Sử Tương Vân say rượu ngủ bên hoa |
Hồi 76.
Nhà
Đột Bích nghe sáo, cảm nỗi ưu sầu;
Quán Ao Tinh nối thơ, buồn
đêm vắng lặng.
Giả Xá và Giả Chính dẫn bọn Giả Trân ra về. Giả mẫu sai cất
cái bình phong đi, dồn hai bàn làm một. Bọn đàn bà lại lau bàn sửa các thứ quả,
thay chén rửa đũa, bày biện một lượt nữa. Giả mẫu mặc thêm áo, rửa mặt, súc miệng
uống trà, rồi mời ngồi quây quần lại. Giả mẫu nhìn không thấy hai chị em Bảo
Thoa ngồi ở đấy, biết là họ về nhà thưởng trăng. Lý Hoàn, Phượng Thư lại ốm.
Thiếu mất bốn người, thành ra buồn tẻ quá. Giả mẫu cười nói:
Năm ngoái cha cháu đi vắng, chúng ta mời cả dì Tiết đến thưởng trăng, rất là vui nhộn; bấy giờ nhớ tới cha cháu không được ở nhà, lại không khỏi nghĩ đến việc vợ chồng con cái không được cùng nhau đoàn tụ, thành ra ít vui. Năm nay cha cháu đã về, cả nhà sum họp vui vẻ, lại không tiện mời mẹ con bà ấy sang chơi. Năm nay nhà bà ấy lại thêm hai người nữa, không có nhẽ bỏ bọn ấy ở nhà mà đi sang đây, ngặt vì cháu Phượng ốm, nếu không, một mình nó cười đùa đủ chấp mười đứa. Thế mới biết việc đời không bao giờ mười phần vẹn cả mười.
Nói xong Giả mẫu thở dài một tiếng:
Cầm chén lớn đến đây rót rượu nóng. Vương phu nhân cười
thưa:
Hôm nay mẹ con được sum họp vui hơn năm ngoái nhiều. Năm
ngoái tuy có nhiều các bà các cô, nhưng không vui bằng năm nay, gia đình sum họp
đủ mặt.
Giả mẫu cười nói:
Chính vì thế nên ta mới cao hứng gọi mang chén lớn đến.
Các người cũng phải đổi lấy chén lớn mới được.
Bọn Hình phu nhân đành phải đổi lấy chén lớn. Đêm khuya,
người mệt, không uống được nhiều rượu, nên ai nấy đều có vẻ uể oải. Thấy Giả mẫu
vẫn còn cao hứng, họ đành phải ngồi lại hầu rượu.
Giả mẫu lại sai rải nệm ở trên thềm, bày bánh dẻo, dưa và
các thứ quả ra đấy, cho bọn a hoàn, đàn bà ngồi quây lại thưởng trăng.
Giả mẫu thấy trăng đã lên đến đỉnh đầu, càng sáng đẹp
đáng yêu, liền nói:
Trăng đẹp thế này, phải có tiếng sáo mới vui. Rồi cho gọi
bọn nữ nhạc đến. Giả mẫu nói:
Nhiều thứ nhạc đâm mất vui, chỉ cần bảo người thổi sáo từ
xa vẳng lại là đủ.
Người thổi sáo vừa đi, thì có người đàn bà theo hầu đến
bên Hình phu nhân nói mấy câu. Giả mẫu hỏi:
Việc gì đấy? Người đàn bà thưa:
Vừa giờ ông Cả đi về, bị vấp phải mấy hòn đá ngã trẹo
chân.
Giả mẫu nghe nói, sai hai bà già ra xem, lại bảo Hình phu
nhân phải về ngay. Hình phu nhân cáo từ ra về. Giả mẫu lại nói:
Nhân tiện chị Trân cũng về nhà luôn. Ta cũng đi nghỉ đây.
Hôm nay cháu không về, nhất định ở đây suốt đêm hầu rượu
cụ.
Không được. Hai vợ chồng trẻ các cháu đêm nay phải về sum
họp với nhau, sao lại vì ta mà bỏ lỡ dịp!
Vưu thị đỏ bừng mặt lên, cười nói:
Cụ nói thế thì ra chúng cháu chẳng ra gì nữa. Tuy còn trẻ
thực, nhưng làm bạn với nhau mười năm nay rồi, cũng đã xấp xỉ bốn mươi tuổi đầu,
lại đương có tang, cháu ở đây hầu cụ suốt đêm.
Nói thế phải đấy. À ra cháu chưa hết tang, ta quên khuấy
mất rồi. Khốn nạn, bố chồng cháu mất đã hơn hai năm rồi! Thế ra ta quên mất đấy,
đáng phạt ta một chén lớn! Đã thế cháu đừng có đưa họ về nữa, cứ ở đây hầu ta.
Bảo vợ cháu Dung tiễn về, rồi nó tiện đường về nhà luôn.
Vưu thị bảo vợ Giả Dung đưa Hình phu nhân về. Ra đến cửa
lớn, ai nấy đều lên xe về nhà.
Mọi người thưởng hoa quế một lúc, rồi lại vào tiệc thay
rượu nóng.
Đương nói chuyện phiếm, chợt nghe dưới cây quế bên cạnh
tường có tiếng sáo đưa lại réo rắt véo von. Gặp lúc gió mát trăng trong, trời
quang mây tạnh, khiến người trút sạch nỗi lo buồn, lẳng lặng ngồi yên, cùng
nhau thưởng thức. Chừng uống hết hai chén trà, tiếng sáo mới dứt tiếng. Mọi người
khen ngợi mãi. Rượu nóng lại rót lên.
Giả mẫu cười hỏi: Nghe có hay không? Mọi người cười thưa:
Hay quá! Chúng cháu không ngờ lại hay được đến thế. Nhờ cụ
nêu ra, khiến chúng cháu được khoan khoái trong lòng.
Thế cũng chưa hay lắm. Phải chọn một khúc nhạc nào thổi
càng thong thả nghe càng hay.
Liền sai rót một chén rượu lớn, đưa cho người thổi sáo uống
từ từ, rồi khẽ thổi một bài. Bọn đàn bà vâng lời mang rượu đi, gặp hai bà già
đi thăm Giả Xá về thưa:
Chúng cháu đã xem rồi. Mu bàn chân bên phải sưng một tí.
Giờ uống thuốc đã đỡ đau, không quan hệ lắm.
Giả mẫu thở dài:
Ta cũng hay lo nghĩ quẩn. Đã nói ta ăn ở thiên vị, mà ta
lại như thế.
Nhân đem câu chuyện vui của Giả Xá vừa nói lúc nãy kể lại
cho Vương phu nhân và Vưu thị nghe. Vương phu nhân khuyên:
Bác ấy rượu vào, nói chuyện vui, không để ý đến, khi nào
dám nói kháy cụ. Xin cụ đừng nên nghĩ đến.
Uyên Ương mang mũ và áo choàng đến nói:
Đêm khuya rồi, sợ sương gió lạnh, cụ ngồi một lúc rồi đi
nghỉ thôi.
Giả mẫu nói: Hôm nay vui thế này, mày lại đến giục ta,
không lẽ ta đã say rồi à? Nhất định ngồi đến sáng!
Lại sai rót rượu đến, rồi đội mũ khoác áo vào. Mọi người
lại tiếp rượu nói chuyện vui cười. Lúc đó lại vẳng nghe tiếng sáo thổi ở dưới
bóng hoa quế, buồn rầu hơn trước, mọi người đều ngồi im lặng. Đêm khuya trăng
sáng, tiếng sáo càng réo rắt nỉ non. Giả mẫu tuổi già lại chếnh choáng hơi rượu,
lẽ nào nghe thấy lại chẳng xúc động trong lòng, bất giác lệ rơi lã chã. Mọi người
đều buồn rầu thê thảm. Một lúc lâu, biết Giả mẫu cũng thương cảm, ai nấy đều
quay lại vui cười, tìm lời khuyên giải, lại sai thay rượu và ngừng thổi sáo.
Vưu thị cười nói:
Cháu cũng học kể một câu chuyện vui để bà đỡ buồn. Giả mẫu
gượng cười:
Thế thì hay lắm, cháu hãy kể ngay cho ta nghe.
Một nhà có bốn đứa con: đứa lớn chỉ có một mắt, đứa thứ
hai chỉ có một tai, đứa thứ ba chỉ có một lỗ mũi, đứa thứ tư thì đầy đủ cả,
nhưng lại câm.
Đêm khuya trăng sáng, tiếng sáo càng réo rắt nỉ non. Giả mẫu tuổi già lại chếnh choáng hơi rượu, lẽ nào nghe thấy lại chẳng xúc động trong lòng, bất giác lệ rơi lã chã. Mọi người đều buồn rầu thê thảm.
Thấy Giả mẫu lim dim con mắt, như có vẻ buồn ngủ, Vưu thị
thôi không kể nữa, rồi cùng Vương phu nhân khẽ gọi. Giả mẫu mở mắt cười nói:
Ta không buồn ngủ đâu, chỉ nhắm mắt để tỉnh táo tinh thần
đấy thôi. Các người cứ nói chuyện, ta đương nghe đây.
Vương phu nhân nói:
Đêm khuya rồi, sương gió xuống, xin cụ về nghỉ thôi. Ngày
mai mười sáu lại thưởng nữa, mới không phụ cảnh trăng tươi.
Chừng bao giờ rồi? Đã đến canh tư chưa?
Đã sang canh tư. Chị em chúng nó không thức được nữa, đều
đi ngủ cả rồi.
Giả mẫu nghe nói, nhìn kỹ một lượt, quả nhiên thấy họ đã
về cả chỉ còn một mình Thám Xuân ở đó thôi. Giả mẫu cười nói:
Thế thì thôi vậy. Các cháu không thức quen. Hơn nữa đứa
thì ốm, đứa thì yếu, về cả cũng đỡ bận lòng. Chỉ có cháu Ba là đáng thương, vẫn
chờ ở đây. Thôi cháu về đi, chúng ta cũng đều về cả.
Giả mẫu đứng dậy uống một chén trà rồi ngồi lên kiệu trúc
nhỏ, hai bà già kiệu về. Mọi người đi theo sau.
Bọn đàn bà ở lại thu dọn mâm bát, thấy thiếu một cái chén
trà, đi tìm các nơi không thấy, liền hỏi mọi người:
Có ai đánh vỡ, vất ở đâu, bảo cho tôi biết, đem giả những
mảnh để có chứng cớ, nếu không lại bảo là chúng tôi ăn cắp.
Mọi người đều nói:
Không ai đánh vỡ cả. Có lẽ người hầu các cô đánh vỡ cũng
chưa biết chừng? Bà hỏi họ xem.
Người đàn bà nhớ ngay ra, cười nói:
Phải đấy, tôi nhớ là lúc nãy cô Thúy Lũ cầm, để tôi đi hỏi
cô ấy xem. Bà ta mới đến đường ngách thì gặp Tử Quyên và Thúy Lũ. Thúy Lũ hỏi:
Cụ đã về chưa? Có biết cô chúng tôi đi đâu không?
Tôi đến hỏi chị có để cái chén trà ở đâu, chị lại hỏi đến
cô của chị.
Tôi đi pha trà cho cô tôi uống, lúc quay lại chẳng thấy
cô tôi đâu.
Bà Hai vừa nói là họ đi ngủ cả rồi. Chị đi chơi đâu lại
không biết à? Thúy Lũ và Tử Quyên nói:
Không có lẽ cô tôi lại lẳng lặng đi ngủ ngay, chắc còn
chơi đâu đó. Giờ cụ về rồi, có lẽ các cô theo tiễn cũng chưa biết chừng. Chúng
ta hãy đi tìm xem, nếu thấy cô tôi thế nào cũng thấy cái chén. Sáng mai bà hãy
đi tìm, việc gì mà vội thế.
Đã biết đích xác rồi thì chẳng cần phải tìm nữa. Ngày mai
tôi sẽ sang xin.
Nói xong người ấy bỏ đi về thu dọn đồ đạc. Tử Quyên và
Thúy Lũ thì sang bên Giả mẫu.
Đại Ngọc và Tương Vân vẫn chưa đi ngủ. Thấy trong phủ Giả
thưởng trăng, người đông như vậy mà Giả mẫu vẫn phàn nàn là ít, lại nghĩ đến chị
em Bảo Thoa về nhà, mẹ con anh em sẽ vui vầy thưởng trăng.
Đại Ngọc bất giác ngắm cảnh chạnh buồn, tự mình đứng tựa
lan can rơi lệ. Gần đây thấy Tình Văn bệnh nặng, Bảo Ngọc chẳng để ý đến việc
gì, vừa rồi Vương phu nhân mấy lần giục, Bảo Ngọc đã đi ngủ, Thám Xuân gần đây
bực vì việc nhà, cũng không thiết gì chơi bời, tuy có Nghênh Xuân, Tích Xuân,
nhưng không hợp ý cho lắm. Vì thế Đại Ngọc chỉ còn trơ có một mình Tương Vân là
thường hay đến an ủi:
Chị là người hiểu đời, tại sao chị cứ hay chuốc lấy những
điều khổ não vào người? Cảnh ngộ của em cũng như chị, nhưng em không có bụng dạ
hẹp hòi. Chị hay ốm luôn sao không biết giữ gìn thân thể. Đáng giận thay chị em
cô Bảo hàng ngày chầm bập thân thiết, đã bảo là tiết Trung Thu năm nay thế nào
cũng phải họp nhau lại thưởng trăng, mở thi xã, nối vần làm thơ. Thế mà cô ta bỏ
rơi chúng ta, thưởng trăng một mình, thi xã không mở, thơ cũng chẳng làm, tha hồ
cho cha con, chú cháu thỏa thích tung hoành. Chị cũng biết đấy, vua Tống Thái Tổ
nói rất hay: “Nhẽ nào lại để người khác ngủ say bên cạnh giường nằm của mình”.
Bọn họ không đến, hai chúng ta cứ làm thơ nối vần với nhau, để sau này cho họ xấu
hổ một bữa!
Đại Ngọc không nỡ phụ lòng hào hứng của Tương Vân, liền
cười nói:
Cô xem họ làm ồn ào như thế, còn có thi hứng gì nữa!
Thưởng trăng ở trên núi tuy thích thật, nhưng không bằng
thưởng trăng ở gần nước. Chị nên biết dưới sườn núi này đều là ao cả. Trong khe
núi có một ngôi nhà gần nước gọi là Ao Tinh quán130. Thế mới biết
khi trước mở cái vườn này có nhiều ý nghĩa. Nơi cao nhất trên núi gọi là Đột
Bích, chỗ thấp gần nước gọi là Ao Tinh. Hai chữ “đột” “ao” (lồi lõm) người ta
dùng rất ít, bây giờ đặt tên cho ngôi nhà, thực là mới lạ, không chịu rập theo
lối cũ. Trong hai chỗ này, trên dưới, sáng tối, cao thấp, non nước, cốt đặt ra
để làm chỗ thưởng trăng. Ai thích núi cao trăng nhỏ thì đến chỗ này, ai thích
trăng sáng nước trong thì đến chỗ kia. Người ta thường đọc hai chữ này là “oa”
“cũng” (cao trũng), kể cũng hơi tục, nên ít dùng. Chỉ có Lục Phóng Ông là dùng
chữ “ao” thôi. Tức là câu “Cổ nghiễn vi ao tụ mặc đa”131. Thế
mà có người chê ông ta là tục, có đáng buồn cười không?
Đại Ngọc nói:
Chẳng cứ một mình Lục Phóng Ông, người xưa dùng chữ ấy rất
nhiều. Như bài “Phú thanh đài” của Giang Yêm; “Kinh thần dị” của Đông Phương
Sóc132 cho đến bài “họa ký” nói về việc ông Trương Tăng Do133 vẽ
chùa Nhất Thặng không kể xiết được. Người đời không biết, nhận lầm là dùng chữ
tục đấy thôi. Tôi nói thực với cô: hai chữ này là tôi đặt ra đấy. Năm nọ thử
tài Bảo Ngọc, bắt anh ấy phải nghĩ mấy chỗ: có chỗ nghĩ ra, có chỗ phải bỏ, có
chỗ chưa nghĩ được. Sau này chỗ nào chưa có tên, chúng tôi đều nghĩ và ghi rõ
xuất xứ, đưa cho chị Cả xem. Chị Cả bảo đưa cho cậu tôi. Cậu tôi xem xong rất mừng
nói: “Biết thế này bảo chị em chúng nó nghĩ cho cả, chẳng thú hay sao?” Những
chữ tôi nghĩ đều lấy cả, không bỏ một chữ nào. Bây giờ chúng ta đến Ao Tinh
quán đi.
Hai người cùng xuống dốc núi, đi quanh một vòng thì đến
nơi. Trên bờ ao có một hàng rào trúc liền nhau thông ra con đường đi sang Ngẫu
Hương tạ, ở đó nhà cửa có ít, vừa thấp vừa hẹp, chỉ có hai bà già canh đêm. Biết
mọi người đương thưởng trăng ở Đột Bích, không can gì đến họ, nên họ đưa bánh
trái và rượu thưởng ra uống say túy lúy rồi tắt đèn đi ngủ. Đại Ngọc, Tương Vân
thấy tắt đèn, đều cười nói:
Họ đi ngủ cả, thế càng tốt, chúng ta ở ngay dưới mái cỏ
này thưởng trăng dưới nước có được không?
Hai người ngồi xuống hai cái ghế tre. Một vầng trăng tỏ
trên trời, một bóng trăng long lanh dưới nước, trên dưới đua sáng như đặt mình
trong cung thủy tinh nhà Giao Thất vậy. Gió nhẹ lướt qua, sóng biếc lăn tăn gợn
trên mặt nước, khiến người ta khoan khoái nhẹ nhàng.
Hai người ngồi xuống hai cái ghế tre. Một vầng trăng tỏ trên trời, một bóng trăng long lanh dưới nước, trên dưới đua sáng như đặt mình trong cung thủy tinh nhà Giao Thất vậy. Gió nhẹ lướt qua, sóng biếc lăn tăn gợn trên mặt nước, khiến người ta khoan khoái nhẹ nhàng.
Giờ được ngồi thuyền uống rượu thì hay quá! Nếu ở nhà
tôi, tôi sẽ chơi thuyền ngay.
Đại Ngọc nói:
Đúng như người xưa thường nói: “Việc mong đủ cả có vui
gì!” Cứ ý tôi, thế này cũng được, cần gì phải có thuyền?
Được đất Lũng, lại mong đất Thục134 là
thường tình của người ta. Các cụ già chả vẫn nói: con nhà nghèo nhìn cái gì của
nhà giàu cũng đều lấy làm vừa lòng. Dù có ai nói thế nào, họ cũng chẳng
tin. Đến khi bản thân trải qua, họ mới vỡ lẽ. Cũng như hai chúng ta đây, cha mẹ
mất cả, dù ở nơi giàu sang sung sướng đến đâu, cũng có nhiều điều không được thỏa
lòng.
Không những chúng ta, cả từ cụ trở xuống đến Bảo Ngọc,
Thám Xuân, bất cứ việc lớn nhỏ, có lý hay vô lý, nhưng đã không được vừa lòng,
thì cũng cùng một lẽ cả, huống chi tôi với cô lại là người ăn gửi ở nhờ!
Sợ Đại Ngọc lại gợi thêm nỗi thương cảm, Tương Vân vội gạt
đi:
Nhắc đến làm gì nữa. Chúng ta hãy làm thơ liên cú đi.
Đương lúc nói chuyện thì vẳng nghe tiếng sáo réo rắt ở đằng
xa. Đại Ngọc cười nói:
Hôm nay cụ và bà Hai cao hứng quá. Sáo thổi hay lắm, càng
giúp thêm thi hứng cho chúng ta! Chúng ta đều thích thơ ngũ ngôn, giờ làm ngũ
ngôn đi.
Lấy vần gì?
Chúng ta đếm xem hàng lan can từ đầu này đến đầu kia có
bao nhiêu song thẳng, đến song thứ mấy sẽ lấy đó đặt vần.
Thế lại càng thú.
Hai người đứng dậy, đếm từ đầu nọ đến đầu kia, được ba
mươi chiếc. Tương Vân nói:
Thế là vần “Thập tam nguyên” rồi! Vần này dùng được ít chữ
lắm, làm theo Đường luật sợ không gieo được, lại phải gán ghép. Chị phải làm
trước một câu đi.
Cũng để thử xem chúng ta ai hơn ai kém. Nhưng không có
bút giấy ở đây.
Ngày mai sẽ chép lại, có lẽ chúng mình còn đủ trí thông
minh để nhớ được.
Tôi đọc một câu tục ngữ có sẵn:
Đêm rằm giữa tiết thu
này135.
Tương Vân nghĩ một lúc rồi đọc:
Cuộc
vui thanh nhã như ngày thượng nguyên.
Đẩu,
cơ136 lấp lóe từng trên,
Đại Ngọc cười đọc:
Dưới
này khoan nhặt tiếng chen sáo đàn.
Mấy
nơi dốc chén rót tràn,
Tương Vân cười nói:
Câu “Mấy nơi dốc
chén rót tràn” có ý đấy! Phải đối cho hay mới được. Nghĩ một lúc rồi cười đọc:
Nhà
nào chẳng mở cửa vườn nhìn ra.
Nhẹ
nhàng từng trận gió đưa,
Đại Ngọc nói:
Đối hay đấy. Hay hơn câu của tôi. Nhưng câu này lời lẽ
thường thôi, phải nói mạnh hơn nữa mới được.
Tương Vân cười nói:
Thơ nhiều vần hiểm hóc, nên ngay từ đầu cũng phải cần phô
diễn một chút. Từ hay sẽ để lại ở cuối bài.
Đại Ngọc cười nói:
Cuối bài không có câu hay, liệu cô có xấu hổ không? Rồi đọc
luôn:
Đêm
vừa thanh vắng, cảnh vừa xinh tươi.
Già
còn tranh bánh mới vui,
Tương Vân cười nói:
Câu này không hay, bịa đặt lấy việc tục để làm khó tôi
thôi.
Đại Ngọc cười nói:
Tôi cho là cô chưa từng đọc sách, chữ “ăn bánh” cũng có
điển cũ. Cô về đọc “Đường thư”, “Đường chí” đi rồi hãy nói chuyện.
Tương Vân cười nói:
Cái đó cũng không lấy gì làm khó. Tôi đã có điển đây. Liền
đọc:
Chia
dưa có ả nực cười làm sao?
Mùi
hoa ngọc quế ngọt ngào.
Đại Ngọc nói:
Câu của cô mới thực là bịa đặt. Tương Vân nói:
Ngày mai chúng ta đem sách ra đối chiếu xem sẽ rõ, bây giờ
không nên làm mất thì giờ.
Đại Ngọc cười nói:
Dù thế, câu dưới cũng không hay. Không nên dùng chữ “ngọc
quế” “kim lan” để cho xong chuyện. Rồi đọc:
Huyên
vàng đầy vẻ hồng hào nở nang.
Tiệc
bày đuốc rọi sáng choang,
Tương Vân cười nói:
Hai chữ “Huyên vàng” tiện cho chị quá, không phải dùng sức
mấy. Cái vần có sẵn ấy bị chị vớ mất. Nhưng không nên tán tụng hộ nhiều quá, sợ
câu dưới chị cũng làm qua chuyện thôi.
Đại Ngọc cười nói:
Cô không nói chữ “quế ngọc” khi nào tôi lại đối gượng chữ
“Huyên vàng”. Hơn nữa phải phô hay cho khéo thì mới đúng là tức cảnh chứ.
Tương Vân đành lại đọc tiếp:
Thẻ
gieo chén chạm nhộn nhàng vườn hoa.
Chia
ban một lệnh truyền ra,
Đại Ngọc cười nói:
Câu dưới hay, nhưng hơi khó đối. Nghĩ một lúc rồi đọc:
Đố
rồi lại giảng nghe ba lệnh truyền.
Quân
bài đỏ ối từng khuyên,
Tương Vân cười nói:
Chữ “ba lệnh truyền” thú lắm, tục mà thành ra nhã. Nhưng
sao câu dưới lại nói đến quân bài? Rồi đọc:
Thuyền
hoa lần lượt trống liên hồi rền.
Bóng
trăng lay chuyển sân thềm,
Đại Ngọc cười nói:
Đối được đấy nhưng câu dưới lại chệch đi mất rồi. Chỉ
dùng những chữ gió trăng để cho xong việc thôi à?
Tương Vân nói: Vẫn chưa nói đến trăng bao giờ cả. Phải
nên điểm xuyết một tí mới không lạc đề.
Đại Ngọc nói:
Thôi hãy để đấy, ngày mai sẽ châm chước. Liền đọc:
Đất
trời trắng xóa, ngút lên một màu.
Thưởng
phạt kể chủ khách đâu,
Tương Vân nói:
Lại còn nói đến họ làm gì nữa? Hãy nói chúng ta đây này.
Liền đọc:
Ngâm
thơ chị trước em sau theo hàng.
Nghĩ
thơ đứng cạnh lan can,
Đại Ngọc nói: Bây giờ có thể nói được về chúng ta đấy. Liền
đọc:
Khi
ra tựa cửa ta dàn vần hay.
Rượu
vơi tình vẫn còn đầy,
Tương Vân nói:
Đúng lúc này đây. Liền đọc:
Cuộc
vui gần sáng nhạt ngay đó mà.
Tiếng
cười chừng đã gần thưa,
Đại Ngọc nói: Lúc này lại thấy càng khó thêm! Liền đọc:
Mà
màu sương tuyết còn trơ đây này.
Sương
mai phủ đám nấm dày,
Tương Vân nói:
Câu này ghép vần thế nào được đây? Để cho tôi nghĩ đã. Liền
đứng dậy chắp tay đằng sau nghĩ một lúc, cười nói:
Được rồi. May mà nghĩ ra được một chữ, nếu không thì thua
mất! Liền đọc:
Chiều
hoa dạ hợp cuốn đầy khói sân.
Dòng
thu dọi đá nổi gân,
Đại Ngọc nghe xong, đứng dậy khen hay và nói:
Con ranh con này, quả nhiên để những từ hay về sau. Bây
giờ mới nói đến chữ hoa “dạ hợp”. Khen cho mày nghĩ được ra đấy.
Tương Vân nói:
May sao hôm nọ tôi xem quyển “Lịch triều văn tuyển” thấy
có chữ ấy, tôi không biết là cây gì, định để tra xem, chị Bảo Thoa nói: Không cần
phải tra cây ấy, bây giờ người ta vẫn gọi là cây “triêu khai dạ hợp” (sớm nở tối
cụp lại). Tôi không tin cứ đi tra, quả nhiên là đúng. Xem thế thì chị Bảo Thoa
biết rộng lắm.
Đại Ngọc cười nói:
Chữ “dạ hợp” dùng vào lúc này càng đúng, thế cũng được rồi.
Nhưng chữ “Dòng thu” nghĩ hay đấy! Chỉ một câu ấy đủ xóa hết những câu khác. Thế
nào tôi cũng phải dốc hết tinh thần để nghĩ một câu đối lại, nhưng chắc không
thể nào bằng.
Nghĩ mãi mới đọc được:
Gió
thu cuộn lá lên gần chân mây.
Thanh
cao sao Vụ đẹp thay,
Tương Vân nói:
Đối cũng khá đấy, nhưng câu này tứ lại tuột đi mất. May
mà là tình ở trong cảnh, chứ không phải chỉ dùng chữ “sao Vụ” để xong chuyện.
Liền đọc:
Thiền
thừ thở hút hơi bay khoảng trời.
Thỏ
thiêng thuốc đã luyện rồi,
Đại Ngọc không nói gì, gật đầu một lúc rồi lại đọc:
Người
nơi hạ giới lên chơi Quảng Hàn.
Bên
trời Ngưu nữ chờn vờn,
Tương Vân nhìn trăng rồi đọc:
Bè
tiên lên hỏi thăm nàng đế tôn.
Bánh
xe khi khuyết khi tròn,
Đại Ngọc nói:
Câu này đối không sát. Câu dưới mở rộng ra một tí, tức là
mạch chạy nhanh thì châm cứu chậm.
Rồi lại đọc:
Đổi
thay hối sóc137 hãy còn trơ trơ.
Đồng hồ giọt đã gần khô,
Tương Vân sắp đọc, thì Đại Ngọc trỏ cho xem cái bóng đen ở
giữa ao và nói: Cô nhìn xem ở giữa ao, hình như có người đi đến chỗ bóng đen?
Hay là ma đấy?
Tương Vân cười nói:
Khéo ma thật? Tôi không sợ ma đâu, để tôi ném cho nó một
cái.
Liền cúi nhặt một hòn đá nhỏ, ném xuống ao. Nghe tõm một
tiếng, có một cái vành tròn lớn làm gợn cả bóng trăng, cứ tan tan hợp hợp đến mấy
lần. Rồi trong bóng đen soạt một cái, một con hạc trắng bay lên, thẳng tới Ngẫu
Hương tạ.
Đại Ngọc cười nói:
À ra con ma hạc? Mình không nghĩ đến, đâm ra nhát gan.
Tương Vân cười nói:
Con hạc này hay đấy, nó giúp được thi hứng cho tôi! Liền
đọc:
Bên
song phút đã lờ mờ đèn xanh.
Cò
rò bóng hạc bên ghềnh,
Đại Ngọc vừa khen vừa giậm chân nói:
Hỏng rồi! Con hạc giúp thi hứng cho cô thật nhưng câu này
không giống như câu “Dòng thu”, tôi đối thế nào cho hay được đây? Chỉ có chữ “hồn”
mới đối được chữ “bóng”. Mấy chữ bóng hạc bên ao rất là tự nhiên, như đã đặt sẵn,
vừa có cảnh, lại mới đẹp. Thôi tôi đành gác bút vậy.
Tương Vân cũng nói:
Chúng ta cứ cố nghĩ đi, thế nào cũng ra. Nếu không để đến
ngày mai lại làm nối cũng được.
Đại Ngọc chỉ nhìn lên trời, mặc kệ đấy. Một lúc bỗng cười
và nói:
Cô đừng lém mép nữa, tôi đã nghĩ ra được rồi! Nghe đây.
Liền đọc:
Hồn
hoa chôn chặt dưới vành trăng trong.
Tương Vân vỗ tay khen:
Quả nhiên hay thật, không thế thì lại không thể đối được.
Chữ “hồn chôn chặt” hay quá! Rồi lại thở dài nói: Câu thơ mới lạ thực, nhưng rất
suy đồi! Giờ chị đương có bệnh, không nên dùng những lời buồn rầu quái gở như
thế.
Đại Ngọc cười nói:
Không thế thì áp đảo thế nào được cô? Chỉ dụng công ở một
câu này thôi. Chưa dứt lời, thì có một người từ sau núi đá phía ngoài lan can
đi ra, cười nói:
Thơ hay lắm, hay lắm! Nhưng buồn thảm quá, không nên làm
tiếp nữa. Nếu cuối bài cứ thế thì không nổi bật được hai câu này, lại thành ra
gò ép.
Hai người đang không để ý, giật nẩy mình, nhìn kỹ ra
không phải ai lạ, chính là Diệu Ngọc. Hai người lấy làm lạ hỏi:
Sao cô lại đến đây? Diệu Ngọc cười nói:
Thấy các người thưởng trăng, lại nghe tiếng sáo thổi, tiện
đường tôi cũng đến đây ngắm cảnh nước trong trăng sáng một chút. Chợt nghe hai
cô ngâm thơ thực là thanh nhã khác thường. Vừa rồi trong bài thơ có mấy câu hay
thực, nhưng giọng thơ suy đồi, buồn thảm quá. Cái đó cũng quan hệ đến khí số
con người, nên tôi đến đây ngăn các cô. Giờ cụ đã về, những người ở trong vườn
chắc đã ngủ say rồi, có lẽ a hoàn cũng đang đi tìm các cô đấy. Các cô không sợ
lạnh à? Đi về chỗ tôi uống chén trà đã. Trời sắp sáng rồi.
Đại Ngọc cười nói:
Ai ngờ thì giờ lại nhanh thế!
Ba người cùng đi đến am Lũng Thúy. Ở đó đèn còn lờ mờ, lò
hương chưa tắt. Mấy bà già đã ngủ cả, chỉ còn đứa a hoàn nhỏ ngồi rũ đầu ngủ gật
ở trên chiếu. Diệu Ngọc gọi nó dậy pha nước, chợt có tiếng gõ cửa, a hoàn nhỏ
chạy ra xem, thấy Tử Quyên, Thúy Lũ cùng mấy vú già đến tìm hai chị em Đại Ngọc.
Đi vào thấy họ đương uống trà, bọn này cười nói:
Làm chúng tôi đi tìm khắp cả trong vườn, đến cả nhà dì Tiết.
Lúc đi qua đình nhỏ, gặp người canh đêm ở đó đã dậy. Chúng tôi hỏi, họ nói: “Vừa
giờ ở dưới giàn ngoài đình có hai người nói chuyện với nhau, sau thêm một người
nữa, nghe đâu họ vào trong am”. Vì thế chúng tôi mới biết các cô ở đây.
Diệu Ngọc sai a hoàn dẫn bọn họ sang bên kia ngồi nghỉ uống
nước, tự mình đi lấy bút nghiên giấy mực, bảo hai người đọc bài thơ vừa mới làm
lúc nãy, rồi viết cả ra. Đại Ngọc thấy Diệu Ngọc hôm nay cao hứng, liền cười
nói:
Xưa nay không thấy cô cao hứng như thế bao giờ, nên tôi
không dám đường đột. Bài thơ này thế nào, mong người chỉ bảo giùm, nếu thấy
không hay thì xin đốt ngay, bằng có thể chữa được, xin người chữa cho.
Diệu Ngọc cười nói:
Tôi không dám bàn nhảm. Nhưng bài này mới có 22 vần. Cứ ý
tôi thì những câu hay, hai cô đã làm cả rồi, nếu làm tiếp, sợ cuối bài đuối sức.
Tôi muốn làm nối lại sợ hỏng lây cả bài thơ của các cô.
Đại Ngọc không thấy Diệu Ngọc làm thơ bao giờ, nay thấy
cô ta cao hứng, liền nói:
Đúng thế, thơ của chúng tôi dầu không hay, cũng nhờ đó được
thơm lây.
Diệu Ngọc nói:
Giờ kết thúc thế nào cũng phải quay trở lại thần của thơ.
Nếu vất bỏ sự thực, chỉ tìm tòi những điều quái lạ, thì một là mất hẳn bản sắc
khuê các của chúng ta, hai là không dính dáng gì đến đầu bài.
Đại Ngọc và Tương Vân đều nói: “Phải lắm”.
Diệu Ngọc cầm bút khẽ ngâm, viết một lúc xong, đưa cho
hai người và nói:
Xin các cô đừng cười. Cứ ý tôi thì phải thế này mới xoay
lại được tứ thơ. Tuy ở trên có những câu buồn thảm, cũng không quản ngại gì.
Hai người cầm lấy xem, thấy Diệu Ngọc làm tiếp:
Đỉnh
vàng nghi ngút hương nồng,
Long
lanh châu ngọc như lồng màu son.
Nghe
tiêu gái góa nỉ non,
Ôm
chăn nhờ có a hoàn ủ cho.
Màn
không, phượng những thẫn thờ,
Bình
phong quạnh quẽ, uyên vơ vẩn hồn.
Rêu
kia móc đọng, thêm nhờn,
Trúc
kia sương nặng càng trơn khó cầm.
Quanh
co đi dạo bên đầm,
Lại
lên trên bãi âm thầm mà chơi.
Đá
như ma quỷ chọc người,
Cây
như sói đứng hùm ngồi lạ chưa?
Mặt
trời sớm rọi lưng rùa138
Rèm
thưa kia cũng lờ mờ sương đêm.
Trên
rừng ríu rít đàn chim,
Xa
xa tiếng vượn hót rền trong hang.
Lối
quen nào có bên đường,
Suối
quen sao phải hỏi han đến nguồn.
Này
chùa Lũng Thúy hồi chuông,
Đạo
Hương gà đã gáy dồn xóm kia.
Vui
lên buồn mãi làm chi?
Không
sầu còn phải nghĩ gì vẩn vơ?
Tình
riêng ta chỉ biết ta,
Thú
vui sao phải nhỏ to cùng người!
Canh
tàn chớ bảo mệt rồi,
Pha
trà ta hãy rốn ngồi bàn thơ.
Cuối bài thơ có viết: “Trên đây là bài thơ tức cảnh nối
nhau ba mươi lăm vần đêm Trung Thu ở vườn Đại Quan”.
Đại Ngọc, Tương Vân không ngớt khen ngợi:
Thế mới biết ngày nào chúng ta cũng bỏ chỗ gần đi tìm chỗ
xa. Hiện có bậc thi nhân ở đây, mình lại cứ “bàn việc binh trên giấy”139.
Diệu Ngọc cười nói:
Ngày mai hãy sửa lại. Bây giờ trời đã sáng rồi, phải đi
nghỉ mới được.
Đại Ngọc, Tương Vân đứng dậy cáo từ, dẫn bọn a hoàn đi
ra. Diệu Ngọc tiễn đến cửa ngoài, chờ họ đi xa rồi, mới trở vào.
Thúy Lũ nói với Tương Vân:
Bên mợ Cả có người chờ chúng ta sang. Giờ đến đấy ngủ thì
hơn. Tương Vân cười nói:
Em tiện đường đến bảo họ cứ ngủ đi, tôi sang đấy lại làm
phiền người ốm, chi bằng đến quấy rầy cô Lâm vậy.
Nói xong cùng đi về quán Tiêu Tương. Một số người đã ngủ
rồi. Đại Ngọc, Tương Vân đi vào, tháo đồ trang sức, cởi áo ngoài ra, rửa mặt
xong, lên giường đi ngủ. Tử Quyên buông màn the xuống, đóng cửa cất đèn đi ra.
Tương Vân vì lạ nhà, tuy đã đi nằm, nhưng không ngủ được.
Đại Ngọc thì tâm huyết suy nhược, thường mất ngủ, hôm nay lại thức quá giấc, tất
nhiên cũng không ngủ được. Hai người cứ trằn trọc ở trên giường mãi.
Đại Ngọc hỏi: Sao cô vẫn chưa ngủ?
Tương Vân khẽ cười nói: Tôi có bệnh lạ nhà, lại mệt quá,
chỉ nằm nghỉ một chút. Chị sao cũng không ngủ được?
Đại Ngọc thở dài: Tôi không ngủ được, có phải một hai hôm
nay đâu. Chừng một năm nay chỉ ngủ được độ mười đêm thật đẫy giấc thôi.
Tương Vân nói: Chả trách được chị ốm là phải!
Trung Thu Dạ Đại Quan Viên Tức Cảnh
Phiên âm
(Đại Ngọc) Tam ngũ trung thu tịch,
(Tương Vân) Thanh du nghĩ thượng nguyên.
Tản
thiên Cơ, Đẩu xán,
(Đại Ngọc) Tạp địa quản huyền phồn.
Kỷ
xứ cuồng phi trản,
(Tương Vân) Thuỳ gia bất khởi hiên?
Khinh
hàn phong tiễn tiễn,
(Đại Ngọc) Lương dạ cảnh huyên huyên.
Tranh
bính trào hoàng phát,
(Tương Vân) Phân qua tiếu lục viên.
Hương
tân vinh vương quế,
(Đại Ngọc) Sắc kiện mậu kim huyên.
Lạp
chúc huy quỳnh yến,
(Tương Vân) Quang trù loạn ỷ viên.
Phân
tào tôn nhất lệnh,
(Đại Ngọc) Xạ phúc thính tam tuyên.
Đầu
thái hồng thành điểm,
(Tương Vân) Truyền hoa cổ lạm huyên.
Tình
quang dao viện vũ,
(Đại Ngọc) Tố thái tiếp càn khôn.
Thưởng
phạt vô tân chủ,
(Tương Vân) Ngâm thi tự trọng côn.
Cấu
tứ thời ỷ hạm,
(Đại Ngọc) Nghĩ cảnh hoặc y môn.
Tửu
tận tình do tại,
(Tương Vân) Canh tàn lạc dĩ huyên.
Tiệm
văn ngữ tiếu tịch,
(Đại Ngọc) Không thặng tuyết sương ngân.
Giai
lộ đoàn triêu khuẩn,
(Tương Vân) Đình nhân liễm tịch ngô.
Thu
thoan tả thạch tuỷ,
(Đại Ngọc) Phong diệp tụ vân căn.
Bảo
Vụ tình cô khiết,
(Tương Vân) Ngân thiềm khí thổ thôn.
Dược
kinh linh thố đảo,
(Đại Ngọc) Nhân hướng Quảng Hàn bôn.
Phạm
đẩu yêu ngưu nữ,
(Tương Vân) Thừa tra phỏng đế tôn.
Doanh
hư luân mạc định,
(Đại Ngọc) Hối sóc phách không tồn.
Hồ
lậu thanh tương hạc,
(Tương Vân) Song đăng diễm dĩ hôn.
Hàn
đường độ hạc ảnh,
(Đại Ngọc) Lãnh nguyệt táng thi hồn.
(Diệu Ngọc) Hương triện tiêu kim đỉnh,
Chỉ
băng nhị ngọc bồn.
Tiêu
tăng ly phụ khấp,
Khâm
sảnh thị nhi ôn.
Không
trướng huyền văn phụng,
Nhàn
bình yểm thái uyên.
Lộ
nùng đài cánh hoạt,
Sương
trọng trúc nan môn.
Do
bộ oanh hu chiểu,
Hoàn
đăng tịch lịch nguyên.
Thạch
kỳ thần quỷ bác,
Mộc
quái hổ lang tồn.
Bí
hí triêu quang thấu,
Phù
ty hiểu lộ truân.
Chấn
lâm thiên thụ điểu,
Đề
cốc nhất thanh viên.
Kỳ
thục yên vong kính?
Tuyền
tri bất vấn lương.
Chung
minh Lũng Thuý tự,
Kê
xướng Đạo Hương thôn.
Hữu
hứng bi hà kế?
Vô
sầu ý khởi phiền?
Phương
tình chỉ tự khiển,
Nhã
thú hướng thuỳ ngôn!
Triệt
đán hưu vân quyện,
Phanh
trà canh tế luận!
Dịch thơ
(Đại Ngọc) Đêm rằm giữa tiết thu này,
(Tương Vân) Cuộc vui thanh nhã như ngày thượng nguyên.
Đẩu,
cơ lấp loé từng trên,
(Đại Ngọc) Dưới này khoan nhặt tiếng chen sáo đàn.
Mấy
nơi dốc chén rót tràn,
(Tương Vân) Nhà nào chẳng mở cửa vườn nhìn ra.
Nhẹ
nhàng từng trận gió đưa,
(Đại Ngọc) Đêm vừa thanh vắng, cảnh vừa xinh tươi.
Già
còn tranh bánh mới vui,
(Tương Vân) Chia dưa có ả nực cười làm sao?
Mùi
hoa ngọc quế ngọt ngào,
(Đại Ngọc) Huyên vàng đầy vẻ hồng hào nở nang.
Tiệc
bày đuốc rọi sáng choang,
(Tương Vân) Thẻ gieo chén chạm nhộn nhàng vườn hoa.
Chia
ban một lệnh truyền ra,
(Đại Ngọc) Đố rồi lại giảng nghe ba lệnh truyền.
Quân
bài đỏ ối từng khuyên,
(Tương Vân) Thuyền hoa lần lượt trống liên hồi rền.
Bóng
trăng lay chuyển sân thềm,
(Đại Ngọc) Đất trời trắng xoá, ngút lên một màu.
Thưởng
phạt kể chủ khách đâu,
(Tương Vân) Ngâm thơ chị trước em sau theo hàng.
Nghĩ
thơ đứng cạnh lan can,
(Đại Ngọc) Khi ra tựa cửa ta dàn vần hay.
Rượu
vơi tình vẫn còn đầy,
(Tương Vân) Cuộc vui gần sáng nhạt ngay đó mà.
Tiếng
cười chừng đã gần thưa,
(Đại Ngọc) Mà màu sương tuyết còn trơ đây này.
Sương
mai phủ đám nấm dày,
(Tương Vân) Chiều hoa dạ hợp cuốn đầy khói sân.
Dòng
thu dọi đá nổi gân,
(Đại Ngọc) Gió thu cuộn lá lên gần chân mây.
Thanh
cao sao Vụ đẹp thay,
(Tương Vân) Thiền thừ thở hút hơi bay khoảng trời.
Thỏ
thiêng thuốc đã luyện rồi,
(Đại Ngọc) Người nơi hạ giới lên chơi Quảng Hàn.
Bên
trời Ngưu nữ chờn vờn,
(Tương Vân) Bè tiên lên hỏi thăm nàng đế tôn.
Bánh
xe khi khuyết khi tròn,
(Đại Ngọc) Đổi thay hối sóc, hãy còn trơ trơ.
Đồng
hồ giọt đã gần khô,
(Tương Vân) Bên song phút đã lờ mờ đèn xanh.
Cò
rò bóng hạc bên ghềnh,
(Đại Ngọc) Hồn hoa chôn chặt dưới vành trăng trong.
(Diệu Ngọc) Đỉnh vàng nghi ngút hương nồng;
Long
lanh châu ngọc như lồng màu son.
Nghe
tiêu gái goá nỉ non;
Ôm
chăn nhờ có a hoàn ủ cho.
Màn
không, phượng những thẫn thờ;
Bình
phong quạnh quẽ, uyên vơ vẩn hồn.
Rêu
kia móc đọng, thêm nhờn;
Trúc
kia sương nặng càng trơn khó cầm.
Quanh
co đi dạo bên đầm;
Lại
lên trên bãi âm thầm mà chơi.
Đá
như ma quỷ chọc người;
Cây
như sói đứng hùm ngồi lạ chưa?
Mặt
trời sớm rọi lưng rùa;
Rèm
thưa kia cũng lờ mờ sương đêm.
Trên
rừng ríu rít đàn chim;
Xa
xa tiếng vượn hót rền trong hang.
Lối
quen nào có bên đường;
Suối
quen sao phải hỏi han đến nguồn.
Này
chùa Lũng Thuý hồi chuông;
Đạo
Hương gà đã gáy dồn xóm kia.
Vui
lên buồn mãi làm chi
?
Không sầu còn phải nghĩ gì vẩn vơ?
Tình
riêng ta chỉ biết ta;
Thú
vui sao phải nhỏ to cùng người!
Canh
tàn chớ bảo mệt rồi;
Pha
trà ta hãy rốn ngồi bàn thơ.
Cuối bài thơ có viết: "Trên đây là bài thơ tức cảnh
nối nhau ba mươi lăm vần đêm Trung Thu ở vườn Đại Quan".
Chú thích.
[←130]
Nhà
ở giữa hẻm núi có nước trong như thủy tinh.
[←131]
Nghiên
cổ hơi sâu chứa mực nhiều.
[←132]
Người
đời Vũ Đế nhà Hán, thích nói chuyện khôi hài.
[←133]
Người
đời Nam Triều, vẽ khéo, nhất là vẽ truyền thần.
[←134]
Ý
vòi được cái nọ lại đòi cái kia.
[←135]
Nguyên
văn là ngũ ngôn, vần “Thập tam nguyên”, giữa câu nọ với câu kia đều đối nhau,
chúng tôi dịch thoát.
[←136]
Tên
hai vì sao.
[←137]
Theo
âm lịch: “Hối” là ngày ba mươi hết tháng. “Sóc” là ngày mùng một đầu tháng.
[←138]
Tức
cái bia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét