Đại Ngọc vs Bảo Thoa: viên ngọc đen vs
chiếc thoa vàng, ai hơn ai kém?
Anh Nguyễn
“Rốt lại thì Đại Ngọc-Bảo Thoa ai hơn ai kém?” là một
trong mười công án lớn của Hồng Lâu Mộng. Thật khó có thể trả lời
thoả đáng đến tận cùng, bởi Tào Tuyết Cần đã cố tình cho hai nhân vật này làm đối
trọng trong tam giác tình yêu, ắt không cho phép có sự chênh lệch quá xa. So bề
tài sắc thì chẳng có ai trội hơn ai, người là chiếc thoa vàng, người là viên ngọc
đen (chữ “đại” trong tên Đại Ngọc là chỉ màu huyền của loại đá dùng vẽ lông
mày, không phải là to lớn). Càng đi vào tiểu tiết lại càng khó phân định rạch
ròi, đơn giản là người thích cô Lâm, người yêu cô Bảo, cũng như anh thích làm
toán, tôi thích viết văn, không có ai đúng ai sai. Vậy so sánh Đại Ngọc và Bảo
Thoa phải chăng là một việc làm vô ích?
Đại Ngọc
Hoàn toàn không phải như vậy. Giữa cõi mịt mù hỗn độn lại
có thể nhận ra một số đặc điểm và bản chất, ấy chính là Hồng Lâu Mộng.
Trên thực tế, không thể nói đến Đại Ngọc mà không kể đến Bảo Thoa, và ngược lại.
Người Trung Quốc quan niệm thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa, câu đối lại là
tinh hoa của thơ văn. Câu đối gồm hai vế sóng đôi để tôn vinh cái hay của nhau,
cả hai cùng tề chỉnh, không cái nào xuất sắc hơn cái nào mới là câu đối hay.
Quan hệ giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa đại khái cũng gần giống như hai vế của câu đối
vậy.
Bảo Thoa
Số phận của Đại Ngọc và Bảo Thoa có gắn kết chặt chẽ với
Bảo Ngọc, một bên là “mộc thạch tiền minh,” một bên là “kim ngọc lương duyên”.
Bảo Ngọc có lúc ngả sang người này, có lúc lại rung động với người kia, kết cục
làm cho một người chết uống, một người sống uổng. Nhìn qua thì có vẻ là một câu
chuyện tình tay ba điển hình, nhưng nếu đi sâu hơn thì mối quan hệ này có ý
nghĩa tượng trưng rất mạnh mẽ. Tên của Bảo Ngọc chính là ghép giữa chữ “Bảo”
trong Bảo Thoa và chữ “Ngọc” trong Đại Ngọc – từ bản thể sâu kín nhất, Bảo Ngọc
đã không thể tồn tại mà thiếu một trong hai nàng. Đứng giữa hai tiểu mỹ nhân
yêu kiều, các chàng thường trộm nghĩ “thân này ví xẻ làm đôi…”, còn Bảo Ngọc
thì lại mơ hai nàng hợp thành một. Trong giấc mộng ở Thái Hư ảo cảnh, Bảo Ngọc
đã gặp ai?
Tiên
cô truyền bảo dọn bàn tiệc đi, đưa Bảo Ngọc vào một buồng thêu thơm tho. Trong
đó trang hoàng nhiều đồ xưa nay chưa từng thấy. Đáng sợ nhất là có một nàng
tiên ngồi đấy, tươi đẹp nhu mì, giống hệt Bảo Thoa, dịu dàng phong lưu lại như
Đại Ngọc.
Bộ ba nhân vật Bảo Ngọc-Đại Ngọc-Bảo Thoa
Đây là giấc mộng đánh dấu bước đầu sự trưởng thành về
tình, tính, và dục của Bảo Ngọc, hay như Tào Tuyết Cần gọi là “phong lưu gây lấy
nợ vào thân”. Từ giây phút ân tình với nàng tiên đó, Bảo Ngọc không còn là một
đứa trẻ chưa biết mùi đời. Về mặt sinh lý là vậy, còn trong tiềm thức, rõ ràng
Bảo Ngọc đã hình thành một “ideal type” (mẫu hình lý tưởng). Người phụ nữ hoàn
hảo của cậu Bảo (cũng của Tào tiên sinh) không phải ai cụ thể, mà là một nàng
Pandora “lắp ghép” từ Bảo Thoa và Đại Ngọc. Sự kết hợp giữa Bảo Thoa và Đại Ngọc
là sự vẹn toàn thập toàn thập mỹ, là một thứ “fantasy”… bất khả thi, vì thế mà
nàng tiên chỉ xuất hiện trong giấc mơ chứ không thể tồn tại ngoài đời thực. Tuy
nhiên, qua chi tiết giấc mơ có thể thấy triết lý của Tào Tuyết Cần về hai nửa cấu
thành nữ tính Trung Hoa. Nữ tính huyền bí đó là một mẫu mực lý tưởng xuất hiện
trong giấc mơ của Bảo Ngọc – một giấc mộng nhỏ lồng trong giấc mộng lầu hồng, rồi
thiên hạ chẳng qua cũng chỉ là một trường đại mộng. Vậy phải chăng Đại Ngọc và
Bảo Thoa đơn giản là hai mảnh của trí tưởng tượng mà thôi?
Nếu chỉ có vậy thì cuộc tranh luận về Bảo Thoa-Đại Ngọc
có thể đi đến hồi kết ở đây rồi. Nhưng trong số mười công án của Hồng học, còn
có một câu hỏi lớn:
Hồng lâu mộng có chứa đựng tư tưởng phản Mãn
Thanh hay không?
Thời Trung Hoa dân quốc, các nhà Hồng học bắt đầu mạnh dạn
hơn trong việc phân tích yếu tố chính trị của Hồng Lâu Mộng, kể từ đó nảy sinh
ra nhiều học thuyết mới, trong đó có một thuyết cho rằng hai người đẹp của Hồng
Lâu Mộng là đại biểu của hai thời Minh, Thanh.
Tào Tuyết Cần viết Hồng Lâu Mộng vào thời
điểm vận nhà và vận nước đều đang suy. Thời Ung Chính, Càn Long, người Mãn Châu
đã chiếm được giang sơn gấm vóc của nhà Hán được một thời gian khá dài. Đất nước
thái bình thịnh trị, tuy nhiên không ít người vẫn còn nuối tiếc tiền triều. Những
tổ chức nửa tôn giáo nửa chính trị kiểu Thiên Địa hội mang tư tưởng phản Thanh
phục Minh có không ít người tham gia. Khởi nghĩa lật đổ triều chính trong nội bộ
Hán tộc có đầy rẫy trong lịch sử, nhưng người Hán đặc biệt căm hận việc đất nước
bị di địch xâm lược. Người Mãn Châu, cũng như người Hung Nô, Khiết Đan,… đều bị
coi là man di. Nhà Nguyên (Mông Cổ) đã một lần công diệt Nam Tống, chiếm lấy
Trung Hoa, rồi lại bị Chu Nguyên Chương cướp về, lên làm Minh Thái tổ. Triều
Minh là triều đại cuối cùng do người Hán cai trị. Về sau Ngô Tam Quế mở cửa cho
người Mãn Châu vào lãnh thổ Trung Hoa, cướp lấy chính quyền, lập ra nhà Thanh.
Nỗi nhục bị những kẻ “mọi rợ” chiếm lấy đất nước đã ám ảnh không ít thế hệ văn
sĩ người Hán. Hồng Lâu Mộng ra đời không sớm không muộn, đúng
lúc kinh tế thịnh vượng nhưng tư tưởng phục quốc vẫn còn dai dẳng. Bởi vậy có
nhiều người cho rằng Tào Tuyết Cần đã kín đáo gửi gắm vào hai nhân vật Đại Ngọc-Bảo
Thoa xu hướng chính trị của ông, và Hồng Lâu Mộng chưa bao giờ
là một tiểu thuyết tình ái đơn thuần.
Đại Ngọc-Bảo Ngọc chơi đùa khi còn nhỏ
Xét về gia thế, Đại Ngọc mồ côi cả cha lẫn mẹ, có thể nói
là gần như “vô sản”. Bảo Thoa thì có cả anh và mẹ, gia thế giàu có bậc nhất, là
một trong bốn nhà giàu ở Kim Lăng, “ngọc châu như đất, vàng thời sắt thoi”.
Tình cảnh bơ vơ của Đại Ngọc liệu có khác gì nhà Hán mất cả giang sơn, chẳng
còn mảnh đất cắm dùi? Đương nhiên người Mãn Châu thứ nhất là số lượng không
đông đảo, thứ hai là muốn thu phục nhân tâm, nên vẫn để quan lại người Hán giữ
chức trong triều, nhưng những lời xì xào thiên vị người Mãn, chèn ép người Hán
quả thật không ít. Tâm lý giận dỗi, so bì của Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mộng thật
chẳng khác gì thái độ uất ức của những sĩ phu vong quốc thời bấy giờ.
Đại
Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:
–
Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả.
Bà
Chu nói:
–
Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!
Đại
Ngọc cười nhạt:
–
Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.
Xét về hình dáng, Đại Ngọc mong manh sương gió, là nàng
Tây Thi đa bệnh, “người yếu như không mang nổi áo, nhưng lại có một vẻ yêu kiều
yểu điệu riêng.” Bảo Thoa thì ngược lại, “mặt tròn mâm bạc”, cơ thể phốp pháp
giống như Dương Quý phi, mang vẻ đẹp vượng phu ích tử. Người Mãn Châu vốn xuất
thân từ du mục, sống trên lưng ngựa, tự nhiên là hay giễu nhại những văn sĩ người
Hán “trói gà không chặt”. Nhìn rộng hơn, thể lực kiệt quệ, thường xuyên đau ốm
của Đại Ngọc ngụ ý cho vận khí yếu ớt của nhà Minh, trái ngược với nhà Thanh
đang đà sung sức. Về cuối truyện Đại Ngọc qua đời là cái kết có thể dự đoán trước,
bởi nó ứng hợp với sự rệu rã của nhà Minh. Cái chết của Đại Ngọc cho thấy cái
nhìn bi quan của người viết. Thực ra triều đại nào cũng có giai đoạn cường thịnh
rồi chuyển sang suy vi. Nhà Thanh đến cuối thế kỷ 19 cũng chỉ còn là một cái
bóng của thời Khang Hy, Càn Long.
Bảo Ngọc đến thăm Đại Ngọc khi nàng đang đọc sách tình ái
Xét về nguyện vọng, hành vi trốn mình trong những áng văn
mơ mộng kiểu Tây Sương ký, hoặc khóc thương hoa chết trong Táng Hoa
từ của Đại Ngọc chính là ẩn dụ cho căn bệnh thoát ly thực tại (escapism) của
nhiều người Hán dưới thời cai trị của nhà Thanh. Thương thân trách phận (mồ
côi), tiếc nuối quá khứ (được cha mẹ bảo bọc), sợ hãi tương lai (bị bỏ rơi), Đại
Ngọc có tâm bệnh rất nặng. Bảo Thoa thì mang nặng tư tưởng phong kiến, luôn
khuyên Bảo Ngọc ra làm quan, rõ ràng là có ý đồ chính trị, nếu không thì cũng rất
thực tế, nếu chưa nói là xu thời. Bảo Thoa suy nghĩ mạch lạc, thực dụng, có việc
đến thì bình tĩnh giải quyết, không mở miệng oán thán. Đại Ngọc coi chốn quan
trường là nơi bẩn thỉu, Bảo Thoa cho rằng những áng văn mơ mộng là độc hại. Sự
trái ngược này đã phản ảnh thế giới quan khác nhau giữa (một số không nhỏ) người
Hán và người Mãn Châu dưới thời nhà Thanh.
Bảo Thoa bắt bướm ở đình Trích Thuý, được ví với Dương Quý phi
Xét về tính cách, Đại Ngọc có tư thế ngạo nghễ khinh đời,
còn Bảo Thoa thì mềm mại và khéo léo. Điều này tưởng chừng ngược đời nhưng thực
ra lại rất hợp lý. Trong truyện đã nói rõ:
Bảo
Thoa lại cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời; không giống như Đại Ngọc có tính
kiêu kỳ tự phụ, chẳng chịu kém ai, cho nên rất được lòng người dưới.
Nếu sự khiêm nhường của Bảo Thoa xuất phát từ tâm lý tự
tin của kẻ thắng thì sự tự phụ của Đại Ngọc lại mang nặng màu sắc tự ti, tư thế
thua cuộc. Tào Tuyết Cần có thể nói là bậc thầy tâm lý, ông không lạ gì trước
những thái độ tiêu cực, oán trách thời cuộc của người Hán, dựa vào đó miêu tả sự
dằn vặt, oán trách của Đại Ngọc rất tinh diệu. Trong suốt cả câu chuyện, Đại Ngọc
không ngừng ghen tuông, lo sợ Bảo Ngọc yêu Bảo Thoa, chẳng khác nào người Hán cố
gắng níu kéo những hồi ức và hào quang của tiền triều. Kết cục thì Đại Ngọc vẫn
đánh mất Bảo Ngọc, và dòng chảy của thời cuộc cũng mau chóng chôn vùi nhà Minh
dưới cát bụi thời gian, bởi những nỗ lực manh mún giành lại thiên hạ từ tay người
Mãn Thanh đều không thành công.
Đại Ngọc ốm đau
Xét về kết cuộc, Bảo Thoa và Đại Ngọc đều không thành
công trong tình cảm với Bảo Ngọc. Một người có được trái tim cậu ta, nhưng rốt
cục chỉ còn một khối tình hận. Người còn lại có được Bảo Ngọc bằng xương thịt,
nhưng chỉ là cái vỏ rỗng tuếch. Nếu coi Bảo Ngọc là hình ảnh đại diện cho trí
thức người Hán thì hành trình yêu đương của Bảo Ngọc chính là đi tìm cái tôi
chung. Bảo Ngọc xuất hiện đã sống chết yêu Đại Ngọc như quen từ kiếp trước, có
điểm giống với tình cảm dân tộc không dễ gì cắt đứt. Rốt cuộc tình yêu đó bị chứng
tỏ là không thực tế, thậm chí là có hại và bị ngăn cản, Bảo Ngọc tiếc nuối dằn
vặt nhưng vẫn phải thuận theo thời cuộc, kết hôn cùng Bảo Thoa. Về sau Bảo Ngọc
hoàn thành nhiệm vụ với gia đình, lấy vợ sinh con đi thi đỗ, nhưng tâm hồn cậu
ta đã vĩnh viễn rời khỏi thế giới trần tục, chẳng khác nào những sĩ phu người
Hán ra làm quan cho nhà Thanh nhưng trong lòng trống rỗng và đau khổ. Bảo Ngọc
còn có thể về cõi Đại Hoang, còn người sĩ phu thì biết về đâu?
Tào Tuyết Cần vốn dòng dõi người Hán ở Liêu Dương, về sau
tổ tiên ông đầu hàng nhà Thanh, nhập tịch Mãn Châu. Nhà họ Tào có uy danh cực lớn,
tiền của nhiều như nước, được nhà Thanh sủng ái. Trong gia tộc có ít nhất hai
người làm phi tần trong cung, giống với Nguyên Xuân trong truyện. Về sau, khi
Ung Chính lên ngôi, những chuyện ăn của đút, bòn rút bị lôi ra ánh sáng, nhà họ
Tào liền bị thất sủng, có thể nói là y hệt như tình cảnh nhà họ Giả. Tào Tuyết
Cần sinh ra lúc vận nhà khó khăn, thân mang tài nghệ nhưng không thể thỏa chí
bình sinh, quả thực đã mang một nỗi uất ức lớn. Tình cảm phức tạp của ông với
nhà Minh và nhà Thanh ra sao, ta chỉ có thể phỏng đoán dựa vào những chi tiết
ít ỏi, và tác phẩm duy nhất còn lại của ông – Hồng Lâu Mộng.
Bảo Ngọc chăn gối cùng vợ – Bảo Thoa
Tào Tuyết Cần liệu có thực sự ủng hộ phản Thanh phục Minh
thì không thể biết chắc, nhưng dựa vào một chi tiết nhỏ như mắt muỗi, có thể
suy ra cách ông xếp hạng Đại Ngọc và Bảo Thoa. Chi tiết đó nằm ở hồi Giả Chính
vào thăm vườn Đại Quan:
Mọi
người níu dây vịn cây đi lên, thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng suối trong vắt
rập rờn quanh co; hai hàng liễu rủ bên bờ, những cây đào, cây mận, mọc chen
nhau che rợp cả bóng mặt trời. Khắp nơi, không có một chút đất bụi. Trong rặng
liễu nhô ra một nhịp cầu, lan can sơn đỏ.
Qua
cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát mẻ và một dãy tường
hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi các ngả.
Giả
Chính nói:
–
Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì! (*)
Nơi này về sau chính là Hành Vu uyển, nơi ở của Bảo Thoa.
Bước
vào cửa là một dãy hành lang quanh co. Nước đượm mùi thơm. Dưới thềm có con đường
đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ, cửa khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế
giường chiếu ngay ngắn gọn gàng. Từ phía trong có cửa con đi ra sân sau. Có mấy
cây lê cao lớn, mấy cụm chuối um tùm. Lùi về phía sau, lại có vài gian nhà nhỏ.
Chân tường có một dòng suối rộng chừng một thước quanh co theo thềm đến dãy nhà
đằng trước, rồi từ trong những khóm trúc róc rách chảy ra..
Giả
Chính cười nói:
–
Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới cửa sổ đọc sách, cũng không uổng một đời.
Nơi này về sau chính là Tiêu Tương quán, chỗ ở của Đại Ngọc.
Về điểm này, ông Dư Anh Thời đã nhận xét “đây có thể nói
tác giả mượn mồm Giả Chính để biểu hiện thái độ của mình.” Nói rõ hơn về vấn đề
phân loại người và cảnh trong Đại Quan Viên, ông Du Bình Bá cho rằng lời bình ở
đây đã nói rõ ý đồ của chính tác giả tiểu thuyết: “Đây là phép chưa khen (bên
kia) hẵng chê (bên này) trước đã. Bảo Thoa với Đại Ngọc chưa so đã thấy hơn
kém. Khắc họa cảnh và người trong tiểu thuyết như vậy không phải là dễ”. Rốt cuộc
thì tình cảm của Tào Tuyết Cần trước sau vẫn nghiêng về Đại Ngọc, chẳng khác
nào Bảo Ngọc khi sắp rũ bỏ nợ trần gian vẫn si mộng hình bóng từ kiếp trước của
nàng Giáng Châu!
*
(*) bản dịch mới dịch câu này là “Nhà
cửa ở đây vô vị quá!”
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét