thực tự sáng tác (tân đề nhạc phủ). Đây là một tác phẩm tiêu biểu cho những trước tác trong thời kỳ đầu của Tào Thực. Có ý kiến cho rằng bài này thể hiện chí hướng lập công báo quốc.

Danh Đô Thiên   ,

Danh đô thiên là một bài tân đề nhạc phủ, thuộc Tạp khúc ca từ, lấy hai chữ ở câu đầu làm tựa. Nội dung bài này được so sánh với thời kỳ niên thiếu của tác giả, cho thấy cuộc sống của một quý công tử.

Mỹ Nữ Thiên 美 女 篇,

Đây là một bài tân đề nhạc phủ, thuộc Tạp khúc ca từTề khúc hành. Lấy hình ảnh mỹ nữ “Thịnh niên xử phòng ốc” tự ví mình như cô gái đẹp tươi thắm mà không có chốn gửi thân, tài năng xuất chúng mà chẳng thi triển được điều gì.

Thất Ai thi   ,

Đề mục Thất ai ý nói bảy thứ tình cảm kia nay đều biến thành ai (buồn) cả.

Đây là một bài thơ khuê oán mượn tâm trạng của một người đàn bà trong cảnh xa ngóng trông chồng, nhưng cũng có thể ám chỉ sự bất hoà giữa anh em Tào Thực, Tào Phi cùng một số quần thần.

- Lạc Thần Phú  洛 神 赋,

- Thất Bộ Thi  七 步 诗

Sự việc và bài thơ này đầu tiên được thấy chép trong Thế thuyết tân ngữ. Tào Phi từng ra lệnh cho Tào Thực trong bảy bước phải làm một bài thơ với đề anh em, không xong thì sẽ chém đầu. Tào Thực bước đi bảy bước và làm bài thơ này. Phi nghe xong, có ý thẹn liền tha tội chết cho Thực. Tào Thực mượn hình ảnh dùng cành đậu để nấu hột đậu để ám chỉ việc anh em tương tàn.

Bài thơ này còn có một dị bản bốn câu được lưu truyền, chép trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung:

煮豆燃豆萁,
豆在釜中泣。
本是同根生,
相煎何太急?

Chử đậu nhiên đậu ky,

Đậu tại phủ trung khấp.

Bản thị đồng căn sinh,

Tương tiễn hà thái cấp?


(Nấu đậu đun cành đậu,

Đậu ở trong nồi khóc.

Sinh ra từ một gốc,

Sao nỡ đốt thiêu nhau?)

----------------

Chung Vanh, trong «Thi Phẩm» có lời nhận xét về từ phú của Tào Thực như sau: « 采華 茂,骨氣奇高。建安  - Thực từ thái hoa mậu, Kiến An thi nhân vô xuất kỳ hữu dã- Những bài của Tào Thực có vẻ đẹp rực rỡ như hoa nởkhí cốt lạ lùng cao sangnhững thi nhân thời kỳ Kiến An chẳng ai có thể bằng được ».

Tào Thực chẳng những được mệnh danh là «tài cao bát đẩu», chiếm hết một nửa sở học trong thiên hạ như lời Tạ Linh Vận khen tặng. Và qua bài phú «Lạc Thần Phú», ông đã để lại cho văn học sử Trung Quốc một bài phú, làm say mê người đọc, ảnh hưởng đến một số văn nghệ sĩ đời sau. Họ đã căn cứ vào mối u tình lãng mạng bi thống giữa ông với người chị dâu mà viết nên những kiệt tác khác như:

Cố Khải Chi vẽ «Lạc Thần Phú Đồ» được vinh dự khen tặng là «Trung Quốc Thập Đại Truyền Thế Danh Họa Chi Nhất».

- Lý Thương Ẩn viêt «Vô đề», trong bài Vô Đề, thứ hai.

- Bồ Tùng Linh viết «Chân Hậu».

Riêng tôi còn nhớ, cách đây gần 15 năm, ngồi dịch Chân Hậu trong Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh, cũng từng ngậm ngùi thương cảm cho người bạc mệnh, lòng cũng muốn bắt chứơc cổ nhân «mượn chùm phương thảo mà hú vía thuyền quyên».

Tất nhiên, nhan sắc Chân thị, phải thuộc hạng phi thường, đắm nguyệt say hoa, nên chẳng những cả ba cha con Tào Tháo đều muốn chiếm hữu nàng cho riêng  mình, mà Lưu Trinh, một danh sĩ trong «Kiến An Thất Tử», chỉ vì muốn chiêm ngưỡng nhan sắc của Chân thị,  đến nỗi bị Tào Tháo bắt tội, đầy đi mài đá nặn gạch.

Có người cho rằng  Bồ Tùng Linh có lẽ cũng đồng ý là mối u tình của Tào Thực đối với Chân Thị là có thật, nên khi ông hư cấu chuyện «Chân Hậu»,  ông đã để cho Chân Hậu  gặp  lại Lưu  Trinh ở cõi u minh, cho Chân Hậu có dịp báo đền Lưu Trinh, kiếp trước vì  nàng mà bị tội oan.

Truyện «Chân Hậu», trong «Liêu Trai Chí Dị» của Bồ Tùng Linh, có một đọan như thế này:

«Lưu Trọng Khanh, người đất Lạc Thành, thuở nhỏ tư chất chậm chạp, không được thông minh, lanh lợi, nhưng lại mê say sách vở, điển tịch, thường đóng cửa ở trong nhà một mình để cố công khổ học, không thích tiếp xúc với người ngòai.

Một hôm, Lưu vừa cầm sách lên đọc, chợt ngửi có mùi hương thơm ngào ngạt, lan tỏa đầy nhà. Rồi có tiếng vàng, tiếng ngọc va chạm vào nhau, âm thanh lỏang xỏang.

Lưu giật mình, ngừng đầu lên nhìn, thì thấy một người đàn bà đẹp từ ngòai cửa bước vào. Đầu cài trâm bạc. Tai đeo xuyến vàng. Sáng lòa cả mắt. Đám tùy tùng, đầy tớ, hết thẩy đều là cung nữ. Lưu sợ hãi, vội vã phủ phục xuống đất, vái lậy. Mỹ nhân đến đỡ Lưu dậy, rồi nói : 

- Khanh kiếp xưa khinh bạc ngổ ngáo, sao bây giờ lại khiêm cung như vậy ?

Lưu nghe trách lại càng sợ, đáp :

- Thần chưa hề biết chốn Thiên Tiên, chưa từng được bái kiến Nương nương, không biết đã đắc tội với tôn giá lúc nao ?

Mỹ nhân lại cười, bảo Lưu :

- Tương biệt chưa là bao, sao khanh chóng quên quá vậy. Kẻ bị phạt tội phải đi đầy mài đá nặn gạch, không phải là khanh đó sao ?

Sau đó đem chiếu gấm ra trải, đem rượu ngon ra bầy, ép Lưu cùng ngồi đối ẩm, bàn luận cổ kim rất là thâm thúy trôi chẩy. Lưu chẳng tìm ra được câu nào để đối lại.

Mỹ nhân lại bảo với Lưu :

- Thiếp đi phó yến Dao Trì. Từ nay chàng sẽ trở thành thông minh uyên bác vô cùng.

Nói xong, sai cung nữ đem thủy phẩm, thang ốc, dâng lên cho Lưu uống. Chàng uống một hơi cạn sạch, cảm thấy tâm thần sảng khóai, trong sáng lạ thường.

Bấy giờ nắng chiều đã tắt và màn đêm bao phủ. Đám cung nữ, người hầu, đều tản mát đi hết, không còn ai.

Mỹ nhân bèn tắt đèn, cởi bỏ xiêm y, yếm lót, lên giường cùng Lưu chăn gối, ân ái mây mưa vô cùng hoan lạc. Khi trời gần sáng, đám cung nữ lại tề tập tụ họp nhau đến. Mỹ nhân thức dậy, trang điểm dung nhan, vấn tóc, cài trâm, xiêm áo chỉnh tề, lộng lẫy như cũ. Nhưng  lặng thinh không hề nhắc gì đến chuyện ân ái đêm qua. Lưu cố sức nài nỉ xin nàng cho biết tính danh.

Mỹ nhân đáp :

- Nói cho chàng biết cũng chẳng ngại gì. Chỉ sợ biết rồi chàng thêm nghi ngờ lo lắng. Thiếp đây chính là Chân Hoàng Hậu, vợ Ngụy Văn Đế Tào Phi. Còn chàng là hậu thân của Lưu Trinh, kiếp xưa vì thiếp, mà  bị tội oan uổng, thiếp không đành lòng, hôm nay gặp lại chàng, cốt để đền bù mối tình si ngày trước.

Lưu hỏi :

- Còn Ngụy Văn Đế bây giờ ở đâu ?

Mỹ nhân đáp :

- Phi ấy hở ! Bất quá cũng thuộc phường «Phụ tặc chi dong tử  , cha làm giặc thì con làm mướn». Thiếp ngẫu nhiên tòng du với bọn vương hầu phú quý đó, vui chơi  vài năm qua rồi, chẳng còn để bụng nhớ tới nữa. Ông ta bị giam ở chốn u minh từ lâu, bây giờ thiếp không biết rõ. Duy có Trần Tư Vương Tào Thực, thỉnh thoảng thiếp có gặp.

Lúc nàng quay lại, đã thấy kiệu rồng đến đón, đậu ở ngoài sân. Nàng lấy ra một hộp nhẫn ngọc tặng cho Lưu, rồi bái biệt lên xe ra về. Lưu từ đó  học hành tiến bộ gấp bội, nhưng thường tưởng nhớ đến Chân Hậu, tinh thần như si, như dại. ………..

(Ngưng trích)

(Bản dịch của Phạm Xuân Hy- Năm 1988)

Việc  Tào Thực viết Lạc Thần Phú để mô tả mối u tình, niềm tương tư, của ông đối Chân thị có thật hay không, đến nay các nhà nghiên cứu văn học sử Trung Quốc vẫn còn để đó tồn nghi.

Tôi viết bài này để tạ cái tình tri kỷ thiếu thời của ông bạn họ Đỗ, và nhằm mua vui cho bằng hữu, nhân chợt cảm thấy cái lạnh của gió thu về,  kim phong hiu hắt, lá vàng rơi, tóc bạc rơi,  «Lăng Bộ Vi Bộ» ít hàng cho khuây khỏa tuổi già, lúc chiều tàn cô quạnh.

Phạm Xuân Hy

Paris ngày 15-10-2012

_______________________________

Chú thích :

Tẩu Hỏa Nhập Ma

走火入魔

Tẩu Hỏa, nguyên dùng  để chỉ lúc tôi luyện ngọai đan, không đúng cách, tạo ra hiện tượng lò luyện nóng quá độ mà vỡ. Đạo Giáo chỉ việc tu luyện tinh thần nguyên khí, lệch lạc không đúng phép, vội vã mong muốn tới mục đích, khiến cho xẩy ra tình trạng  nội khí tán lọan, hư hỏa  thựơng thăng thiêu đốt ở trên.

Nhập ma chỉ việc luyện công sai lệch, không đúng phương pháp, tinh thần bị rơi vào cảnh giới ma ảo, nhận giả thành chân, không thể tự chủ động, thường biểu hiện trạnh thái tâm bệnh;

Đại Lý

大理

Năm Thiên Phúc nhị niên nhà hậu Tấn thời Ngũ Đại (907-960), tức năm 937,  Đoàn Tư Bình, thuộc bộ lạc Bạch Tộc, tiêu diệt nước Nam Chiếu  thành lập ra nước Đại Ly Quốc.

Theo sử sách, thì tổ tiên người Bạch Tộc đã  sinh sống phát triển ở vùng này với nhiều bộ lạc khác, sử gọi chung những bộ lạc này là «Côn Minh Chi Thuộc».

- Năm 221 TCN, nhà Tần bắt đầu chiếm vùng tây nam, thành lập các cơ cấu hành chánh để thống trị vùng này.

- Năm 109 trước CN, nhà Tây hán, vua Hán Võ Đế đem quân đánh bại các bộ lạc «Côn Minh Chi Thuộc», và tại khu vực Đại Lý lập ra Diệp Du Huyện, mở con đường tơ lụa về hướng nam, và dùng nơi đây như một trạm vận chuyển tơ lụa từ Tứ Xuyến đến Ấn Độ.

- Đến thời Tam Quốc (220-280), vùng Vân Nam, Quý Châu, và tây nam bộ Tứ Xuyên được gọi là Nam Trung, do nhà Thục hán cai trị.

Về sau, có sự nổi dậy của Mạnh Họach chống lại sự cai trị của nhà Thục Hán (221-263), Lưu Bị phái Gia Cát Lượng đem quân bình phục, và đặt thành quận Vân Nam ở đấy.

- Năm Khai Hoàng thập thất niên đời Tùy (581-618), tức năm 597, người «Côn Minh» nổi dậy, nhà Tùy phái Sử Vạn Tuế đem quân bình định.

Đến nhà Đường (618-907) lập ra Nhung Châu Đô Hộ Phủ, các huyện thuộc  khu vực Đại Lý đều thuộc quyền quản hạt của Nhung Châu Đô Hộ Phủ.

Đến thế kỷ thứ bẩy, chung quanh sông Nhị Hải xuất hiện sáu bộ lạc, gọi là lục Chiếu, là Mông Thôi (Trần Trọng Kim viết là  Mông Huề) Việt Tích, Lương Khung, Đặng Đạm, Thi Lương và Mông Xá .

Xá Chiếu ở phía nam nên gọi là Nam Chiếu.

Đến thế kỷ thứ 8, Lục Chiếu được Đường Huyền Tông  chi trì  Bì La Cáp 逻閤 hợp với năm Chiếu kia thành lập chính quyền Nam Chiếu, nhưng sau mâu thuẫn với nhà Đường xẩy ra cuộc chiến đại quy mô gọi là «Thiên bảo Chiến Tranh»,vào năm 749 và 754. Nam Chiếu cũng  nhiều lần đem quân sang quấy nhiễu Giao Châu. Và theo sử gia Trần Trọng Kim, thì năm Nhâm Ngọ, tức năm 862, và tháng Giêng năm Quý Mùi, tức năm 863, Nam Chiếu đem 50 000 quân sang đánh phủ thành, và trong  hai lần Nam Chiếu đã sát hại 15 vạn người dân Giao Châu. (một con số quá lớn đối với dân số nước ta thời bấy giờ, không thấy sử gia Trần Trọng Kim dẫn xuất xứ, nhưng trong sử Trung Hoa thường phóng đại tô mầu  con số địch nhân bị giết)

Đến cuối hậu kỳ Nam Chiếu, trong cung đình xẩy ra hỗn lọan, chi ly phân tán, cuối cùng nước Nam Chiếu bị diệt vong.

- Năm 937, Điền Tư Bình là Thông  Hải Tiết Độ Sứ, liên hợp với 37 bộ lạc Điền Đông tiến quân vào thành Đại Lý và lập ra chính quyền Đại Lý Quốc, đóng đô ở Dương Tư Dương Thành, hạt cảnh ngày nay bao gồm toàn tỉnh Vân Nam, tây nam bộ Tứ Xuyên, chia ra làm tám phủ, bốn quận, 37 bộ.

Về kinh tế, nông nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp, và luyện thép rất phát đạt, tiêp xúc và trao đổi mậu dịch với người Tầu, chủ yếu là ngựa. Đại Lý Quốc có giống ngựa nổi tíếng là Đại Lý Mã , một ngày có thể chạy 400 dặm. Ngoài ra có Đại Lý Đao ,  một lọai đao sắc bén, rất nổi tiếng. Trong nước sử dụng Hán văn, và tôn sùng đạo Phật.
Năm Thiệu Thánh nguyên niên đời vua Tống Chiết Tông, tức năm 1094, vua đời thứ 14 của Đại Lý là Đoàn Chính Minh bỏ ngôi đi tu, dân lập Cao Khai Thái lên làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Trung Quốc.

- Đến năm 1096, con Cao Khai Thái là Cao Thái Minh phụng mệnh cha Hoàn ngôi cho Đoàn Chính Thuần, và Đại Lý Quốc được gọi là Hậu Đại Lý.Năm 1108, Đoàn Chính Thuần bỏ ngôi đi tu, nhường ngôi cho con là Đoàn Chính Nghiêm, tức Đoàn Dự.

Đoàn Dự, là ông vua thứ 16 của nước Đại Lý,  tức Hiến Tông Tuyên Nhân Đế, là ông vua ở ngôi lâu nhât, sau ông cũng bỏ đi tu và nhường ngôi cho con là Đoàn Chính Hưng.

- Đoàn Chính Hưng là ông vua đời thứ 17 của Đại Lý,ở ngôi được 24 năm (1147-1172) thì bỏ đi tu, nhường ngôi cho con là Đoàn trí Hưng .

- Đoàn trí Hưng  ở ngôi vua từ năm 1172 đến năm1200 làm vua được 28 năm rồi bỏ đi tu hiệu là Nhất Đăng Đại Sư, ông  là người rất tôn sùng đạo Phật, sớm tối kinh kệ, không lo đến việc triều chính, xây hơn sáu chục ngôi chùa, quốc phí tiêu hao, khiến cho đẩt nước dần bị suy vi, sau nhường ngôi cho con là Đoàn Trí Liêm.

- Đoàn Trí Liêm ở ngôi từ  1201 đến 1205 thì chết, nhường ngôi cho con là Đoàn Trí Tường.

- Năm 1253,  Hốt Tất Liệt mang quân từ cao nguyên Thanh Tạng xuống miền nam đánh chiếm Hậu Đại Lý. Đoàn Trí Tường bị bắt.

Nước Đại Lý bị diệt vong. Con cháu được người Mông Cổ cho trở về thế tập họ Đoàn làm Tổng Quản.

Nước Đại Lý truyền được 22 đời vua, tổng cộng 316 năm, có 7 ông vua bỏ ngôi đi tu..
Có người đã nhận định rằng, họ Đoàn  lấy đạo Nho để  trị nước, dùng đạo Phật để thu phục nhân tâm. Cũng là một điều hay.Nhưng cuối cùng nước  Đại Lý bị Hốt Tất Liệt dùng bạo lực và sức mạnh tiêu diệt.

Nước Đại Lý bị diệt vong  đến nay đã gần ngàn năm rồi, chắc hẳn người dân Đại Lý vẫn còn có người thương nhớ nước cũ, buông ra những lời than thống thiết, đứt ruột gan, như tiếng quốc kêu đêm hè :

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

 

Văn Tuyền

Tức nhà văn Phạm Cao Củng, là nhà văn lão thành từ thời  tiền chiến, ông là  tác giả của nhiều tác phẩm  trinh thám,  Bóng Người Ái Tím Kỳ Phát, Vết Tay Trên Trần,  Kỳ Phát Giết Người, Nhà Sư Thọt, Người, Người Một Mắt, Đám Cưới Kỳ Phát, Vết Tay Trên Trần, được nhà Văn Vũ Ngọc Phan  khen ngợi trong Nhà văn Hiện Đại là các nhânh vật và khung cảnh do ông sáng tạo đều có tính chất Việt nam, hợp với trình độ người Việt Nam ta thời đó.

Nhưng riêng với  tôi, và có lẽ cả thế hệ ở tuổi từ 70-75, vẫn còn nhớ, và chưa quên được những truyện kiếm hiệp như Lục Kiếm Đồng, Chu Long Kiếm, Nhỡn Kiếm Đạo dưới bút danh Văn Tuyền, không thua kém gì những truyện kiếm hiệp của các nhà văn Trung Hoa. Những tác phẩm của Phạm Cao Củng cũng đã làm say mê, và từng để lại trong tuổi  thơ  ấu của thế hệ tôi biết bao nhiêu là mơ mộng, hàng chuỗi những kỷ niệm đẹp, đến nay tôi vẫn còn giữ được. Ấy là chưa kể thế hệ của Bé Ngôn Bé Luận ở Sài Gon sau này.

Số tác phẩm của Phạm Cao Củng có người cho biết có thể  ngang ngửa với số lượng tác phẩm của Lê Văn Trương. Tiếc thay, là sau này, ở trong Nam, cũng như ngoài Bắc, ông rất ít được các nhà phê bình văn học nhắc đến, vì thể lọai tiểu thuyết trinh thám, cũng như kiếm hiệp, bị coi là  «văn chương» cấp thấp. Ngòai ra ông có nhiều bút hiệu khác như Văn Tuyền, Phượng Trì, Trần Lang, Phạm Thị Cả Mốc.

Phạm Cao Củng sinh năm 1913, cha ông là cụ Tú Kép Phạm Cao Đạt, em của bà Phạm Thị Mẫn, vợ nhà thơ Trần Tế Xương (tức Tú Xương).

Ông qua đời ngày17-12 -2012 tại Florida, thọ 100 tuổi, sau khi đã xuất bản cuốn hồi ký Phạm Cao Củng.

Phạn Hàm

“Phạn hàm” là một trong những nghi thức về tang lễ cổ xưa của người Trung Hoa. Người ta bỏ vào miệng người chết châu, báu, ngọc ngà và tiền bạc cùng những lọai ngũ cốc, và tùy theo địa vị thân phận của người chết.

“Phạn ” có nghĩa cho bỏ ngũ cốc vào miệng  người chết ăn.

“Hàm ” có nghĩa là bỏ châu, bảo, ngọc ngà vào miệng người chết cho kín.

Những vật này khác biệt tùy theo địa vị, thân phận của người chết

– “Phạn ” đối với  bậc Quân chủ khi chết thì dùng “lương”, tức một lọai gạo quý. Đối với Đại phu  thì dùng  “tắc”, tức hạt kê. Đối với  sĩ thì dùng gạo ré.

-“Hàm ” đối với Thiên Tử thì dùng châu báu. Chư hầu thì dùng ngọc.Đại phu thì dung lọai ngọc cơ, một lọai ngọc xấu, không tròn.

Sĩ thì dùng “bối”, tức lọai tiền hến.Thứ nhân thì dùng ngũ cốc. Phong tục này cũng biến hóa theo thời gian. Nhưng chính vì phong tục này, mà sinh ra những kẻ đạo tặc thường đi đào mả người chết để kiếm châu báu ngọc ngà, làm thương tổn đến lòng hiếu thảo của con cái người chết. Có cả các bậc tham quan ô lại nữa.

Chân thị là bậc phu nhân, lý ra được hưởng nghi thức tang lễ quý trọng hơn, nhưng Tào Phi là người thiếu nhân tình, nên nhét  “cám” vào miệng nàng. Ngày nay, cũng thường có câu nói “cho nó ăn cám”, để chỉ người nhà nghèo không có gạo ăn, nhưng cũng là một câu nói sỉ nhục.

Tiêu Thống

Tiêu Thống (501-531), là văn học gia  nhà Lương, thời Nam Triều, tự là Đức Thi, tiểu tự là Duy Ma, người Nam Lan Lăng, con trưởng của Lương Võ Đế  Tiêu Diễn, sinh năm Trung Hưng nguyên niên, đời Hòa Đế nhà Nam Tề mất năm Trung Đại Thông tam niên, đời vua Lương Võ Đế Tiêu Diễn, chung niên 31 tuổi.

Năm Nguyên Gíam nguyên niên, tức năm 502, Tiêu Thống được lập làm Thái Tử.Từ nhỏ thông minh sáng suốt. Ba tuổi được dậy Hiếu Kinh Luận Ngữ. Năm tuổi đã đọc hết nho gia kinh điển. Sách chỉ đọc xong là nhớ. Tiêu Thống lại là người thông hiểu sự việc. Đối với các tấu chương của bách quan, có chỗ nào sai, hay cố ý mầu mè, đều được Tiêu Thống biện luận sửa chữa. Tiêu Thống tính tình khoan hòa, nên thu hút được những kẻ sĩ có tài, bàn luận về học vấn, trứ thuật văn chương, thu thập sách vở cổ kim  gần ba vạn quyển.

Lúc xét xử án ngục, Thống đa phần rộng rãi tha thứ, được thiên hạ khen ngợi là nhân từ. Mỗi khi kinh sư gặp cảnh mưa gió lụt lạo, gạo nước đắt đỏ, Thống phái người tâm phúc, đi khắp ngõ hẻm hang cùng thấy nhà nào nghèo khổ, hoặc bị lưu ly thất thổ, thì kín đáo ban phát tiền bạc.

Tiêu Thống còn lập Văn Tuyển Lâu để đón mời những danh sĩ  như Lưu Hiếu Oai, Dữu Kiên Ngô đến thảo luận về sách vở cổ, mệnh danh là “Cao Tề Thập Học Sĩ”, rồi cùng họ tuyển chọn những tác phẩm thi văn tiêu biểu từ thời Tần Hán đến nhà Lương tập hợp thành sách “Văn Tuyển”, gồm 30 chục quyển, một tổng hợp văn học sơm nhất trong lịch văn học Trung Quốc; có một ảnh hưởng lớn đối với việc sáng tác  sau này.

Ngòai ra, Tiêu Thống còn  có văn tập gồm hai chục quyển, những đều mất. Nay còn lưu hành “Chiêu Minh Thái Tập”, là do người sau thu góp thành.

Năm 531 Tiêu Thống bị bệnh qua đời, thụy hiệu là “Chiêu Minh Thái Tử”.

Chiêu Minh Văn Tuyển

Chiêu Minh Văn Tuyển là một bộ tuyển tập văn học đàu tiên của trung Quốc có mọi thể tài, do Thái Tử Tiêu Thống, con vua Lương Võ Đế thời Nam Triều, tại phủ Đông Cung đã sưu tập gần ba vạn cuốn sách, rồi đón mời  đa số là các nhà văn học gia trứ danh đương thời đến để cùng nhau biên sọan thành « Chiêu Minh Văn Tuyển », gọi tắt là « Văn Tuyển », tổng cộng gồm ba chục quển. Từ nhà Tần đến trước nhà Lương

Tiêu Thống đem những tác phẩm văn học phân chia ra từng môn, từng lọai. Ông chọn lựa kỹ càng những tác giả thành công nhât, và những bài văn có tính đại biểu nhất, để cho những độc giả ít có thời gian có thể thưởng thức được cái tinh hoa của những tác phẩm hay.

Chiêu Minh Văn Tuyển có ảnh hưởng lớn đối với hậu thế, nên mới có câu nói « Văn Tuyển lan tú tài bán «选》烂爛,秀才半 » -Thuộc lầu Văn Tuyển thí coi như đã đậu nửa bằng tú tài ».

Sau khi Văn Tuyển ra đời, được khắp mọi nơi nhiệt liệt hoan nghênh ; sau đó có các học giả ở các triều đại sau làm chú thích thêm về Văn Tuyển. Như Lý Thiện làm chú thích vào năm Hiển Khánh đời Đường,

Hoàng Giang Nữ Hiệp

Tôi đọc bản dịch lúc hồi còn nhỏ  có tên là «Hoàng Giang Nữ Hiệp».  Sau này có dịp tra cứu tôi mới biết tên đúng là “Hoang Giang Nữ Hiệp ”, của tác giả Cố Minh Đạo, đăng trên tờ Tân Văn Báo ở Trung Quốc năm 1929, rất được độc giả hoan nghênh.

và “Vua truyện chưởng” là “Kim Dung, lúc lên tám tuổi, tức năm 1932, lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện Hoang Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này”. Lớn lên, trở thành «vua truyện chưởng».

Lý Thiện

Lý Thiện (ước 630-689) là học giả đời Đường, người Giang Đô (nay thuộc Dương Châu, tỉnh Giang Tô). Cha của Lý Ung, theo học với Tào Hiến.

Đời Đường Cao Tông, Lý Thiện từng trải qua các chức Thái Tử Nội Xuất Phủ Lục Sự Tham Quân, Sùng Hiền Quán Trực Học Sĩ kiêm Bái Vương Thị Độc, Bí Thư Lang, Kinh Thành Lệnh. Năm Hàm Hanh nhị niên, tức năm 671, cháu của Võ Hậu là Hạ Lan Mẫn, nhân có tội bị đầy đến Lôi Châu, Lý Thiện vì quan hệ mật thiết với Hạ Lan Mẫn nên bị liên hệ và bị đầy đến Diêu Châu. Sau được xá trở về nhà, ngụ cư ở vùng Biện, Trịnh, lấy việc giảng dậy «Văn Tuyển» làm nghề, các hộc trò của Lý Thiện phần đông là người từ xa đến.

Lý Thiện là người học thức uyên bác, nhưng không sành về việc viết văn chương, nên người đời gọi ông là «Lộc Thư», tức cái rương bằng tre  dung để tàng trữ sách vở. Sau nhiều lần thay đổi bản thảo, vào năm Hiển Khánh tam niên tức năm 658, Lý Thiện Hoàn thành tác phẩm «Văn Tuyển Chú», gồm 60 quyển, chú dịch rõ ràng, bàng chứng uyên bác, dẫn chứng hơn 1689  lọai sách, trong đó có nhiều cổ tịch mà sau này đều bị mất mát, nhờ Lý Thiện làm chú dẫn nên tồn tại từng đọan, từng câu, trở thành một tư liệu quan trọng việc huấn hỗ, vì vậy «Văn Tuyển Chú» đựoc các học giả hậu thế tôn sùng.

Tuy nhiên, những chú giải của Lý Thiện về «Văn Tuyển» thiên về việc tra khảo điển cố, mà sơ sài không giải quyết những  văn nghĩa còn tranh chấp bế tắc.

Ngòai ra; Lý Thiện còn sọan «Hán Thư Biện Cảm», gồm ba chục quyển, nhưng đều thất lạc.

Lưu Trinh

劉楨

Lưu Trinh 劉楨, là trứ danh thi nhân cuối đời nhà Hán, tự là Công Cán, là một trong «Kiến An Thất Tử», người Ninh Dương, người Đông Bình Ninh Dương (nay thuộc Ninh Dương tỉnh Sơn Đông), cháu của Lưu Lương, lúc còn trẻ nổi tiếng là có tài văn học. Lúc lên tám chín tuổi, có thể đọc thống Luận Ngữ, và thơ phú hành vạn lời.Tính tình cứng cỏi bất khuất.

Lúc còn nhỏ Lưu Trinh chơi thân vơi Vương Sán, sau cùng với Ứng Dương được Tào Tháo chiêu mộ dùng làm Thừa Tướng Duyện Thuộc, hành văn  tuấn mỹ, tài tình. Đặc biệt về  thơ ngũ ngôn, lời lẽ chân thật, chất phác, không chuộng điêu luyện, nổi tiếng  đương thời và được người đời nể trọng.

Đại biểu thơ của Lưu Trinh có bài «Đình Đình Sơn Thượng Tòng» là ưu tú hơn cả. Trong thơ từng mô tả cảnh tùng bách hiên ngang cứng cỏi đứng chịu đựng giá rét phong sương, đó là tư cách của Trinh.

Trinh từng được Tào Phi khen: «Thơ ngũ ngôn của Lưu Trinh thật tuyệt diệu hơn hẳn những người đương thời».

Một lần Tào Phi cử hành yến hội, đến lúc uống say, Tào Phi cho vợ là  Chân Phu Nhân ra chào khách. Quan khách tất cả đều phủ phục cúi đầu, không dám nhìn lên. Riêng có Lưu Trinh lại ngẩng đầu nhìn thẳng để chiêm ngưỡng dung nhan Chân Phu Nhân.

Việc đến tai Tào Tháo, Tháo không vui, bắt tội Trinh là bất kính, đầy đi mài đá nặn gạch.

Hậu thế xếp Lưu Trinh  ngang hàng với  Tào Thực, nên gọi chung là “Lưu Tào”, nhưng tác phẩm của Lưu Trinh đa số bị thất tán, nay còn lại 15 bài , nội dung phần lớn là thơ thù tạc.

Tứ Tử

Cổ xưa «tứ tử» là hành vi của kẻ thống trị bức bách kẻ bị cai trị phải tự sát, tương tự như tội chết, thường vì muốn cho kẻ bị «tứ tử», khi  chết còn giữ được sự tôn nghiêm. Chê độ «tứ tử» phần lớn xuất hiện ở các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Hy Lạp, Lã Mã. Cổ xưa, kẻ thống trị có uy quyền tuyệt đối. Vạn vật dưới thế gian, kể cả sinh mệnh của con người, đều bị coi là tài sản của kẻ thống trị. Vì thế, «tứ tử» được coi là tương đối tôn nghiêm cho người bị giết, do đó được coi là một ân huệ của kẻ thống trị ban cho. Trước những hình pháp khốc liệt khác, như lăng trì, chu di tam tộc, cung hình, thì kẻ được «tứ tử», chỉ có các chọn lựa là chấp được «tứ tử».

Theo sử sách, thì chế độ «Tứ tử» ở Trung Quốc có sớm nhất là vào thời nhà Thương, cho đến mẫi cuối đời nhà Thanh, tệ nạn «ban ơn chết» này mới chấm dứt.


 

Nguồn bài đăng




1 nhận xét:

  1. “Vô đề”, hai bài; bài 2 (Trùng duy thâm há Mạc Sầu đường)- Lý Thương Ẩn

    無題(重帷深下莫愁堂)
    重帷深下莫愁堂,
    臥後清宵細細長。
    神女生涯原是夢,
    小姑居處本無郎。
    風波不信菱枝弱,
    月露誰教桂葉香?
    直道相思了無益,
    未妨惆悵是清狂(14)。

    Phiên âm:
    Vô đề (Trùng duy thâm há Mạc Sầu đường)
    Trùng duy thâm há Mạc Sầu đường,
    Ngoạ hậu thanh tiêu tế tế trường.
    Thần nữ sinh nhai nguyên thị mộng,
    Tiểu cô cư xứ bản vô lang.
    Phong ba bất tín lăng chi nhược,
    Nguyệt lộ thuỳ giao quế diệp hương.
    Trực đáo tương tư liễu vô ích,
    Vị phương trù trướng thị thanh cuồng.

    Dịch nghĩa:
    Bức màn trong nhà Mạc Sầu tối âm u,
    Sau khi đi nằm, thanh âm của đêm yên ả mãi.
    Vách núi nơi thần nữ ở, cũng chỉ là giấc mơ,
    Nơi Tiểu cô ở vốn không có đàn ông.
    Trong sóng gió, không tin cành ấu mềm yếu,
    Dưới trăng sương, ai khiến lá quế thơm.
    Biết người nói tương tư là vô ích,
    Nên chưa đem nỗi đau đổi lấy tiếng cuồng điên.
    Bài thơ mượn hoàn cảnh của người con gái chưa thành thân thổ lộ hết tâm trạng đau khổ, bày tỏ sự cảm khái về hoài bão chính trị không được thuận buồm xuôi gió của tác giả. “Thần nữ sinh nhai” chính là tỷ dụ cuộc đời từng trải với bao thăng trầm mộng ảo; “tiểu cô… vô lang” ngụ ý chỉ hoàn cảnh hiện tại bị cô lập không nơi nhờ cậy; “phong ba” ý nói mình xuất thân hàn vi lại gặp phải cảnh bị đè nén nơi chính trường hiểm ác; “nguyệt lộ” (giọt móc dưới ánh trăng) hàm ý bản thân dù có chút tài năng nhưng không được chăm sóc bồi dưỡng thì khó mà phát triển. Phần cuối bài thơ, cho dù đã biết rõ “tương tư …vô ích” cũng vẫn kiên trì lý tưởng không hề thay đổi của mình(15). Ở đây, nhà thơ đem cái không có trong hiện thực khách quan, cũng như không tồn tại một thứ “sinh tử luyến” của hiện thực đời sống, lồng trong cảm hứng chủ quan của mình, tạo nên một khung cảnh giao hòa, âm điệu du dương, tiết tấu linh hoạt, say đắm lòng người. Từ đó có thể thấy, Lý Thương Ẩn là nhà thơ độc đáo bởi “Vô đề” có nội hàm phong phú, nghệ thuật phong phú, tình điệu du dương, nhưng rất khó diễn đạt thành lời. Hình tượng thơ ẩn chứa nỗi niềm tâm sự của tình yêu cháy bỏng nhưng đau khổ đến tận cùng làm hầu hết người đọc đều có thái độ đồng cảm(16).
    Về mặt giọng điệu biểu hiện, cái gọi là “giọng điệu”, tức là dùng hình thức bên ngoài để nói cái bên trong hoặc ngược lại, trong đó, cái “tượng” có được là bởi cái “ý”. Nói cách khác, “tượng” là vật dẫn và “phù hiệu” của “ý”, “ý là nội hàm của “tượng”. Trong khi ấy, “tượng” vốn là để chỉ đối tượng của “hướng”(17). Tuy nhiên, trong “Vô đề” Lý Thương Ẩn, thường vận dụng khá thành công những hình ảnh không hoàn chỉnh (khiếm khuyết) cũng như các khoảng trống nghệ thuật để diễn tả vô số cung bậc của ái tình tuyệt vọng, tạo nên nhiều cảnh ngộ độc đáo không thể giải thích mà chỉ có thể cảm nhận. Cuộc đời Lý Thương Ẩn từng gặp nhiều trắc trở với những cuộc tình tan vỡ, tâm hồn bị thương tổn nặng nề, do vậy, thơ ông tràn đầy sắc thái bi kịch của kiếp nhân sinh(18)…

    Trả lờiXóa