Một phần bức tranh Lạc Thần phú đồ - Cố Khải Chi. |
BÍ ẨN “LẠC THẦN PHÚ"
Lạc
thần phú 洛神赋
là tác phẩm đại biểu của thể loại phú trong văn học thời Kiến An 建安 (1). Cấu tứ toàn bài phú
thần kì, lời văn tươi đẹp, được người đời sau khen là giai tác truyền thế có
thể sánh với Cửu ca – Tương quân 九歌 - 湘君 của Khuất Nguyên 屈原. Nhưng nguyên nhân nào đã kích phát nhiệt tình của tác giả
đương lúc ở vào nghịch cảnh như thế? Chủ đề của Lạc thần
phú là gì? Cả ngàn năm nay vẫn là đề tài mà các tao nhân mặc
khách tranh luận không thôi.
Tào
Thực 曹植 (192 – 232), tự Tử Kiến 子建, con thứ 3 của Tào Tháo 曹操, em của Tào Phi 曹丕, người nước Bái 沛 (nay
là huyện Bạc 亳 tỉnh An Huy 安徽). Tào Thực lúc nhỏ đã
có văn tài, Tào Tháo rất sủng ái, có dạo định lập làm thái tử. Về sau Tào
Phi 曹丕, Tào Duệ 曹睿nối nhau làm đế, Tào Thực bị nghi kị áp bức, u uất mà chết.
Những tác phẩm thời kì đầu của Tào Thực biểu hiện sự động loạn của xã hội và
hoài bão của mình, tác phẩm thời kì sau tràn đầy tình cảm phẫn kích, thường
thông qua phương pháp tỉ hứng để bày tỏ nỗi bất bình mà tác giả bị áp chế và
tâm tình muốn giải thoát tự do cá nhân.
Lạc thần
là nữ thần sông Lạc 洛 trong truyền thuyết cổ đại, còn gọi là Lạc Tần 雒嫔, tên là Phục Phi 宓妃 (2). Trong Văn tuyển 文选, Lí Thiện 李善 chú
dẫn lời của Như Thuần 如淳:
Phục Phi, Phục Hi thị chi nữ, nịch tử vu Lạc thuỷ, vi thần.
宓妃, 伏羲氏之女, 溺死于洛水, 为神.
(Phục Phi là con gái của Phục Hi thị, chết đuối ở sông Lạc, hoá
làm thần)
Truyền thuyết nói rằng bà là vợ của Hà Bá 河伯, từng cùng với Hậu Nghệ 后羿 - vị anh hùng bắn mặt trời, yêu nhau.
Tào Thực
sáng tác Lạc thần phú vào những năm đầu niên hiệu Hoàng
Sơ 黄初 (năm 223) (3). Về chủ đề của bài phú này, có thuyết cho rằng,
Tào Thực sáng tác Lạc thần phú là để hoài niệm
người chị dâu của mình là Chân Hậu 甄后 đã qua đời, cho nên lúc ban đầu bài phú có tên là Cảm Chân phú 感甄赋. Trong Văn tuyển có
ghi rằng, sau khi Chân Hậu mất, Tào Thực vào kinh triều bái hoàng thượng, nhìn
thấy di vật của Chân Hậu, bèn nghĩ tới nỗi bất hạnh của Chân Hậu mà không ngăn
được nước mắt. Lúc ra về, đi ngang qua sông Lạc, thấy hình ảnh của Chân Hậu
hiển hiện, buồn vui lẫn lộn, bèn viết ra Cảm Chân phú. Sau
khi Nguỵ Minh Đế 魏明帝 đọc
được đã đổi là Lạc thần phú. Nhưng thuyết này chưa
thấy chính sử ghi chép, một số học giả cho rằng thuyết này là do người đời sau
từ tiểu thuyết Cảm Chân kí 感甄记 mà
đặt ra nên không đáng tin.
Người
theo quan điểm này cho rằng, Lạc thần phú đã
tạo nên hình tượng Lạc thần xinh đẹp si tình, có tài mà không gặp được thời.
Với lời văn mê li mơ màng không thực, tác giả đã miêu tả được câu chuyện cảm
thương về tình yêu giữa người và thần, nhưng cuối cùng không thể kết hợp. Nhưng
nếu Tào Thực đem Chân Hậu hoá thành Lạc thần, là nói Tào Thực đã sản sinh lòng
ái mộ đối với chị dâu. Điều này đối với huynh đệ mà nói, là bất nghĩa, đối với
quân thần mà nói, là bất trung. Việc bất nghĩa bất trung, đại nghịch bất đạo
đó, Tào Thực làm sao có thể làm được.
Thế là từ
xưa tới nay, nhiều người vẫn còn nghiên cứu tính chân nguỵ của cách nói này.
Tổng hợp lại, có mấy điểm như sau:
1- Bản
chú của Lí Thiện 李善không có chú điều này,
mà là Vưu Mậu 尤袤 đời Tống khi biên
soạn Văn tuyển 文选 đã dẫn dụng sai.
2- Tào
Thực yêu chị dâu là cực không có khả năng, mà cho dù là có cũng không thể to
gan viết Cảm Chân phú. Tào Phi và Tào Thực, giữa anh em với nhau
do vì đấu tranh về chính trị nên quan hệ rất căng thẳng, Tào Thực viết Cảm Chân phú tất bị xem là “sắc đảm bao thiên” (色胆包天 - tham luyến dâm dục, gan to bao được cả trời), sẽ
dẫn đến hoạ diệt thân.
3- Có mưu
đồ với vợ của anh, đó là “cầm thú chi ác hạnh” 禽兽之恶行, đối với bách tính mà nói, đã là việc không thể dung thứ huống
hồ là hậu của đế vương?
4- Quả
thực là có bài Cảm Chân phú, nhưng hoàn toàn không
phải là Lạc thần phú.
5- Lạc thần phú là ví hoàng đế lúc bấy giờ là Tào Phi
với Lạc thần.
Những
người đối lập lại cho rằng, Lạc thần chính là Chân Hậu. Thiên Tiêu khoáng 萧旷 trong Thái Bình quảng kí 太平广记, thiên Truyền kì 传奇 trong Loại thư 类书, đều có miêu tả câu chuyện Lạc thần nữ là Chân Hậu. Trong thơ
của Lí Thương Ẩn 李商隐 nhiều lần dẫn dụng
tình tiết Tào Thực hoài niệm Chân Hậu. Quách Mạt Nhược 郭沫若 trong bài viết Luận Tào Thực 论曹植 cũng
đã cho rằng, thời Nguỵ Tấn, mối quan hệ nam nữ không hề nghiêm ngặt, từ đó mà
suy, Lạc thần phú là sáng tác để hoài niệm Chân Hậu.
Về chủ đề
của Lạc thần phú, văn nhân từ cuối thời Đông Hán đến Quách
Mạt Nhược của thế kỉ 20, tranh luận cả ngàn năm, song phương đều không đưa ra
được chứng cứ trực tiếp để nói rõ Lạc thần phú có
phải sáng tác để hoài niệm Chân Hậu hay không. Những quan điểm nêu trên đa phần
cũng là suy luận. Nếu nói là sáng tác để hoài niệm Chân Hậu, dùng tài liệu xác
đáng nào để bác bỏ nghi vấn mà những người chủ trương phủ định nêu ra; Nếu nói
là không phải để hoài niệm Chân Hậu, thế thì tại sao Tào Thực lại viết Lạc thần phú; Nếu nói là ca tụng quân vương, Tào Thực
về chính trị nhiều lần bị anh bức hại thì làm sao có thể sản sinh tình cảm chân
thành giống như Lạc thần phú. Cho đến hiện nay vấn
đề này vẫn còn là một bí ẩn.
Chú của người dịch
1- Kiến An 建安: Là niên hiệu của Hán Hiến Đế Lưu Hiệp 汉献帝刘协. Niên hiệu này bắt đầu từ năm 196 đến năm 220, tổng cộng 25
năm.
2- Về chữ 宓: Hán Việt tự điển của Thiều
Chửu ghi rằng:
“Mật: Yên lặng. Một âm là phục, cũng như chữ phục 伏”
Trong Nguỵ Tấn Nam Bắc triều tản văn 魏晋南北朝散文 của Tào Minh Cương 曹明纲biên soạn, ở Lạc thần phú 洛神赋, mục chú 3 có chú rằng:
宓 (fú – phục) Phi: Tương truyền vi Phục (Phục) Hi chi nữ, nịch
Lạc thuỷ nhi tử, toại vi Lạc thuỷ chi thần.
宓 (fú - 伏) 妃: 相传为宓 (伏) 羲之女, 溺洛水而死, 遂为洛水之神.
(Phục
Phi: Tương truyền là con gái của Phục Hi, chết đuối ở sông Lạc, bèn hoá thành
thần sông Lạc)
(Thượng
Hải thư điếm xuất bản xã, năm 2000, trang 131)
Như
vậy, 宓妃 đọc là “Phục
Phi”.
3- Hoàng Sơ 黄初: Là niên hiệu của Nguỵ Văn Đế Tào Phi 魏文帝曹丕. Niên hiệu này bắt đầu từ năm 220 đến năm 226, tổng cộng 7 năm.
Huỳnh Chương Hưng
Quy
Nhơn 25/7/2018
Nguyên tác Trung văn
“LẠC THẦN PHÚ” CHI MÊ
“洛神赋” 之谜
Tác giả: Vu Hồng 于红
Trong quyển
TRUNG QUỐC LỊCH SỬ CHI MÊ
中国历史之谜
Chủ biên: Lí Quảng Sinh 李广生
Thiên Tân: Bách hoa văn nghệ xuất bản xã, 2001
Lạc Thần phú đồ |
Lạc thần phú 洛神賦
Bài phú về nữ thần sông Lạc
Tào Thực
洛神賦
黃初三年,余朝京師,還濟洛川。
古人有言,斯水之神名曰宓妃。
感宋玉對楚王說神女之事,遂作斯賦。
其詞曰:
余從京域,
言歸東藩。
背伊闕,轘轅,
經通谷,陵景山。
日既西傾,
車殆馬煩。
爾乃稅駕乎蘅皋,
秣駟乎芝田。
容與乎陽林,
流盼乎洛川。
於是精移神駭,
忽焉思散。
俯則未察,
仰以殊觀。
睹一麗人,
於岩之畔。
乃援御者而告之曰:
「爾有覿於彼者乎?
彼何人斯,若此之艷也!」
御者對曰:
「臣聞河洛之神,
名曰宓妃。
然則君王之所見也,
無乃是乎!
其狀若何?
臣愿聞之。」
余告之曰:
其形也,
翩若驚鴻,
婉若遊龍。
榮曜秋菊,
華茂春松。
仿佛兮若輕雲之蔽月,
飄颻兮若流風之迴雪。
遠而望之,皎若太陽昇朝霞,
迫而察之,灼若芙蓉出淥波。
穠纖得中,
修短合度。
肩若削成,
腰如束素。
延頸秀項,
皓質呈露。
芳澤無加,
鉛華弗御。
雲髻峨峨,
修眉連娟。
丹唇外朗,
皓齒內鮮。
明眸善睞,
靨輔承權。
瑰姿艷逸,
儀靜體閑。
柔情綽態,
媚於語言。
奇服曠世,
骨像應圖。
披羅衣文璀燦兮,
珥瑤碧之華琚。
戴金翠之首飾,
綴明珠以耀軀。
踐遠遊之文履,
曳霧綃之輕裾。
微幽蘭之芳藹兮,
步踟蹰於山隅。
於是忽焉縱體,
以遨以嬉。
左倚采旄,
右陰桂旗。
攘皓腕於神滸兮,
採湍瀨之玄芝。
余情悅其淑美兮,
心振蕩而不怡。
無良媒以接歡兮,
托微波而通辭。
愿誠素之先達兮,
解玉佩以要之。
嗟佳人之信修兮,
羌習禮而明詩。
抗瓊珶以和予兮,
指潛淵而為期。
執眷眷之款實兮,
懼斯靈之我欺。
感交甫之棄言兮,
悵猶豫而狐疑。
收和顏而靜志兮,
申禮防以自持。
於是洛靈感焉,
徙倚徬徨。
神光离合,
乍陰乍陽。
竦輕軀以鶴立,
若將飛而未翔。
踐椒途之郁烈,
步蘅薄而流芳。
超長吟以永慕兮,
聲哀厲而彌長。
爾乃眾靈雜沓,
命儔嘯侶。
或戲清流,
或翔神渚,
或採明珠,
或拾翠羽。
從南湘之二妃,
攜漢濱之遊女。
嘆匏瓜之無匹兮,
詠牽牛之獨處。
揚輕袿之猗靡兮,
翳修袖以延佇。
體迅飛鳧,
飄忽若神。
陵波微步,
羅襪生塵。
動無常則,若危若安,
進止難期,若往若還。
轉盼流精,
光潤玉顏。
含辭未吐,
氣若幽蘭。
華容婀娜,
令我忘餐。
於是屏翳收風,
川後靜波。
馮夷鳴鼓,
女媧清歌。
騰文魚以警乘,
鳴玉鑾以偕逝。
六龍儼其齊首,
戴雲車之容裔。
鯨鯢踴而夾轂,
水禽翔而為衛。
於是越北沚,
過南岡,
紆素領,
迴清揚。
動朱唇以徐言,
陳交接之大綱。
恨人神之道殊兮,
怨盛年之莫當。
抗羅袂以掩涕兮,
淚流襟之浪浪。
悼良會之永絕兮,
哀一逝而異鄉。
無微情以效愛兮,
獻江南之明璫。
雖潛處於太陰,
長寄心於君王。
忽不悟其所舍,
悵神宵而蔽光。
於是背下陵高,
足往神留。
遺情想像,
顧望懷愁。
冀靈體之復形,
御輕舟而上溯。
浮長川而忘返,
思綿綿而增慕。
夜耿耿而不寐,
沾繁霜而至曙。
命仆夫而就駕,
吾將歸乎東路。
攬騑轡以抗策,
悵盤桓而不能去。
Lạc thần phú
Hoàng Sơ(1) tam niên, dư triều kinh
sư(2), hoàn tế Lạc xuyên(3).
Cổ nhân hữu ngôn, tư thuỷ(4) chi thần danh
viết Phục phi(5).
Cảm Tống Ngọc(6) đối Sở vương thuyết thần nữ chi sự, toại tác tư phú.
Kỳ từ viết:
Dư tòng kinh
vực(7),
Ngôn quy đông
phiên(8).
Bối Y Khuyết(9), Hoàn Viên(10),
Kinh Thông
Cốc(11), lăng Cảnh Sơn(12).
Nhật ký tây khuynh,
Xa đãi mã phiền.
Nhĩ nãi thuế giá hồ hành cao,
Mạt tứ hồ chi
điền(13).
Dung dữ hồ Dương
Lâm(14),
Lưu miện hồ Lạc xuyên.
Ư thị tinh di thần hãi,
Hốt yên tứ tán.
Phủ tắc vị sát,
Ngưỡng dĩ thù quán (quan).
Đổ nhất lệ nhân,
Ư nham chi bạn.
Nãi viện ngự giả nhi cáo chi viết:
“Nhĩ hữu địch ư bị giả hồ?
Bị hà nhân tư, nhược thử chi diễm dã!”
Ngự giả đối viết:
“Thần văn hà Lạc chi thần,
Danh viết Phục phi.
Nhiên tắc quân vương chi sở kiến dã,
Vô nãi thị hồ!
Kỳ trạng nhược hà?
Thần nguyện văn chi.”
Dư cáo chi viết:
Kỳ hình dã,
Phiên nhược kinh hồng,
Uyển(15) nhược du long.
Vinh diệu thu cúc,
Hoa mậu xuân tùng.
Phảng phất hề nhược khinh vân chi tế nguyệt,
Phiêu diêu hề nhược lưu phong chi hồi tuyết.
Viễn nhi vọng chi, hạo nhược thái dương thăng
triêu hà,
Bách nhi sát chi, chước nhược phù dung xuất
lục ba.
Nùng tiêm đắc trung,
Tu đoản(16) hợp độ.
Khiên nhược tước thành,
Yêu như thúc tố.
Duyên cảnh tú hạng,
Hạo chất trình lộ.
Phương trạch vô gia,
Duyên hoa(17) phất ngự.
Vân kế nga nga,
Tu my liên quyên.
Chu thần ngoại lãng,
Hạo xỉ nội tiên.
Minh mâu thiện lãi,
Yếp phụ(18) thừa quyền.
Khôi tư diễm dật,
Nghi tĩnh thể nhàn.
Nhu tình xước thái,
Mị ư ngữ ngôn.
Kỳ phục khoáng thế,
Cốt tượng ưng đồ.
Phi
la y văn thôi xán hề,
Nhĩ dao bích chi hoa cư.
Đới kim thuý chi thủ sức,
Chuế minh châu dĩ diệu khu.
Tiễn viễn du(19) chi văn lý(20),
Duệ
vụ tiêu chi khinh cư.
Vi
u lan chi phương ái hề,
Bộ
trì trù ư sơn ngung.
Ư
thị hốt yên túng thể,
Dĩ
ngao dĩ hy.
Tả
ỷ thái mao,
Hữu
âm quế kỳ.
Nhương
hạo oản ư thần hử hề,
Thái
thoan lai chi huyền chi.
Dư tình duyệt kỳ thục mỹ hề,
Tâm
chấn đãng nhi bất di.
Vô
lương môi dĩ tiếp hoan hề,
Thác vi ba(21) nhi thông từ.
Nguyện
thành tố chi tiên đạt hề,
Giải
ngọc bội dĩ yếu chi.
Ta
giai nhân chi tín tu hề,
Khương
tập lễ nhi minh thi.
Kháng quỳnh đệ(22) dĩ hoạ dư hề,
Chỉ tiềm uyên(23) nhi vi kỳ.
Chấp
quyến quyến chi khoản thực hề,
Cụ
tư linh chi ngã khi.
Cảm Giao Phủ(24) chi khí ngôn hề,
Trướng do dự nhi hồ nghi(25).
Thâu hoà nhan nhi tĩnh chí hề,
Thân lễ phòng dĩ tự trì.
Ư thị Lạc linh cảm yên,
Tỷ ỷ bàng hoàng.
Thần quang ly hợp,
Sạ âm sạ dương.
Tủng khinh khu dĩ hạc lập,
Nhược tương phi nhi vị tường.
Tiễn tiêu đồ chi uất liệt,
Bộ hành bạc nhi lưu phương.
Siêu trường ngâm dĩ vĩnh mộ hề,
Thanh ai lệ nhi my trường.
Nhĩ nãi chúng linh tạp đạp,
Mệnh trù khiếu lữ.
Hoặc hý thanh lưu,
Hoặc tường thần chử,
Hoặc thái minh châu,
Hoặc thập thuý vũ.
Tòng nam
Tương chi nhị phi(26),
Huề Hán tân chi du nữ(27).
Thán Bào Qua(28) chi vô thất hề,
Vịnh Khiên Ngưu(29) chi độc xứ.
Dương
khinh khuê chi kỳ mỹ hề,
Ế
tu tụ dĩ duyên trữ.
Thể
tấn phi bằng,
Phiêu
hốt nhược thần.
Lăng
ba vi bộ,
La
miệt sinh trần.
Động
vô thường tắc, nhược nguy nhược an.
Tiến
chỉ nan kỳ, nhược vãng nhược hoàn.
Chuyển
phán lưu tinh,
Quang
nhuận ngọc nhan.
Hàm
từ vị thổ,
Khí
nhược u lan.
Hoa
dung a na,
Linh
ngã vong xan.
Ư thị Bình
Ế(30) thu
phong,
Xuyên
Hậu(31) tĩnh
ba.
Phùng
Di(32) minh
cổ,
Nữ
Oa(33) thanh
ca.
Đằng văn ngư(34) dĩ cảnh thừa,
Minh ngọc loan(35) dĩ giai thệ.
Lục long(36) nghiễm kỳ tề đầu,
Đới vân xa(37) chi dung duệ.
Kình nghê dũng nhi giáp cốc,
Thuỷ cầm tường nhi vi vệ.
Ư thị việt bắc chỉ,
Quá nam cương.
Hu tố lĩnh,
Hồi thanh dương.
Động chu thần dĩ từ ngôn,
Trần giao tiếp chi đại cương.
Hận nhân thần chi đạo thù hề,
Oán thịnh niên chi mạc đương.
Kháng
la duệ dĩ yểm thế hề,
Lệ
lưu khâm chi lang lang.
Điệu
lương hội chi vĩnh tuyệt hề,
Ai
nhất thệ nhi dị hương.
Vô
vi tình dĩ hiệu ái hề,
Hiến Giang Nam chi minh đương.
Tuy tiềm xứ ư Thái Âm(38),
Trường ký tâm ư quân vương.
Hốt bất ngộ kỳ sở xá,
Trướng thần tiêu nhi tế quang.
Ư thị bối hạ lăng cao,
Túc vãng thần lưu.
Di tình tưởng tượng,
Cố vọng hoài sầu.
Ký linh thể chi phục hình,
Ngự khinh chu nhi thượng tố.
Phù trường xuyên nhi vọng phản,
Tư miên miên nhi tằng mộ.
Dạ cảnh cảnh nhi bất mị,
Triêm phồn sương nhi chí thự.
Mệnh bộc phu nhi tựu giá,
Ngô tương tầm hồ đông lộ(39).
Lãm phi bí dĩ kháng sách,
Trướng bàn hoàn nhi bất năng khứ.
Dịch nghĩa
Năm Hoàng Sơ thứ ba, ta chầu kinh sư, về qua
sông Lạc.
Cổ nhân từng nói, thần ở sông này tên gọi Phục
phi.
Cảm lời Tống Ngọc với Sở vương về thần nữ, bèn
làm bài phú này.
Lời viết rằng:
Ta từ kinh đô,
Trở về đông phiên.
Quay lưng lại Y Khuyết, Hoàn Viên,
Qua Thông Cốc, lên Cảnh Sơn.
Mặt trời đã lặn về tây,
Xe ngựa đều mệt mỏi.
Do đó dừng xe nghỉ tại bờ cỏ thơm,
Cho ngựa ăn trên ruộng cỏ.
Dạo bước ở Dương Lâm,
Phóng mắt nhìn về sông Lạc.
Bỗng tinh thần kinh hãi,
Hồn phách tiêu tán.
Cúi xuống còn chưa thấy,
Ngẩng lên đã hoàn toàn khác biệt.
Thấy một người đẹp,
Ở bên bờ sông.
Bèn kéo người phu xe nói:
“Ngươi có nhìn thấy người kia không?
Đó là ai vậy, người đó thật đẹp!”
Người phu xe đáp:
“Thần nghe nói thần sông Lạc,
Tên gọi Phục phi.
Chắc là người vương tử nhìn thấy,
Hẳn là như vậy!
Người đó dung mạo ra sao?
Thần muốn được nghe.”
Ta nói rằng:
Hình dáng của nàng,
Nhẹ nhàng như chim hồng bay,
Uyển chuyển như rồng lượn.
Rực rỡ như cúc mùa thu,
Tươi rạng như tùng mùa xuân.
Phảng phất như mặt trăng bị mây nhẹ che lấp,
Phiêu diêu như tuyết bị gió thổi cuốn lên.
Từ xa ngắm nhìn, trắng như ráng mặt trời lên
trong sương sớm,
Tới gần nhìn kỹ, rực rỡ như hoa sen lên khỏi
dòng nước trong.
To nhỏ vừa chuẩn,
Dài ngắn vừa thích hợp.
Vai như vót đẽo thành,
Eo như lấy dải lụa thắt lại.
Cổ trước sau thon dài,
Da trắng hé lộ.
Sáp thơm không cần thêm,
Phấn màu chẳng cần thoa.
Búi tóc cao như mây bồng,
Lông mày cong thon.
Môi son rực rỡ bên ngoài,
Răng trắng tinh khiết ở trong.
Con ngươi sáng liếc nhìn,
Má lúm đồng tiền hiện trên má.
Phong tư kiều diễm phiêu dật,
Dung nghi tĩnh lặng nhàn nhã.
Dáng vẻ nhu mì khoan thai,
Tiếng nói đầy mê hoặc.
Trang phục nàng diễm lệ lạ thường không có
trên đời,
Cốt cách tướng mạo như trong tranh vẽ.
Mặc áo lụa bừng sáng,
Ngọc đeo tai toả màu biếc.
Đeo lông chim phí thuý vàng làm trang sức ở
tay,
Kết ngọc minh châu đeo quanh người.
Đeo giày viễn du thêu hoa văn,
Quần lụa nhẹ nhàng phấp phới.
Ẩn trong hương thơm nồng của hoa lan,
Bồi hồi dạo bước bên sườn núi.
Rồi chợt thân thể nhẹ nhàng bay bổng làm sao,
Nhởn nhơ chơi đùa.
Bên trái có cờ mao ngũ sắc,
Bên phải có cờ quế che.
Đưa cổ tay trắng ngần bên bến sông,
Hái cỏ linh chi màu đen bên dòng nước xiết.
Ta ái mộ vẻ đẹp hiền thục của nàng,
Lòng thổn thức khôn nguôi.
Không có người mai mối tốt giúp mối hoan tình,
Đành nhờ ánh mắt làm lời biểu đạt.
Mong lòng thành của ta được chấp thuận,
Cởi ngọc bội để ước hẹn.
Ôi nàng đích thực hoàn mỹ,
Thông lễ nghĩa hiểu thi ca.
Mang ngọc quỳnh đệ đang đeo đáp lại ta,
Chỉ vào nơi vực sâu để hẹn ngộ.
(Ta) thực lưu luyến biết bao,
Chỉ sợ bị nàng lừa dối.
Cảm lời bội ước của Giao Phủ,
Do dự nghi ngờ.
Trấn yên lòng không để không để lộ vẻ vui
mừng,
Tự giữ lễ giáo.
Rồi thần nữ cảm động,
Bồi hồi ngập ngừng.
Vẻ thần thái lúc ly lúc hợp,
Chợt sáng chợt tối.
Thân thể nhẹ nhàng lên cao như chim hạc đứng,
Như sắp bay đi mà còn chưa dứt.
Giẫm lên đường có hoa tiêu mùi nồng đượm,
Đi trên đường cỏ ngát thơm.
Buồn bã ngâm nga mãi lòng ái mộ,
Tiếng ca buồn bã thống khổ kéo dài.
Sau đó chúng tiên tụ hợp lại,
Gọi bạn kéo bè.
Hoặc đùa giỡn trên dòng nước trong,
Hoặc bay lượn trên bãi sông,
Hoặc hái minh châu,
Hoặc nhặt những lông chim biếc.
Hai nàng phi từ nam Tương,
Đem theo du nữ bến sông Hán.
Than sao Bào Qua không có bạn,
Kể sao Thiên Ngưu đơn độc.
Áo nhẹ bay phất phơ trong gió,
Buông tay áo đứng hồi lâu.
Thân nhanh như chim bay,
Phiêu dật như thần.
Đạp sóng bước từng bước nhỏ,
Từ áo rơi ra những bụi nước.
Những cử động không giống người thường, như
nguy như an.
Tiến hay dừng khôn lường được, như đi như lại.
Con mắt di chuyển,
Ánh mắt như nhuốm vẻ ngọc.
Ngậm lời mà chưa thốt ra,
Hơi thở như hương lan.
Dung mạo nhu mì,
Khiến ta tới bữa quên ăn.
Sau đó Bình Ế thu gió,
Xuyên Hậu giữ sóng yên.
Phùng Di gõ trống vang,
Nữ Oa cất tiếng ca trong trẻo.
Cá văn bay tới hộ giá,
Tiếng loan ngọc đi xa dần.
Sáu con rồng xếp bằng nghiêm trang,
Kéo xe mây thư thái.
Cá kình nghê nhảy nhót hai bên nâng bánh xe,
Bầy chim nước lượn xung quanh bảo vệ.
Tiếp theo vượt bãi bắc,
Qua sườn nam.
(Nàng) quay cổ trắng ngần lại,
Ngoái đôi lông mày thanh tú nhìn.
Môi đỏ cử động từ từ nói,
Kể những lễ giáo cương thường giữa nam nữ.
Hận vì cảnh ngộ của người và thần không cùng,
Oán nỗi năm tháng tươi đẹp không tương xứng.
Nâng tay áo che ngấn nước mắt,
Lệ chảy thấm áo không ngừng.
Buồn buổi gặp gỡ tốt lành đã tuyệt,
Tiếc rằng một khi đã qua rồi mỗi người một
nẻo.
Không có vật gì biểu thị ái tình,
Dâng tặng khuyên tai ngọc của Giang Nam.
Tuy ẩn trú tại Thái Âm,
(Nhưng) mãi gửi tấm lòng nơi vương tử.
Chợt chưa kịp nhận ra thì đã dứt,
Nàng biến mất vào giữa làn ánh sáng che phủ.
Sau đó (ta) quay xuống
núi,
Nhưng
chân vẫn còn lưu luyến lại.
Tình
hoài tưởng tượng,
Ngoảnh
lại buồn bã nhớ nhung.
Hy vọng hình bóng nàng lại xuất hiện,
Cưỡi thuyền nhẹ trên mặt nước.
Trôi trên sông dài quay trở lại,
Nhớ miên man mãi khôn nguôi.
Đêm thao thức không ngủ được,
Để sương thấm đẫm đứng ngóng cho đến sáng.
Lệnh cho đày tớ chuẩn bị xe ngựa,
Ta tìm lại nơi đường hướng đông.
Cầm cương, đặt yên lên ngựa,
Buồn bã bàn hoàn nhưng không đi được.
Tương truyền nàng Phục phi trong bài phú này chính là chỉ Chân thị 甄氏, một trong những tuyệt đại mỹ nhân đời Tam Quốc. Chân thị tên
thật là Chân Lạc 甄洛 (có nơi nói là Chân Phục 甄宓). Đời xưa có câu “Hà
Bắc hữu Chân Phục, Giang Nam hữu nhị Kiều” đủ để thấy sắc đẹp khuynh nước
khuynh thành. Nàng vốn xuất thân phú hộ, được gả cho Viên Hy 袁熙, con trai của Viên Thiệu 袁紹. Sau trận Phì Thuỷ,
Tào Tháo 曹操 diệt Viên Thiệu ở Nghiệp Thành, vì đã nghe đến sắc đẹp của nàng
nên sai quân vào tìm kiếm, nhưng Tào Phi 曹丕 đã sai quân lui ra và
tự vào bắt được Chân thị mang về, sau đó đã xin Tào Tháo cho cưới nàng làm vợ.
Sau này Tào Phi lên ngôi Nguỵ Văn Đế (năm 220) thì nàng là hoàng hậu.
Tuy nhiên khi Chân thị về cung nhà Nguỵ, Tào Thực gặp nàng cũng si mê tha
thiết, Chân thị đối với Tào Thực cũng có chút chân tình, nhưng về cơ bản đó chỉ
là mối tình đơn phương vô vọng. Hôn nhân của Chân thị với Tào Phi cũng không
đem lại hạnh phúc vì Chân thị không có tình cảm. Về sau Tào Phi lại sủng ái một
phi tần khác là Quách thị 郭氏. Phần vì Chân thị bị
Quách thị gièm pha, phần vì Tào Phi cũng nghi ngờ tình cảm giữ Chân thị và Tào
Thực, nên đày Chân thị ra Nghiệp Thành rồi sau đó ép phải chết (năm 223), tiếp
theo lập Quách thị làm hoàng hậu, con của Chân thị là Tào Duệ 曹睿 làm thái tử (sau trở thành Nguỵ Minh Đế).
Sau khi Chân thị chết, có lần Tào Thực vào cung, Tào Phi đem một số đồ dùng của
Chân thị đưa cho, trong đó có chiếc gối ngọc chẩm. Tào Thực thấy vật nhớ người,
khi trở về đất phong ở Quyên Thành, qua sông Lạc, đêm trú trong thuyền, mơ thấy
nàng. Khi tỉnh dậy hạ bút viết bài Cảm Chân phú 感甄賦 này, sau đổi tên thành Lạc thần phú. Bài phú này,
như trong phần nội dung có ghi rõ, chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Cao
Đường phú 高唐賦 và Thần nữ phú 神女賦 của Tống Ngọc 宋玉.
Chú thích.
(1)
Hoàng Sơ: Năm 220-226, niên hiệu đời Nguỵ Văn Đế Tào Phi 曹丕. Năm Hoàng Sơ
thứ ba là năm 223.
(2)
kinh sư:
Kinh đô nhà Nguỵ là Lạc Dương.
(3)
Lạc xuyên: Tức Lạc thuỷ, sông Lạc, xuất phát từ
Thiểm Tây, rồi tới Hà Nam, qua Lạc Dương, đến huyện Củng thì nhập vào Hoàng Hà.
(4)
tư thuỷ: Tức sông Lạc.
(5)
Phục phi: Tương truyền là con gái Phục Hy 宓羲 (hay Phục Hy 伏羲, còn gọi là Bao
Hy 包犧,
Bào Hy 庖犧),
chết đuối ở sông Lạc và làm thần sông Lạc. Ly tao 离騷: “Ngô lệnh
Phong long thừa vân hề, Cầu Phục phi chi sở tại” 吾令豐隆乘雲兮,求宓妃之所在 (Ta sai thần sấm đưa cưỡi mây đưa,
Mong tìm tới nơi của Phục phi). Chữ 宓 có thể đọc là Phục vì thông với 伏.
(6)
Tống Ngọc: Tác giả Sở từ trứ danh đời Chiến Quốc,
nối tiếp Khuất Nguyên, có hai bài phú Cao Đường 高唐 và Thần nữ 神女, đều là lời đối
đáp với Sở Tương Vương về chuyện lên núi Vu.
(7)
kinh vực: Kinh đô Lạc Dương
(8)
đông phiên: Tức Quyên Thành 鄄城. Thời xưa, các
nước chư hầu được coi như bờ rào, bờ giậu xung quanh bảo vệ thiên tử, nên gọi
là phiên quốc. Nguỵ chí 魏志: “Tam niên, lập vi Quyên Thành vương”
三年,立為鄄城王
(Năm Hoàng Sơ thứ 3, phong Tào Thực làm Quyên Thành vương). Quyên Thành nằm ở
đông bắc Lạc Dương nên ở đây gọi là đông phiên.
(9)
Y Khuyết: Tên núi, vì có hai núi tương đối
nhìn vào như cửa khuyết, lại có sông Y chảy qua giữa nên có tên như vậy, ngoài
ra còn gọi là Khuyết Tái 闕塞, Long Môn 龍門. Núi tại phía
nam Lạc Dương, Tào Thực đi về hướng đông bắc nên mới viết “bối Y Khuyết” (quay
lưng lại Y Khuyết).
(10)
Hoàn Viên:
Tên núi, nay thuộc đông nam huyện Yển Sư, Hà Nam. Nguyên Hoà quận huyện chí 元和郡縣志 viết: đường
núi hiểm trở, có 12 đoạn, người muốn đi lại phải quay về, nên gọi là Hoàn Viên 轘轅 (đồng âm với 還園, trở về nhà).
(11)
Thông Cốc:
Tên núi. Lạc Dương ký 洛陽記 (Hoa Diên 華延) ngoài phía nam
thành Lạc Dương năm mươi dặm có một hang lớn, tên cũ là Thông Cốc.
(12)
Cảnh Sơn:
Tên núi, nay thuộc nam huyện Yển Sư, Hà Nam.
(13)
chi điền:
Ruộng cỏ thơm. Theo Thập châu ký 十洲記: “Chung sơn tại Bắc hải, tiên gia sổ
thiên vạn, canh điền chủng chi thảo” 鐘山在北海,仙家數千萬,耕田種芝草 (Núi Chung tại biển Bắc, tiên mấy
ngàn vạn nhà, cày ruộng trồng cỏ chi). Có thuyết nói đây là địa danh, tức trấn
Chi Điền thuộc tây nam huyện Củng, Hà Nam.
(14)
Dương Lâm:
Địa danh, còn viết là 楊林, do ở đây mọc nhiều liễu mà có tên.
(15)
Uyển: Tức
uyển chuyển. Xuất xứ từ Thần nữ phú của Tống Ngọc: “Uyển nhược du long thừa vân
tường” 婉若遊龍乘雲翔
(Uyển chuyển như rồng cưỡi mây bay lượn).
(16)
Tu đoản:
Dài ngắn. Ý này lấy từ Đăng đồ tử hảo sắc phú 登徒子好色賦 của Tống Ngọc: “Tăng chi nhất phân tắc
thái trường, giảm chi nhất phân tắc thái đoản” 增之一分則太,減之一分則太短 (Tăng một phân sẽ thành dài quá, giảm
một phân sẽ thành ngắn quá).
(17)
Duyên hoa:
Phấn. Đời xưa đốt chì (kim loại chì) để làm phấn, nên có tên này.
(18)
Yếp phụ:
Lúm đồng tiền. Hoài Nam tử 淮南子: “Yếp phụ tại giáp tắc hảo” 靨輔在頰則好 (Lúm đồng
tiền ở má là tốt).
(19)
viễn du: Một loai giày.
Định tình thi 定情詩 của Phồn Khâm 繁欽: “Hà dĩ tiêu trệ ưu, Túc hạ song viễn du” 何以消滯懮,足下雙遠遊 (Sao còn phải lo chậm trễ, Dưới
chân đã có đôi giày viễn du).
(20)
văn lý: Giày có thêu trang sức hoa văn. Ngư quần
phú 魯都賦 của Lưu Trinh 劉楨: “Tiêm
tiêm ty lý, Xán lạn tiên tân; Biểu dĩ văn tổ, Chuế dĩ chu tân” 孅孅絲履,燦爛鮮新;表以文組,綴以朱蠙 (Giày tơ nho nhỏ, Tươi mới xán lạn; Trang sức có dây nhỏ
có hoa văn, Khâu bằng trân châu) được cho là vịnh loại giày này.
(21)
vi ba: Chỉ ánh mắt.
(22)
quỳnh đệ: Một loại ngọc bội. Chữ 珶 theo Khang Hy từ điển chú: (1) Tập
vận: điền lê thiết, âm đề, giống 瑅; (2) Vận hội, Chính vận: đại kế thiết, âm đệ, nghĩa là
ngọc bội, có dẫn kèm theo câu của bài phú ở đây.
(23)
tiềm uyên: Vực sâu, tức nơi nữ thần trú ngụ.
(24)
Giao Phủ: Tức Trịnh Giao Phủ. Thần tiên truyện 神仙傳: “Trịnh Giao Phủ 鄭交甫 đi qua bến
sông Hán thuỷ, gặp hai nàng tiên, tỏ ý kén chọn, xin ngọc bội làm tín vật. Tiên
tháo ngọc bội đưa cho Giao Phủ đeo vào người. Đi được mấy bước đã không thấy ngọc
bội đâu, quay lại nhìn hai nàng, cũng không thấy.”
(25)
hồ nghi: Nghi ngờ. Hồ là con cáo. Tương truyền con
cáo có tính đa nghi, khi qua sông nó vừa nghe ngóng vừa qua, nhân đó mới gọi hồ
nghi.
(26)
nam Tương chi nhị phi: Chỉ Nga Hoàng 娥皇 và Nữ Anh 女英. Nghiêu 堯 gả gái trưởng là Nga Hoàng và gái thứ là Nữ Anh cho Thuấn
舜, sau vua Thuấn tuần phương nam, chết tại Thương Ngô. Hai
nàng đi tìm chết bên bờ sông Tương, trở thành nữ thần sông Tương.
(27)
Hán tân chi du nữ: Thần sông Hán thuỷ. Hán quảng 漢廣 trong Kinh thi: “Hán hữu du nữ, bất khả cầu tư” 漢有遊女,不可求思 (Sông Hán có du nữ, không thể cầu mong được).
(28)
Bào Qua: Tên sao, còn gọi là Thiên Kê 天雞, ở phía đông sông Ngân Hà.
(29)
Khiên Ngưu: Tên sao, còn gọi là Thiên Cổ 天鼓, cùng sao Chức Nữ 織女 tương đối
qua sông Ngân Hà, tương truyền mỗi năm đến ngày mồng 7 tháng 7 mới gặp nhau một
lần.
(30)
Bình Ế: Thần gió.
(31)
Xuyên Hậu:
Thần sông.
(32)
Phùng Di:
Tên của Hà Bá. Tương truyền Phùng Di tháng tám ngày thượng canh vượt sông chết
đuối, Thiên Đế cho làm Hà Bá. Thanh lệnh truyện 青令傳: “Hà Bá, Hoa Âm Đồng hương nhân dã,
tính Phùng danh Di” 河伯,華陰潼鄉人也,姓馮名夷 (Hà Bá, người hương Đồng ở Hoa Âm, họ
Phùng tên Di).
(33)
Nữ Oa: Nữ thần.
(34)
văn ngư: Một
loại cá có cánh có thể bay, mình giống cá chép, có hoa văn màu xanh, đầu trắng,
miệng đỏ, thường từ Tây hải đi sang Đông hải.
(35)
ngọc loan:
Chuông treo xung quanh xe để trang trí, chế từ ngọc, hình như chim loan, khi đi
sẽ phát tiếng kêu.
(36)
Lục long:
Tương truyền tiên xuất du thường dùng sáu con rồng để kéo xe.
(37)
vân xa:
Tương truyền thần tiên lấy mây làm xe.
(38)
Thái Âm:
Tương truyền là nơi thần tiên ở.
(39)
đông lộ: Ý
nói đường đi tiếp về đông phiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét