Tình Văn vá áo cừu. |
Hồi
77.
A
hoàn đẹp, sớm chết oan vì tội phong lưu;
Con
hát xinh, cắt tình duyên vào am Thủy Nguyệt.
Tết Trung Thu đã qua, bệnh Phượng Thư
đã đỡ hơn trước, có thể ra vào đi lại được, nhưng hàng ngày vẫn phải mời thầy đến
xem mạch bốc thuốc, lại cho thuốc viên với thuốc điều kinh dưỡng vinh. Vì vậy
phải dùng đến hai lạng nhân sâm tốt nhất, thấy vậy Vương phu nhân cho người đi
tìm, mãi mới thấy ở trong cái hộp có mấy chi nhỏ bằng cái trâm cài đầu. Bà ta
chê không tốt, sai đi tìm lại, chỉ thấy một gói râu sâm vụn, liền sốt ruột nói:
Khi không cần thì lại có, đến lúc dùng đến lại không tìm ra. Ngày thường ta vẫn bảo chúng bay sắp cả lại để một chỗ, chúng bay không nghe, bạ đâu bỏ đấy. Chúng bay có biết cái hay của nó đâu. Phải kén bao nhiêu mới mua được, lại bỏ đi hay sao?
Thái Vân nói:
Chắc hết cả rồi, chỉ còn có thứ này
thôi. Lần trước bà Cả bên kia sang lấy, bà cho cả rồi.
Làm gì có chuyện ấy! Mày tìm kỹ xem.
Thái Vân đành phải đi tìm rồi mang mấy
bao đựng các vị thuốc đến, nói:
Cháu không nhận ra được những thứ này,
xin đưa bà xem. Ngoài ra không còn thứ nào nữa.
Vương phu nhân mở ra xem, cũng quên cả
vị thuốc không biết là thứ gì, nhưng không có một chi nhân sâm nào, liền sai
người đi hỏi Phượng Thư. Phượng Thư đến nói:
Cũng chỉ có một ít cao sâm, còn sâm lô
tư tuy có mấy chi, nhưng cũng không được tốt lắm, mà ngày nào cũng phải sắc với
thuốc.
Vương phu nhân nghe nói, đành phải bảo
sang bên Hình phu nhân, Hình phu nhân nói:
Lần trước hết sâm phải sang lấy ở bên
này, nhưng cũng dùng hết cả rồi.
Vương phu nhân không biết làm thế nào,
đành phải sang hỏi xin Giả mẫu. Giả mẫu sai Uyên Ương lấy ra một bọc sâm lớn
trước kia dùng thừa đều xấp xỉ bằng đầu ngón tay, liền cân hai lạng cho Vương
phu nhân, Vương phu nhân mang ra, giao cho vợ Chu Thụy gọi đứa hầu nhỏ đưa cho
thầy thuốc cả mấy gói lẫn lộn để thầy thuốc xem lại, gói riêng và đánh dấu từng
thứ một.
Một lúc vợ Chu Thụy mang vào, nói:
Mấy thứ này đều gói riêng đánh dấu cả
rồi. Gói nhân sâm này tuy tốt thật, nhưng vì để lâu quá. Thứ này không như những
thứ khác, dù tốt đấy, để quá một trăm năm cũng thành ra gio mất. Hiện giờ tuy
chưa thành gio, nhưng đã mục nát, không còn hiệu nghiệm nữa. Xin bà cất đi, bất
cứ lớn nhỏ, nhiều ít, đem đổi lấy thứ mới thì hơn.
Vương phu nhân cúi đầu lặng yên, một
lúc mới nói:
Chả có cách gì, đành đi mua hai lạng về
đây vậy!
Rồi không nhìn đến nữa, chỉ sai đem cất
đi. Bà ta lại bảo vợ Chu Thụy:
Chị ra bảo những người ngoài kia chọn
thứ tốt đổi lấy hai lạng về đây. Cụ có hỏi, cứ nói là sâm của cụ cho, không được
nói nhiều.
Bảo Thoa ngồi đấy cười nói:
Dì hãy thong thả. Bây giờ ở ngoài
không có thứ nào tốt cả. Dù có nguyên cả chi, họ cũng cắt ra làm hai ba đoạn,
chắp nối sâm tu khác vào, trộn lẫn để dễ bán, nên không ai nhận ra được tốt hay
xấu. Ở hiệu nhà cháu thường giao dịch với bọn lái buôn. Cháu về nói với mẹ cháu
bảo anh cháu sai người làm công đi nói với họ để lại cho hai lạng sâm nguyên
chi, dù có phải trả đắt mấy lạng bạc nhưng lại được thứ tốt.
Vương phu nhân cười nói:
Cháu cũng thạo đấy, nhưng phải nhờ
cháu đi lấy mới biết rõ được. Bảo Thoa đi một lúc về trình:
Cháu sai người đi rồi, đến chiều sẽ biết
tin. Sáng mai đem trộn với thuốc cũng chưa muộn.
Vương phu nhân lấy làm vui lòng, thở
dài:
“Cô ả bán dầu lại bôi đầu bằng nước
lã”. Xưa nay ở nhà vẫn có, đem cho người ta biết bao nhiêu, bây giờ mình cần đến,
lại phải đi chuốc nơi khác.
Bảo Thoa cười thưa:
Cái ấy tuy đắt tiền thực, nhưng cũng
là một thứ thuốc, nên giúp đỡ người ta mới phải. Chúng ta không như những nhà
ti tiện, hễ có cái gì cứ bo bo cất kỹ.
Vương phu nhân gật đầu nói:
Cháu nói phải đấy.
Bảo Thoa đi rồi. Vương phu nhân thấy
nhà không có ai, liền gọi vợ Chu Thụy, hỏi việc tra xét trong vườn hôm nọ có ra
manh mối gì không?
Vợ Chu Thụy đã bàn trước với Phượng
Thư, nên không giấu giếm gì, có thế nào nói thế. Bà ta giật mình, nhưng lại khó
xử, nghĩ bụng: “Tư Kỳ là a hoàn của Nghênh Xuân, là người ở phủ bên kia, chỉ
còn cách sai người sang trình Hình phu nhân xem xử trí ra sao”. Vợ Chu Thụy
nói:
Hôm nọ bà Cả bên đã mắng vợ Vương Thiện
Bảo hay bới việc và tát mụ ta mấy cái, giờ mụ ấy giả ốm nằm ở nhà không chịu ra
ngoài. Hơn nữa đứa có tội lại là cháu, nên phải vờ ốm ít ngày để xí xóa, rồi ra
sao sẽ ra. Nếu bây giờ chúng ta sang nói, họ lại đâm ngờ, cho là chúng ta bới
chuyện. Chi bằng dẫn Tư Kỳ cùng tang vật sang cho bà Cả bên ấy xem, chẳng qua
đánh nó một trận, gả nó đi, rồi tìm một a hoàn khác đến thay, như thế chả đỡ việc
hay sao? Bây giờ cứ sang mách không, chắc bà Cả bên ấy từ chối, bảo rằng đã thế
thì bà Hai cứ định liệu lấy, việc gì phải sang nói nữa. Như thế lại sinh nhỡ việc.
Nếu Tư Kỳ đâm liều tìm cách tự tử, lại chẳng ra sao cả. Mà có cho người coi nó
vài ba hôm, lỡ lười ra một tí là sẽ xảy chuyện.
Vương phu nhân nghĩ một lúc, nói:
Phải đấy. Làm xong việc này đã, rồi
hãy liệu cho bọn yêu tinh nhà này.
Vợ Chu Thụy nghe nói, liền họp mấy người
đàn bà lại, trước hết đến buồng Nghênh Xuân trình rõ, Nghênh Xuân nghe nói, rơm
rớm nước mắt như có ý không muốn rời Tư Kỳ. Vì việc đêm hôm trước, bọn a hoàn
đã kể rõ đầu đuôi, tuy tình thầy trò đã mấy năm không nỡ dứt, nhưng việc quan hệ
đến nề nếp gia phong, Nghênh Xuân cũng không làm thế nào được.
Tư Kỳ cũng đến nói với Nghênh Xuân nhờ
cứu giúp cho, nhưng vì Nghênh Xuân chậm mồm chậm miệng, tính lại nhu nhược,
không thể tự mình quyết định được. Tư Kỳ thấy thế, biết không tránh khỏi tội,
liền quỳ xuống khóc:
Cô nhẫn tâm quá! Dỗ dành cháu mấy hôm
nay, sao bây giờ cô không nói giúp cháu một câu nào?
Vợ Chu Thụy nói:
Lại định để cô giữ chị ở lại à? Dù cô
có giữ lại, chị cũng chẳng còn mặt mũi nào trông thấy người ở trong vườn này nữa.
Thôi cứ nghe lời chúng tôi, xếp cái lối ấy lại, lẳng lặng mà đi, đừng cho ai biết,
như thế mọi người còn giữ được chút thể diện.
Nghênh Xuân khóc nói:
Tôi biết chị làm điều không đúng, nếu
xin cho chị, tất nhiên tôi cũng bị mang tiếng lây. Chị xem Nhập Họa ở đây đã mấy
năm rồi, khi nói đi là đi ngay. Không riêng gì chị, những người đã lớn ở trong
vườn này đều phải đi cả. Cứ ý tôi, sau này cũng có lúc chúng ta phải xa cách
nhau, chi bằng ngay bây giờ mỗi người mỗi nơi còn hơn.
Vợ Chu Thụy nói:
Như thế là cô rất hiểu việc. Nay mai
còn cho nhiều người về nữa, chị cứ yên tâm.
Tư Kỳ không biết làm thế nào, cứ rơm rớm
nước mắt cúi đầu chào Nghênh Xuân, chào tất cả mọi người. Sau đó lại ghé tai
nói với Nghênh Xuân:
Hễ biết tin cháu bị tội, thế nào cô
cũng nghĩ đến tình thầy trò bấy lâu, xin hộ cho cháu.
Nghênh Xuân cũng rơm rớm nước mắt trả
lời:
Chị cứ yên tâm.
Vợ Chu Thụy đưa Tư Kỳ ra, và sai hai
bà già mang tất cả đồ đạc của nó đi theo. Đi được mấy bước thấy Tú Quất ở đằng
sau chạy đến, vừa gạt nước mắt, vừa đưa cho Tư Kỳ một cái bọc bằng lụa, nói:
Đây là cô cho chị đấy. Tình thầy trò bấy
nay, giờ xa cách nhau, cô cho chị bọc này để làm vật kỷ niệm.
Tư Kỳ nhận rồi òa lên khóc. Tú Quất
cũng khóc. Vợ Chu Thụy sốt ruột, cứ thúc giục mãi, hai người đành phải chia
tay.
Tư Kỳ khóc nói:
Xin các bà thể tất chút tình, thư lại
một lúc để tôi đi chào các chị em, gọi là tỏ tình mấy năm nay chúng tôi chơi
thân với nhau.
Bọn vợ Chu Thụy đều mỗi người mỗi việc,
giờ phải đi làm việc này cũng là sự bất đắc dĩ. Hơn nữa họ vẫn ghét Tư Kỳ hay
làm bộ, thì bây giờ hơi đâu lại chịu nghe lời, liền cười nhạt:
Chị nên đi đi, đừng lôi thôi nữa!
Chúng tôi còn có việc cần, ở đây có ai là chị em ruột thịt với chị đâu mà phải
đi chào họ. Gặp chị, họ chả cười cho ư? Chị cứ nấn ná mãi, chẳng lẽ lại thôi
hay sao. Cứ nghe tôi, chị đi ngay đi!
Chị ta dẫn thẳng Tư Kỳ ra cổng sau, Tư
Kỳ không làm sao được và cũng không dám kêu nài nữa, đành phải đi theo.
Bảo Ngọc như người mất hồn, liền ngăn lại hỏi: Đi đâu thế?
Bảo Ngọc ở ngoài về, trông thấy một bọn
dẫn Tư Kỳ đi, có người mang theo nhiều đồ vật. Bảo Ngọc đoán Tư Kỳ đi chuyến
này là không trở về được nữa. Nhân nghe chuyện đêm vừa rồi, và cũng từ đêm đó
Tình Văn ốm nặng, hỏi Tình Văn cũng không nói. Giờ thấy Tư Kỳ ra đi, Bảo Ngọc
như người mất hồn, liền ngăn lại hỏi:
Đi đâu thế?
Biết tính Bảo Ngọc xưa nay, lại sợ làm
lèo nhèo nhỡ việc, vợ Chu Thụy cười nói:
Không việc gì đến cậu, cậu về mà đọc
sách đi. Bảo Ngọc cười nói:
Các chị hãy đứng lại một tí, tôi còn
có điều này. Vợ Chu Thụy nói:
Bà đã dặn không được chậm một giờ. Cậu
lại còn có điều gì? Chúng tôi chỉ biết vâng lời bà thôi, ngoài ra không biết gì
cả.
Tư Kỳ thấy Bảo Ngọc, liền níu lại,
khóc nói:
Các bà ấy không tự quyết được. Cậu xin
với bà Hai cho! Bảo Ngọc không cầm lòng được, rơm rớm nước mắt nói:
Tôi không biết chị đã phạm tội gì to
tát thế? Chị Tình Văn cũng vì tức mà phát ốm, giờ chị lại phải đi, thế này thì
tôi biết làm sao cho được!
Vợ Chu Thụy cáu, mắng Tư Kỳ:
Chị không còn là tiểu thư thứ hai nữa
đâu, nếu không nghe lời, tôi đánh ngay bây giờ. Đừng tưởng như ngày trước có
các cô bênh vực, muốn làm trời cũng được. Càng nói càng cứ ỳ ra không chịu đi.
Trông thấy ông trẻ lại cố lôi lôi kéo kéo, như thế thì còn ra nghĩa lý gì nữa!
Mấy người đàn bà kia không cho Tư Kỳ
phân trần nữa, lôi ngay đi.
Bảo Ngọc sợ bọn họ về đơm chuyện, giận
quá chỉ trợn mắt nhìn. Thấy họ đi xa rồi, mới hậm hực chỉ trỏ nói:
Lạ thực, lạ thực! Sao mấy người đàn bà
này, hễ đi lấy chồng, dính phải hơi đàn ông là đâm ra phũ phàng ngay, so với
đàn ông càng đáng chém.
Bà già gác cửa vườn nghe thấy, cũng tức
cười, hỏi:
Cứ như cậu thì lúc con gái ai cũng đều
tốt, khi lấy chồng rồi lại hóa ra hỏng cả hay sao?
Bảo Ngọc phát cáu nói:
Đúng đấy, đúng đấy!
Đương nói chuyện thì có mấy bà già đến
bảo:
Các bà phải cẩn thận, hễ gọi đến túc
trực lúc nào là phải có đủ mặt. Chốc nữa bà Hai sẽ thân hành vào vườn tra xét đấy.
Đi gọi ngay anh và chị dâu cô Tình Văn ở viện Di Hồng đến chực ở đấy để nhận em
gái về.
Rồi họ lại cười nói:
A Di Đà Phật! Hôm nay trời có mắt, tống
cổ con yêu tinh tai ác này đi thì mọi người mới được yên thân.
Bảo Ngọc nghe nói Vương phu nhân đến
tra xét, đoán ngay là Tình Văn khó lòng ở yên được, liền chạy như bay, nên
không nghe rõ những câu hí hửng của bọn bà già này nữa.
Bảo Ngọc về đến viện Di Hồng, đã thấy
một bọn người ở đấy rồi. Vương phu nhân ngồi ở trong nhà, mặt đầy vẻ giận,
trông thấy Bảo Ngọc cũng chẳng thèm để ý. Tình Văn đã bốn, năm ngày không đụng
một tí nước cháo, giờ bị kéo từ trên giường xuống, đầu bù tóc rối, hai người
đàn bà xốc đi. Vương phu nhân dặn:
Vứt giả nó những quần áo lót, còn thì
để lại cho bọn a hoàn ngoan ngoãn mặc. Và gọi tất cả a hoàn ở nhà này ra để ta
xem qua một lượt.
Sau ngày Vương phu nhân bực bội về
chuyện cái túi, vợ Vương Thiện Bảo nhân dịp ton hót về Tình Văn, rồi đến những
người không ưa bọn a hoàn trong vườn, liền nhờ bão bẻ măng, nói chọc thêm vào.
Hết thảy bà ta đều ghi lại trong lòng, chỉ vì mấy ngày Tết, hãy tạm dẹp lại, đến
nay mới thân chinh vào tra xét ở trong vườn. Chuyện Tình Văn mới chỉ là một,
điều cần thiết hơn là có người nói Bảo Ngọc đã lớn, đã biết mùi đời, sợ bị bọn
a hoàn xấu ở trong nhà làm hư hỏng chăng. Vì vậy bắt đầu từ Tập Nhân cho đến bọn
a hoàn nhỏ sai vặt, bà ta đều xem xét từng người một, rồi hỏi:
Đứa nào cùng đẻ một ngày với Bảo Ngọc?
Không ai dám trả lời. Bà già trỏ tay thưa:
Đấy là con Huệ Hương, cũng gọi là con
Tư cùng đẻ một ngày với cậu Bảo đấy.
Nhìn kỹ Huệ Hương còn kém Tình Văn xa,
nhưng cũng có đôi phần quyến rũ, xem cách đi đứng, vẻ thông minh đều lộ cả ra
ngoài, cả từ trang sức cũng lộng lẫy hơn đứa khác, Vương phu nhân cười nhạt,
nói:
Của này cũng là hạng vô liêm sỉ! Mày
thường nói vụng, đẻ cùng ngày sẽ là vợ chồng phải không? Mày tưởng ta ở xa,
không biết đấy à? Mày phải biết ta không năng đến đây, nhưng tai mắt, lòng dạ
ta vẫn ở đây luôn. Có nhẽ nào ta chỉ có một thằng Bảo Ngọc mà lại để mặc cho
chúng bay tha hồ cám dỗ làm hư nó?
Huệ Hương thấy Vương phu nhân nhắc đến
ngày thường nó tỉ tê chuyện trò với Bảo Ngọc, liền đỏ mặt lên, cúi đầu chảy nước
mắt. Vương phu nhân bảo:
Gọi ngay người nhà nó đến đây, đem về
mà gả chồng cho nó. Còn con Phương Quan đâu?
Phương Quan đành phải đến. Vương phu
nhân nói:
Con nhà xướng ca này, tất nhiên càng
là con tinh khôn đây! Lần trước cho ra, chúng bay không chịu ra, đã thế thì nên
biết thân biết phận mới phải, nhưng mày lại đâm ra tinh ma quấy rối, ton hót Bảo
Ngọc, việc gì cũng làm!
Phương Quan cười nói phân trần:
Cháu có dám dỗ dành cậu ấy đâu. Vương
phu nhân cười nói:
Mày lại còn già mồm à? Ta hỏi mày: năm
trước ta đi đưa đám Thái phi, đứa nào xui Bảo Ngọc cho con Năm nhà mụ Liễu vào
hầu. May mà nó chết sớm, nếu không chúng bay sẽ kéo cánh nhau làm hỏng cả người
trong vườn này. Ngay mẹ nuôi mày còn lấn áp, huống chi người khác!
Liền quát:
Gọi mẹ nuôi nó đến nhận về! Để bà ấy
đem ra ngoài gả chồng cho nó. Đồ đạc của nó, cho nó hết.
Lại dặn:
Tất cả những con hát chia cho các cô
năm trước, không cho một đứa nào ở trong vườn nữa. Bảo mẹ nuôi chúng nó đến nhận
về gả chồng cho chúng.
Một lời truyền ra, các mẹ nuôi đều hí
hửng cảm ơn, cùng rủ nhau đến cúi đầu trước Vương phu nhân xin nhận về.
Vương phu nhân lại lục soát tất cả những
đồ vật của Bảo Ngọc. Hễ thấy cái gì ngờ ngợ, cũng đều sai mang về để ở buồng
mình. Rồi nói:
Thế này mới yên chuyện để cho người ta
khỏi đồn đại. Lại dặn bọn Tập Nhân, Xạ Nguyệt:
Chúng bay phải cẩn thận! Nếu còn xảy
ra việc gì, ta nhất định không tha đâu! Ta cho người đi xem hạn thì chưa nên rời
đi, hãy để ở tạm hết năm nay; sang năm dọn về chỗ cũ, ta mới yên tâm.
Nói xong bà ta cũng chẳng uống nước, dẫn
mọi người đi nơi khác khám xét.
Bảo Ngọc tưởng Vương phu nhân chỉ sang
khám xét qua loa, không có việc gì quan trọng, ngờ đâu lại nổi cơn sấm sét đến
thế. Những việc Vương phu nhân kể ra, đều là chuyện ngày thường họ nói riêng với
nhau không sai một chữ nào, chắc không thể gỡ lại được. Bảo Ngọc bực không sao
chết được, nhưng đương lúc Vương phu nhân thịnh nộ nên không dám nói nhiều,
đành đi theo đến đình Thấm Phương. Vương phu nhân bảo:
Thôi đi về đọc sách đi! Giờ hồn đấy,
ngày mai ta sẽ hỏi mày.
Bảo Ngọc quay về, vừa đi vừa tính:
“Không biết đứa nào lại mách lẻo thế? Việc này không ai biết cả, sao mẹ mình lại
nói đúng thế?”
Về đến nhà, thấy Tập Nhân đương ngồi sụt
sùi nhỏ lệ. Thấy người hầu hạng nhất bị đuổi đi, lẽ nào chẳng đau lòng. Bảo Ngọc
cũng nằm vật xuống giường, khóc òa lên.
Biết người khác còn có thể bỏ qua, chứ
Tình Văn bị đuổi là một việc to tát, Tập Nhân liền khuyên bảo:
Cậu khóc cũng chẳng ăn thua gì đâu.
Hãy ngồi dậy, tôi nói cho mà nghe: Tình Văn giờ đã khỏi bệnh rồi, nếu chị ấy về
nhà thì lại được tĩnh dưỡng mấy hôm. Cậu không rời được chị ấy, thì chờ khi bà
nguôi giận, cậu lại sang xin với cụ cho gọi nó về, cũng chẳng lấy gì làm khó.
Chẳng qua bà ngẫu nhiên nghe thấy người ngoài nói nhảm, nổi giận thế thôi.
Tôi vẫn không biết chị Tình Văn đã phạm
cái tội tày trời gì?
Bà chỉ nghĩ chị ấy đẹp quá, thế nào
cũng có tính lẳng lơ. Bà biết rõ những cô đẹp như người trong tranh, chắc không
bao giờ đứng đắn, nên có ý ghét. Chứ cục mịch như chúng tôi lại hóa hay.
Thôi, không nói chuyện ấy nữa. Những
câu chúng ta nói đùa riêng với nhau, không có người ngoài nào lộ chuyện, tại
sao bà cũng biết. Thế mới lạ chứ!
Cậu thì có kiêng nể cái gì, lúc cao hứng
lên, cậu cứ nói bừa, không kể gì có người hay không có người. Có lúc tôi đưa mắt,
ra hiệu, bị người ta trông thấy, mà cậu vẫn chẳng biết gì cả.
Tại sao mọi người có lỗi, bà đều biết
cả, chỉ không nói đến chị, chị Xạ Nguyệt và chị Thu Văn?
Tập Nhân nghe vậy, chột dạ, cúi đầu một
lúc, không biết trả lời ra sao, rồi cười nói:
Đúng đấy, về phần chúng tôi cũng có
lúc nô đùa, không biết giữ ý tứ, sao bà lại quên? Chắc còn có việc khác, để làm
xong rồi sẽ xử đến chúng tôi cũng chưa biết chừng.
Chị có tiếng là người hiền lành nhất,
hai chị kia lại được chị rèn cặp, dạy dỗ thì còn có chỗ nào đáng phạt nữa? Chỉ
có cô Phương Quan còn bé mà lại sắc sảo quá, chắc cũng có lúc cậy thế chèn người
ta, làm cho họ ghét. Con Tư thì cũng tại tôi làm hại nó. Bắt đầu từ cái ngày
tôi cãi nhau với chị, rồi gọi nó đến sai vặt. Người ta thấy tôi đối với nó tử tế,
lại cho nó là chực tranh giành địa vị, cũng vì thế nên mới xảy ra việc hôm nay.
Chị Tình Văn cũng như các chị đều là người của cụ cho sang đây ở từ khi còn bé,
tuy chị ta đẹp hơn người thực, nhưng cũng chẳng cản trở gì. Chỉ có cái là chị ấy
tính tình sắc sảo, ăn nói hoạt bát, nhưng cũng không thấy chị ấy có lỗi với một
người nào! Đúng như chị nói, chắc là chị ấy đẹp quá, vì cái đẹp mà mang lụy đấy
thôi!
Nói xong lại khóc.
Tập Nhân ngẫm nghĩ câu ấy, cho là Bảo
Ngọc có ý ngờ mình, nên không tiện khuyên nữa, liền thở dài:
Chỉ có trời biết thôi! Bây giờ cậu
chưa tra ra người nào mách lẻo, cứ khóc mãi cũng vô ích.
Bảo Ngọc cười nhạt:
Vì tôi nghĩ, chị ấy quen được chiều
chuộng từ thuở bé, chưa từng bị hắt hủi bao giờ. Bây giờ khác gì một chậu hoa
lan mới nẩy mầm non đã bị quẳng ra chuồng lợn. Người thì đương ốm nặng, trong bụng
lại chồng thêm bực tức. Chị ấy không còn bố mẹ thân yêu, chỉ có người anh con
cô con cậu là một tên nát rượu, liệu chuyến này có chịu đựng được năm bữa nửa
tháng hay không? Liệu mình còn được trông thấy mặt chị ấy nữa không?
Nói xong, Bảo Ngọc càng thấy đau xót,
Tập Nhân cười nói:
Cậu thật đúng như câu: “Quan châu có
quyền đốt đuốc, trăm họ không được thắp đèn”. Chúng tôi tình cờ nói nhỏ một
câu, cậu đã cho là nói gở, giờ cậu nguyền rủa chị ấy thì được à?
Không phải tôi phũ miệng rủa người
đâu, mùa xuân năm nay đã có triệu chứng rồi đấy.
Triệu chứng gì?
Cây hải đường ở dưới thềm đương tươi tốt
thế, tự nhiên chết mất một nửa, tôi biết ngay là có điềm gở, quả nhiên ứng ngay
vào chị ấy.
Tôi không muốn nói, nhưng lại không nhịn
được. Cậu thực lẩm cẩm như bà già. Câu ấy có đúng là lời nói của người biết chữ
như cậu không? Bảo Ngọc thở dài nói:
Các chị thì biết gì? Không những là cỏ
cây. Tất cả những vật gì có tình có lý ở trên đời cũng như người vậy, gặp được
tri kỷ, sẽ rất linh nghiệm. Nếu lấy việc lớn ra làm ví dụ, thì giống như cây cối
trước miếu và cỏ thi trước mộ Khổng Tử, cây bách trước đền ông Gia Cát, cây
tùng trước mộ ông Nhạc Vũ Mục. Đó là cái khí đường đường chính chính, nghìn năm
không mòn. Đời loạn thì nó héo đi, đời thịnh thì nó tươi lên. Trong một nghìn
năm cũng có mấy lần héo đi sống lại. Thế không phải là triệu chứng ư? Nếu lấy
việc nhỏ ra làm ví dụ thì giống như cây mộc thược dược ở đình Trầm Hương; cây
tương tư ở lầu Đoan Chính của Dương Quý Phi; cỏ trường thanh ở trên mộ Vương
Chiêu Quân, không lẽ cũng không có linh nghiệm hay sao? Vì thế cây hải đường
này cũng ứng vào người đấy.
Nghe một tràng những câu ngớ ngẩn đáng
cười lại đáng buồn, Tập Nhân cười nói:
Cậu càng nói làm cho tôi bực mình! Chị
Tình Văn là hạng người gì mà phải tốn công suy nghĩ, dám đem so sánh với những
danh nhân thuở xưa! Còn một lẽ nữa, chị ấy có đẹp cũng không thể vượt lên trên
tôi được. Tức như cây hải đường cũng phải ứng vào tôi trước, chưa đến lượt chị ấy.
Chắc là tôi sắp chết đây.
Bảo Ngọc nghe xong, vội bịt mồm Tập
Nhân lại, nói:
Một người chưa xong, chị lại đã thế.
Thôi, đừng nhắc đến việc ấy nữa. Ba người đã phải đi rồi, lại định đi thêm một
người nữa sao?
Tập Nhân nghe nói, trong bụng mừng thầm:
“Nếu không nói thế thì không bao giờ xong việc”.
Bảo Ngọc lại nói:
Tôi còn có một việc muốn bàn với chị,
không biết chị có bằng lòng không? Hiện giờ chị ấy còn một ít đồ vật, chỉ giấu
người trên chứ không giấu người dưới. Ta nên lén mang trả cho chị ấy. Ngày thường
chúng ta có dành dụm được ít tiền, chị đưa cho chị ấy mấy quan để dưỡng bệnh.
Đó cũng là tình chị em của các chị xưa nay ăn ở tử tế với nhau.
Tập Nhân cười nói:
Cậu cho tôi là hạng người bủn xỉn
không có lương tâm hay sao? Việc này còn phải nhờ cậu nhắc à? Tôi vừa mới nhặt
quần áo và đồ dùng của chị ấy, để ở kia kìa. Giờ đương ban ngày ban mặt, nhiều
người nhòm ngó, sợ lại sinh chuyện. Chờ đến tối, tôi khẽ bảo già Tống mang đi.
Tôi dành dụm được mấy quan tiền, cũng đưa cả cho chị ấy. Bảo Ngọc nghe nói, gật
đầu. Tập Nhân cười nói:
Lâu nay tôi vẫn nổi tiếng là người hiền
lành nhất, lẽ nào lúc này tôi lại không biết chuốc lấy một tý ti tiếng tốt ấy.
Bảo Ngọc nghe xong, vội cười nói vỗ về
cô ta. Đến tối quả nhiên Tập Nhân sai già Tống mang quần áo và tiền đi. Bảo Ngọc
sắp đặt mọi người đâu vào đấy rồi, một mình lẻn ra cửa ngách sau vườn, nhờ một
bà già đưa đến nhà Tình Văn. Bà già nhất định không nghe, cứ nói:
Sợ có người biết, trình với bà, tôi liệu
còn sống được chăng?
Bảo Ngọc cố sống cố chết nằn nì, lại
cho ít tiền, bà già mới chịu dẫn đi.
Tình Văn trước đây là người của Lại Đại
mua về. Cô ta có người anh con ông cậu tên là Ngô Quý, người ta vẫn gọi là Quý
nhi. Lúc ấy Tình Văn mới có mười tuổi chưa để tóc, già Lại thường đem đi theo.
Giả mẫu thấy Tình Văn vừa đẹp vừa sắc sảo rất mến. Vì thế già Lại dâng cho Giả
mẫu. Sau đưa về hầu Bảo Ngọc, Tình Văn còn bé, không nhớ quê quán cha mẹ ở đâu,
chỉ có người anh con ông cậu, chuyên việc nấu nướng và cũng bị lưu lạc nơi đất
khách quê người. Tình Văn nói với già Lại, cho người anh vào làm việc nấu bếp.
Thấy Tình Văn được đến hầu Giả mẫu, người lại sắc sảo, mồm mép khéo léo, vẫn
không quên tình nghĩa trước đây. Già Lại liền cho người anh cô ta vào làm, lại
gả một cô hầu cho hắn. Ngờ đâu sau khi lấy nhau, anh chàng chỉ biết hưởng thú
vui, quên cả những ngày lưu lạc. Anh ta cứ rượu chè, chẳng nhìn đến vợ con. Cô
vợ là người sắc đẹp đa tình, thấy chồng không nhìn đến, không biết gió trăng là
gì, chỉ suốt ngày say khướt, nên chị ta thường có những câu than vãn mặt ngọc
phôi pha, má hồng quạnh quẽ. Thấy chồng bụng dạ rộng rãi, không chút nghi ky,
ghen tuông, chị ta liền giở lối trăng hoa, đĩ thõa, thu phục hầu hết những tay
“anh hùng hảo hán” trong phủ Giả. Từ trên chí dưới, có tới quá nửa số người được
chị ta thử qua. Vợ chồng này là ai? Tên họ là gì? Đúng là cô “Đa”, vợ chàng “Đa
hồ đồ” mà hồi trên Giả Liễn đã từng vời đến. Có họ hàng với hắn, nên Tình Văn về
ở chung đấy. Lúc này chàng “Đa hồ đồ” đi vắng, cô “Đa” ăn cơm chiều xong, õng ẹo
đi sang hàng xóm tán chuyện, chỉ còn một mình Tình Văn nằm ngủ ở trên chiếc chiếu
cói, may hãy còn chăn đệm cũ trải đắp. Bảo Ngọc không biết nên làm thế nào cho
phải, chạy đến gần, rơm rớm nước mắt, giơ tay nhè nhẹ kéo Tình Văn, khẽ gọi hai
tiếng.
Tình Văn vừa bị cảm gió, lại bị anh chị
hắt hủi, đã ốm lại ốm thêm, ho suốt một ngày, mới mơ mơ màng màng chợp mắt. Chợt
có người gọi, cô ta cố mở mắt ra, thấy Bảo Ngọc đứng đó. Mừng mừng, sợ sợ, tủi
tủi, thương thương, Tình Văn nắm chặt lấy tay Bảo Ngọc, nức nở mãi mới nói:
Tôi tưởng không được gặp cậu nữa.
Rồi lại ho dồn. Bảo Ngọc cũng nức nở
khóc. Tình Văn nói:
A Di Đà Phật! Cậu đến may quá, rót hộ
chén nước chè cho tôi uống. Tôi khát khô cả cổ, không gọi được một mống nào.
Bảo Ngọc nghe nói, gạt nước mắt hỏi:
Nước chè để ở đâu?
Ở trên lò kia kìa.
Bảo Ngọc đến xem, có cái ấm đen xì,
nhưng không phải để pha chè, Bảo Ngọc đành phải lấy một cái bát ở trên bàn,
chưa cầm đến tay đã ngửi thấy tanh tanh mùi mỡ. Bảo Ngọc lấy nước rửa hai lần,
rồi rút khăn lụa của mình ra lau, nhưng vẫn còn mùi tanh. Không biết làm thế
nào, Bảo Ngọc phải cầm ấm lên rót ra nửa bát, nhìn chỉ thấy sắc hoe hoe đỏ, chẳng
giống nước chè tí nào.
Tình Văn ôm gối nói:
Cậu cho tôi uống ngay một ngụm đã!
Chính là nước chè đấy. Ví đâu được với nước chè bên nhà!
Bảo Ngọc uống một ngụm trước, chẳng có
mùi mẽ gì, chỉ thấy mặn chát, không chịu được, đành phải đưa cho Tình Văn. Tình
Văn như được nước móc ngọt vậy, uống hết một hơi.
Bảo Ngọc nghĩ thầm: Trước đây những
trà ngon thế nào, chị ấy vẫn còn chê bai. Bây giờ nhìn quang cảnh này, đúng như
người xưa nói:
Khi no cá thịt dửng dưng,
Đói lòng ăn cả cơm sung cháo dền.
Nghĩ vậy nước mắt lại tràn ra, liền hỏi:
Chị có muốn nói gì không? Nhân lúc vắng
người, nói cho tôi biết.
Tình Văn nức nở nói:
Còn có câu gì đáng nói nữa? Chẳng qua
sống được giờ nào hay giờ ấy, được ngày nào hay ngày ấy! Chỉ độ dăm ba ngày nữa
là tôi chết thôi. Có một điều chưa được thỏa lòng, tôi tuy đẹp hơn người nhưng
không bao giờ ngỏ tình thầm kín, tỏ ý riêng tây để cám dỗ cậu, sao người ta cứ
đổ chết cho tôi là con yêu tinh! Tôi không chịu nổi. Giờ tôi đã bị mang tiếng
hão, vả chăng cũng không được bao lâu nữa, tôi không phải nói câu này để hả giận
cuối cùng, nếu biết trước, tôi đã liệu cách từ lâu. Không ngờ lòng ngay dạ thẳng,
cứ cho là mọi người ở chung với nhau không phải giữ gìn gì, nào hay bỗng dưng xẩy
ra chuyện, mắc oan không được bày tỏ với ai!
Tình Văn nói xong lại khóc. Bảo Ngọc nắm
lấy tay Tình Văn, thấy gầy như que củi, cổ tay vẫn còn đeo mấy cái xuyến bạc,
liền khóc:
Chị hãy tháo ra, khi nào khỏi lại đeo.
Bảo Ngọc tháo mấy chiếc xuyến ra, đặt
xuống dưới gối cho Tình Văn, lại hỏi:
Đáng tiếc cho hai móng tay dài tới hai
tấc. Dù có khỏi bệnh cũng kém vẻ đẹp.
Tình Văn gạt nước mắt, với lấy con dao
cắt đứt hai móng tay tháp bút, sau lại cho tay vào trong chăn, cởi chiếc áo lót
bằng lụa hồng cũ cùng với móng tay đưa cho Bảo Ngọc và nói:
Cậu hãy cầm lấy. Sau này trông thấy vật
này cũng như thấy tôi vậy. Cậu cởi ngay áo của cậu ra cho tôi mặc. Tôi dù có nằm
trong quan tài thì cũng như ở viện Di Hồng. Lẽ ra không nên như thế, nhưng trót
mang tiếng hão, tôi không còn cách nào.
Tình Văn nói xong lại khóc. Bảo Ngọc nắm lấy tay Tình Văn, thấy gầy như que củi, cổ tay vẫn còn đeo mấy cái xuyến bạc, liền khóc ...
Bảo Ngọc nghe nói vội cởi chiếc áo
ngoài ra đổi và giấu những móng tay của Tình Văn vào trong người, Tình Văn lại
khóc:
Khi về, có ai hỏi, cậu đừng nói dối, cứ
bảo là của tôi đấy. Tôi đã trót mang tiếng hão, nên phải làm như vậy.
Chợt chị dâu Tình Văn cười hì hì vén
màn đi vào nói:
Giỏi nhỉ! Hai người trò chuyện với
nhau, tôi nghe thấy cả rồi! Chị ta quay lại nói với Bảo Ngọc: Cậu là chủ nhà,
vào buồng đầy tớ làm gì? Thấy tôi xinh đẹp, cậu định đến đây ghẹo tôi hay sao?
Bảo Ngọc nghe nói, sợ quá, vội cười
van xin:
Chị ơi, xin đừng nói to. Chị ấy lâu
nay hầu hạ tôi, giờ tôi lẻn đến đây thăm chị ấy. Cô “Đa” liền kéo Bảo Ngọc vào
nhà trong, cười nói:
Cậu không muốn tôi kêu thì cũng dễ
thôi, cậu chỉ nghe tôi một điều này.
Nói xong, chị ta ngồi ngay lên trên
giường, kéo Bảo Ngọc vào trong lòng, hai đùi cặp chặt lấy. Bảo Ngọc xưa nay
chưa thấy thế bao giờ, tim đập thình thịch, người thấy rạo rực, cuống quá, mặt
đỏ bừng, vừa thẹn vừa nói:
Chị ơi, đừng đùa thế.
Cô “Đa” lẳng lơ con mắt, cười nói:
Hừ! Ngày thường, nghe nói cậu vẫn quen
sống trong trường trăng gió, sao hôm nay lại nhút nhát thế?
Bảo Ngọc càng đỏ mặt, cười nói:
Chị buông tay ra, có chuyện gì chúng
ta sẽ tử tế nói với nhau, để cho bà già bên ngoài nghe thấy thì còn ra làm sao
nữa?
Cô “Đa” cười nói:
Tôi về đây từ lâu, đã bảo bà già ấy đứng
chờ ở ngoài vườn rồi. Tôi hàng ngày ao ước biết nhường nào, bây giờ mới được gặp,
nhưng đúng như câu: “Nghe tiếng không bằng gặp mặt”. Tôi trông dáng người cậu đẹp
thế này, mà lại là cái xác pháo rỗng ruột, chỉ có cái vẻ thôi, coi chừng nhút
nhát e lệ hơn người ta nhiều. Đủ biết miệng người ta nói có khi không đáng tin.
Như lúc nãy, tôi cứ tưởng chắc chắn hai người ngày thường thế nào cũng thầm vụng
với nhau. Khi tôi đứng ở dưới cửa sổ nghe ngóng một lúc lâu trong nhà chỉ có cậu
với cô ấy, tôi chắc rằng sẽ nói đến nhiều chuyện thậm thụt với nhau. Nhưng xem
ra, thì hai người thật chưa có gì dan díu cả. Thật là ở đời có nhiều sự oan uổng.
Bây giờ tôi rất ăn năn đã ngờ cho cậu. Đã vậy cậu cứ yên tâm, cứ việc đến, tôi
không dám to tiếng.
Bảo Ngọc nghe xong mới yên trong dạ, đứng
dậy xốc lại áo và van xin:
Chị ơi. Bây giờ tôi phải về, mong chị
chăm sóc chị Tình Văn mấy ngày.
Bảo Ngọc trở ra nói với Tình Văn. Hai
người quyến luyến không nỡ rời tay. Tình Văn biết Bảo Ngọc khó dứt ra đi được,
liền kéo chăn đắp kín đầu. Bảo Ngọc mới ra đi. Định lần đến cửa nhà Phương
Quan, ngại vì trời tối quá. Đi được một lúc, sợ có người tìm, lại xảy ra chuyện,
Bảo Ngọc đành phải quay về trong vườn. Đến cửa sau, gặp bọn hầu đương ôm chăn đến.
Các bà già đương kiểm soát người, chậm tí nữa là họ sẽ đóng cửa.
Bảo Ngọc đi vào trong vườn, may không
ai biết, liền về buồng mình, gặp Tập Nhân, nói đổ sang chơi bên Tiết phu nhân,
thế là xong chuyện.
Một lúc dọn giường, Tập Nhân đành phải
hỏi: “Hôm nay ngủ thế nào đây?” Bảo Ngọc nói:
Ngủ thế nào cũng được.
Mấy năm nay Tập Nhân thấy Vương phu
nhân đối đãi tử tế với mình, lại càng làm ra bộ đứng đắn. Những khi vắng người,
hoặc lúc đêm khuya, chị ta không hay đùa cợt với Bảo Ngọc, so với lúc còn bé,
có phần thưa nhạt hơn. Tuy không phải làm việc gì to tát, nhưng những việc vá
may, việc lặt vặt như thu phát tiền nong, sắp xếp áo dài, đồ vật cho Bảo Ngọc
cùng bọn a hoàn nhỏ, cũng rất bận rộn. Vả lại vốn có chứng thổ huyết, nên lâu
nay chị ta không ngủ cùng buồng với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ban đêm hay sợ, khi tỉnh
dậy là phải gọi người ngay. Vì Tình Văn tỉnh ngủ, nên mỗi khi Bảo Ngọc uống nước
hay sai bảo việc gì là gọi đến cô ta. Vì thế Tình Văn ngủ ngay bên giường ngoài
của Bảo Ngọc. Giờ Tình Văn đi rồi, Tập Nhân đành phải mang chăn chiếu của mình
ra đó ngủ.
Đêm ấy Bảo Ngọc cứ ngồi ngẩn ngơ, Tập
Nhân giục mãi mới chịu đi ngủ. Trong khi ngủ, Tập Nhân vẫn thấy Bảo Ngọc trằn
trọc trên gối, thở ngắn, than dài, đến canh ba mới thiu thiu yên giấc. Tập Nhân
lơ mơ cũng yên dạ ngủ đi. Độ chừng chưa uống hết một chén nước, thấy Bảo Ngọc gọi
“Tình Văn”. Tập Nhân hỏi: “Cậu gọi gì?” Bảo Ngọc muốn uống nước. Tập Nhân pha
trà mang đến. Bảo Ngọc thở dài: “Lâu nay tôi quen gọi chị ấy, thành ra quên đi.
Nay lại là chị”.
Tập Nhân cười nói:
Khi chị ấy mới đến, cậu cũng thường nằm
mê gọi tôi, về sau cậu mới gọi chị ấy. Dù sao chị Tình Văn đi rồi, nhưng hai chữ
“Tình Văn” vẫn còn nhớ mãi.
Nói xong hai người lại đi ngủ, Bảo Ngọc
vẫn trằn trọc mãi, đến canh năm mới ngủ được. Bỗng thấy Tình Văn ở ngoài đi
vào, hình dáng vẫn như ngày thường, đến gần Bảo Ngọc nói: “Cậu và chị em ở lại
cho vui vẻ. Từ nay tôi xin từ biệt!” Nói xong quay người đi ngay. Bảo Ngọc gọi ầm
lên, làm Tập Nhân tỉnh dậy. Tập Nhân cứ tưởng là Bảo Ngọc quen tiếng gọi bừa,
nhưng thấy Bảo Ngọc khóc và nói: “Tình Văn chết mất rồi”. Tập Nhân cười nói:
Cậu nói gì thế? Người ta nghe thấy thì
còn ra làm sao nữa?
Bảo Ngọc vẫn không nghe, muốn trời
sáng ngay để sai người đi hỏi tin.
Khi trời sáng, có a hoàn nhỏ hầu bên
Vương phu nhân đến gọi mở cửa ngách, truyền lời Vương phu nhân: “Gọi cậu Bảo Ngọc
dậy ngay, rửa mặt thay quần áo. Vì hôm nay có người mời ông đi thưởng cúc. Hôm
nọ ông thích thơ của cậu, nên muốn cho các cậu đi theo. Lời bà bảo thế, các người
phải giục cậu ấy đi ngay, ông ở nhà trên đương chờ các cậu đến ăn miến đấy. Cậu
Hoàn đã đến rồi. Đi ngay đi thôi, và cho người đi gọi ngay cậu Lan, cũng nói với
cậu ấy như thế”.
Bà già ở trong nhà nghe câu nào vâng
câu ấy, vừa cài khuy áo vừa ra mở cửa. Rồi ba, bốn người nữa cũng vừa cài khuy
áo, vừa chia nhau đi các nơi.
Tập Nhân nghe tiếng gõ cửa, biết là có
việc, liền sai người đi lấy nước, giục Bảo Ngọc dậy rửa mặt gội đầu và tự mình
đi lấy quần áo. Tập Nhân nghĩ rằng Bảo Ngọc theo hầu Giả Chính đi chơi, nên
không tiện cho mặc quần áo mới lắm, chỉ chọn quần áo hạng vừa thôi.
Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành
phải vội vàng đi đến. Quả nhiên Giả Chính đang ngồi ở đó uống nước, rất đỗi vui
vẻ. Bảo Ngọc vào hỏi thăm sức khỏe Giả Chính. Giả Hoàn, Giả Lan cùng chạy lại
chào Bảo Ngọc. Giả Chính cho Bảo Ngọc ngồi uống nước, rồi bảo Giả Hoàn và Giả
Lan:
Bảo Ngọc học thì kém hai đứa chúng
bay, nhưng có tài làm câu đối và làm thơ. Hôm nay đi chơi, chắc họ sẽ bảo chúng
bay làm thơ, Bảo Ngọc liệu cách giúp đỡ hai đứa.
Xưa nay Vương phu nhân chưa từng nghe
thấy Giả Chính nói những lời như thế, thực sự là vui mừng bất ngờ. Chờ cha con
họ đi rồi, bà ta muốn sang bên Giả mẫu, thì có người mẹ nuôi của Phương Quan đến
trình: “Phương Quan từ hôm nhờ ơn bà cho ra ngoài, nó hình như điên, không ăn uống
gì cả. Nó lôi kéo cả Ngẫu Quan và Nhụy Quan, nhất sống nhị chết, chỉ muốn cắt
tóc đi tu. Chúng tôi cứ tưởng là bọn trẻ con lúc đầu sống chưa quen, ít ngày rồi
sẽ đâu vào đấy. Ngờ đâu chúng nó càng ngày càng làm dữ, đánh mắng cũng không sợ.
Chúng tôi không có cách gì, nên đến đây trình bà, hoặc cho chúng nó đi tu hoặc
là dạy bảo chúng nó ít bữa rồi đem cho người ta làm con nuôi. Chúng tôi thực là
kém phúc”.
Vương phu nhân nói:
Sao các bà nói nhảm thế! Lẽ nào lại
tùy ý chúng nó được. Cửa Phật có dễ dàng vào được đâu? Cứ đánh mỗi đứa một trận
xem chúng nó có dám hỗn nữa hay không.
Bấy giờ đang chầu rằm tháng tám, các
miếu đều làm lễ, nên các sư cô mang đồ cúng đến biếu. Sư Trí Thông ở am Thủy
Nguyệt và sư Viên Tâm ở am Địa Tạng còn ở lại chưa về. Nghe thấy tin này, họ muốn
dỗ dành hai đứa con gái về để sai bảo, liền thưa với Vương phu nhân:
Phủ ta vốn là nhà từ thiện. Bà lại rủ
lòng nhân từ, nên các cô bé mới được như vậy. Tuy nói là “Cửa Phật khó tới”
nhưng cũng nên biết là “Phật pháp bình đẳng”. Đức Phật chúng ta chỉ muốn siêu độ
cho tất cả chúng sinh, cả từ con gà con chó. Khốn nỗi người ta thường hay u mê
không tỉnh. Ai có thiện căn biết tỉnh ngộ, sẽ được thoát kiếp luân hồi, cho nên
trong kinh Phật, giống hùm beo rắn rết đắc đạo cũng không phải là ít. Giờ ba cô
này không có bố mẹ, lại xa quê hương, đã trải qua nơi phú quý, nhưng vì chịu khổ
sở từ lúc bé, không may rơi vào nơi phong trần, chưa biết cuộc đời sau này sẽ
ra sao? Nên họ muốn “thoát nơi bể khổ” nhất định xuất gia đi tu, cũng là điều
biết nghĩ xa đấy. Bà không nên ngăn cản lòng tốt của họ.
Vương phu nhân vốn là người từ thiện,
lúc đầu nghe các bà già nói, cho là bọn Phương Quan hãy còn bé, có điều gì chưa
hài lòng, nếu đi tu sợ không chịu nổi cảnh thiền tịch mịch, lại đâm mang tội.
Giờ nghe thấy hai mẹ mìn này nói cũng hợp tình hợp lý, vả lại, gần đây trong
nhà xảy ra nhiều chuyện, Hình phu nhân lại sai người đến nói, ngày mai đón
Nghênh Xuân về ở nhà mấy ngày để cho người ta đến xem mặt. Lại còn có bà mối đến
nói việc Thám Xuân. Mọi việc đều chồng chất trong lòng, thì còn để ý gì đến
chuyện nhỏ mọn này nữa. Bà ta liền cười trả lời:
Hai sư cô đã nói như vậy, thì cứ cho
mang chúng về làm đồ đệ có được không? Hai cô niệm phật rồi nói:
Phúc đức quá! Phúc đức quá! Nếu được
thế thì âm công của người rất lớn. Nói xong họ cúi đầu tạ ơn.
Vương phu nhân nói:
Đã thế thì các cô đến hỏi chúng xem. Nếu
quả thực bụng đi tu, thì chúng phải đến trước mặt ta lạy các cô làm sư phụ.
Ba người mẹ nuôi nghe xong, ra dẫn ba
đứa kia vào. Vương phu nhân hỏi đi hỏi lại, ba đứa này đều đã quyết tâm, liền
cúi lạy sư cô, lại lạy tạ Vương phu nhân. Vương phu nhân thấy chúng quyết tâm
như thế, biết là không thể ép được, đâm ra thương xót, liền sai người đi lấy một
ít đồ vật thưởng cho chúng và đưa hai sư cô ít lễ vật. Từ đấy Phương Quan theo
Trí Thông về am Thủy Nguyệt, Nhụy Quan và Ngẫu Quan theo Viên Tâm về am Địa Tạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét