Ngọn gió trong lò
Tề thiên sau khi thua trận, thiên binh áp giải về trời trị tội. Trị cách gì
cũng không giết được. Thái thượng Lão quân tâu cùng Thượng đế: “Hay là
để thần mang nó về bỏ vào lò bát quái, đốt nó bằng thứ lửa văn vũ mà thần thường
dùng để luyện linh đơn...” [TDK I 1982: 165, 166]
Lão quân mang Tề thiên về cung Đâu suất, ném vào lò bát quái. “Nguyên lò này gồm tám cung của các quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Đại thánh chui ngay vào nằm dưới cung Tốn. Tốn là gió, có gió thì không có lửa.” (...) “Thời gian thấm thoát, chẳng mấy chốc đã được bốn mươi chín ngày, đủ số ngày luyện.” [TDK I 1982: 165, 166]
Câu chuyện được kể tỉ mỉ với những chi tiết rườm rà. Đây là cả một vấn đề sinh
tử đối với những người muốn học đạo trường sinh, tu theo đạo Lão. Đoạn văn diễn
tả một giai đoạn cơ bản của thực hành thiền hay luyện nội đan. Có ba chi tiết
phải chú ý: (1) bốn mươi chín ngày; (2) lò bát quái; (3) cung Tốn.
THẤT
THẤT VÀ CỬU CỬU
Tại
sao Tây du bảo phải đợi đến bốn mươi chín ngày mới gọi là “đủ số ngày luyện”? Bốn
mươi chín tức là thất thất (7x7). Nó ám chỉ trong quá trình tu tập thiền định
(đạo Lão và Cao đài gọi là tịnh luyện), có một giai đoạn người hành giả phải
giam mình trong chốn tư phòng, hoặc thiền thất, thiền đường (Cao đài còn gọi là
tịnh thất, tịnh trường), hoặc vào chốn vắng vẻ núi non, như mấy ông đạo ở Thất
sơn dựng cốc.
Theo đạo Phật, bốn mươi chín ngày cũng rất quan trọng cho linh hồn người chết.
Vì sau khi hồn lìa khỏi xác, linh hồn chưa ra trước Diêm đình để các phán quan
xét xử. Thời gian “tại ngoại hậu tra” (bail) dài bốn mươi chín ngày, và linh hồn
được phép tạm trú ở một khu vực (cảnh giới) mà Phật giáo gọi là antarabhava, dịch
là trung hữu hay trung âm, trung ấm [Soothill 1962: 10]. Đây là lúc để thân
nhân cõi thế lo cầu siêu cho người quá cố, để linh hồn ấy tiêu tai giải nghiệp,
ngõ hầu khi ra tòa án âm phủ sẽ dễ dàng được cứu rỗi, được cho về cõi trên, hoặc
luân hồi vào đường tốt. Lễ cầu siêu bảy lần bảy ngày, kể từ ngày chết.
Ở đạo Lão và Cao đài giai đoạn này kéo dài, và gọi là cửu cửu (9x9) tức tám
mươi mốt ngày. Cho nên khi Đường tăng về tới chùa Lôi âm, Quan âm Bồ tát cộng sổ,
thấy mới có tám mươi nạn, phải... “lập kế” để Đường tăng chịu thêm một nạn
chót, cho đủ... chỉ tiêu. Tây du kể: “Bồ tát xem qua quyển sổ một lượt,
bèn truyền bảo: Trong đạo Phật ‘chín chín tám mươi mốt mới về nguồn’, thánh
tăng đã chịu tám mươi nạn, còn thiếu một nạn nữa mới đủ số.” [TDK X
1988: 181]
Đi từ kinh đô Tràng An nước Đại Đường (đất phàm, con người luân hồi) đến chùa
Lôi âm nước Thiên Trúc (đất phật, chân nhân giải thoát), Đường tăng phải trải
qua tám mươi mốt nạn và vượt qua mười vạn tám ngàn dặm (108.000 = 9x12.000). Ý
nói rằng, quá trình tu luyện để siêu hoá từ phàm nên thánh phải gồm những “công
đoạn” bắt buộc.
Một trăm lẻ tám ngàn dặm là bội số của 9. Cây tích trượng của Đường tăng có
chín vòng. Cây đinh ba Bát giới dùng làm vũ khí có chín răng. Xâu sọ người Sa
tăng đeo ở cổ cũng gồm chín cái. Xâu chuỗi lớn của nhà sư thông thường cũng gồm
một trăm lẻ tám hột[[1]];
hoặc có khi ngắn hơn là năm mươi bốn hột (9x6), hoặc hai mươi bảy hột (9x3) là
bội số của chín, hoặc mười bốn hột (7x2) là bội số của bảy.[[2]]
Giới đạo sĩ dù theo trường phái nội đơn (thiền) hay ngoại đơn, đều theo quá
trình chín lần khổ luyện này mà thuật ngữ đạo Lão gọi là cửu chuyển công thành,
hay cửu chuyển đan thành. Cao đài cũng vậy, cửu cửu là giai đoạn thiền (hay tịnh
luyện) rất cơ bản, hành giả bước vào bực sơ thiền phải qua đó mới có thể chuyển
lên những bực cao hơn, cho nên kệ sơ thiền Cao đài có câu rằng:
Cửu cửu công phu chẳng chí bền,
Con đường tu luyện
khó lòng nên...
Cũng như đạo Phật, ở Cao đài hành giả không quan trọng hóa việc cầu siêu (thất
thất vong: lễ bốn mươi chín ngày) vì hành giả phải tự giải thoát cho
mình bằng chứng ngộ. Cầu siêu vì thế là để cho ai còn trong ràng buộc luân hồi.
Lễ cầu siêu của đạo Phật là thất thất, thì ở Cao đài là cửu cửu, cứ
chín ngày cầu siêu cho người chết một lần, tính từ ngày chết. Cũng với quan niệm
về chín từng trời, tín đồ Cao đài tin rằng, cứ qua một lần cúng cửu, linh hồn
nhẹ nghiệp hơn và thăng lên được một từng trời tương ứng.
Con số 9 còn là một tượng số khá phổ biến trong thiền nhà Phật.[[3]]
Tại sao Phật, Lão, và Cao đài chú trọng con số 9? Và ở Tây du, tại sao Đường
tăng muốn thành tựu công viên quả mãn phải trải qua chín lần chín tai nạn (ám
chỉ là sự khổ luyện đớn đau của hành giả), phải vượt qua chín lần mười hai ngàn
dặm?
Số 9 là số thành và là số dương lớn nhất (lão dương). Tu luyện là chuyển âm trược
(phàm phu) thành dương thanh (tiên phật), mà số 9 là số thuần dương cho nên số
9 gắn liền với thiền đạo và thiền gia, đạo sĩ. Nhưng... nói như vậy thì hơi lẹ
quá, nên cũng cần thử lướt sơ qua một chút về Dịch học, để hiểu thêm cái lò bát
quái của Lão quân nó tròn vuông lớn bé cỡ nào, và lò bát quái ấy đặt ở cung Đâu
suất hay là ở một nơi nào khác nữa.
Số 5, số 9 và cung Tốn trong Dịch
Dịch là âm dương. Âm là chẵn; dương là lẻ. Lẻ loi nên gọi cơ; chẵn đôi nên gọi
ngẫu.[[4]]
Dịch chia mười con số từ 1 đến 10 làm hai loại, gồm: [a] năm số dương (1, 3, 5,
7, 9); và [b] năm số âm (2, 4, 6, 8, 10).
Số 5 theo ngũ hành có vị trí nằm ở trung ương như sau:
|
2 |
|
3 |
5 |
4 |
|
1 |
|
Số 5 được gọi là số sinh, vì nó sinh ra các số khác. Trong bát quái, số 5 ứng với
quẻ Tốn. Tề thiên bị hầm, bị ninh trong lò bát quái mà vẫn cứ sống nhăn, đó là
nhờ ẩn mình trốn tại cung Tốn. Tốn là cửa sinh. Đọc truyện Phong thần,
hay Phong kiếm xuân thu(chuyện Tôn Tẫn, Bàng Quyên), ai cũng nhớ
người xưa đánh giặc thường lập trận đồ, bày cửa tử và cửa sinh. Đối phương kéo
quân vô cửa tử thì chỉ còn có nước đại bại, mất mạng.
Tại sao số 5 là số thành? Trong năm số 1, 2, 3, 4, 5 bày theo ngũ hành nói
trên, thử làm bốn bài toán cộng như sau:
5+1 = 6
; 5+2
= 7
; 5+3
= 8 ; 5+4
= 9
Bốn kết quả 6, 7, 8, 9 là số thành, và 9 là số thành lớn nhất (ngụ ý viên mãn,
hoàn hảo). Số 9 lại là tổng số của ba số dương: 1+3+5 = 9. Cho nên chín được gọi
là số lão dương hay thuần dương. Mà dương là quân tử, chính nhân (âm là tiểu
nhân, tiện nhân). Do đó ngôi vua được gọi là cửu trùng (chín tầng,
chín bệ), và Bà Huyện Thanh Quan (Trấn Bắc hành cung hoài cổ) ngậm ngùi:
Chín tầng sen rớt rơi hương ngự,
Năm lớp mây phong sắc
áo chầu.
Ở Trung Quốc, đời Tấn, cha con Vương Hi Chi (321-379) và Vương Hiến Chi đều là
danh gia về thư pháp, được tôn là Thảo thánh Nhị vương. Thuở nhỏ, để mài mực
luyện chữ, Hiến Chi đã gánh nước đổ đầy 18 chum (2x9) lớn. [[5]]
Ở Hy Lạp, nhà triết học kiêm toán học Pythagore cũng khám phá ra số 9 là huyền
diệu, nên bảo rằng: Chín là số hoàn hảo, và bình phương của ba (3x3 = 9), một
tam hợp hòa hài trọn vẹn, rất mực đề huề (Neuf est le nombre
parfait en tant que carré de trois qu’est la trinité de l’harmonie complète).
Lò bát quái
Trở lại với cái lò bát quái trên cung Đâu suất của Lão quân. Ở Á Đông có tới ba
loại bát quái. Bát quái dùng để ninh, hầm Tề thiên thuộc mô-đen nào?
Trong dân gian, trước cửa nhà thường có treo tấm bùa bát quái để trừ tà ma, xua
yêu quỷ. Thầy bói cũng có khi xài loại bát quái này. Nó gồm tám quẻ xếp đặt như
sau (kể theo chiều kim đồng hồ): Càn, Cấn, Khảm, Chấn, Khôn, Đoài, Ly, Tốn. Bát
quái này không phải loại dùng để hầm Tề Thiên.
Theo Dịch, vua Phục Hy thời thượng cổ đã nghĩ ra sơ đồ Tiên thiên bát quái hay
Tiên thiên cơ ngẫu. Tiên thiên tức là lúc vừa có trời đất, vũ trụ mới hình
thành. Sơ đồ của Phục Hy gồm vị trí tám quẻ như sau:
-
đi ngược chiều kim đồng hồ (tức là theo chiều dương) Càn, Đoài, Ly, Chấn;
-
đi xuôi chiều kim đồng hồ (tức là chiều âm) Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Theo
sơ đồ Tiên thiên bát quái, con người nguyên thủy còn thuần lương, tâm người tâm
phật như nhau. Phục Hy biểu tượng bằng quẻ Càn (dương) ở trên, quẻ Khôn (âm) ở
dưới. Âm dương chính vị, hòa hài.
Lò
bát quái của Lão quân không đúc theo mô-đen của Phục Hy. Ngô Thừa Ân kể rằng: “Nguyên
lò này gồm tám cung của các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.” [TDK
I 1982: 165]
Té ra lò bát quái của Lão quân đúc theo Hậu thiên bát quái hay Hậu thiên cơ ngẫu,
là mô-đen của Văn vương. Hậu thiên là lúc trời đất, con người, vũ trụ đã không
còn đúng tiêu chuẩn chất lượng của thời nguyên sơ khởi thủy. Con người gần quỷ
ma, xa tiên phật. Tâm người tâm phật đôi nẻo đôi nơi, hai phương trời cách biệt!
Theo sơ đồ của Văn vương, các quẻ xếp theo chiều âm (xuôi chiều kim đồng hồ),
con người có xu hướng biến chất hơn là thăng hoa.
Sơ đồ này cho thấy hai quẻ Càn (dương) và Khôn (âm) nằm lệch một bên, không chính vị. Bên dưới là quẻ Khảm (nước, thủy, âm) và trên là quẻ Ly (lửa, hỏa, dương). Kinh Dịch, quẻ chót (quẻ 64) lấy Ly trên hiệp Khảm dưới thành ra quẻ Hỏa thủy Vị tế. Vị tế là chưa xong. Kết thúc kinh Dịch, làm thành quẻ chót, tại sao lại bày ra chuyện dở dang?
Cuối bộ Tây du, Đường tăng đem kinh về Trường An, kinh bị rớt xuống sông Thông Thiên; lúc phơi kinh ai dè lại bị mất hết mấy trang chót [TDK X 1988: 189], thì lại vẫn là chuyện dở dang!
Mà con người cũng là một dang dở đó thôi. Đã đành làm kiếp người thì cao trổi
hơn vật thú, nhưng người chưa bằng phật tiên. Trên nấc thang Chân-thiện-mỹ, giá
trị con người mới ở nửa vời. Nếu tiến hóa thêm, con người sẽ hoàn thiện là hiền
thánh, là tiên phật, là chân nhân. Còn nếu thoái hóa, người tuy bề ngoài mang
hình hài thân xác con người xinh đẹp, sang trọng, nhưng bên trong thì tâm hồn
đã rữa nát, ngang loài cầm thú. Ông Darwin chắc cũng đành lắc đầu than thở: Cốt
khỉ hoàn cốt khỉ!
Phép tu đạo Lão khi xưa và Cao đài ngày nay chính là biến Hậu thiên bát quái trở
lại nguyên vị Tiên thiên bát quái, đưa con người hư hao trở lại con người Nhân
bản mà cuộc đời tôn xưng là Phật, Chúa, Tiên, Thánh, Thần. Biến cải Hậu thiên
ra Tiên thiên, trong đạo Lão và Cao đài gọi là chiết Khảm điền
Ly; tức là tách hào hai dương ở quẻ Khảm bên dưới sơ đồ Hậu thiên mà
đưa vào quẻ Ly ở bên trên, đưa hào hai âm ở quẻ Ly xuống cho quẻ Khảm, thì Khảm-Ly
(Hậu thiên) đổi lại Khôn-Càn (Tiên thiên), âm dương trở lại chính vị. Cao đài gọi
đây là con đường phản bổn hoàn nguyên. Lão giáo gọi là phục kỳ bản, phản kỳ
chân.
Đạo đức Thiên tôn (Lão tử) cầm Bát quái hậu thiên (thế kỷ XIX)
Lò bát quái đặt ở đâu?
Lò bát quái trong Tây du như vậy là một ẩn ngữ, nói lên sự tu luyện của con người.
Lò đặt ở đâu? Tại cung Đâu suất chăng? Không phải thế! Lò bát quái ấy nằm trong
thân xác con người, đặt ở chỗ mà đạo gia gọi là Đơn điền, là Phương thốn [xem
bài Trăng sao cửa động đá đầu non]. Bức hình Tẩy tâm thối
tàng đồ của đạo Lão kèm theo đây cho thấy vị trí lò bát quái trong
thân hành giả luyện nội đan.
Tẩy tâm thối tàng đồ, mượn trong [Max Kaltenmark 1965: 161]
Lửa nào đốt lò bát quái?
Lửa để đốt lò bát quái, theo Tây du ký, là “thứ lửa văn lửa vũ”. Văn là chi, vũ
(võ) là chi? Thuật ngữ này có thể hiểu theo hai nghĩa.
Hiểu cạn, văn ám chỉ kinh điển; phải học kinh, trì chú để trợ lực; vũ (võ) ám
chỉ phép hành công tọa thiền, và kèm một số môn ngoại công phu (physical
exercises) để hộ trợ như Bát đoạn cẩm (tám bài luyện tập), Thập nhị cẩm đoạn
(mười hai bài luyện tập), v.v... Cho nên người tu thiền cũng cần văn ôn võ luyện,
phải văn võ song toàn.
Hiểu sâu xa hơn, lửa văn lửa vũ ám chỉ việc thực hành công phu thiền định của
hành giả, gọi đích danh là luyện hỏa hầu. Thiền Lão và thiền Cao đài có bốn giờ
công phu là thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, trong đó hai thời Tý Ngọ là để luyện hỏa hầu.
Tổ sư Hi di Trần Đoàn bảo: “Hỏa hầu là công phu giờ Tý và giờ Ngọ, hai
thời ấy luyện tập và trì thủ không kể đêm ngày.” [Tý Ngọ công phu thị
hỏa hầu, lưỡng thời hoạt thủ vô hôn trú.]
Nếu hiểu lửa ở đây là lửa trong nội thân, để luyện “hỏa hầu” thì hành giả có
lúc vận công nhu nhuyễn, giống như đốt lửa riu riu, đó là dùng lửa văn; hoặc có
lúc vận công tích cực hơn, giống như đốt lửa cho ngọn hừng lên, đó là dùng lửa
vũ (võ). Giống như bà nội trợ giỏi khéo nấu cơm, hành giả cũng phải tùy lúc mà
nổi lửa cho đúng cách.
Theo [Đái Nguyên Trường 1970: 68], mục từ “văn vũ hỏa hầu” viết: “Hỏa hầu như nấu
cơm, lúc mới đốt thì nước nguội, gạo sống, vậy ắt phải dùng lửa vũ mãnh liệt
cho cơm mau chín. Nếu lửa khi chậm khi mau không đều đặn, khi đốt khi ngưng thì
cơm ấy sống sượng không đều, vị lại không ngon. Nếu đã dùng lửa lớn (vũ) nấu qua
thì hãy dùng lửa văn nấu chậm. Khi cơm chín tức thì tắt lửa. Nếu như vẫn dùng lửa
lớn như cũ ắt phải lo sợ rằng thừa hơi nóng, bốc thẳng lên nắp nồi và cháy khét
sinh vị đắng. Luyện đan thì vận dụng lửa văn lửa vũ cũng y như vậy. Như khi luyện
tinh một trăm ngày tiểu chu thiên thì nên dùng lửa vũ; khi luyện khí mười tháng
đại chu thiên thì nên dùng lửa văn. Nhưng nấu cơm là chất liệu hữu hình cho nên
thời gian ít và dễ dàng, còn tu luyện kim đơn là thứ vô hình vô chất, nếu hỏa hầu
không phù hợp thì khó thành công. Cho nên phải cầu minh sư dạy bảo, không để một
chút xíu sai biệt nào cả. Kinh dạy luyện đơn không bao giờ nói sai vậy.” [[6]]
Tốn là gió
Bị nấu liên tục bốn mươi chín ngày trong lò bát quái, nhờ Tề thiên núp vào cung
Tốn nên an toàn tánh mạng. Tốn là gió. Điều này ám chỉ hành giả khởi công phu
phải dựa vào hơi thở. Điều thân (tư thế thích hợp khi ngồi thiền), điều tức (hô
hấp để hơi thở một vô một ra cho đúng cách), điều tâm (giữ cho tâm an định,
không bị phóng tán như ngựa khỉ lăng xăng), đấy chính là ba “công đoạn” cơ bản
của thiền gia hay hành giả.
Đạo Lão và Cao đài cho rằng Tam bảo gồm có Tinh, Khí, Thần. Khí theo nghĩa hẹp
có thể hiểu tạm là hơi thở. Ở sinh mạng, khí là sự sống; hơi thở dứt đi, mạng sống
đoạn lìa. Ở tu thiền (tịnh luyện), người ngồi thiền (hành giả) phải để tâm, ý
vào hơi thở luân lưu nhằm cột lại cái tâm viên ý mã [xem bài Trăng sao
cửa động đá đầu non].
Vì Khí với người tu quan trọng như thế, nên cũng đừng lấy làm lạ khi bước vô bửu
điện của một thánh thất Cao đài bất kỳ, đối diện với Thiên nhãn là bàn thờ Hộ
pháp, thấy nơi ấy chỉ tượng trưng bằng một chữ Khí (chữ Nho viết thảo).
Tóm gọn lại, câu chuyện nấu Tề thiên trong lò bát quái là ẩn ý gì?
1. Tề thiên là cái lý trí phàm phu phân biện (nhị nguyên). Lão quân đòi “giết”
Tề thiên trong lò bát quái tức là dùng công phu thiền pháp để diệt cái tâm điên
đảo (phàm tâm tử, đạo tâm sanh); lấy hơi thở (điều tức) để kềm lại, cột lại cái
tâm viên ý mã ưa lăng xăng xạo xự.
2. Tề thiên nhờ núp ở cung Tốn bốn mươi chín ngày nên không chết, vì ở cung Tốn“có
gió mà không có lửa”. Bốn mươi chín ngày chưa phải là trọn vẹn quy
trình hành pháp của thiền gia (Đường tăng còn phải lặn lội cho tới một trăm lẻ
tám ngàn dặm mà!). “Có gió” tức là mới ở khởi đầu, dùng hơi thở (điều tức) để kềm
tâm định ý... nhưng tâm ý vẫn còn có thể bay nhảy nếu quên chú ý vào một hơi thở
vô, một hơi thở ra. “Không có lửa” tức là chưa đến giai đoạn cực kỳ quan trọng
hiểm nghèo: luyện hỏa hầu. [Yoga gọi là luồng hỏa xà (kundalini), tượng hình
con rắn lửa. Luyện thành công thì thông suốt hai mạch Nhâm, Đốc; còn luyện hỏng
thì... “tiêu”, mà truyện chưởng Kim Dung và phim chưởng Hong Kong gọi tên là “tẩu
hỏa nhập ma” (lửa chạy đường tà).]
3.
Lò bát quái nấu kim đơn của Lão quân chính là lò lửa luyện nên vàng mười; thân
phàm phu huyết nhục qua trui luyện thành công sẽ trở nên kim thân bất hoại. Mỗi
con người đều sẵn có trong cơ thể một lò bát quái. Đường tăng là người đã chụm
lửa đốt lò bát quái, mang lò ấy để đi ngược dòng đời thế tục, tìm về cõi phật,
thành phật thành tiên.
Vậy thì tất cả những gì linh thiêng, mầu nhiệm đều không ở đâu xa. Máy Tạo hóa
huyền vi đã tàng ẩn trong chính mảnh thân nhỏ bé của mỗi con người. Quả thực,
truyện Tây du được kể bằng lối nói úp úp mở mở, nhưng lắng lòng thật kỹ thì
nghe như đâu đó có Ngô Thừa Ân cất lên lời tha thiết rằng: Con người ơi, anh
chính là một huyền nhiệm!
CHÚ THÍCH
[[1]] [Soothill 1962: 438] giải thích hai chữ
“sổ châu” như sau: “A rosary; to tell beads, which consists of various numbers,
generally 108.”
[[2]] [Từ hải 1948: 607] viết: “sổ châu giả,
yếu đương tu mãn nhất bách bát khỏa, như kỳ nan đắc, hoặc ngũ thập tứ khỏa, hoặc
nhị thập thất, hoặc thập tứ khỏa, diệc giai đắc dụng.” (Chuỗi hạt nên đủ một
trăm lẻ tám hột, nếu khó được như thế, thì hoặc năm mươi bốn hột, hoặc hai mươi
bảy hột, hoặc mười bốn hột, đều có thể dùng được.) Lê Anh Minh dịch.
[[3]] Theo [Đoàn Trung Còn 1963: 357-365], từ
thuật ngữ cửu bộ kinh cho đến cửu trụ tâm, tổng cộng là hai mươi hai mục từ về
số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có: cửu thiền, cửu thứ đệ định, cửu trụ
tâm.
Theo [Soothill 1962: 15-20], từ thuật ngữ cửu, rồi cửu thượng duyên hoặc, cho tới cửu trai nhật, tổng cộng có đến sáu mươi bảy mục từ về số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có: cửu trụ tâm, cửu tâm luân, cửu tưởng quán, cửu thứ đệ định, cửu chủng đại thiền.
[[4]] Vì ngẫu là cặp, nên trai gái cưới
nhau, được chúc lành nên duyên giai ngẫu. Giai ngẫu là tốt đôi. Trước kia, danh
từ luật pháp Việt Nam gọi chồng hoặc vợ là phối ngẫu (spouse), tức là một người
kết cặp với người khác (phối hợp, phối kết) cho đủ một đôi (ngẫu).
[[6]] Nguyên văn: “Hỏa hầu như chử phạn, sơ
khởi hỏa thời thủy lãnh, mễ sinh, tất dụng mãnh liệt chi vũ hỏa, sử kỳ tốc thục.
Nhược hoãn cấp bất điều, thời thiêu thời hiết, tắc sở chử chi phạn, sinh ngạnh
bất quân, vị diệc bất mỹ. Nhược dĩ dụng mãnh hỏa chử qua, tắc nghi dụng văn hỏa
hoãn chử, thục tức chỉ hỏa. Như nhưng dụng mãnh hỏa, tắc hữu đĩnh cái phún dật
chi ngu, cập thiêu tiêu vị khổ chi hoạn. Luyện đan văn vũ hỏa hầu chi vận dụng
diệc nhiên. Như bách nhật tiểu chu thiên luyện tinh thời nghi dụng vũ hỏa; thập
nguyệt đại chu thiên luyện khí thời nghi dụng văn hỏa. Đản phạn thị
phanh chử kỳ hữu hình chi chất, cố thời đoản nhi dị, nãi vô hình vô chất chi vật,
nhược hỏa hầu bất đắc kỳ nghi, hãn hữu thành công giả. Cố tất cầu minh sư chỉ
điểm, bất dung hào phát chi sai thù, đơn kinh phi hư ngôn giả.” (Lê Anh Minh
phiên âm và dịch nghĩa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét