Tranh màu minh họa "Hồng Lâu Mộng" của Tôn Ôn đời nhà Thanh |
Hồi 75.
Mở
tiệc đêm khuya, điềm lạ vẳng nghe tiếng thảm;
Thưởng trăng tháng tám,
lời nói thành câu sấm hay.
Vưu thị tức giận đi ra, định đến thăm Vương phu nhân,
nhưng các bà già theo hầu khẽ nói:
Thưa mợ, không nên đến đó vội. Vừa rồi có mấy người nhà họ Chân đến, có mang theo ít đồ đạc, không biết là việc gì giấu kín. Mợ vào sợ không tiện chăng?
Hôm nọ thấy ông nhà nói: xem trong giấy báo, thấy nói nhà
họ Chân phạm tội, hiện đương bị tịch biên gia sản và triệu về Kinh trị tội. Sao
lại còn có người đến nữa?
Đúng đấy. Mấy người đàn bà mới đến, mặt cắt không còn giọt
máu, hớt hơ hớt hải, chắc là có việc gì phải giấu chăng.
Vưu thị nghe nói, không đến nữa, quay vào nhà Lý Hoàn, gặp
lúc thầy thuốc đến xem mạch xong. Mấy hôm nay Lý Hoàn đã tỉnh táo, ôm chăn tựa
gối ngồi trở trên giường, đương muốn có người đến chơi để nói chuyện phiếm. Thấy
Vưu thị đi vào, không được tươi tỉnh như lúc nãy, cứ ngồi thừ ra, Lý Hoàn hỏi:
Chị đến đấy à, đã ăn gì chưa? Chắc đói rồi thì phải.
Liền gọi Tố Vân: Xem có thứ điểm tâm gì mới đem đến đây.
Vưu thị ngăn lại nói: Không cần, không cần. Thím đau ốm
luôn, làm gì có thức ăn mới? Tôi cũng không đói.
Hôm trước có người biếu ít chè rất ngon. Tôi bảo nó pha một
bát chị uống nhé. Nói xong sai đi pha.
Vưu thị ngồi ngẩn ra không nói gì. Bọn a hoàn và đàn bà
theo hầu hỏi:
Hôm nay trưa rồi, mợ chưa rửa mặt. Giờ nhân tiện mợ rửa
nhé!
Vưu thị gật đầu. Lý Hoàn sai Tố Vân đi lấy hộp trang điểm
của mình ra. Tố Vân lại mang phấn của nó ra cười, nói:
Mợ cháu không có cái này, nếu mợ không chê bẩn xin dùng tạm
một chút. Lý Hoàn nói:
Ta không có, mày cũng nên đến chỗ các cô mà lấy, sao lại
tự tiện lấy của mày ra. May là chị ấy đấy, phải người khác, lại không giận à?
Vưu thị cười nói: Có can gì việc ấy? Ta đến đây luôn, của
ai mà chả dùng. Bây giờ còn sợ gì bẩn nữa.
Nói rồi ngồi xếp bằng trên bục, con Ngân Điệp chạy lại
tháo vòng tay và nhẫn, lấy cái khăn lớn che nửa người cho nước khỏi bắn vào quần
áo. A hoàn nhỏ là Sao Đậu bưng nước nóng lên. Đến trước mặt Vưu thị, nó chỉ
khom lưng xuống bưng chậu nước.
Ngân Điệp cười nói:
Mày chẳng tinh ý tý nào. Nói gà ra cáo. Mợ đối xử rộng
rãi với chúng ta, muốn sao được thế, mày đâm nhờn quen. Ra ngoài, trước mặt mọi
người, mày cũng làm qua loa cho xong chuyện à?
Vưu thị nói:
Mày mặc nó. Ta rửa xong thì thôi. Tất cả lớn bé trong nhà
chúng ta, chỉ biết bề ngoài, giả cách lễ phép đấy thôi, rút cuộc việc gì cũng
muốn làm cho xong chuyện.
Lý Hoàn nghe thấy thế, biết ngay chị ta đã biết chuyện
đêm qua, liền cười nói:
Câu nói của chị có ý nhị đấy. Thế thì ai làm việc cho
xong chuyện. Vưu thị nói:
Thím lại còn hỏi tôi, có họa thím ốm chết rồi hay sao mà
không biết. Chợt có người vào báo: Cô Bảo đến chơi.
Hai người đều nói: Mời vào!
Bảo Thoa đi vào. Vưu thị vội lau mặt, đứng dậy mời ngồi,
hỏi:
Sao tự nhiên lại một mình cô đến. Các chị em khác đâu cả?
Đúng đấy, tôi cũng không gặp họ. Hôm nay mẹ tôi yếu,
trong nhà có hai người hầu gái đều ốm chưa khỏi, những người khác thì không tin
cậy được. Đêm hôm nay tôi phải sang bên ấy trông nom mẹ tôi. Tôi định đến trình
cụ và dì tôi, nhưng nghĩ việc này cũng chẳng quan hệ gì, nên thôi không nói, đợi
mẹ tôi khỏi thế nào tôi sẽ lại sang. Vì thế tôi sang nói để chị biết.
Lý Hoàn nghe nói, nhìn Vưu thị. Hai người cùng cười.
Một lúc, Vưu thị rửa mặt chải đầu xong, mọi người uống
trà. Lý Hoàn cười nói với Bảo Thoa:
Tôi sẽ sai người sang hỏi thăm bà dì, xem người yếu ra
làm sao. Tôi cũng đương ốm, không thể sang tận nơi hỏi thăm được. Cô cứ việc
đi, tôi sẽ sai người sang trông nhà hộ. Một vài hôm, thế nào cô cũng về, đừng để
tôi phải mang lỗi đấy.
Bảo Thoa cười nói:
Việc gì mà chị mang lỗi? Đó là thường tình của người ta,
chị có phải thả bọn trộm cướp ra đâu. Cứ ý tôi, chị cũng không phải cất thêm
người sang nữa, cứ mời cô Vân về đây ở với chị vài ngày, lại chẳng đỡ việc hay
sao?
Vưu thị nói: Cô Vân bây giờ đi đâu?
Bảo Thoa nói: Tôi vừa bảo bọn họ đi mời cô Thám Xuân cùng
đến đây luôn. Tôi cũng sẽ nói rõ với cô ấy.
Đương nói thì có người báo: Cô Vân và cô Ba đã đến.
Mọi người mời nhau ngồi xong, Bảo Thoa nói đến việc mình
phải ra ngoài ở. Thám Xuân nói:
Hay lắm. Dì khỏi sẽ trở lại, hoặc không trở lại cũng chẳng
sao. Vưu thị cười nói: Nói mới lạ chứ? Sao lại đuổi cả bà con đi?
Thám Xuân cười nhạt:
Đúng đấy. Rồi thế nào cũng có người đuổi, chị để tôi đuổi
trước đi! Chỗ bà con với nhau, không cần phải ở rịt với nhau một chỗ mới là tử
tế. Chúng ta là chỗ bà con thân thiết đấy, nhưng ai mà chẳng như giống gà đen mắt,
chỉ chực nuốt sống nhau thôi.
Vưu thị cười nói:
Hôm nay sao tôi đen đủi thế? Đi đến chỗ nào cũng đụng phải
chị em các cô cáu gắt. Thám Xuân nói:
Ai bảo chị đâm đầu vào bếp lửa làm gì? Lại hỏi luôn: Ai
đã mắc lỗi với chị thế. Cô Tư chắc không khi nào gây chuyện với chị. Thế là ai
chứ?
Vưu thị cứ ậm ừ trả lời cho qua.
Thám Xuân biết là Vưu thị sợ sinh chuyện, không dám nói
nhiều, liền cười nói:
Chị đừng làm bộ thực thà nữa. Trừ khi triều đình trị tội,
ngoài ra không ai chém được đầu mình. Chị không cần phải sợ rụt đầu rụt cổ như
thế. Tôi nói cho chị nghe này: hôm qua tôi vừa mới đánh con vợ thằng Vương Thiện
Bảo, vẫn còn mắc tội đấy. Nhưng dù sao họ cũng chỉ nói vụng khi vắng mặt tôi
thôi, chẳng lẽ lại lôi tôi ra đánh à?
Bảo Thoa hỏi: Tại sao lại đánh mụ ta?
Thám Xuân kể lại đầu đuôi sự việc đêm qua. Vưu thị thấy
Thám Xuân nói ra hết, cũng đem việc lúc nãy của Tích Xuân ra nói. Thám Xuân
nói:
Tính khí cô ta xưa nay vẫn kiêu kỳ quá, chúng tôi không
thể địch với nó được. Rồi lại nói với mọi người: Hôm nay chẳng thấy động tĩnh
gì, hỏi ra thì chị Phượng lại ốm. Tôi sai người đi các nơi dò xét xem tình hình
vợ Vương Thiện Bảo. Trở về họ trình rằng: mụ ta bị một trận đòn rồi bị mắng là
hay sinh chuyện.
Vưu thị, Lý Hoàn đều nói: Có thế mới được. Thám Xuân cười
nhạt:
Cách che mắt người ta như thế, ai chẳng biết làm? Hãy chờ
xem sao.
Vưu thị và Lý Hoàn ngồi im không nói gì. Một lúc, bọn a
hoàn vào mời đi ăn cơm. Tương Vân và Bảo Thoa về nhà sắp xếp quần áo.
Vưu thị cáo từ Lý Hoàn sang bên Giả mẫu. Giả mẫu còn nằm
trên giường. Vương phu nhân đương kể lại việc nhà họ Chân vì sao bị tội, hiện
giờ đã bị tịch biên gia sản, và giải về kinh trị tội. Giả mẫu nghe nói, trong bụng
rất là khó chịu. Thấy Vưu thị đến, liền hỏi:
Chị ở đâu đến đây? Không biết chị em con Phượng ốm, giờ
đã khỏi chưa? Vưu thị vội trình:
Hôm nay đều đã đỡ rồi. Giả mẫu gật đầu thở dài:
Chúng ta đừng bàn tán việc nhà người ta nữa, hãy bàn việc
thưởng trăng rằm tháng tám đi.
Vương phu nhân cười nói:
Đã sắp sẵn cả rồi, nhưng không biết cụ định chọn chỗ nào
cho đẹp? Chỉ sợ ở trong vườn đêm khuya gió lạnh thôi.
Giả mẫu cười nói:
Mặc nhiều áo vào thì sợ gì? Ở đó mới là chỗ thưởng trăng,
sao lại không ra đó chơi? Trong lúc nói chuyện, bọn đàn bà khênh bàn ăn đến.
Vương phu nhân và Vưu thị vội đến so đũa xới cơm. Giả mẫu thấy mấy món ăn của
mình đã bầy đủ rồi, lại còn có hai hộp lớn, đựng mấy món ăn nữa, đó là lệ cũ,
các phòng dâng thêm thức ăn. Giả mẫu nói:
Ta đã bảo nhiều lần, bỏ lệ này đi, các chị vẫn không
nghe. Giờ có được như trước nữa đâu.
Uyên Ương cười nói:
Cháu cũng đã nói nhiều lần. Chẳng ai nghe cả, nên đành phải
chịu. Vương phu nhân cười nói:
Chỉ là những đồ ăn thường thôi. Hôm nay con ăn chay,
không có món gì đem dâng cụ, miến và đậu phụ thì cụ lại không thích dùng, nên
chỉ mang đến một món rau dút, dưa chua ngâm dấm và tương ớt.
Giả mẫu cười nói:
Ta lại thích ăn món ấy.
Uyên Ương nghe nói đưa đĩa rau ra bày ở trước mặt Bảo Cầm,
mời đủ mọi người, rồi mới ngồi xuống. Giả mẫu bảo Thám Xuân cùng ngồi xuống ăn.
Thám Xuân cũng mời khắp lượt, rồi mới ngồi đối diện với Bảo
Cầm. Thị Thư vội đi lấy bát đũa. Uyên Ương lại trỏ mấy món ăn nói:
Hai món này không hiểu là món gì, bên ông Cả mang biếu đấy.
Bát này là măng nấu với tủy gà, đó là của ông ở nhà ngoài đem đến biếu.
Giả mẫu nếm qua mấy miếng rồi bảo người mang những món ấy
về, nói rằng “ta đã ăn rồi, từ nay không cần phải ngày nào cũng mang đến biếu.
Ta muốn ăn thứ gì, tự khắc cho người đến lấy”. Bọn đàn bà vâng lời mang ra.
Giả mẫu lại bảo:
Mang cháo lên đây ăn một ít vậy.
Vưu thị bưng một bát đến, nói là cháo gạo cẩm. Giả mẫu cầm
lấy ăn nửa bát, rồi bảo:
Đem bát cháo cho cháu Phượng ăn.
Lại sai đem bát măng và quả chua cho Đại Ngọc và Bảo Ngọc
ăn. Bát thịt này thì cho chắt Lan. Rồi nói với Vưu thị:
Ta đã ăn rồi, chị cũng ăn đi thôi.
Vưu thị vâng lời, chờ Giả mẫu súc miệng rửa tay xong, xuống
đất đi dạo, nói chuyện với Vương phu nhân, mới xin phép ngồi ăn. Thám Xuân, Bảo
Cầm đứng dậy cười nói:
Chúng em xin thất lễ chị. Vưu thị cười nói:
Chỉ còn một mình tôi ngồi ăn cỗ to không quen.
Giả mẫu bảo Uyên Ương, Hổ Phách đến tiếp, Vưu thị nói:
Đúng! Đúng! Cháu cũng đang định nói. Giả mẫu cười nói:
Nhiều người ăn càng vui. Nhân trỏ Ngân Điệp: Con bé này
khá, lại đây ngồi ăn với chủ mày một thể. Bao giờ chúng bay xa ta, lúc ấy lại sẽ
có khuôn phép.
Vưu thị nói: Em lại đây mau, đừng giả vờ nữa.
Giả mẫu chống tay đứng xem, thấy người mang cơm đến cho
Vưu thị vẫn cơm gạo thường, liền hỏi:
Mày mê à? Sao lại lấy thứ cơm ấy cho mợ mày? Người kia
thưa:
Cơm của cụ hết rồi. Hôm nay thêm một cô, nên thiếu. Uyên
Ương nói:
Từ nay đều phải “đo đầu mà làm mũ”, không thể để thừa một
tí gì. Vương phu nhân nói:
Mấy năm nay hạn lụt thất thường, gạo ở trại không nộp đủ
số. Mấy thứ gạo ngon lại càng khó khăn lắm, nên đều nấu đủ ăn thôi, sợ một mai
thiếu không mua đâu ra.
Giả mẫu cười nói: Phải đấy. Đàn bà khôn khéo không có gạo
cũng không nấu được thành cháo.
Mọi người đều cười. Uyên Ương quay lại bảo bọn đàn bà hầu
ở cửa ngoài:
Đã thế, các chị đi lấy thêm phần cơm của cô Ba lại đây
cũng vậy. Vưu thị cười nói:
Tôi ăn từng này đủ rồi, không cần phải đi lấy nữa. Uyên
Ương nói:
Mợ ăn đủ rồi, còn tôi không biết ăn à?
Bọn đàn bà nghe nói, vội đi lấy ngay. Một lúc Vương phu
nhân cũng đi ăn cơm. Vưu thị thì ngồi hầu chuyện Giả mẫu sang đầu canh một. Giả
mẫu nói:
Trời tối rồi, chị cũng về đi thôi.
Vưu thị cáo từ ra về. Đến ngoài cửa thứ hai, lên xe. Ngân
Điệp ngồi bên cạnh. Bọn đàn bà bỏ rèm xuống, rồi dẫn lũ hầu nhỏ kéo ra trước, đứng
chực ở cửa chính bên kia.
Vì cổng hai phủ chỉ cách nhau một quãng đường, hàng ngày
đi lại luôn, không cần phải sắp sẵn gì cả. Vả lại, giữa lúc đêm tối, người qua
lại tấp nập, nên các bà già chỉ dẫn lũ a hoàn nhỏ, đi mấy bước là sang ngay. Những
người đứng ở hai cổng, ngăn không cho ai qua lại. Xe Vưu thị không cần phải
đóng ngựa, chỉ sai bảy tám đứa đẩy là nhẹ nhàng đến ngay bậc hè.
Tới nơi, những người đẩy xe lùi ra ngoài con sư tử đá,
các bà già vén rèm lên. Ngân Điệp xuống trước dắt Vưu thị. Bảy tám đứa lớn nhỏ
cầm đèn lồng soi sáng rõ như ban ngày.
Vưu thị thấy bốn, năm cái xe lớn đỗ dưới hai con sư tử,
biết ngay là những người đến đánh bạc, liền bảo Ngân Điệp:
Mày xem đấy, có ngần ấy người ngồi xe thôi, không biết
bao nhiêu người cưỡi ngựa nữa. Vì họ buộc ngựa vào chuồng cả, nên ta không
trông thấy. Không biết các bà vợ đã bỏ ra bao nhiêu tiền cho họ chơi cái món ma
mãnh này.
Nói xong đến nhà khách. Vợ Giả Dung dẫn bọn đàn bà và a
hoàn cầm đuốc ra đón. Vưu thị cười nói:
Ngày thường ta muốn rình xem họ đánh bạc thế nào, nhưng
chưa có dịp. Hôm nay nhân tiện ta đến gần cửa sổ xem sao.
Bọn đàn bà vâng lời, cầm đèn dẫn đường. Lại sai một người
đến trước, khẽ bảo những tên hầu nhỏ ở đấy không được nhớn nhác sợ sệt. Rồi cả
bọn Vưu thị khe khẽ đến dưới cửa sổ nghe những tiếng “tam”, “tứ” reo ầm ĩ, xen
lẫn “ngũ”, “lục” cáu gắt om sòm.
Giả Trân lâu nay có tang, không được đi chơi, cũng không
cả nghe đàn nghe hát, lòng rất trống trải, nên tìm cách để giải buồn. Ban ngày
thì hắn mượn cớ tập bắn, mời mấy vị con nhà thế gia cùng các bạn bè giàu có đến
bắn thi. Rồi nói đổ là nếu bắn bừa cũng vô ích, không những không giỏi, lại đâm
hỏng kiểu; phải lập lệ thưởng phạt, đặt cược đánh đố, mọi người mới chịu cố gắng.
Hắn bèn dựng một cái bia ở giữa đường thẳng dưới lầu Thiên Hương, hẹn nhau mỗi
ngày sau bữa cơm sáng đến đó bắn bia. Giả Trân không tiện ra mặt, cho Giả Dung
đứng làm chủ chứa. Đám này đều là hạng trẻ tuổi, lại con nhà giàu quen lối sống
phóng túng, chỉ lo những việc chó săn gà chọi, hỏi liễu tìm hoa. Vì thế họ bàn
nhau, mỗi ngày thay phiên thết nhau một bữa cơm chiều. Ngày nào cũng giết lợn
giết dê, mổ gà mổ vịt chẳng khác gì thi của báu ở đất “Lâm Đồng”123 ai
cũng khoe khoang nhà mình có đầu bếp giỏi và nấu nướng khéo.
Chưa đầy nửa tháng, Giả Xá, Giả Chính nghe thấy, nhưng
không biết rõ ẩn tình bên trong, lại nói:
Như thế mới phải, văn đã kém tất phải tập võ, huống chi
mình lại là dòng dõi con nhà quan võ nữa.
Rồi bảo Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Lan, cứ sau bữa
cơm, phải đến tập bắn với Giả Trân một lúc mới được về.
Giả Trân không phải chú ý vào việc này, tập bắn được vài
ngày, dần dần mượn cớ nghỉ bắn để dưỡng sức, rồi cứ đến buổi tối lại giở trò
bài bạc, ai thua phải thết rượu; sau dần đánh bằng tiền. Ròng rã ba bốn tháng
trời, hắn công nhiên đánh bài lá, gieo xúc xắc, tung tiền đầu. Người nhà cũng
nhờ đó kiếm được tý chút. Vì họ chỉ mong được như thế, nên trở thành sòng bạc.
Người ngoài đều không ai biết cả.
Gần đây, em ruột Hình phu nhân là Hình Đức Toàn rất mê
đánh bạc. Hắn cũng ở trong cuộc. Lại có Tiết Bàn là người thích cúng tiền cho
người nhất, lẽ nào không hăng say. Hình Đức Toàn tuy là em ruột Hình phu nhân,
nhưng ý nghĩ và việc làm lại khác hẳn. Hắn chỉ biết rượu chè cờ bạc, đắm liễu
say hoa, tiêu tiền bừa bãi, đối với mọi người, coi ai cũng như ai. Thấy thế, những
kẻ nghiện rượu thì thích, nhưng người không nghiện thì không hay gần gụi. Hắn bất
chấp trên dưới hay thầy trò, đều như nhau cả, không phân biệt là sang hay
hèn, vì thế ai cũng gọi hắn là “cậu Cả ngốc”. Tiết Bàn cũng là “anh chàng ngốc”
có tiếng. Nay hai người cùng ở một chỗ, đều thích sát phạt nhau, nên họ họp
riêng, đánh ở trên giường phía ngoài. Ngay đấy lại có mấy người đánh cá ngựa ở
trên cái bàn lớn. Trong nhà thì có một bọn chơi hơi nhã hơn, cùng nhau đánh mạt
chược và bài cẩu124. Bọn hầu nhỏ phục dịch ở đây, đều là trẻ
con dưới 15 tuổi. Người lớn không được vào.
Vưu thị lẻn đến cửa sổ nhìn trộm, thấy trong đó có hai đứa
trẻ con hầu rượu, chừng mười sáu mười bảy cũng đều son phấn trang điểm lòe loẹt
như hoa như gấm vậy. Tiết Bàn đánh thua, trong bụng đương khó chịu, sau gỡ lại
được, trừ bỏ hồ rồi, còn được một ít, hắn lấy làm vui sướng lắm. Giả Trân nói:
Hãy nghỉ tay, đi ăn đã rồi sẽ đánh. Còn hai bàn kia thì
sao?
Bàn đánh bài cẩu cũng đi ăn, chỉ còn bàn đánh cá ngựa là
đương giở cuộc chưa ăn được, nên bày một bàn sẵn. Hắn sai Giả Dung đợi tiếp bàn
sau. Ngay đấy Giả Trân ngồi tiếp. Tiết Bàn hứng lên ôm một đứa hầu bé ngồi uống
rượu, rồi sai nó mang rượu mời “cậu Cả ngốc”.
Cả Ngốc đương thua, không còn bụng dạ nào nữa, mới uống
hai chén đã thấy say, liền cáu mắng đứa hầu rượu:
Chỉ biết xoắn xuýt với người được, không để ý đến người
thua. Hạng nhãi con chúng bay chuyên việc hầu hạ, ngày nào cũng ở đây, thì ai
mà chúng bay không được nhờ ơn? Bây giờ ta mới thua có mấy lạng bạc, chúng bay đã
ra vẻ nhìn người ba bảy đứng rồi. Chẳng lẽ từ nay trở đi, chúng bay không có việc
gì nhờ đến tao nữa hay sao?
Mọi người thấy hắn đã chếnh choáng say, đều nói:
Đúng! Đúng! Quả thật chúng nó vẫn quen cái thói ấy. Rồi mắng
hai đứa kia:
Còn không đi rót rượu xin lỗi à?
Hai đứa hầu nhỏ giở ngay trò ra. Chúng quỳ xuống dâng rượu
nói:
Chúng cháu là người hàng họ. Thầy chúng cháu thường dạy:
Không kể xa gần thân sơ, cứ xem người có tiền thì xoắn xuýt lấy như ông tiên
trên trời. Khi tiền hết, thì bỏ đấy không cần nhìn đến. Vả lại chúng cháu còn
ít tuổi chưa quen làm cái nghề này. Xin ông rộng lượng tha cho chúng cháu.
Cậu Hình nghe vậy, lòng dịu hẳn đi, nhưng vẫn làm ra vẻ
thịnh nộ, không nhìn đến. Mọi người thấy vậy lại khuyên:
Chúng nó trẻ con nói thực đấy. Cậu vẫn quen thương hương
tiếc ngọc, sao hôm nay lại như vậy? Cậu không uống, khi nào chúng dám đứng lên.
Cậu Hình nói:
Nếu các vị không khuyên giải, tôi sẽ không nhìn đến chúng
nữa.
Rồi cậu ta uống một hơi cạn chén. Sau lại rót một bát nữa.
Rượu vào, nhớ đến chuyện cũ, cậu Hình mới thổ lộ chân tình, đập bàn nói với Giả
Trân:
Chẳng trách chúng coi tiền hơn hết. Bao nhiêu con nhà đại
gia sang trọng, đụng đến tiền, dù anh em ruột thịt cũng xa nhau. Cháu ơi! Hôm
qua tôi cãi nhau với bà thím nhà cháu, cháu có biết không?
Cháu không nghe thấy! Hắn ta thở dài:
Cũng chỉ vì tiền thôi! Ghê lắm!
Giả Trân biết hắn giận nhau với Hình phu nhân, nên mỗi
khi bị Hình phu nhân ruồng bỏ, là hắn lại điều nọ tiếng kia, nhân khuyên:
Thưa cậu, cậu cũng hay phung phí quá, nếu cứ để mặc cậu
thì bao nhiêu tiền cậu tiêu cũng hết.
Cháu ơi, cháu chưa biết tình cảnh nhà họ Hình chúng ta.
Khi bà cụ mất, ta còn bé, chưa biết gì. Có ba chị em gái, thì bà thím anh là cả,
khi bà ấy đi lấy chồng, mang hết cả của cải trong nhà đi. Giờ dì hai cũng đi lấy
chồng rồi, nhưng cũng túng thiếu. Dì ba còn ở nhà. Tất cả những tiền bạc chi
tiêu, đều do người hầu thân là vợ Vương Thiện Bảo nắm giữ. Ta có đến lấy ít tiền
tiêu cũng không phải là lấy của nhà họ Giả. Tiền của nhà họ Hình cũng đủ cho ta
tiêu, nhưng không ngờ lại chẳng được đồng nào! Thật không biết giãi tỏ với ai
cho hết nỗi bực được!
Giả Trân thấy hắn say rượu nói lôi thôi, sợ người ngoài
nghe thấy không tiện, liền tìm lời khuyên ngăn.
Vưu thị đứng ngoài nghe thấy mồn một, khẽ cười bảo Ngân
Điệp:
Mày nghe đấy. Đó là cậu em của bà Cả bên phủ bắc đang bực
bội với bà ta đấy. Chị em ruột mà còn thế, trách sao được những người ngoài.
Vưu thị muốn nghe nữa, gặp lúc những người đánh “cá ngựa”
nghỉ để uống rượu. Có người hỏi: “Vừa rồi người nào có lỗi với ông cậu thế?
Chúng tôi không nghe rõ. Hãy nói lại xem ai phải ai trái?” Hình Đức Toàn kể lại
việc hai đứa bé không chịu nhìn ngó đến mình, mà cứ xoắn xuýt với người được bạc.
Người kia liền tiếp:
Tức thật! Không trách ông cậu nổi giận là phải. Tao hỏi
chúng mày: ông cậu chẳng qua mới chỉ thua mất mấy đồng tiền, chứ có thua mất cả
cái “con c…” của ông ấy đâu. Tại sao chúng bay lại lờ ông ấy đi?
Cả bọn nghe vậy đều cười ầm lên. Hình Đức Toàn cũng cười
sặc cả cơm ra. Vưu thị đứng ngoài nghe vậy hậm hực khẽ mắng:
Mày nghe xem, cái bọn chết đâm vô liêm sỉ ấy! Vừa bỏ
xương đầu, đã ngậm ngay lông đít. Còn nốc rượu vào, chưa biết họ còn thở ra bao
nhiêu câu đểu nữa cơ!
Liền về nhà cởi đồ trang sức đi ngủ.
Đến canh tư, đám bạc mới tan. Giả Trân vào buồng Bội Phượng.
Hôm sau trở dậy, có người vào trình: Dưa và bánh dẻo đã sắp đủ cả, chúng con chờ
lệnh ông cho biếu các nơi.
Giả Trân dặn Bội Phượng: “Em nói với mợ sai người đi biếu.
Ta còn bận việc khác”. Bội Phượng vâng lời đi trình Vưu thị, rồi sai người đi
biếu.
Sau đó Bội Phượng lại đến nói:
Cậu hỏi mợ hôm nay có đi chơi đâu không? Cậu nói nhà ta
đương có tang, không nên ăn tết ngày rằm, nhưng tối hôm nay thì được. Chúng ta
có thể ăn dưa, uống rượu vui chơi qua loa.
Vưu thị nói:
Ta cũng không muốn đi đâu! Nhưng bên kia mợ Cả lại ốm, mợ
Hai cũng chưa dậy được, nếu ta không đi thì không có ai. Hơn nữa, chẳng ai rỗi
cả thì vui cái gì.
Cậu bảo hôm nay đã từ chối mọi người rồi, đến mười sáu họ
mới đến, và mời mợ đến uống rượu.
Mời ta, ta chẳng có cỗ đâu mà mời lại. Bội Phượng cười rồi
đi, một lúc lại đến nói:
Mời mợ đến ăn cả bữa cơm chiều nay. Thế nào mợ cũng phải
về sớm. Cậu lại bảo tôi đi hầu mợ nữa.
Đã thế thì ăn cơm sớm rồi đi.
Cậu bảo là cơm sáng cậu ăn ở ngoài kia, xin mời mợ cứ ăn
đi.
Hôm nay ngoài kia có ai?
Nghe nói có hai người ở Nam Kinh mới đến, không biết là
ai.
Đang nói chuyện thì vợ Giả Dung chải đầu, thay quần áo
xong, cũng đến đó. Một lát, cơm bưng lên, Vưu thị ngồi trên, vợ Giả Dung ngồi
dưới, hai mẹ con cùng ăn; ăn xong, Vưu thị thay quần áo đi sang bên phủ Vinh, đến
chiều mới về.
Quả nhiên Giả Trân giết một con lợn, thui một con dê, sắp
một bàn các thứ rau quả, bày ở Tùng Lục đường trong vườn Hội Phương, dẫn vợ con
nàng hầu đến đấy, bày ra tiệc rượu, tìm thú thưởng trăng. Vào khoảng canh một,
gió mát trăng trong, cả khoảng trời lấp lánh như bạc. Giả Trân muốn đố rượu.
Vưu thị cho bọn Bội Phượng bốn người cùng vào dự tiệc, ngồi một dãy ở phía dưới
chơi hột, đánh toan. Uống rượu một lúc, Giả Trân đã ngà ngà say, cao hứng lên,
sai lấy một cái tiêu trúc, bảo Bội Phượng thổi, Văn Hoa hát, âm điệu du dương,
rung động tâm hồn mọi người. Hát xong lại làm tửu lệnh cho mãi tới khoảng canh
ba. Giả Trân đã say mềm, mọi người đương mặc thêm áo, thay chén uống rượu nữa.
Chợt nghe thấy từ chân tường bên kia có tiếng thở dài, ai nấy nghe rõ mồn một,
đều rợn tóc gáy. Giả Trân quát to: “Ai ở bên kia?” Hỏi dồn mấy tiếng, không có
ai trả lời. Vưu thị nói:
Chắc là tiếng người ở bên kia tường cũng chưa biết chừng.
Giả Trân nói:
Nói nhảm! Không có nhà người hầu nào ở gần tường cả. Bên ấy
lại liền ngay với từ đường thì làm gì có người?
Nói chưa dứt lời, một cơn gió thổi tạt qua. Thấp thoáng
như ở trong từ đường có tiếng cánh cửa mở đóng, rồi thấy hơi gió rùng rợn, có vẻ
lạnh lùng, ánh trăng lúc đó cũng tờ mờ, không sáng tỏ như trước nữa. Thấy vậy
ai nấy đều rởn tóc gáy. Giả Trân hết hẳn say, tuy ngoài mặt trấn tĩnh hơn mọi
người, nhưng trong bụng rất khiếp sợ, không còn hứng thú gì nữa. Hắn gắng gượng
ngồi lại một lúc, rồi cũng về buồng nằm nghỉ.
Nói chưa dứt lời, một cơn gió thổi tạt qua. Thấp thoáng như ở trong từ đường có tiếng cánh cửa mở đóng, rồi thấy hơi gió rùng rợn, có vẻ lạnh lùng, ánh trăng lúc đó cũng tờ mờ, không sáng tỏ như trước nữa. Thấy vậy ai nấy đều rởn tóc gáy.
Hôm sau là ngày rằm, Giả Trân dẫn con cháu đến từ đường làm lễ. Xem xét khắp nhà thờ, vẫn thấy y nguyên như trước, không có dấu tích lạ lùng gì. Giả Trân cho là sau khi rượu vào, thần hồn nát thần tính, nên không nhắc việc ấy nữa. Làm lễ xong, đóng cửa khóa kín cẩn thận.
Sau bữa cơm chiều, vợ chồng Giả Trân mới sang phủ Vinh,
thấy Giả Xá, Giả Chính đương ngồi nói chuyện ở trong phòng cho Giả mẫu vui. Giả
Liễn, Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan đều đứng hầu ở dưới. Giả Trân đến nơi, đi
chào một lượt, nói mấy câu chuyện, rồi mới xin phép ngồi né xuống cái ghế nhỏ ở
cạnh cửa. Giả mẫu cười hỏi:
Mấy hôm nay em Bảo anh bắn có khá không? Giả Trân vội đứng
dậy cười thưa:
Khá lắm rồi, không những cách bắn trông đẹp mà giương
cung cũng khỏe thêm.
Thế cũng đủ rồi, cẩn thận kẻo quá sức có hại đấy. Giả
Trân vội “dạ” luôn mấy tiếng. Giả mẫu lại nói:
Bánh dẻo anh cho mang sang biếu hôm qua ngon đấy, dưa thì
trông ngoài cũng đẹp, nhưng bổ ra lại chẳng ra sao cả.
Giả Trân vui cười thưa:
Bánh dẻo là do người đầu bếp mới đến làm ra, cháu đã nếm
thử, thấy ngon, mới dám mang sang biếu cụ. Dưa thì năm ngoái còn khá, không biết
năm nay sao lại dở thế?
Giả Chính nói:
Có lẽ vì năm nay mưa nhiều quá. Giả mẫu cười nói:
Bây giờ trăng đã sáng rồi, chúng ta hãy đi lễ đã.
Nói xong, đứng dậy vịn vào vai Bảo Ngọc, dẫn mọi người cùng
vào trong vườn.
Lúc này cửa chính ở trong vườn đã mở rộng, treo đèn sừng
dê. Trên đài thưởng trăng ở Gia Ấm đường đã thắp hương đốt nến, bày các thứ hoa
quả, dưa bánh. Hình phu nhân và một lũ khách đàn bà đã chực lâu ở đấy. Thật là
đèn rọi trăng trong, hơi thơm hương ngát, mịt mù lộng lẫy, không thể tả ra hết
được. Dưới đất rải thảm gấm để lạy. Giả mẫu rửa tay dâng hương, lễ xong, mọi
người cùng vào lễ. Giả mẫu nói:
Thưởng trăng ở trên núi tốt hơn.
Rồi bảo lên nhà hoa lớn ở trên núi. Mọi người nghe nói,
bày các thứ ở đấy. Giả mẫu vào ngồi nghỉ tạm ở Gia Ấm đường uống nước, nói chuyện.
Một lúc có người vào trình: “Đã sắp sửa xong cả”. Giả mẫu
vịn vào một người đi lên núi. Vương phu nhân nói:
Sợ đá có rêu trơn, xin cụ ngồi lên ghế trúc, để kiệu đi.
Giả mẫu nói:
Đường rộng và bằng phẳng, lại ngày nào cũng quét dọn, đi
dạo một lúc cho dãn gân cốt chẳng hơn ư?
Giả Xá, Giả Chính đi trước dọn đường, hai bà già cầm hai
cái đèn lồng sừng dê. Uyên Ương, Hổ Phách, Vưu thị đi gần lại đỡ Giả mẫu. Bọn
Hình phu nhân đi theo sau. Quanh co không đầy một trăm bước, đã đến sườn núi
chính, ở đấy có một tòa nhà rộng thoáng. Vì làm ở trên sườn núi cao, nên gọi
là “Đột bích sơn trang”125. Trên đài, trước nhà bày bàn ghế, ở giữa
lại đặt một cái bình phong lớn, ngăn làm hai gian. Bàn ghế đều dùng kiểu tròn cả,
lấy nghĩa là đoàn viên. Giả mẫu ngồi giữa, bên trái có Giả Xá, Giả Trân, Giả Liễn,
Giả Dung, bên phải có Giả Chính, Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan, ngồi quây quần;
còn phía dưới vẫn để không.
Giả mẫu cười nói:
Trước kia còn chưa biết là ít người, bây giờ xem ra nhà
ta thật ít người quá. Nghĩ lại mấy năm về trước, ăn tết trông trăng đêm rằm,
trai gái có hàng ba, bốn mươi người, vui nhộn biết bao! Hôm nay sao lại ít quá,
bảo bọn cháu gái ra ngồi ở bên kia vậy.
Rồi sai người đến bàn của Hình phu nhân ở sau bình phong
mời Nghênh Xuân, Thám Xuân và Tích Xuân ra. Giả Liễn, Bảo Ngọc đứng dậy, nhường
các chị em ngồi trước, rồi mới theo thứ tự ngồi xuống.
Trên đài, trước nhà bày bàn ghế, ở giữa lại đặt một cái bình phong lớn, ngăn làm hai gian. Bàn ghế đều dùng kiểu tròn cả, lấy nghĩa là đoàn viên. Giả mẫu ngồi giữa, bên trái có Giả Xá, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung, bên phải có Giả Chính, Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan, ngồi quây quần; còn phía dưới vẫn để không.
Giả mẫu sai bẻ một cành hoa quế mang đến, bảo một người
đàn bà ở sau bình phong đánh trống, truyền hoa đến tay ai, người ấy phải uống một
chén rượu và phải nói một câu chuyện vui. Bắt đầu từ Giả mẫu, rồi đến Giả Xá, cứ
thế lần lượt truyền đi. Trống đánh hai hồi vừa hay đến tay Giả Chính, ông ta phải
uống một chén rượu. Các anh chị em đều khe khẽ người nọ kéo người kia, người
kia bấm người nọ, ai cũng mỉm cười xem câu chuyện vui như thế nào.
Giả Chính thấy Giả mẫu đương vui, cũng phải làm cho vui
thêm, ông ta sắp nói, Giả mẫu lại cười bảo:
Nếu câu chuyện không được người ta cười thì anh phải phạt
đấy. Giả Chính cười, thưa:
Con chỉ biết có một câu chuyện, nói ra không ai buồn cười
thì cũng đành xin chịu phạt vậy.
Anh cứ nói đi.
Một anh chàng con nhà nọ rất sợ vợ.
Mới nói câu ấy, mọi người đã cười ầm lên. Vì họ chưa nghe
Giả Chính nói chuyện vui bao giờ. Giả mẫu cười nói:
Chắc chuyện này hay đấy. Giả Chính cười thưa:
Nếu hay, thì mời cụ xơi trước một chén. Giả Chính lại nói
tiếp:
Anh chàng sợ vợ này, xưa nay không dám đi ra ngoài một bước.
Hôm ấy là ngày rằm tháng tám, chàng ta ra phố mua các thứ, gặp ngay mấy người bạn
cố sống cố chết kéo hắn về nhà uống rượu. Không ngờ chàng ta uống say quá, lăn
ra ngủ ngay. Hôm sau tỉnh dậy, hối không kịp, đành phải về nhà nhận tội. Lúc ấy
người vợ đương rửa chân, bảo chàng ta: “Đã thế thì anh phải liếm chân tôi, tôi
sẽ tha cho”. Chàng ta đành phải liếm chân vợ, rồi bụng thấy tởm tởm, muốn nôn.
Chị vợ nổi giận định đánh, và nói: “Anh lại hỗn xược thế à!” Chàng ta khiếp quá
vội quỳ xuống kêu nài: “Không phải là chân mợ bẩn đâu, vì hôm qua tôi trót uống
nhiều rượu, ăn nhiều nhân bánh dẻo quá nên hôm nay thấy lợm giọng”.
Câu chuyện làm cho Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Giả
Chính lại rót một chén rượu nữa mời Giả mẫu. Giả mẫu cười nói:
Đã thế thì bảo người mang rượu nóng lại đây, đừng làm khổ
các anh nữa. Mọi người đều cười ầm lên.
Lúc đó lại đánh trống, bắt đầu từ Giả Chính truyền đi, vừa
đến Bảo Ngọc thì tắt trống. Vì có Giả Chính ngồi đấy, Bảo Ngọc đã khép nép
không yên, nay cành hoa lại đến tay, liền nghĩ: “Mình nói chuyện không vui thì
bảo là không lém lỉnh, câu chuyện cười cũng không biết nói, còn biết cái gì,
nói hay ra lại bảo những chuyện đúng đắn chẳng thấy đâu, chỉ quen lối bẻm mép
thôi, cũng có lỗi, chi bằng ta không nói là hơn”.
Rồi đứng dậy từ chối nói:
Con không biết nói, xin cho cái khác. Giả Chính nói:
Đã thế thì hạn cho chữ “thu” con phải làm một bài thơ tức
cảnh. Làm hay ta thưởng; không hay thì mai liệu hồn đấy!
Giả mẫu bảo:
Làm tửu lệnh đương vui, sao lại bày ra làm thơ? Giả Chính
cười thưa:
Nó làm được thơ đấy. Giả mẫu nói:
Đã thế thì làm đi.
Rồi sai người mang bút giấy đến. Giả Chính nói:
Nhưng không được dùng những chữ đệm lót như “thủy”,
“tinh”, “băng”, “ngọc”, “ngân”, “thái”, “quang”, “minh”, “tố”… Phải theo ý của
mình để ta xem mấy năm nay mày học hành ra sao?
Bảo Ngọc nghe nói, chọc đúng vào tim mình, liền nghĩ ngay
bốn câu, viết ra giấy đưa lên. Giả Chính xem xong gật đầu không nói gì. Giả mẫu
biết là không đến nỗi dở lắm, liền hỏi:
Thế nào?
Giả Chính muốn cho Giả mẫu vui lòng, nói:
Nó cũng khá đấy. Chỉ có cái là không chịu học và đặt câu
chưa được nhã.
Thôi được, nó đã lớn gì cho lắm. Định bắt nó làm tài tử
chăng? Cũng cần khen nó để sau này nó cố lên.
Phải đấy.
Liền quay lại bảo bà già:
Đi ra gọi bọn hầu nhỏ, bảo lấy hai cái quạt của ta mang ở
Hải Nam về, thưởng cho Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc cúi đầu tạ, lại ra chỗ ngồi làm tửu lệnh.
Giả Lan thấy Bảo Ngọc được thưởng, cũng đứng dậy làm một
bài đưa trình Giả Chính. Giả Chính xem xong lấy làm vui mừng, liền giảng nghĩa
luôn cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu rất là sung sướng, vội bảo Giả Chính cũng phải
thưởng cho nó.
Mọi người trở về chỗ ngồi, lại bắt đầu làm tửu lệnh. Lần
này hoa đến tay Giả Xá, ông ta đành phải uống rượu và nói chuyện vui:
Một nhà có một đứa con rất là hiếu thuận. Không may bà mẹ
bị bệnh, tìm thầy chạy thuốc các nơi không được. Người con mời ngay một bà biết
châm cứu đến. Bà này không biết xem mạch, chỉ bảo là bệnh tâm hỏa, châm một mũi
là khỏi thôi. Người con sợ quá, hỏi: “Tim mà gặp phải sắt thì chết, châm thế
nào được?” Bà lang nói: “Không cần phải châm vào tim, chỉ châm vào bên hông là
được rồi”. Người con nói: “Hông cách tim xa, châm vào đó khỏi thế nào được?” Bà
lang nói: “Không việc gì đâu. Anh không biết thiên hạ làm bố mẹ, nhiều tim rất
là thiên lệch”.
Mọi người nghe nói đều cười lên. Giả mẫu cũng phải uống nửa
chén rượu, ngồi một lúc rồi cười bảo:
Nếu ta được bà lang ấy châm cho một cái thì cũng tốt đấy.
Giả Xá nghe vậy, biết là mình nói sỗ sàng để Giả mẫu nghi
ngờ, liền đứng dậy cười, dâng chén mời Giả mẫu rồi nói lảng sang chuyện khác.
Giả mẫu cũng không tiện nhắc, lại làm luôn tửu lệnh. Không ngờ cành hoa truyền
đến tay Giả Hoàn. Gần đây Giả Hoàn học đã hơi tiến, nhưng cũng giống Bảo Ngọc,
không thiết gì việc chính, mỗi khi làm thơ, chỉ thích những ma quỷ hão huyền.
Thấy Bảo Ngọc làm thơ được thưởng, hắn đã ngứa ngáy, nhưng trước mặt Giả Chính,
không dám lỗ mãng. May sao cành hoa lại đến tay mình, hắn lấy giấy bút viết một
bài tứ tuyệt trình lên. Giả Chính xem xong, cũng lấy làm lạ. Nhưng xét trong
bài thơ, vẫn có ý không thích đọc sách, Giả Chính tỏ ý không vui, nói:
Thế mới biết là anh nào em ấy, mở mồm ra là rặt những câu
bất chính. Sau này chỉ là những kẻ hạ lưu, không chịu đi vào khuôn khổ. Người
xưa có chữ “nhị nan”126, hai đứa chúng bay cũng có thể gọi là “nhị
nan” được đấy, nhưng không phải như nghĩa chữ “nan” của người xưa nói, mà phải
giảng chữ “nan” là “nan dĩ giáo huấn”127 mới đúng. Thằng anh
thì nghiễm nhiên coi mình như Ôn Phi Khanh128, Tào Đường sống lại.
Mọi người nghe vậy đều cười. Giả Xá nói:
Đem thơ lại cho ta xem. Rồi khen luôn mồm: Cứ ý tôi, thì
bài thơ này thực có chí cốt. Tôi nghĩ nhà chúng ta đây không giống như những
nhà bần hàn, phải ngồi trước cửa sổ khi tuyết xuống hoặc lấy đom đóm thay đèn để
học, hòng một mai bẻ quế trên cung trăng, mới được mở mày mở mặt. Con cháu ta
không cần phải dùi mài cho lắm, chỉ cần đọc ít sách, hiểu biết hơn người, khi
có thể làm quan được thì ra làm quan, còn chệch đi đằng nào. Việc gì mà phải
hao công tốn sức, lại thành ra anh chàng ngốc chữ. Tôi thích bài thơ của nó, vì
không mất cái khí khái nhà công hầu chúng ta!
Liền quay lại, sai người về lấy những đồ chơi của mình
đem thưởng cho Giả Hoàn, rồi gõ vào đầu hắn, cười nói:
Từ nay cháu cứ làm thơ như thế này, bước đường “thế tập”129 chắc
không chệch khỏi tay cháu.
Giả Chính vội ngăn:
Chẳng qua nó làm liều mấy câu đấy thôi, sao anh lại nói đến
việc mai sau. Ông ta rót rượu, lại bắt đầu làm tửu lệnh. Giả mẫu nói:
Các anh về đi thôi. Ngoài ấy chắc còn có bọn gia khách chực
hầu, cũng không nên sơ suất với họ. Hơn nữa đã quá trống canh hai rồi, các anh
nên về để chị em chúng nó vui chơi một lúc.
Giả Xá, Giả Chính nghe nói, mới thôi tửu lệnh, rồi đứng dậy.
Họ cùng dâng chung một chén rượu, rồi dẫn bọn con cháu đi ra.
Chú thích.
[←123]
Chuyện
Mục công nước Tần định xâm chiếm các nước chư hầu, hẹn gặp nhau ở đất Lâm Đồng,
đem mỗi nước hai thứ của báu đến thi để định được thua.
[←124]
Trong
nguyên bản nói cách đánh bạc như Thương Tân Khoái, Công Phiên… xét không cần
thiết lắm, nên chúng tôi đổi ra là mạt chược và bài cẩu.
[←125]
Nhà
làm nhô lên sườn núi.
[←126]
Đời
Đông Hán có hai anh em họ Trần: anh là Nguyên Phương, em là Quý Phương đều có
tài học bằng nhau, khó phân được anh hơn hay em hơn, do đó có chữ “nan huynh
nan đệ”.
[←127]
Khó
mà dạy bảo.
[←128]
Nhà
thơ lớn đời Đường.
[←129]
Đời
này nối đời khác làm quan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét