Thứ Bảy, 5 tháng 8, 2023

7. Chương V. ĐẠO TRỜI

 

7. Chương V. ĐẠO TRỜI


 

Chu Dịch vốn là sách bói. Nếu chỉ xét phần Kinh – Thoán Từ (tức quái từ) và Hào Từ thì không thấy có tư tưởng gì quan trọng về đạo lí cả. Phần đó là tác phẩm cuối đời Ân, đầu đời Chu.

 

Phải đợi sáu, bảy trăm năm sau từ cuối đời Xuân Thu trở đi suốt thời Chiến Quốc, mới có những triết gia, học giả lần lượt viết nên phần Truyện để giải thích phần Kinh và qua đời Hán thì phần Truyện mới có hình thức như ngày nay. Những tác giả phần Truyện có đem tư tưởng của Nho, Lão gài, “cột” vào phần Kinh, làm cho Chu Dịch thành một tác phẩm triết lí có đủ vũ trụ quan, nhân sinh quan và có thể coi là một tổng hợp các tư tưởng phổ biến của Trung Hoa thời Tiên Tần.

 

Trong chương này chúng tôi xét về vũ trụ quan, để nhân sinh quan lại chương sau. Chúng tôi sẽ căn cứ vào Hệ Từ truyện, Thoán truyện, Tượng truyện, Văn Ngôn truyện, bốn truyện mà chúng tôi cho là quan trọng nhất.


 

Nguồn gốc vũ trụ: Từ nhị nguyên tiến tới nhất nguyên


 

Chu Dịch hoàn toàn xây dựng trên quan niệm âm dương, sáu mươi bốn quẻ chỉ do hai vạch âm và dương (đứt và liền) chồng lên nhau, thay đổi cho nhau mà thành.

 

Quan niệm âm dương là quan niệm đặc biệt của dân tộc Trung Hoa. Nó rất quan trọng, làm căn bản cho Triết học, khoa học Trung Hoa, có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống dân tộc Trung Hoa trong mấy ngàn năm nay.

 

Chúng ta không biết nó xuất hiện từ thời nào, trễ lắm là đời Ân, vì nó phải có từ trước khi có hình bát quái.

 

Theo một số nhà ngữ nguyên học Trung Hoa thì mới đầu hai chữ dương, âm có hình thức như:


 


Chữ dương (ngày nay: ) gồm hai phần: bên trái  là sườn núi hoặc bức tường; bên phải là mặt trời  lên khỏi chân trời, dưới là những tia sáng mặt trời chiếu xuống. do đó, dương trỏ phía có ánh sáng, phía sáng.

 

Chữ âm (ngày nay: ), bên trái cũng là sườn núi, bên phải, trên có nóc nhà , dưới có đám mây.

Do đó, âm trỏ phía mặt trời bị che khuất, không có ánh nắng, phía tối.

 

Phía có ánh nắng thì ấm áp, cây cối tươi tốt, phía không có ánh nắng thì lạnh lẽo, cây cối không phát triển, do đó âm dương từ cái nghĩa tối sáng chuyển qua nghĩa lạnh nóng, đêm ngày, mùa đông mùa hè, mặt trăng, mặt trời, chết, sống, yếu, mạnh, cứng, giống cái, giống đực, suy, thịnh, xấu, tốt, hư, thực, tiểu nhân, quân tử, đóng mở, đục trong…

 

Sau khi có Dịch Kinh và trước khi có Dịch Truyện, âm dương đó chỉ hai cái khí trong vũ trụ rồi. Sách Quốc Ngữ chép:

 

“Bá Dương Phủ nói rằng: … Khí dương nén không thoát ra được, khí âm bị nén không bốc ra được, thế là sinh ra động đất”.

 

Bá Dương Phủ đời Tây Chu giải thích vụ động đất xảy ra năm thứ ba đời Chu Vương (-779) như vậy và cho âm dương là hai cái “khí”, hai động lực thiên nhiên.

 

Trước Bá Dương Phủ, có thể là từ đầu thời Tây Chu, khi Văn Vương rồi Chu Công viết Thoán TừHào Từ, người Trung Hoa đã cho âm dương là hai nguyên lí của vũ trụ. Chúng ta đã biết hai nét âm dương (lưỡng nghi) chồng lên nhau, thay đổi cho nhau mà thành tứ tượng, rồi thành bát quái. Có thể Văn Vương hoặc Chu Công đã cho bát quái ý nghĩa: Càn: trời, Khôn: đất, Đoái: chằm, Cấn: núi, Tốn: gió, Chấn: sấm sét, Li: lửa, Khảm: nước, nghĩa là đã dùng hai nét âm dương để tượng trưng, để diễn hai cái lớn nhất trong vũ trụ: trời đất; hai cái khiến người ta chú ý nhất ở trên đất: núi, chằm; hai cái khiến người ta chú ý nhất ở trên trời: gió, sấm sét, và hai cái cần thiết nhất cho đời sống là nước, lửa; tám cái mà người thời đó cho là tám yếu tố, hiện tượng căn bản trong vũ trụ.

 

Điều chắc chắn là sách Tả TruyệnQuốc Ngữ chép rằng thời Xuân Thu đã có nhiều người chấp nhận ý nghĩa đó của bát quái rồi (Phùng Hữu Lan dẫn trong Trung Quốc triết học sử Chương 15 – Tiết 2); và tới thời Chiến Quốc, trước hoặc sau Mạnh Tử, tác giả Thoán truyện đã cho Càn và Khôn, tức dương và âm là nguồn gốc của vũ trụ: “Lớn thay đức đầu tiên của Càn, muôn vật nhờ đó mà bắt đầu, đức đầu tiên của Càn thống ngự phần trời. Mây đi mưa tới, sắp đặt các vật, lưu chuyển các hình” (Đại tai Càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thông thiên. Vân hành vũ thí phẩm vật lưu hình). “Rất mực thay, đức đầu tiên của Khôn, muôn vật nhờ đó mà sinh; đức đầu tiên của Khôn thuận theo trời. Sức dày của Khôn chở được mọi vật, đức của Khôn đúng là không giới hạn. Nó bao dung, rộng rãi, sáng láng, lớn lao. Các phẩm vật đều nhờ nó mà hanh thông” (Chí tai Khôn nguyên, vạn vật tư sinh, nãi thuận thừa thiên. Khôn hậu tải vật, đức hợp vô cương. Hàm hoằng quang đại, phẩm vật hàm hanh).

 

Xét hai đoạn đó thì tác giả Thoán truyện cho Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc phần khí, nhưng phải nhờ Khôn, vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn như công của Càn, chỉ khác Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn.


Chúng ta thấy quan niệm đó giống với quan niệm của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh, Chương 51: “Đạo sinh ra vạn vật, Đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục (…) che chở mỗi vật” (Đạo sinh chi, Đức súc chi, trưởng chi, dục chi, đình chi (…) phúc chi.”

 

Tác giả Thoán truyện đã chịu ảnh hưởng của Lão Tử chăng? Mà Càn của Dịch tức là Đạo của Đạo Đức Kinh, Khôn của Dịch tức là Đức của Đạo Đức Kinh chăng?

 

Không hẳn vậy, vì theo Lão Tử thì những biểu hiện của Đức đều tùy theo Đạo (Khổng Đức chi dung, duy đạo thị tòng – Chương 21 – Đạo Đức Kinh), nghĩa là Đức là một phần của Đạo: khi chưa hiển hiện trong mọi vật thì là Đạo, khi đã hiện rồi thì phần hiển hiện đó trong mỗi vật là đức. Mỗi vật đều có Đức mà Đức của bất kì vật nào cũng từ Đạo mà ra, cho nên nó nuôi lớn mỗi vật mà tùy theo Đạo.

 

Âm đối với dương thì khác hẳn: hai cái độc lập, trái ngược nhau mặc dầu vẫn bổ túc nhau; mà Càn với Khôn cũng độc lập, không thể nói Khôn là một phần của Càn, như Đức là một phần của Đạo được. Hệ Từ Hạ truyện, Chương VI nói rõ như vậy:

 

“Càn đại biểu những vật thuộc về dương, Khôn đại biểu những vật thuộc về âm. Đức của âm dương hợp với nhau mà hào cương và hào nhu mới có thực thể…” (Càn dương vật dã, Khôn âm vật dã, âm dương hợp đức như cương nhu hữu thể).

 

Hệ Từ Thượng truyện – Ch.I cũng có nói: “Can làm chủ, tác động, lúc mới đầu, Khôn làm ngưng kết và thành vật. (Càn tri thái thủy, Khôn tác thành vật – Chữ tri ở đây nghĩa là làm chủ).

 

Hệ Từ Hạ truyện Ch.VI lại bảo: “Càn và Khôn là cửa của Dịch, tức sự biến hóa chăng?” (Càn, Khôn kì Dịch chi môn dã?).

 

Càn và Khôn trong những câu đó đều có nghĩa là dương và âm.

 

Lấy Càn và Khôn, tức Dương và Âm làm bản căn của vũ trụ vạn vật, tác giả Thoán truyệnHệ Từ truyện chủ trương một vũ trụ nhị nguyên chăng?

 

Nhưng Hệ Từ Thượng truyện Chương XI, đưa thêm một quan điểm mới mẻ mà trong phần Kinh cũng như trong Thoán truyện, Tượng truyện không có, tức quan niệm Thái Cực:

 

“Dịch có Thái Cực, sinh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh ra Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh ra Bát Quái” (Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái).

 

Chữ Dịch ở đây có nghĩa là lịch trình biến hóa trong vũ trụ. Lịch trình đó có khởi điểm là Thái Cực. Từ Thái Cực mới sinh ra Lưỡng Nghi (Âm Dương), rồi Tứ Tượng, rồi Bát Quái, tám yếu tố, hiện tượng căn bản trong vũ trụ, như trên đã nói.

 

Vậy thì nguồn gốc vũ trụ là Thái Cực chứ không phải âm dương. Suốt Dịch Truyện chúng ta chỉ gặp chữ Thái Cực mỗi một lần đó, Dịch học phái không cho biết gì thêm. Thái Cực có nghĩa là lớn hơn hết, cao hơn hết, hoặc trước hết cả. Và đa số các học giả đời sau cho nó là cái khí tiên thiên, một thứ linh căn bất sinh bất diệt, huyền diệu trong đó tiềm phục hai nguyên tố ngược nhau về tính chất, Âm và Dương. Quan niệm đó thật tiến bộ so với quan niệm Thượng ĐẾ làm chủ vũ trụ của các đời trước.

 

Âm Dương được thống nhất thành Thái Cực rồi, vũ trụ luận của Dịch mới thành nhất nguyên, và Dịch học phải xích gần lại Lão Tử thêm nữa: Thái Cực trong Hệ Từ truyện có thể so sánh với Đạo trong Đạo Đức Kinh.

 

Thái Cực cũng như Đạo, là nguồn gốc của vạn vật. Nó sinh ra Lưỡng Nghi rồi Tứ Tượng, Bát quái tức vũ trụ; thì “đạo cũng sinh ra một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật” (Chương 42 – Đạo Đức Kinh); chỉ khác nhau ở chỗ: Thái Cực sinh ra hai (âm dương) ngay, còn Đạo sinh ra một rồi mới sinh ra hai (cũng là âm, dương).

 

Cái một đó là gì? Không ai biết rõ. Có người đoán rằng một đó là có, mà Đạo của Lão Tử là không. Nếu đúng vậy thì Lão Tử chủ trương từ không sinh ra rồi từ mới sinh ra âm dương, sau cùng là vạn vật; còn Dịch học phái không chấp nhận cái không mà bắt đầu ngay từ , từ Thái cực.

 

Mãi khoảng 1.300 năm sau, Chu Đôn Di đời Tống, sửa lại quan niệm của Dịch học phái, cho rằng trước Thái Cực còn có Vô Cực, nghĩa là khởi thủy không có gì cả, rồi mới có Thái Cực, có âm dương, tứ tượng bát quái (coi Vô Cực Đồ dưới đây). Cho Thái Cực bắt nguồn từ Vô Cực, tức Lão cho hữu bắt nguồn từ vô. Thế là đời Tống, đạo Nho đã hoàn toàn chấp nhận vũ trụ luận của đạo Lão.





 Tới đây ta có thể kết luận:

 

Quan niệm âm dương đã có từ trước khi có Kinh Dịch: và quan niệm Trời Đất là cha mẹ của vạn vật là một quan niệm phổ biến của loài người thời Thượng cổ trước khi có quan niệm âm dương – vì loài người nhận thấy rằng nhờ có đất mới có cây cỏ, muông thú, loài người mới có thức ăn; nhờ có trời mới có lửa, ánh sáng, mây mưa, vạn vật mới sinh trưởng được.

 

Dịch học phái mới đầu chỉ có sáng kiến phối hợp hai quan niệm đó (âm dương phối hợp với Càn, Khôn

 

– Trời Đất); rồi sau phối hợp thêm với quan niệm Đạo của Lão Tử mà lập nên một thuyết về vũ trụ, rất giống với thuyết của Lão, nhưng thực tế hơn, chú trọng đến xã hội hơn vì nhấn mạnh về âm dương, về giống đực giống cái, trai gái, về sự sinh sinh hóa hóa hơn.

 

Từ Xuân Thu trở về trước, còn là quan niệm nhị nguyên: lưỡng nghi (âm dương), tứ tượng, bát quái (hai hình trên cùng)[42].

 

Qua Chiến Quốc hoặc Hán thêm Thái Cực (hình thứ ba) thành nhất nguyên. Thái Cực gồm âm và dương, cho nên có người gọi là nhất nguyên lưỡng cực (một gốc, một nguyên lí mà hai cái đối lập: âm dương).

 

Tới đời Tống, thêm vô cực nữa (hình cuối cùng) thành Vô Cực Đồ. Như vậy, khởi thủy là Vô Cực rồi mới có Thái Cực, có Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái: hoàn toàn thành nhất nguyên.


 

Đạo âm dương


 

Hệ Từ truyện có nhiều chỗ nhắc đến đạo âm dương.

 

Hệ Từ thượng Chương I:

 

“Có Càn (dương) nên thành giống đực, có Khôn (âm) nên thành giống cái”.

 

Hệ Từ hạ Chương VI:

 

“Đức (tính cách) của âm dương hợp với nhau: mà hào cương và nhu mới có thực thể, nhân đó mà suy trắc được công việc của Trời Đất và thông cảm được đức của thần minh”.

 

Nhất là Chương V cũng trong Hệ Từ hạ:

 

“Giống đực giống cái kết hợp tinh khí mà vạn vật sinh nở, biến hóa” (Nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh).

 

Chẳng riêng loài người mà vạn vật, ngay trời đất cũng vậy, vì trời đất là cha mẹ của muôn loài cũng chỉ là âm dương, tất phải giao cảm với nhau rồi mới có muôn loài được (thiên địa nhân luân, vạn vật hóa thuần)

 

Câu này nữa trong Hệ Từ thượng Chương XI. “Đóng cửa gọi là Khôn (khí âm), mở cửa gọi là Càn (khí dương)” (Hạp hộ vị chi Khôn, tích hộ vị chi Càn).

 

Toàn là căn cứ vào hoạt động sinh thực của nam nữ, của giống đực giống cái mà giảng về nguồn gốc vũ trụ, vạn vật.

 

Trong Thoán truyện ta cũng thấy nói tới sự giao hợp giữa trời và đất:

 

Như quẻ Thái: 


Quẻ 11 Địa Thiên Thái

“Trời đất có giao nhau rồi vạn vật mới thông” (Thiên địa giao nhi vạn vật thông dã).

 

Quẻ Hàm:

 


Quẻ 31 Trạch Sơn Hàm

“Trời đất cảm nhau mà vạn vật mới hóa sinh” (Thiên địa cảm nhi vạn vật hóa sinh).

 

Quẻ Cấn:

 

 
Quẻ 52 Thuần Cấn

“Trời đất hội nhau thì vạn vật mới sinh trưởng, phát đạt rõ ràng” (Thiên địa tương ngộ, phẩm vật hàm chương dã).

 

Quẻ Qui Muội:

 


Quẻ 54 Lôi Trạch Quy Muội

“Trời đất không hội nhau thì vạn vật không hưng thịnh lên được” (Thiên địa bất giao nhi vạn vật bất hưng).

 

Rõ ràng là Dịch coi đạo âm dương, đạo nam nữ là quan trọng nhất: Vì có nam nữ rồi mới thành vợ chồng, có cha con, vua tôi, có lễ nghĩa. Nam nữ là gốc của gia đình, xã hội, gốc của đạo lí, mà đạo nam nữ cũng lớn như đạo Càn Khôn: cho nên đầu Kinh Thượng là hai quẻ Càn, Khôn mà đầu Kinh Hạ là hai quẻ Hàm, Hằng (Nam nữ cảm nhau rồi thành vợ chồng).

 

Chương V Hệ Từ truyện thượng bảo: “Một âm, một dương gọi là Đạo”: Cái đạo ấy khi phát ra thì tốt lành; khi nó cụ thể hóa ở người thì gọi là tính” (Nhất âm nhất dương chi vị đạo; kế chi giả thiện dã, thành chi giả, tính dã).

 

Câu “Nhất âm nhất dương chi vị đạo” có thể hiểu rất nhiều cách, chẳng hạn:

 

     Có âm và có dương là đạo.

 

     Một thời âm, một thời dương, thế là đạo.

     Một mặt âm, một mặt dương, thế là đạo.

     Cái khiến cho khi thì âm xuất hiện, khi thì dương xuất hiện, cái đó gọi là đạo. hoặc:

     Âm dương phối hợp rồi sau mới có đạo[43].

 

Chúng tôi thấy câu đầu tiên trong Chương V Hệ Từ thượng có cái giọng trong Mạnh Tử, Trung Dung và nghĩ rằng nếu có hiểu như sau thì cũng có thể được:

 

“Âm Dương (nam nữ) đủ đôi thì là đạo, đạo đó phát ra một cách tự nhiên thì tốt lành, thực hành nó là hợp với tính của con người”.

 

Dù sao tôi cũng phải nhận đề cao đạo âm dương, nam nữ như vậy, Dịch học phái đã chịu ảnh hưởng của đạo Nho, vì trong các triết thuyết thời Tiên Tần, chỉ có Nho là nhấn mạnh vào nhân luân, xã hội hơn cả.

 

Như vậy, vũ trụ quan trong Dịch gồm một ít tư tưởng của dân tộc Trung Hoa thời trước với một số tư tưởng của Lão và Khổng.



 

Dịch là giao dịch


 

Trong âm có dương, trong dương có âm.

 

Âm thịnh thì dương suy, dương thịnh thì âm suy.

 

Quan niệm âm dương là một quan niệm đặc biệt của Trung Hoa, không thấy trong tư tưởng các dân tộc khác. Quan niệm positif négatif của Âu chỉ là một phần nhỏ của quan niệm âm dương thôi.

 

Vì âm dương bao trùm cả không gian (như phía bắc, phía nam), thời gian (như đêm ngày), thời tiết (như đông, hè, nắng, mưa), không vật gì hữu hình hay vô hình trong vũ trụ mà không có âm dương: giống đực giống cái, rỗng đặc, thịnh suy, thăng giáng, thu tán, thiện ác, tốt xấu, quân tử, tiểu nhân… đều là âm dương cả.

 

Âm dương không phải chỉ là hai cái khí, hay hai nguyên lí, không phải là những năng lực, những khía cạnh, những tính… mà là tất cả những cái đó; cho nên không thể dịch từ ngữ âm dương được, và người Âu đành phải phiên âm là YinYang.

 

Kinh Dịch tượng trưng âm dương bằng hai vạch liền (dương)  và đứt (âm) ; Liền thì gọi là thực (đặc), đứt gọi là hư (rỗng).

 

Từ khi có quan niệm Thái cực, người Trung Hoa tượng trưng âm dương bằng hình đen và hình trắng vì mới đầu, âm có nghĩa là phía không có ánh mặt trời, ở trong bóng tối, dương có nghĩa là phía có ánh mặt trời, sáng sủa.

 

Chúng ta nhận thấy vòng tròn Thái cực gồm hai hình âm dương đó, và hai hình này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau, mà lại ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau.

 

Lại thêm chỗ hình đen phồng ra có một điểm trắng, chỗ hình trắng phồng ra có một điểm đen; chỗ hình đen phồng ra là chỗ hình trắng thót lại, ngược lại chỗ hình trắng phồng ra là chỗ hình đen thót lại. Như vậy để diễn cái ý – âm thịnh lần thì dương suy lần, ngược lại dương thịnh lần thì âm cũng suy lần; và khi âm cực thịnh đã có một mầm dương (điểm trắng) xuất hiện rồi, khi dương cực thịnh đã có một mầm đen (điểm đen) xuất hiện rồi.

 

Vậy chẳng những âm dương xoắn lấy nhau mà trong âm còn có dương, trong dương còn có âm nữa.

 

Cuối Chương V – Hệ Từ truyện thượng, có một câu tối nghĩa: “Âm dương bất trắc chi vị thần” (Âm dương không lường được như vậy gọi là thần). Tối nghĩa vì thế nào là âm dương không lường được?

 

Đa số học giả cho rằng âm dương biến hóa, ở trong âm mà vẫn có dương, ở trong dương mà vẫn có âm, “âm dương không nhất định về phương hướng nào” (Phan Bội Châu), cũng như trong phúc có họa, trong họa có phúc, không sao đoán trước được. Cách giảng đó dễ chấp nhận hơn cả.

 

Lẽ trong âm có dương, trong dương có âm đó, chúng ta thấy trong quẻ Phục và quẻ Cấu . Điểm trắng trong nửa âm trên Thái Cực đồ tức là vạch liền trong quẻ Phục; điểm đen trong nửa dương trên Thái Cực đồ tức là vạch đứt trong quẻ Cấu.

 

Dịch cho quẻ Thuần Khôn là tháng mười, lạnh lẽo, thuần âm: gồm sáu hào âm. Âm tới tháng đó là thịnh cực; dương bắt đầu sinh, mỗi ngày lớn lần lần lên, hết ba mươi ngày, hết tháng 10, thì thành quẻ phục tháng 11 (coi trang sau): có một hào dương thay hào 1 âm trong quẻ Khôn. Hào dương lúc đó (đầu tháng mới xuất hiện, nhưng đã phôi thai trong tháng 10, có bao giờ không có dương đâu. Cái thai của dương đó là cái điểm trắng trên nửa đen trong hình Thái Cực.

 

Cứ như vậy dương tăng lần, mỗi tháng lại bớt đi một hào âm, tăng thêm một hào dương khi đủ 6 hào dương không còn hào âm nào thì thành quẻ Càn (tháng 4). Lúc này dương cực thịnh, mà âm lại bắt đầu sinh, cũng mỗi ngày một chút, hết 30 ngày, hết tháng 4, thì thành quẻ Cấu (tháng 5): có một hào âm thay 1 hào dương trong quẻ Càn. Hào âm đó lúc đó mới xuất hiện nhưng trong tháng 4 có ngày nào không có âm đâu, nó chưa xuất hiện nên ta không thấy đấy thôi. Cái thai của âm đó là cái điểm đen trên nửa trắng trong hình thái Cực.

 

Rồi cứ tiếp tục như vậy, âm tăng hoài, mỗi tháng thêm một hào âm, bớt đi một hào dương, khi có đủ 6 hào âm (không còn hào dương nào nữa) thì thành quẻ Khôn, trở về tháng 10, hết vòng một năm.


 

Thành rồi hủy – Quẻ 12 tháng


 

Luật trong dương có âm, trong âm có dương có nghĩa là hiện tượng nào cũng chứa sẵn mầm tự hủy của nó. Trong sự thịnh có mầm của sự suy, trong sự trị có mầm của sự loạn, trong sự sống có mầm của sự chết. Cho nên có người bảo một đứa trẻ sinh ra là bắt đầu tiến tới sự chết, mà chết là bắt đầu sống lại một cuộc sống khác, là tái sinh dưới hình thức này hay hình thức khác. Không thể có dương mà không có âm, có sống mà không có chết, có thịnh mà không có suy, có trị mà không có loạn. Phải có đủ cả hai thì mới thành một hiện tượng được, mới thành vũ trụ được, cũng như bất kì vật nào cũng có mặt phải và mặt trái, xã hội nào cũng có thiện và ác.

 

Mọi sự biến trong vũ trụ chỉ là một tiến trình thành rồi hủy, hủy rồi thành. Dịch đã cho ta thấy rõ sự tiến trình đó trong những quẻ 12 tháng:


Tháng tư: Quẻ Càn 



Tháng năm: quẻ Cấu



 Tháng sáu: Quẻ Độn



 Tháng bảy: Quẻ Bỉ



 Tháng tám: Quẻ Quán



 Tháng chín: Quẻ Bác



 Tháng mười: Quẻ Khôn



 Tháng mười một: Quẻ Phục



 Tháng mười hai: Quẻ Lâm



 Tháng giêng: Quẻ Thái




 Tháng hai: Quẻ Đại Tráng


Tháng ba: Quẻ Quải 


 

Càn là lúc đã thành rồi, có 6 hào dương. Rồi bắt đầu hủy, quẻ Cấu: một hào âm đẩy một hào dương đi, còn năm hào dương, như vậy là hủy mất một phần sáu. Qua quẻ Độn, hủy thêm một phần sáu nữa, còn bốn hào dương, cứ tiếp tục như vậy mỗi tháng hủy thêm một phần sáu nữa, tới tháng mười thì sáu hào dương bị hủy hết mà thành sáu hào âm, quẻ Khôn.

 

Nhưng tháng mười một, quẻ Phục, lại bắt đầu dựng lại: Một hào dương đẩy một hào âm đi, tháng chạp thêm một hào dương nữa là hai, cứ mỗi tháng thêm một hào dương và tới tháng tư thì hoàn thành: 6 hào dương, quẻ Càn. Có lẽ theo người xưa tháng tư là có tiết lập hạ là tháng nóng nhất trong năm nên cả 6 hào đều là dương, tháng 10 có tiết lập đông là tháng lạnh nhất, 6 hào đều là âm.

 

Như vậy sự thành của dương là sự hủy của âm và ngược lại, sự thành của âm là sự hủy của dương.



 

Âm dương tương giao, tương thành


 

Âm dương tuy tương phản, trái ngược nhau đấy, nhưng không tương khắc như nước với lửa, mà tương giao, tương thôi, tương thế – gặp nhau, xô đẩy nhau, thay thế nhau – như ánh sáng và bóng tối, như nóng và lạnh. Hệ Từ hạ, Chương V bảo “(Tỉ như) mặt trời qua thì mặt trăng lại, mặt trăng qua thì mặt trời lại, mặt trời mặt trăng cảm ứng nhau mà ánh sáng phát ra: mùa lạnh qua thì mùa nóng lại, mùa nóng qua thì mùa lạnh lại, lạnh nóng (cảm ứng nhau) xô đẩy nhau mà thành ra năm tháng. Cái đã qua co rút lại, cái sắp tới duỗi dài ra, co rút (khuất), duỗi dài (thân), hai cái đó cảm ứng nhau mà ích lợi mới nảy ra”.

 

(Nhật vãng tắc nguyệt lai, nguyệt vãng tắc nhật lại, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sinh yên; hàn vãng tắc thử lai, thử vãng tắc hàn lai, hàn thử tương thôi nhi thế thành yên; vãng giã khất dã, lai giả thân dã, khuất thân tương cảm nhi lợi sinh yên).

 

Vậy chúng ta nên nói là âm dương tương giao, tương thôi (hơn là tương phản); và thay phiên nhau, theo một nhịp điệu nào đó, dài ngắn tùy hiện tượng, tùy thời, nhưng cứ cái này lên thì cái kia xuống, cái này xuống thì cái kia lên, mỗi cái làm chủ trong một thời rồi lại nhường chỗ cho cái kia.

 

Không những vậy, âm dương còn tương thành nữa. Chúng tương thành vì chúng bổ túc nhau: ngày sáng để vạn vật sinh hoạt, đêm tối để vạn vật nghỉ ngơi, hè nóng để vạn vật phát triển, đông lạnh để vạn vật gom lại sức. Tương thành còn vì một lẽ nữa: nếu cái nọ diệt cái kia thì không cái nào còn cả. Không còn âm thì cũng không còn dương, không còn dương thì làm sao có âm, mà vũ trụ, vạn vật cũng không có. Quan niệm tương phản mà tương thành đó là quan niệm phổ biến của Trung Hoa thời xưa, như Trương Kì Quân nói: “Các bậc thánh triết Trung Quốc thời xưa cho rằng bất kì sự vật gì cũng là một thể mà hai mặt; chỉ là biến hóa tương đối chứ không phân lập tuyệt đối; tương phản mà tương thành chứ không mâu thuẫn đấu tranh” (Trung Quốc cổ đại thánh triết dĩ vi nhiệm hà sự vật quân thuộc nhất thế chi lưỡng diện, thị tương đối địch biến hóa, phi tuyệt đối địch phân lập, tương phản tương thành, bất thị mâu thuẫn đấu tranh đích liễu).

 

Tương phản mà tương thành nghĩa cũng như câu “đồng qui nhi thù đồ” trong Hệ Từ hạ Chương V: tuy đường lối khác nhau nhưng đều đưa tới một nơi, một mục đích cả. Nắng mưa trái nhau, nhưng đều giúp cho cây cỏ tươi tốt, nóng lạnh trái nhau nhưng phải có đông có hạ mới đủ bốn mùa.

 

Trương Kì Quân cho rằng thuyết tương phản mà tương thành của Dịch mới xét tựa như biện chứng pháp của Hegel nhưng thực ra nghịch hẳn nhau vì một bên phản mà để tương thành, một bên phản để chống đối nhau (phản giả dĩ tương (bội)). Tôi cho nói như vầy có phần đúng hơn: một bên phản để tương thành, một bên phản để tương diệt, tự diệt, vì theo Hegel: thèse (chính) antithèse (phản) phản nhau để sau cùng hòa thành Synthèse (hợp) – như vậy chính (thèse) không còn, phản (antithèse) cũng không còn; còn theo Dịch thì âm dương tuy phản nhau mà giao với nhau, xô đẩy nhau, thay thế nhau để rốt cuộc cũng vẫn trở lại trạng thái cũ, chỉ thay phiên nhau tác động trong một thời gian để vũ trụ được điều hòa, vạn vật sinh trưởng thôi.

 

Triết Đông và Triết Tây khác nhau từ căn bản, đem so sánh với nhau thì thế nào cũng miễn cưỡng.



 

Âm dương tương cầu, tương ứng


 

Âm dương còn một tính cách nữa là tương cầu, tương ứng.

 

Có tương cầu, tương ứng thì mới gặp nhau, giao nhau mà sinh ra vạn vật (Nhị khí giao cảm hóa sinh vạn vật – Chu Liêm Khê)

 

Trong vũ trụ không loại nào không theo luật đó. Kinh Dịch diễn luật đó bằng sự tương quan giữa các cặp hào 1-4, 2-5, 3-6 mà chúng tôi đã trình bày trong chương IV – trang 83.

 

Khi âm dương tương ứng thì dương xướng mà âm họa, hợp tác với nhau như quẻ Càn và quẻ Khôn. Càn cương kiện, Khôn nhu thuận. Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc về phần khí, nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn như công của Càn, chỉ khác Khôn có đức thuận, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn mà tiếp tục công việc của Càn, còn khởi xướng thì phải là Càn. Đó là quan niệm chung của các dân tộc ở thời đại nông nghiệp, theo chế độ phu quyền.

 

Tóm lại âm dương tuy tính chất tương phản nhưng cũng tương ứng, tương cầu (tìm nhau), tương giao (gặp nhau) có tương giao mới tương thôi (xô đẩy nhau), tương ma (cọ xát nhau), tương thể (thay thế, bổ túc nhau) để tương thành (giúp nhau tự hoàn thành: có cái này thì mới có cái kia, có cái này thì cái kia mới làm tròn được nhiệm vụ của nó trong vũ trụ).

 

Quan trọng nhất là sự tương giao: giống đực giống cái, cả trời đất nữa (vì trời đất cũng chỉ là âm dương) có giao cảm với nhau rồi mới có vạn vật, vạn vật mới sinh nở biến hóa được.

 

Càn Khôn (tức âm dương) là cái cửa của Dịch (Hệ Từ hạ – Ch.VI). Dịch là Đạo âm dương, mà luật âm dương là tương giao, cho nên nghĩa thứ nhất của Dịch là giao dịch như cuối chương I chúng tôi đã nói.



 

Dịch là biến dịch

Âm dương đều động.

 

Muốn giao nhau thì cả dương lẫn âm đều phải động.

 

Hệ Từ Thượng truyện mở đầu bằng câu: “(Vì thấy) trời cao đất thấp (mà thánh nhân) vạch ra quẻ Càn và quẻ Khôn; (…) động và tĩnh đã có luật nhất định do đó mà phân biệt cương và nhu” (Thiên tôn địa ti, Càn Khôn định hĩ; (…) động tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hĩ).

 

Câu đó cho trời là Càn, động, cương; đất là khôn, tĩnh, nhu; trời đại biểu dương tính, đất đại biểu âm tính.

 

Như vậy chỉ có Càn (tức dương) mới động, còn Khôn (tức âm) thì tĩnh, động tĩnh cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau chăng? Không phải vậy, trong dương đã có âm, trong âm đã có dương thì trong động cũng có tĩnh, chỉ khác bản tính của dương hiếu động hơn tĩnh, bản tính của âm hiếu tĩnh hơn động. Xét câu này trong Chương 6 – Hệ Từ Thượng truyện thì rõ.

 

“Đạo Càn lúc tĩnh thì chuyên nhất, lúc động thì tiến thẳng, cho nên sức sinh ra của nó lớn. Đạo Khôn lúc tĩnh thì thu lại, lúc động thì mở ra, cho nên sức sinh ra của nó rộng” (Phù Càn, kì tĩnh đã chuyên, kì động đã trực, thị dĩ đại sinh yên. Phù Khôn, kì tĩnh dã hấp, kì động dã tịch[44] thị dĩ quảng sinh yên”.

 

Lại thêm Văn Ngôn truyện cũng bảo: “Đạo Khôn rất nhu (mềm) mà khi động thì cũng cương (cứng mạnh)”.

 

Hiển nhiên Dịch cho âm dương đều có thể động, có thể tĩnh.

 

Quan niệm động đó trong Dịch hợp với Đạo Đức Kinh, vì Lão Tử cũng nói: “Phản giả, Đạo chi động”:

 

Sự động (vận hành) của Đạo là quay trở về (ch.40).

 

Chương 5: “Thiên địa chi gian, kì do thác thược ồ? Hư nhi bất khuất, động nhi dũ xuất”: Khoảng giữa trời đất như ống bễ chăng? Hư không mà không kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng ra”.

 

Hình ảnh ống bễ đó với hình ảnh cái hang, gọi là mẹ nhiệm mầu, giá của trời đất ở chương 6 Đạo Đức Kinh (huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn) khiến ta liên tưởng đến hình ảnh “Kì động dã trực”, “Kì động dã tịch” trong Chương 6 Hệ Từ thượng dẫn trên. Cho trời là cha, đất là mẹ của vạn vật, Càn Khôn như nam và nữ, là tư tưởng phổ biến của Trung Hoa, có thể đã có trong dân gian từ đời Ân hay đời Thương.

 

… Rồi biến hóa.

 

Âm dương có động thì mới giao nhau, mới biến mà sinh sinh hóa hóa. Vậy Dịch cũng như Trung Dung (Chương 26) cho rằng động thì biến, biến thì hóa. Hệ Từ Thượng truyện – Chương XII bảo: “Càn Khôn là cái sâu kín hoặc chứa đựng cái nguyên nhân của đạo dịch chăng? Càn Khôn thành hàng rồi mà đạo Dịch lập nên ở trong. Càn Khôn bị phá thì còn gì để thấy đạo Dịch nữa? Dịch không thấy được thì cơ hồ Càn Khôn không thi hành được” (Càn Khôn kì Dịch chi uẩn da? Càn Khôn thành liệt nhi Dịch lập hồ kì trung hĩ. Càn Khôn hủy tắc vô dĩ kiến Dịch. Dịch bất khả kiến, tắc Càn Khôn hoặc cơ hồ tức hĩ).

 

Chữ dịch ở đây là biến dịch, tức đạo biến hóa trong vũ trụ. Mọi sự biến hóa đều từ Càn Khôn mà ra; không còn Càn Khôn tức âm dương thì không còn sự biến hóa. Mà nếu không có sự biến hóa, nghĩa là nếu âm dương không tác động lẫn nhau, không gặp nhau, thì “cô dương” không thể sinh, “độc âm” không thể thành; trong trường hợp đó âm dương sẽ bị tiêu diệt.

 

Mà sở dĩ có biến hóa là do âm dương cọ xát nhau, (…) sinh ra sấm sét, gió mưa, mặt trời mặt trăng xoay vần, cứ lạnh rồi tới nóng (Hệ Từ thượng – Ch.1).

 

Từ sự biến hóa đó sinh ra vạn vật (sinh sinh chi vị dịch).

 

Trật tự trong sự biến hóa.

 

Sự biến hóa trong vũ trụ theo một trật tự nhất định:

 

     Theo luật tôn ti: “Thiên tôn địa ti.” Trời cao đất thấp, trời tôn mà đất tiện.

     Thuận lẽ tự nhiên:

“Trời đất động mà thuận theo lẽ tự nhiên, cho nên mặt trời mặt trăng, phần đêm phần ngày chẳng bao giờ sai lầm, mà khí hậu bốn mùa chẳng bao giờ sai suyễn” (Thiên địa dĩ thuận động, cố nhật nguyệt bất quá nhi tứ thời bất thắc – Thoán truyện – Quẻ Dự).

 

     Có chừng mực:

“Trời đất có chừng mực nên mới thành bốn mùa” (Thiên địa tiết nhi tứ thời thành – Thoán truyện – Quẻ Tiết).

 

Khí vận của trời đất, mùa nắng mùa mưa, mùa nóng mùa lạnh đều có chừng mực, xuân không xuân hoài, thu không thu mãi, hạ không kéo dài quá, đông không ngắn quá, có vậy mới thành bốn mùa được.

     Hằng cửu (lâu dài hoài) mà không thôi, nghĩa là theo một luật nào đó thì theo hoài chứ không lúc thế này lúc thế khác.

“Đạo của trời đất hằng cửu mà không thôi” (Thiên địa chi đạo hằng cửu nhi bất dĩ dã – Thoán truyện – Quẻ Hằng).

     Biến theo trình tự mới đầu thì từ từ, từng bước (tiệm biến) rồi cuối cùng biến mạnh (đột biến), lúc đó gọi là hóa.

Hào 1 quẻ Khôn nói: “Đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến” (Lí sương, kiên băng chí). Bắt đầu mùa lạnh, khí lạnh mới kết lại thành sương, rồi lần lần lạnh hơn, sương dày hơn, như vậy trong một hai tháng (tiệm biến) sau cùng khi lạnh tới một độ nào đó thì chỉ trong một đêm, nước đông lại, đột biến mà hóa thành băng.

 

Xét quẻ của 12 tháng ở trên, chúng ta thấy từ quẻ Càn đến quẻ Bác có sự tiệm biến của khí âm (mỗi tháng thêm một hào âm), rồi từ quẻ Bác qua quẻ Khôn có sự đột biến thành một quẻ Thuần âm, trái ngược với quẻ thuần dương là Càn lúc đầu. Từ quẻ Khôn đến quẻ Quải cũng vậy, nhưng ngược lại: khí dương tiệm biến (mỗi tháng thêm một hào dương), sau cùng quẻ Quải đột biến thành quẻ Càn thuần dương, trái ngược với quẻ Khôn lúc đầu.

 

Văn Ngôn truyện đưa một thí dụ thuộc về nhân sự.

 

“Nhà nào tích lũy điều lành thì có thừa phúc (để đến đời sau). Nhà nào tích lũy điều chẳng lành thì tất có thừa tai vạ (để đến đời sau). Như việc bề tôi giết vua, con giết cha, nguyên do không ở trong một buổi sớm buổi chiều, tất dần dà có từ lâu rồi, mà người ta không biết lo toan từ sớm vậy”. (Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương. Thần thí kì quân, tử thí kì phụ, phi nhất triều nhất tịch chi cố, kì sở do lai giả tiệm hĩ. Do biên chi bất tảo biện dã) “Dần dà có từ lâu” (Kì sở do lại giả tiệm hĩ) là tiệm biến; mà sự bề tôi giết vua, con giết cha (Thần thí kì quân, tử thí kì phụ) là đột biến, là hóa.

 

Trong Kinh Dịch có nhiều quẻ nói về sự tiệm biến, như quẻ Phệ hạp khuyên nhà cầm quyền phải răn đe dân từ khi dân mới mắc phải tội nhỏ (hào 1), nếu không dân sẽ quen làm bậy, ác cứ tích lũy mà mắc tội lớn (hào 6). Rõ ràng nhất là quẻ Tiệm (tiến lần lần), từ hào 1 đến hào 6, con chim hồng tiến lần lần từ mặt nước lên đến bờ, lên phiến đá, đất bằng, cành cây, gò cao rồi sau cùng vụt một cái bay bổng lên trời.

 

Về sự đột biến thì có quẻ Cách, Hào Từ khuyên phải hành động ra sao khi muốn cuộc cải cách lớn, một cuộc cách mạng chẳng hạn.

 

Tóm lại Dịch có nghĩa thứ hai là biến dịch. Có biến thì mới hóa mà thông được (qua lại không cùng thì gọi là thông: vãng lai bất cùng vị chi thông – Hệ Từ thượng 12), nếu không thì tới một lúc nào đó phải ngưng trệ phải hết, không thông được, vũ trụ không trường tồn được. Nhưng biến phải theo một trật tự nào đó, phải có qui luật, mà nói đến qui luật là nói đến cái gì bất biến rồi. Do đó Dịch còn có nghĩa thứ ba là bất biến bất dịch nữa, mà tôi sẽ xét trong đoạn dưới.



 

Dịch là bất dịch

Luật mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích


 

Sự biến hóa trong vũ trụ diễn tiến theo một qui luật bất di bất dịch. Qui luật đó, Trung Hoa gọi là thường.

 

Triết gia đầu tiên dùng chữ thường theo nghĩa đó có lẽ là Lão Tử.

 

Đầu Đạo Đức Kinh ông bảo: “Đạo khả đạo phi thường đạo”: Cái Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là Đạo vĩnh cữu bất biến.

 

Ông lại nói: “Biết rõ qui luật “thường” là sáng suốt; không biết qui luật “thường” mà làm bừa làm bậy thì gặp điều không lành” (Tri thường viết minh; bất tri thường, vọng tác, hung – Ch.16).

 

Hệ Từ Thượng truyện (Ch.1) cũng nói đến qui luật “thường”: “động tĩnh hữu thường” và quan niệm rằng: Thiên hạ rất động nhưng vì có qui luật thường nên động đấy mà không thể rối loạn được… (thiên hạ chi chí động nhi bất khả loạn dã – Hệ Từ thượng – Ch.13), và chính là theo qui luật thường đó mà vũ trụ vạn vật chuyển động biến hóa (Thiên hạ chi động trinh phù nhất giả dã – Hệ Từ hạ – Ch.1)

 

Qui luật thường đó là gì? Là âm dương thay lẫn nhau, cứ một cái tiến thì một cái lùi, một cái lùi thì một cái tiến. Biến hóa chỉ là sự tiến lui của âm dương thôi. “Biến hóa giả, tiến thoái chi tương dã, cương nhu giả, trú dạ chi tương dã”: Biến hóa là hình tượng của sự tiến thoái; cương (tức dương) nhu (tức âm) là hình tượng của ngày đêm, nghĩa là của sự thay phiên nhau (Hệ Từ thượng – Ch.2)

 

Hệ Từ hạ Ch.1 cũng diễn ý đó:

 

“Cát và hung luôn luôn thắng lẫn nhau theo một luật nhất định” (Cát hung giả, trinh thắng giả dã). Việc đời không cát thời hung, hết cát lại hung, hết hung lại cát. Cát hung đó nên hiểu là dương và âm, là trời và đất, là mặt trời mặt trăng, là ngày đêm v.v…; cho nên tiếp theo câu trên là câu: “Thiên địa chi đạo trinh quan giả dã, nhật nguyệt chi đạo trinh minh giả dã (Đạo trời đất chỉ bảo cho ta luật đó, đạo mặt trời mặt trăng sáng tỏ theo luật đó).

 

Coi lại quẻ của 12 tháng ở trên ta thấy từ quẻ Cấu hào âm lần lần thay thế hào dương, âm tiến tới đâu dương lui tới đó, cuối cùng cả 6 hào dương nhường cho 6 hào âm thành quẻ Khôn; rồi lại tới phiên hào dương lần lần thay thế hào âm, dương tiến tới đâu, âm lui tới đó, cuối cùng cả 6 hào âm nhường chỗ cho 6 hào dương mà thành quẻ Càn. Nhờ vậy mới biến hóa vô cùng được; nếu không thì sẽ chỉ có “cô dương” hay “độc âm” mà không có năm tháng, không có bốn mùa, không có vũ trụ.

 

Dương thịnh cực thì suy lần, để cho âm thịnh lên; khi âm thịnh cực thì cũng suy lần để cho dương thịnh lên. Khắp vũ trụ, không đâu và không thời nào không có luật đó. Từ sự vận hành của mặt trời mặt trăng, sự qua lại của bốn mùa, sự lên xuống của thủy triều, sự thịnh suy của một dân tộc, một quốc gia, một họ, sức lực, trí tuệ của cá nhân v.v… không cái gì không theo luật thịnh suy: “Mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích”[45] (đầy thì sẽ vơi, thiếu thì sẽ được thêm).

 

Hào 3 quẻ Tổn bảo: “Ba người cùng đi thì bớt đi một người, một người đi (một mình) thì được thêm bạn” (Tam nhân hành tắc tổn nhất nhân, nhất nhân hành tắc đắc kì hữu) là nghĩa đó.

 

Cho nên quẻ Ích (Tăng lên) vốn là tốt mà hào cuối lại xấu: tràn thì cuối cùng phải đổ; mà quẻ tổn (Giảm đi) vốn xấu mà cuối cùng lại tốt: vơi thì được thêm. Xấu như quẻ Cổ (Đổ nát) mà Thoán Từ khen là tốt chỉ vì đổ nát thì phải làm lại, canh tân; mà canh tân là điều rất tốt. Không có gì suy cực mà không thịnh lên, tới lúc cùng mà không bắt đầu trở lại.

 

Quẻ Khốn (Khốn đốn) là thời khó khăn đến cực điểm, năm hào dưới đều xấu, mà hào trên cùng, Hào Từ cho là sẽ tốt nếu biết thận trọng, ăn năn.

 

Vậy thì trong họa vẫn nấp phúc, như quẻ Khuê (Chia lìa) hào 6; mà trong phúc vẫn núp họa như quẻ Phong (Thịnh lớn), hào 6; hoặc như quẻ Dự (Vui) vốn tốt mà chỉ có hai hào (2 và 4) là tốt, còn 4 hào kia đều xấu nhiều hay ít cả.

 

Câu “Họa hề phúc chi sở ý, phúc hề họa chi sở phục” (Họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ núp của họa), và câu “sinh ư ưu hoạn, nhi tử ư an lạc” của Mạnh Tử đều diễn cái luật thịnh suy đó cả.

 

Tác giả Tự Quái truyện đã có ý muốn ta chú ý tới luật đó nên sau mỗi quẻ thường đặt một quẻ ý nghĩa ngược lại, như sau quẻ Thái tới quẻ Bỉ, sau quẻ Bác tới quẻ Phục, sau quẻ Tổn tới quẻ Ích, sau quẻ Kí Tế với quẻ Vị Tế v.v…[46]



 

Luật phản phục, tuần hoàn


 

Âm dương thay thế nhau được do một luật bất biến, một luật “thường” là thịnh cực tắc suy, vật cùng tắc biến, mà biến là phản phục. Quẻ Càn (dương) khi suy tới cùng, 6 hào dương bị hào âm chiếm ngôi hết thì thành quẻ Khôn; nhưng tiếp theo quẻ Khôn là quẻ Phục, một hào dương lại sinh. Khôn là âm thịnh cực, từ đó lại suy lần, khi suy tới cùng, 6 hào âm bị 6 hào dương chiếm ngôi hết thì lại trở thành quẻ Càn, rồi tiếp theo quẻ Càn là quẻ Cấu, một hào âm lại sinh.

 

Luật phản phục, tuần hoàn cũng là một luật “thường”, bất dịch của Dịch.

 

Luật phản, phục là luật diễn biến trong vũ trụ mà dân tộc Trung Hoa đã nhận thấy từ khi chưa có Kinh Dịch. Xem sự vận hành của mặt trời mặt trăng, của bốn mùa v.v… họ thấy sự vật diễn biến theo một phương hướng nào đó, khi tới mức cùng tột không thể tiến triển được nữa thì chuyển biến mà quay trở lại theo chiều nghịch với phương hướng cũ, cứ như thế mãi, không bao giờ thôi. Từ cực thịnh qua suy vi tới diệt vong – như từ quẻ Càn tới quẻ Cấu, quẻ Độn, quẻ … tới quẻ Khôn gọi là phản. Từ quẻ diệt vong lại phát sinh để tiến triển đến chỗ cực thịnh – như từ quẻ Khôn tới quẻ Phục, quẻ Lâm, quẻ Thái… tới quẻ Càn – gọi là phục. Sự phản phục đó là phản phục của khí dương. Sự phản phục của khí âm ngược lại: thời phản của dương là thời phục của âm, thời phục của dương là thời phản của âm. Cứ một lần phản, một lần phục, phục rồi lại phản, như vậy thành luật tuần hoàn.

 

Tôi sở dĩ đoán rằng quan niệm phản phục xuất hiện trước khi có Kinh Dịch, vì Kinh Dịch là sách đầu tiên nói tới luật đó.

 

Hào Từ quẻ Thái nói: “Không có gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại” (Vô bình bất pha – vô vãng bất phục – Hào 3).

 

Thoán Từ quẻ Phục nói rõ hơn: “Đạo (Vận) trời tráo đi trở lại, cứ bảy ngày thì trở lại” (Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục).

 

Chữ ngày (nhật) ở đây thay cho chữ hào mỗi ngày là một hào, một lần biến; cứ bảy ngày thì trở lại, vì từ quẻ Cấu một hào âm sinh ở dưới cùng, tới quẻ Độn, quẻ , quẻ Quán, quẻ Bác, quẻ Khôn, quẻ Phục, như vậy là bảy quẻ (tính cả quẻ Cấu theo lối Trung Hoa). Có lẽ do câu đó mà y học Trung Hoa cho rằng khí huyết người ta bảy ngày thì thay đổi.

 

Về khí tiết trong một năm thì là bảy tháng, từ tháng năm (quẻ Cấn) tới tháng mười một (Quẻ Phục).

 

Sau Dịch Kinh (Thoán Từ của Văn Vương, Hào Từ của Chu Công) sách nói nhiều nhất đến phản phục là Đạo Đức Kinh của Lão Tử: “Vật cực tắc phản” – Ch. 36; “Phản giả đạo chi động” – Ch.40 – nhất là:

 

“Phù vật vân vân, các qui kì căn”: Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng – Ch. 16; và

 

“Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản”: Đạo lớn là đi, đi là đi xa, đi xa là quay trở lại” – Ch.25.

 

Sau Đạo Đức KinhDịch truyện:

 

     Quẻ Thái: “Vô vãng bất phục”: Không có gì đi mà không trở lại.

 

     Quẻ Cổ: “Chung tắc hữu thủy, thiên hành dã”: Hết rồi thì bắt đầu lại, đó là sự vận hành của trời.

     Quẻ Phong: “Nhật trung tắc trắc, nguyệt doanh tắc thực”: Mặt trời tới đỉnh đầu rồi thì xế, mặt trăng đầy rồi thì khuyết.

 

Nhờ luật phản phục đó mà sự vật trong vũ trụ không bị tắc, bị cùng, mới thông được, mới sinh sinh hóa hóa hoài được; vì vậy “xét quẻ (hay đạo) Phục (trở lại) mà biết được lòng hiếu sinh của trời đất” (Phục kì kiến thiên địa chi tâm – Quẻ Phục – Thoán truyện.)

 

Tác giả Tự Quái truyện cũng cố làm nổi bật cái luật “vật cực tắc phản” khi viết:

 

“Quẻ Lí thì an thích (hay thông thuận) mà sau được yên ổn, cho nên sau quẻ Lí tiếp tới quẻ Thái; Thái là thông, vật không thể thông thuận hoài, cho nên tiếp theo là quẻ , vật không thể bĩ hoài, cho nên tiếp theo là quẻ Đồng nhân…” và để diễn cái ý vũ trụ biến dịch vô cùng, không lúc nào hết, không lúc nào cùng, cho nên sau quẻ Kí Tế (việc đã xong rồi) tiếp tới quẻ Vị Tế (chưa xong), như vậy đúng với câu “chung tắc hữu thủy” trong Thoán truyện quẻ Cổ.

 

Tóm lại luật âm dương (vũ trụ) lúc nào cũng động, mà động sinh ra biến, biến tới cùng thì quay trở lại (phản phục) để cho được thông, có thông thì mới vĩnh cữu, tồn tại hoài được. Luật “Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu” (Hệ Từ hạ 2). Luật tuần hoàn đó là một luật “thường”, bất dịch khiến cho Dịch có ý nghĩa thứ 3 là bất dịch, sau hai ý nghĩa giao dịch, biến dịch.

 

Phản phục là phản tiến bộ?

 

Các triết gia Trung Hoa tin luật tuần hoàn, cho rằng vũ trụ, xã hội vận hành trên một vòng tròn. Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử, Dịch học phái gọi luật đó là “phản phục”, quay về lúc đầu, mà lúc đầu theo


các nhà đó là dương và âm; còn Lão Tử thì gọi là “qui căn” trở về gốc, gốc tức là vô (từ vô sinh hữu). Vì vậy mà có người bảo người Trung Hoa không có ý thức về sự phát triển, không như người phương Tây cho rằng vũ trụ, xã hội phát triển theo vòng trôn ốc, mỗi ngày vòng mỗi mở rộng ra, có tiến bộ.

 

Không có ý thức về sự phát triển nên người Trung Hoa có tinh thần thủ cựu, hiếu cổ. Nho, Mặc muốn trở về thời Nghiêu Thuấn, Lão còn muốn trở về thời xã hội nguyên thủy, Trang muốn trở lại trước thời nguyên thủy đó, thời chưa có tổ chức xã hội nữa. Ngay các pháp gia như Hàn Phi tuy không muốn trở lại thời trước, (họ cho mỗi thời một khác, thời nào có chính trị của thời ấy) mà cũng nhận Nghiêu Thuấn là những thánh vương thời cổ. Hoàng kim thời đại của dân tộc Trung Hoa ở sau lưng họ, thời Nghiêu Thuấn, chứ không ở trước mặt họ. Đó là lí do khiến họ không tiến được.

 

Lời chê đó có lí một phần. Nhưng tâm lí con người ở nơi nào, thời nào mà chẳng tiếc dĩ vãng, cho hiện tại kém xa dĩ vãng. Hoàng Kim thời đại của phương Tây, thời chúa Ki Tô chẳng hạn còn lùi xa hơn Hoàng kim thời đại của Khổng Lão, lùi về tận thời ông Adam và bà Eva mới sinh kia. Và ngay bây giờ đây, mỗi người phương Tây có tới một trăm tên nô lệ (tức máy móc) phục vụ, có Thiên Lí Nhãn, Thiên Lí Nhĩ, bay cả được lên cung trăng, hơn trong truyện Phong Thần nữa, mà có biết bao người Âu, Mĩ, từ triết gia, khoa học tới thanh niên ước ao trở lại cuộc đời giản dị, sống gần thiên nhiên như thời kì nông nghiệp.

 

Khổng Tử và Lão Tử không phải là không biết tiến bộ kĩ thuật. Khổng còn dùng cả những tiến bộ đó nữa nên ông ngồi xe nhà Ân kiên cố hơn xe Nghiêu Thuấn, đội mũ miện nhà Chu, đẹp hơn mũ thời Nghiêu Thuấn (Luận Ngữ XV.10) Lão cực đoan hơn, muốn bỏ hết những tiến bộ kĩ thuật đi: có khí cụ gấp chục gấp trăm sức người mà không dùng, có thuyền xe mà không ngồi, bỏ cả văn tự, dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ (Đạo Đức Kinh, Chương 80). Hai nhà đó chỉ buồn rằng thời họ nhân tâm hư hỏng, đạo lí suy vi, xã hội loạn lạc mà con người khổ sở hơn thời trước. Có thể họ hơi quá bi quan, nhưng ngay thời đại chúng ta cũng cho rằng kĩ thuật không chắc đã tạo thêm hạnh phúc cho con người. Năm 1972 hai nhà bác học Anh, Edward Goldsmith và Rober Allen, sau Erza Mishan, đã đề nghị chẳng những ngưng sự phát triển kĩ thuật mà còn nên thụt lùi lại một thế kỉ nữa, và đề nghị của họ được 33 bác học Anh nổi tiếng về khoa sinh vật học, kinh tế học, sinh thái học… vui vẻ đỡ đầu. Họ cho chỉ có cách đó là cứu vãn được nhân loại, giảm những sự tranh giành, tàn sát nhau, giảm sự bất quân, bất công mà tăng hạnh phúc trên thế giới. Người ta gọi họ là bọn Zégist, một từ mới được tạo ra để trỏ những người muốn chặn đứng sự phát triển kĩ thuật. Có gì mới mẻ đâu? Lão Tử đã là ông tổ của họ từ non 2.500 năm trước rồi.

 

Vậy bảo rằng người Trung Hoa không có ý thức về sự phát triển, có lẽ không đúng lắm; họ chỉ chú trọng đạo lí nhất thôi, họ cho rằng chỉ có sự cải thiện con người, tăng hạnh phúc cho con người mới đáng gọi là tiến bộ, mà quan niệm đó là quan niệm chung của các triết gia Đông, Tây thời cổ, không chắc đã là hậu quả của thuyết phản phục, tuần hoàn.



 

Định mệnh


 

Chúng tôi sẽ không xét thuyết Tượng số trong Dịch truyện (Hệ Từ truyện) vì không hiểu thuyết đó, không thấy nó có ích lợi cho nhân sinh.

 

Để kết thúc chương này, chúng tôi xin xét qua về quan niệm định mệnh trong Dịch.

 

Trước Văn Vương, Chu Công, người nào đặt ra phép bói Dịch tất tin rằng có một sự an bài, một định mệnh nghĩa là sự việc biến chuyển ra sao, xấu hay tốt đã định rồi. Bậc “Thánh nhân” đã “thần minh để biết trước việc sẽ tới, lại sáng suốt để chứa những kinh nghiệm cũ” (Hệ Từ thượng – Ch.11).

 

Hệ Từ hạ, Chương 6, lại nói: “Dịch làm rõ cái đã qua mà xét cái sắp tới, làm sáng tỏ cái kín đáo, mở cái bí mật” (Dịch chương vãng nhi sát lai, nhi vi hiển triển u).

 

Cho nên “người quân tử sắp làm hay tiến hành việc gì thì dùng lời (khấn) mà hỏi Dịch. Dịch nhận được lời hỏi và trả lời nhanh như tiếng vang. Không kể xa gần, sâu tối, Dịch cũng biết được cái gì sẽ xảy ra. Nếu Dịch không phải là cái gì rất tinh vi trong thiên hạ thì đâu làm được như vậy? (Quân tử tương hữu vi dã, tương hữu hành dã, vấn yên nhi dĩ ngôn. Kì thụ mệnh dã như hưởng. Vô hữu viễn cận, u thâm, toại tri lai vật. Phi thiên hạ chi chí tinh, kì thục năng dự ư thử? – Hệ Từ thượng Ch.10).

 

“Dịch không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, yên lặng không động, nó chỉ cảm mà thấu được các biến cố trong thiên hạ. Nếu nó không phải là cái thần diệu tột bực trong thiên hạ thì đâu làm được như vậy? (Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố. Phi thiên hạ chi chí thần, kì thực năng dự ư thử – Như trên).

 

Chữ Dịch trong đoạn đó nên hiểu là những người tìm ra được phép bói Dịch. Phép bói đó có thật là “thần” không, chúng tôi không dám bàn tới. Có những người rất thông minh tin nó như nhà bác học nổi danh khắp thế giới Jung, mà có nhiều người cũng rất thông minh không tin nó.

 

Văn Vương, Chu Công và các tác giả Dịch truyện tin nó và rán đem những luật âm dương ai cũng nhận thấy trong vũ trụ để giảng cho nó bớt tính cách huyền bí đi; rồi sửa lại thuyết định mệnh trong Dịch, coi nó là một luật tự nhiên, nó chỉ cho ta biết cái hướng theo đó sự việc sẽ xảy ra; (Hệ Từ thượng – Ch.3 – đoạn 5) và nếu ta nhiều khi không thể sửa cái hướng đó được thì cũng có thể tránh nó hoặc tìm một thái độ thích hợp để thêm tốt lên hoặc xấu đi, để “xu cát tị hung”.

 

Chẳng hạn:

 

     Quẻ Thái hào 3, ở vào thời thịnh cực rồi, sắp suy, Hào Từ của Chu Công khuyên: “Không có gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại, trong cảnh gian nan mà giữ được chính nghĩa thì không lỗi. Đừng lo phiền, cứ tin ở điều chính (điều phải) thì được hưởng phúc”.

     Quẻ Thăng hào 6 khuyên: “Hào này hôn ám, ở cuối thời Thăng là đã lên đến cùng cực rồi mà còn muốn lên nữa, nếu đổi lòng ham đó thành lòng tự cường, sửa được cho hợp đạo không bao giờ nghỉ thì có lợi, lại tốt”.

 

     Quẻ Tủy hào 4: “Thu hoạch được lớn đấy, nhưng dù lẽ vẫn ngay mà cũng có thể hung được. Cứ giữ lòng chí thành, theo đạo lí, lấy đức sáng suốt mà ứng phó thì không có lỗi”.

     Quẻ Cách hào 6: “Công việc cải cách đến đây đã xong, nên ngừng lại, tiến nữa thì xấu, cứ giữ vững chính đạo thì tốt”.

 

Vậy tốt hay xấu, họa hay phúc tuy do cái thời nó sẽ tới như vậy, nhưng phần lớn cũng do cách mình ứng phó nữa.

 

Người sáng suốt áp dụng Dịch thì phải nhận cái tự nhiên nó sắp thay đổi mà tài chế nó, như vậy là biết “biến” (Hóa nhi tài chi vị chi biến – Hệ Từ thượng – Ch.12).

 

Cát hung tùy ở mình hơn ở thời cuộc, hoàn cảnh, lòng mà thiện thì cát, ác thì hung, đó là ý nghĩa câu: “Cát hung dĩ tình thiên” trong Hệ Từ hạ – Ch.12. Có tinh thần đó thì “khi muốn hành động, xem sự biến hóa mà ngẫm nghĩ lời đoán của quẻ (tìm cách đối phó với hoàn cảnh) mà gặp tốt không có gì chẳng lợi, được trời giúp cho” (động tắc quan kì biến nhi ngoạn kì chiêm, thị dĩ tự thiên hữu chi, cát vô bất lợi – Hệ Từ thượng – Ch.2).

 

Hiểu cái lẻ “âm dương tương thôi” thịnh suy thay nhau lên xuống, thì “khi yên ổn không quên rằng sẽ có thể nguy, khi vững không quên rằng sẽ có thể mất, khi trị không quên rằng sẽ có thể loạn. Nhờ vậy mà thân yên, nước vững” (an nhi bất vong nguy, tồn nhi bất vong vong, trị nhi bất vong loạn; thị dĩ thân an nhi quốc khả bảo dã – Hệ Từ hạ – Ch.5).

 

Tóm lại Dịch cho rằng có số mạng nhưng con người vẫn sửa đổi số mạng được phần nào.


Chú thích 7

            [42]. Có lẽ tác giả đặt hình Tứ Tượng ở trên hình Bát Quái, nên mới bảo: trong bốn hình, hình Lưỡng Nghi và hình Tứ Tượng là hai hình trên cùng. (Goldfish).


 

            [43]. Trong mấy câu đó, đạo không có nghĩa là bản căn vũ trụ như Đạo của Lão, mà có nghĩa là luật biến hóa trong vũ trụ.


 

            [44]. Chúng ta để ý: hai câu này (“kì tĩnh đã chuyên, kì động đã trực” và “kì tĩnh dã hấp, kì động dã tịch”) cho sự giao cảm của Càn Khôn y như sự hợp hoan của nam nữ.


 

            [45]. Câu này trong Kinh Thư. Trong Chu Dịch (Nxb Khai Trí, năm 1969, trang 780-781), cụ Phan Bội Châu, giảng quẻ Phong lôi Ích, bảo: “Kinh Thư có câu: Mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích 滿招損, 謙受益, tràn đầy tất nhiên bị đổ, mà mang lấy tổn, Khiêm hư thời nhiều người giúp, mà thụ được ích”. (Goldfish).


 

         [46]. Theo Huỳnh Ngọc Chiến, trong bài “Từ Phusis (fusis) Heidegger đến Tồn Lưu Bùi Giáng”, thì: “Bản thân chữ Dịch , gồm hai chữ nhật nguyệt (dạng biến thể) ghép lại. Chữ nhật (mặt trời) tượng trưng cho sự bất biến và nguyệt (mặt trăng) tượng trưng cho sự biến dịch, đổi thay. Cho nên trong chữ Dịch ngoài nghĩa là biến dịch, thay đổi vẫn hàm ý sự bất biến nữa”. (http://www.e-thuvien.com/forums/show…?t=6285&page=5, post #41). (Goldfish).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét