Trương Nghi phá kế hợp tung |
26. SỬ KÝ TƯ MÃ THIÊN
Trương Nghi là người nước Ngụy. Trước cùng Tô Tần theo học Quỷ Cốc tiên sinh. Tô Tần tự cho mình kém Trương Nghi về học thuật. Trương Nghi học xong đi du thuyết các chư hầu. Nghi có lần theo tướng quốc nước Sở uống rượu, sau đó tướng quốc nước Sở mất ngọc bích. Môn hạ ngờ cho Trương Nghi, nói:
- Nghi nghèo không có nghề ngỗng gì, nhất định hắn lấy trộm ngọc bích của tướng quân.
Họ bắt Trương Nghi đánh vài trăm roi, Nghi không nhận tội. Họ tha cho. Vợ Nghi nói:
- Hừ! Nếu chàng không đọc sách đi du thuyết thì sao đến nỗi phải cái nhục này?
Trương Nghi bảo vợ:
- Nhìn xem lưỡi ta còn không?
Vợ cười:
- Lưỡi còn.
Nghi nói:
- Được rồi? (1)
Tô Tần không bao lâu thuyết phục được Triệu Vương theo hợp tung và cầm đầu việc hợp tung với các nước. Song ông ta sợ nước Tần đánh chư hầu, sẽ hỏng mất ước tung. Nghĩ không ai có thể cầm quyền ở Tần ngoài Trương Nghi, Tô Tần bèn sai người gợi ý cho Trương Nghi nói:
- Ông trước quen Tô Tần, nay Tần đã cầm quyền, sao ông không đến chơi nhờ giúp để đạt chí nguyện của mình.
Thế là Trương Nghi sang Triệu, đưa danh thiếp xin yết kiến Tô Tần, Tô Tần bèn dặn bọn môn hạ đừng thông báo và không có đi đâu trong vài hôm. Sau đó, Tần tiếp kiến Nghi, để Nghi ngồi dưới thềm, cho Nghi ăn cơm của hạng đầy tớ nàng hầu, nhân nhiếc Nghi:
- Tài năng như ngươi mà lại để khốn nhục thế à? Ta không phải là không thể nói để ngươi được giàu sang, nhưng ngươi không đáng được dùng.
Bèn từ tạ đuổi đi.
Trương Nghi tự cho mình là bạn cũ đến nhờ giúp đỡ, không ngờ lại bị sỉ nhục nên tức giận. Nghĩ chư hầu không đâu có thể nhờ được, chỉ có nước Tần mới làm khổ được Triệu, Nghi bèn đi vào Tần.
Sau đó, Tô Tần bảo môn hạ:
- Trương Nghi là hiền sĩ trong thiên hạ, ta không thể bằng. Nay ta may được dùng trước, mà chỉ có một mình Trương Nghi là có thể cầm quyền binh ở Tần. Song anh ta nghèo, không có cách gì để tiến thân. Ta sợ anh ta ham cái lợi nhỏ mà không thành đạt, cho nên mời đến làm nhục để trêu tức. Ngươi hãy vì ta giúp ngầm ông ta.
Đoạn, Tô Tần nói với Triệu Vương phát cho tiền của xe ngựa cho người lén lút theo Trương Nghi ở cùng nhà trọ, dần dần thân mật, đưa cho Nghi tiền bạc, xe ngựa, Nghi muốn gì thì chu cấp cho ngay, nhưng không nói. Trương Nghi nhờ vậy được yết kiến Tần Huệ Vương. Huệ Vương cho làm khách khanh, cùng mưu đánh chư hầu. Người môn hạ của Tô Tần bèn từ giã ra đi. Trương Nghi nói:
- Nhờ ông mới được hiển đạt, tôi sắp báo ơn sao ông lại đi?
Người kia nói:
- Không phải tôi biết ngài đâu, biết ngài là Tô Quân. Tô Quân lo Tần đánh Triệu, hỏng mất điều ước hợp tung. Lại cho rằng ngoài ngài ra, không ai có thể nắm được quyền bính nước Tần, cho nên trêu tức ngài rồi ngầm sai tôi theo hầu hạ tư cấp cho ngài làm trọn mưu kế của Tô Quân. Nay ngài đã được dùng, tôi xin về báo.
Trương Nghi nói:
- Than ôi? Thế là ta mắc mưu Tô Quân mà không biết, rõ ràng ta không bằng Tô Quân. Ta lại mới được dùng làm sao nghĩ đến việc đánh Triệu được? Ông tạ ơn Tô Quân hộ ta. Trong thời còn Tô Quân, Nghi đâu dám nói chuyện đánh Triệu? Vả lại, Tô Quân còn đấy, Nghi dám làm trò gì được?
Sau khi làm thừa tướng nước Tần, Trương Nghi bèn viết tờ hịch bảo tướng quốc nước Sở: “Trước ta theo ngươi uống rượu, ta không lấy trộm ngọc bích của ngươi, ngươi đánh đòn ta. Ngươi hãy lo giữ nước cho khéo, ta sẽ có ngày lấy trộm thành của ngươi đấy”.
Đất Ba và đất Thục đánh nhau, đều đến cầu cứu Tần. Tần Huệ Vương muốn đem quân đánh Thục, nhưng ngại đường sá hiểm trở, nhỏ hẹp khó đi. Hàn lại đến xâm lấn; muốn đánh Hàn trước, sau sẽ đánh Thục, nhưng sợ không lợi; muốn đánh Thục trước nhưng lại sợ Hàn đánh úp Tần. Huệ Vương do dự chưa quyết. Tư Mã Thác cùng Trương Nghi tranh luận ở nước mặt Huệ Vương. Tư Mã Thác(2) muốn đánh Thục. Trương Nghi nói:
- Chẳng bằng đánh Hàn.
Huệ Vương nói:
- Xin nói tại sao?
Nghi nói:
- Thân với Ngụy, làm bạn với Sở, đem quân xuống Tam Xuyên, ngăn chặn cửa Thập Cốc, làm chủ đường Đồn Lưu. Ngụy cắt đứt Nam Dương, Sở đến gần Nam Trịnh, Tần đánh Tân Thành, Nghi Dương để đến gần ngoại đồng của hai Chu(3), trách tội Chu Vương xâm lấn đất của Sở, Ngụy. Chu tự biết không thể cứu được tất phải đem đồ báu và chín vạc(4) ra. Giữ lấy chín vạc, cầm lấy địa đồ, sổ sách, lấy thế thiên tử để ra lệnh cho thiên hạ, thiên hạ ai dám không nghe theo! Ấy là nghiệp vương đấy. Nay Thục là nước xa tít về phía Tây, và thuộc hạng Nhung, Địch. Ta làm lính mệt, dân chúng vất vả nhưng không đủ để nổi danh: được đất của nó không đủ để làm lợi. Thần nghe nói “tranh danh ở triều, tranh lợi ở chợ”. Nay Tam Xuyên, Chu Thất tức là triều và chợ của thiên hạ, mà đại vương không tranh, lại tranh Nhung, Địch, thế là còn cách xa vương nghiệp lắm.
Tư Mã Thác nói:
- Không phải. Thần nghe nói: vị vua muốn nước giàu thì cốt được ruộng đất; vị vua muốn binh mạnh thì cất được dân giàu; vị vua muốn làm vương thì cất được đức rộng lớn. Có ba điều ấy thì nghiệp vương sẽ theo sau. Nay nhà vua đất nhỏ, dân nghèo, cho nên thần muốn làm việc dễ trước. Nay Thục là nước xa tít về phía Tây và là trưởng các dân Nhung, Địch, đang có loạn Kiệt, Trụ. Lấy binh Tần đánh nước ấy khác nào khiến sài lang đuổi đàn dê? Được đất nước ấy đủ để mở rộng nước, lấy của nước ấy đủ để làm dân giàu, nuôi binh si không thiệt đến dân chúng mà họ đã theo phục. Đánh đổ một nước mà thiên hạ không cho là bạo; được hết lợi vùng Tây Hải mà thiên hạ không cho là tham. Thế là ta làm một việc mà có cả danh lẫn thực, lại còn có cái tiếng là trừ bạo, ngăn loạn nữa. Nay ta đánh Hàn tất sẽ uy bức thiên tử, là danh không tốt, mà vị tất đã có lợi, lại mang cái tiếng bất nghĩa. Đánh nước thiên hạ không muốn đánh, thật là nguy vậy Thần xin bày rõ tại sao. Chu là tôn thất trong thiên hạ, Tề là nước thân thiện với Hàn. Chu tự biết mất chín vạc, Hàn tự biết mất đất Tam Xuyên. Hai nước ấy chung sức họp mưu, để dựa vào Tề, Triệu mà cầu hòa với Sở, Ngụy. Bệ hạ không thể ngăn họ lấy chín vạc cho Sở, lấy đất cho Ngụy. Thần bảo nguy là thế đấy. Không bằng đánh Thục là kế vạn toàn.
Huệ Vương nói:
- Phải, quả nhân xin nghe nhà ngươi.
Rồi đem binh đánh Thục. Đến tháng mười lấy được Thục. Bèn bình định nước Thục, truất Thục Vương đổi hiệu làm hầu, rồi khiến Trần Trang làm thừa tướng nước Thục.
Thục đã thuộc Tần, Tần vì thế càng giàu mạnh khinh chư hầu. Năm thứ 10 thời Tần Huệ Vương, vua Tần sai công tử Hoa cùng Trương Nghi vây Bồ Dương, Bồ Dương phải hàng. Nghi nhân nói với Tần lại thân thiện với Ngụy, rồi sai công tử Do làm con tin ở Ngụy.
Nghi nhân nói với Ngụy Vương:
- Tần Vương đãi Ngụy rất hậu, Ngụy không thể vô lễ được.
Ngụy nhân nộp đất Thượng Quận, đất Thiếu Dương để tạ Tần Huệ Vương. Tần Vương bèn cho Trương Nghi làm thừa tướng, đổi tên Thiếu Dương gọi là Hạ Dương. Nghi làm thừa tướng nước Tần được bốn năm, lập Huệ Vương làm “vương”. Một năm sau khi Nghi làm thừa tướng, nước Tần đánh lấy đất Thiểm, đắp ải Thượng Quận; hai năm sau Tần sai Nghi đi hội với tướng các nước Tề, Sở tại Khiết Tang. Khi từ phương Đông trở về, Nghi thôi không làm thừa tướng.
Nghi sang làm tướng quốc nước Ngụy, bảo Ngụy Vương: “Tần muốn Ngụy thờ Tần trước để chư hầu bắt chước”. Ngụy Vương không chịu nghe Nghi. Tần Vương giận, đánh lấy đất Khúc ốc, Bình Chu của Ngụy lại ngầm đãi Trương Nghi càng hậu. Trương Nghi thẹn không có gì để về báo đáp Tần lưu ở lại Ngụy bốn năm. Ngụy Tương Vương chết. Ai Vương lên ngôi, Trương Nghi lại nói với Ai Vương, Ai vương không nghe. Trương Nghi ngầm bảo Tần đánh Ngụy. Ngụy đánh nhau với Tần bị thua. Năm sau Tề lại đánh bại Ngụy ở bến Quán Tân. Tần lại muốn đánh Ngụy, trước tiên đánh bại quân của Thân Sai nước Hàn, chém tám vạn thủ cấp. Chư hầu khiếp sợ. Trương Nghi lại bảo với Ngụy Vương:
- Đất của nước Ngụy vuông không đầy nghìn dặm, quân không quá ba mươi vạn người, bốn bề bằng phẳng, các phía thông với chư hầu, không có núi cao sông lớn ngăn trở. Đi từ Trịnh đến Lương(5) hơn hai trăm dặm xe chạy người đi không phải vất vả mà đến được. Nước Lương ở phía Nam, giáp giới nước Sở; phía Tây giáp giới nước Hàn; phía Bắc giáp giới nước Triệu; phía Đông giáp giới nước Tề; binh sĩ đi thú giữ nơi đồn lũy ở bốn phía không đến mười vạn. Địa thế nước Lương rõ ràng là bãi chiến trường. Nước Lương phía Nam thân với Sở, không thân với Tề, thì Tề đánh ở mặt Đông; phía Đông thân với Tề không thân với Triệu, thì Triệu đánh ở mặt Bắc không hòa hợp với Hàn thì Hàn đánh ở mặt Tây; không thân với Sở thì Sở đánh ở mặt Nam. Nói ở cái cảnh chia năm xẻ bảy là như thế. Vả lại chư hầu hợp tung là để yên xã tắc, làm cho vua được tôn quý, quân được mạnh và nổi tiếng vậy. Nay những kẻ hợp tung chủ trương thống nhất thiên hạ ước làm anh em, giết ngựa trắng ăn thề trên sông Hoàn Thủy để giữ vững cho nhau. Nhưng anh em thân cùng một cha mẹ còn tranh nhau tiền tài, muốn dùng lối lừa dối để lật nhau. Rõ ràng cái mưu thừa của Tô Tần không thể thành được. Nếu đại vương không chịu theo Tần, Tần sẽ đem quân xuống đánh miền Hà Ngoại, chiếm cứ Quyền Diễn, Toan Tảo, uy bức nước Vệ, lấy Dương Tấn thì Triệu sẽ không đi xuống phía Nam được; Triệu không đi xuống phía Nam thì Lương không lên Bắc được; Lương không đi lên miền Bắc thì con đường hợp tung đứt; con đường hợp tung đứt thì không thể nào nước của đại vương không nguy. Tần dọa Hàn để đánh Lương. Hàn bị Tần ép, Hàn với Tần làm một, Lương có thể đứng đợi mất nước được, thần thấy lo cho đại vương về chỗ ấy. Đối với đại vương chẳng có kế gì bằng thờ Tần. Thờ Tần thì Sở, Hàn không dám cựa quậy. Đại vương không lo về Sở, Hàn thì cứ việc nằm khểnh, nước chắc chắn không phải lo ngại gì. Vả lại nước mà Tần muốn làm yếu nhất là Sở; mà nước làm Sở yếu thì không nước nào bằng Lương, Sở tuy có danh là giàu lớn, nhưng thực ra thì trống rỗng. Quân nước ấy tuy nhiều, nhưng dễ chạy hay trốn, không chiến đấu bền bỉ được. Nay đem tất cả quân của Lương quay về phía Nam để đánh Sở thì nhất định thắng Sở. Cắt nước Sở để mở rộng Lương, bớt xén Sở để vừa lòng Tần; gây họa cho nước khác để nước mình được yên, đó là việc hay. Nếu đại vương không nghe thần, Tần cho binh sĩ mặc áo giáp đi đánh miền Đông, bấy giờ dẫu muốn thờ Tần cũng không thể được. Vả lại, kẻ theo chước hợp tung chỉ nói hăng, nhưng ít đáng tin. Thuyết phục được một chư hầu là được phong hầu, cho nên kẻ sĩ du thuyết trong thiên hạ không ai không ngày đêm nắm tay trợn mắt nghiến răng để thuyết phục các vị vua về sự tiện lợi của hợp tung; các vị vua khen lời bàn luận là hay, rồi cứ bám riết lấy lời nói của họ, làm sao khỏi lầm được. Thần nghe nói “chất lông chim sẽ làm chìm thuyền; chở nhiều vật nhẹ sẽ làm gãy trục xe, miệng người ta làm chảy loài kim, nhiều lời gièm pha làm tan cốt nhục!”. Xin đại vương xét kỹ kế bàn và cho xin hài cốt(6) để rời khỏi nước Ngụy.
Ai Vương bèn bỏ hợp tung rồi nhờ Nghi, xin hòa với Tần.
Trương Nghi về lại làm thừa tướng nước Tần. Được ba năm, Ngụy lại chống Tần, lo hợp tung. Tần đánh Ngụy lấy đất Khúc Ốc. Năm sau Ngụy lại thờ Tần. Tần muốn đánh Tề. Tề, Sở hợp tung với nhau. Vì thế, Trương Nghi sang làm thừa tướng nước Sở. Sở Hoài Vương nghe Trương Nghi đến, để dành cái nhà to cho Nghi ở, nói:
- Nước tôi là nước xa xôi hủ lậu, ông có gì dạy bảo không?
Nghi nói với Sở Vương:
- Đại vương nếu nghe thần, đóng cửa quan tuyệt giao ước với Tề thì thần xin dâng đất Thượng Ư sáu trăm dặm, khiến con gái Tần được làm thiếp hầu hạ quét tước cho đại vương. Hai nước Tần, Sở lấy vợ gả chồng với nhau thành nước anh em mãi mãi. Thế là phía Bắc thì làm yếu nước Tề mà phía Tây làm ích nước Tần đấy. Không kế gì tiện bằng thế.
Sở Vương thích lắm nên nghe theo. Quần thần đều chúc mừng, chỉ một mình Trần Chẩn chia buồn với nhà vua. Sở Vương giận nói:
- Quả nhân không phải cử binh xuất quân mà được sáu trăm dặm đất, quần thần đều mừng, một mình người chia buồn là tại làm sao?
Trần Chẩn thưa:
- Không phải. Theo điều thần thấy thì không thể lấy được đất Thượng Ư mà trái lại Tề với Tần sẽ hòa hợp. Tần với Tề hòa hợp thì điều lo ngại nhất định sẽ đến.
Sở Vương nói:
- Ông lấy gì làm căn cứ để nói thế.
Trần Chẩn thưa:
- Tần trọng Sở chẳng qua là vì có Tề. Nay Sở đóng cửa quan, tuyệt giao với Tề thì Sở lại bị cô lập. Tần mong chờ gì ở cái nước bị cô lập mà cho sáu trăm dặm đất Thượng Ư? Trương Nghi về Tần, thế nào cũng phụ bệ hạ, thế là phía Bắc ta tuyệt giao với Tề; phía Tây phải lo lắng với Tần vậy. Rồi quân hai nước ấy thế nào cũng đều đến. Đối với bệ hạ, không kế gì bằng bề trong ngầm hợp với Tề mà bề ngoài thì tuyệt giao với Tề. Sai người theo Trương Nghi. Họ cho ta đất, ta sẽ tuyệt giao với Tề cũng chưa muộn. Họ không cho ta đất thì ta cứ ngầm hợp với Tề để mưu tính.
Sở Vương nói:
- Xin ông Chẩn câm miệng đừng nói nữa để đợi quả nhân được đất đã.
Bèn trao ấn tướng quốc cho Trương Nghi và cho Nghi nhiều của. Rồi đóng cửa tuyệt giao với Tề. Lại sai một viên tướng quân đi theo Trương Nghi. Trương Nghi đến Tần, giả vờ làm bị đứt dây vịn ngã xe, ba tháng không vào chầu. Sở Vương nghe tin nói:
- Nghi cho quả nhân chưa kiên quyết tuyệt giao với Tề ư?
Bèn sai dũng sĩ sang Tống, mượn phù tiết của Tống, sang Bắc mắng Tề Vương, Tề Vương giận lắm, nén lòng chịu phục tùng Tần. Tình giao hiếu của Tần với Tề lại nối lại, Trương Nghi mới vào chầu, bảo sứ giả của Sở:
- Thần có sáu dặm đất ăn lộc xin hiến để dâng tả hữu của đại vương(7).
Sứ giả của Sở nói:
- Thần được lệnh của vương là lấy sáu trăm dặm đất của Thượng Ư, chứ không thấy nói sáu dặm.
Sứ giả về báo với Sở Vương, Sở Vương giận lắm, đem quân đánh Tần. Trần Chẩn nói:
- Chẩn có thể mở miệng nói được chăng? Đánh Tần chẳng bằng cắt đất để cho Tần, cùng Tần họp quân để đánh Tề. Thế là ta bỏ đất ra cho Tần mà được bù lại ở Tề vậy. Như thế nước của vương ngõ hầu có thể còn.
Sở Vương không nghe. Cuối cùng đem quân đi và sai tướng quân Khuất Cái đánh Tần. Tần, Tề cùng đánh Sở, chém tám vạn thủ cấp, giết Khuất Cái, lấy đất Đan Dương, Hán Trung. Sở lại đem thêm quân để đánh úp Tần. Đến Lam Điền đánh nhau ở đó. Sở thua to. Sở bèn cắt hai thành để hòa với Tần. Tần đòi Sở cho đất Kiềm Trung, muốn lấy đất ngoài Vũ Quan để đổi. Sở Vương nói:
- Không muốn đổi đất, muốn được Trương Nghi rồi sẽ dâng đất Kiềm Trung.
Tần Vương muốn cho Nghi đi, nhưng miệng không nỡ nói. Trương Nghi bèn xin đi. Huệ Vương nói:
- Sở Vương giận ông nói dối về việc hiến đất Thượng Ư, tức là sẽ giết ông cho hả giận.
Trương Nghi nói:
- Tần mạnh, Sở yếu. Thần quen Cận Thượng. Thượng được hầu hạ Sở phu nhân là Trịnh Tụ. Tụ nói gì Sở Vương cũng nghe. Vả lại, thần mang phù tiết của vương sang sứ nước Sở, Sở sao dám giết? Dù cho họ giết thần mà Tần được đất Kiềm Trung thì đó là điều thần mong muốn nhất.
Nghi bèn đi sứ sang Sở. Sở Hoài Vương được Nghi, liền bỏ tù, toan giết đi. Cận Thượng bảo Trịnh Tụ:
- Phu nhân có biết phu nhân sẽ không được nhà vua yêu quý không?
Trịnh Tụ nói:
- Sao vậy?.
Cận thần nói:
- Tần Vương yêu Trương Nghi lắm, nhất định sẽ làm cho ông ta thoát nạn. Nay Tần sẽ lấy sáu huyện đất Thượng Dung biếu Sở, lấy mĩ nhân dâng Sở, lấy người hát hay ở trong cung đưa sang Sở. Vương trọng đất, tôn Tần, con gái nước Tần thế nào cũng được yêu quý, phu nhân sẽ bị đuổi. Chi bằng phu nhân nói để tha Nghi ra.
Trịnh Tụ ngày đêm nói với Hoài Vương:
- Bầy tôi ai cũng làm việc cho vua của mình. Nay đất của Sở chưa nhập vào Tần, Tần đã sai Trương Nghi đến, là trọng bệ hạ. Bệ hạ chưa có lễ đáp lại mà lại giết Trương Nghi, Tần tất giận mà đánh Sở. Thiếp xin cho mẹ con dời đi Giang Nam, để không bị Tần giết chết.
Hoài Vương sau đó hối rồi tha Trương Nghi, hậu đãi Nghi như trước, Trương Nghi đã dược ra, chưa đi thì nghe thấy tin Tô Tần chết. Bèn nói với Sở Vương:
- Đất Tần chiếm một nửa thiên hạ, binh đánh lại được bốn nước(8). Quân dũng sĩ mạnh như hổ có hơn trăm vạn người, xe nghìn cỗ, ngựa vạn con, thóc chất như gò núi. Pháp lệnh đã rõ ràng, sĩ tốt đều không sợ khó khăn, vui với cái chết. Vua sáng và nghiêm, tướng quân nhiều mưu trí lại vũ dũng. Tuy không xuất quân, nhưng nếu thu lấy nơi hiểm vùng núi Thường Sơn như cuốn chiếu thì thế nào cũng làm gấy xương sống của thiên hạ. Thiên hạ nước nào thần phục sau thì sẽ mất trước, và lại theo kế hợp tung, không khác gì xua đàn dê để đánh mãnh hổ; dê không địch lại hổ, điều đó rõ ràng lắm. Nay đại vương không theo mãnh hổ mà lại theo đàn dê, thần trộm cho kế của đại vương là nhầm. Tóm lại nước mạnh trong thiên hạ không Tần thì Sở, không Sở thì Tần. Hai nước tranh giành nhau, ta không thể cùng đứng được. Đại vương không theo Tần, Tần đem quân xuống giữ Nghi Dương, đất phía trên của Hàn không giao thông được, đem quân xuống Hà Đông lấy Thành Cao, Hàn thế nào cũng phải vào thần phục Tần; Lương cũng cúi rạp theo gió. Tần đánh phía Tây của Sở, Hàn, Lương đánh phía Bắc của Sở, xã tắc của Sở làm sao khỏi nguy được? Vả lại những kẻ theo kế hợp tung hợp các nước yếu để đánh nước hết sức mạnh, không lượng kẻ địch mà đánh liều; nước nghèo mà dấy binh luôn, ấy là con đường nguy vong đấy. Thần nghe nói “quân không bằng người ta thì chớ khiêu chiến với họ, thóc không bằng người ta thì chớ cầm cự lâu với họ”. Nay bọn theo kế hợp tung, dùng lý luận suông, dùng lời trống rỗng, tán dương tiết hạnh của các vị vua, nói cái lợi mà không nói cái hại, nếu đột nhiên bị Tần gây họa thì không kịp lo đến mình. Thế cho nên thần muốn dại vương tính việc đó cho chín. Tần ở phía Tây có đất Ba, đất Thục, thuyền to chứa thóc, đi đường sông từ Vấn Sơn, xuống đến Sở hơn ba nghìn dặm, dùng thuyền đôi chở quân, mỗi thuyền trở được năm mươi người với lương ăn ba tháng, thuyền đi một ngày hơn ba trăm dặm. Số dặm dẫu nhiều, nhưng không phí sức trâu ngựa. Không đến mười ngày mà đến Hãn Quan, Hãn Quan hoảng kinh, thì từ biên giới về phía Đông, đều giữ lấy thành tất cả. Thế là Kiềm Trung, Vu Quận không phải là đất của đại vương nữa. Tần cử binh ra cửa Vũ Quan, hướng về phía Nam để đánh, thì đất miền Bắc của Sở bị cắt đứt. Quân Tần đánh Sở, điều nguy nan xảy ra chỉ trong vòng ba tháng, mà Sở ehờ cứu viện của chư hầu phải hơn nửa năm, ấy là thế không kịp nhau vậy. Đợi nước yếu cứu, quên cái vạ của Tần mạnh, đó là điều thần lo cho đại vương đấy. Đại vương đã cùng quân Ngô đánh nhau, đánh năm trận thắng ba. Quân đi chiến trận hết cả, chỉ riêng việc giữ thành mới lấy được, giữ gìn dân cư, đã là khổ sở rồi. Thần nghe nói: “Công to thì dễ nguy, dân khổ thì oán người trên”. Nay giữ lấy cái công dễ nguy để làm hài lòng nước Tần mạnh, thần trộm cho thế là nguy cho đại vương. Vả lại Tần sở dĩ không đem quân ra cửa Hàm Cốc trong mười lăm năm nay để đánh Tề, Triệu là vì có âm mưu thôn tính cả thiên hạ. Sở đã gây hấn với Tần, đánh nhau ở Hán Trung, người Sở bị thua, hạng tước hầu cầm khuê(9), chết hơn bảy mươi người, kết quả mất Hán Trung. Sở Vương cả giận, cử binh dành úp Tần ở Lam Điền. Thế nghĩa là như người ta nói “hai hổ đánh nhau” đấy. Nay Tần, Sở đánh nhau mỏi mệt mà Hàn, Ngụy còn nguyên vẹn lại khống chế ở phía sau, thật không có kế nào nguy hơn thế nữa? Xin đại vương tính kỹ cho. Tần đem quân đánh Vệ và Dương Tấn, tức là mở toang lồng ngực của thiên hạ. Đại vương đem tất cả quân để đánh Tống, không đầy vài tháng có thể lấy được Tống. Tống đã bị lấy, bèn đi về phía Đông, thì mười hai nước chư hầu ở trên sông Tứ sẽ là của đại vương hết. Người trong thiên hạ chủ trương hợp tung để các nước bảo vệ cho nhau được bền vững là Tô Tần. Tần được phong làm Vũ An Quân rồi làm tướng quốc nước Yên. Tô Tần ngầm mưu với Yên Vương, đánh phá Tề mà chia đất Tề. Rồi vờ làm có tội, chạy sang nước Tề. Tề Vương nhân đấy nhận mà cho làm tướng quốc. Tô Tần ở Tề hai năm Tề Vương mới hiểu, giận lắm, dùng xe ngựa xé xác Tô Tần ở chợ, anh chàng Tô Tần muốn dùng lời dối trá để kinh doanh thiên hạ, thống nhất chư hầu, rõ ràng không thể thành công được. Nay Tần với Sở bờ cõi tiếp nhau, cố nhiên là nước hình thế gần gũi. Đại vương nếu quả nghe thần, thần xin bảo thái tử của Tần vào làm con tin ở Sở, thái tử của Sở làm con tin ở Tần. Xin đem con gái của Tần để làm người thiếp quét dọn cho đại vương, dâng đô thị muôn nhà để làm ấp của đại vương. Hai nước làm anh em mãi mãi, suốt đời không đánh nhau. Thần cho không gì tiện bằng kế ấy.
Bấy giờ Sở Vương đã được Trương Nghi, nhưng lại không muốn đem đất Kiềm Trung cho Tần. Sở Vương định nghe theo Trương Nghi, Khuất Nguyên nói:
- Trước đại vương đã bị Trương Nghi lừa dối. Trương Nghi đến, thần tưởng đại vương giết hắn. Nay đã không nỡ giết mà lại nghe các tà thuyết của hắn là không nên.
Hoài Vương nói:
- Nghe Trương Nghi mà vẫn giữ đất Kiềm Trung là lợi to đấy. Ta sẽ được lợi gấp đôi.
Sở Vương rốt cục vẫn nghe theo Trương Nghi thân thiện với Tần.
Trương Nghi ở Sở ra đi, nhân tiện sang Hàn, nói với Hàn Vương:
- Đất nước Hàn hiểm trở, ở nơi dồi núi. Ngũ cốc ở đây chẳng qua chỉ có đỗ và lúa mạch. Thức ăn của dân chẳng qua đại để chỉ có đỗ và canh rau hoắc. Hễ một năm mất mùa không thu hoạch được là dân ăn tấm, cám không no. Đất chẳng qua có chín trăm dặm, không đủ thức ăn trong hai năm. Tất cả quân của đại vương, chẳng quá ba mươi vạn người, kể cả những người sai phái, khuân vác, trừ số quân canh ở biên cương, giữ nơi hiểm yếu, thì số quân chẳng quá hai mươi vạn mà thôi. Nước Tần quân mặc áo giáp hơn trăm vạn người, xe nghìn cỗ, ngựa vạn con. Hạng người dũng mãnh như hổ, đầu không đội mũ trụ, hai tay ôm má, cầm giáo hăng hái xông vào giữa quân địch đông không thể kể xiết. Ngựa của Tần hay, quân lính đông. Ngựa chạy chân trước cuốc, chân sau đạp, khoảng chân trước chân sau cách nhau đến ba tầm. Số ngựa chạy nhanh không biết bao mà kể. Quân sĩ của Sơn Đông, mặc áo giáp, đội mũ trụ để đánh. Quân của Tần, bỏ áo giáp, xắn tay áo xông vào giữa quân địch đông, tay trái xách đầu giặc, tay phải cắp tù binh. Quân sĩ của Tần so với quân sĩ Đông Sơn cũng như Mạnh Bôn so với kẻ nhát; lấy sức mạnh đè ép nhau, cũng như Ô Hoạch với đứa con thơ. Đem quân sĩ như Mạnh bôn, Ô Hoạch đi đánh nước yếu không phục, thì có khác gì buông sức nặng nghìn quân(10) lên trên quả trứng chim, tất nhiên là không thể sống sót vậy. Nay quần thần các nước chư hầu không hiểu đất nước mình nhỏ và ít, lại theo lời ngon ngọt, khéo léo của kẻ theo hợp tung, a dua để tô vẽ cho nhau. Họ đều hăm hở nói rằng: “Nghe kế của ta, có thể làm cho nước mạnh, làm bá thiên hạ”. Ôi? Họ không nghĩ đến cái lợi lâu dài của xã tắc mà lại nghe theo lời nói trong chốc lát, không có gì lừa dối nhà vua hơn thế. Đại vương không thờ Tần, Tần đem quân xuống chiếm giữ Nghi Dương, cắt đứt đất miền trên của Hàn. ở phía Đông, Tần lấy Thành Cao, Huỳnh Dương thì cung Hồng Đài, vườn Tang Lâm không phải là đất đại vươngcó nữa. Nếu họ chặn Thành Cao, cắt đứt Thượng Địa thì nước của đại vương sẽ bị chia xẻ. Thờ Tần trước thì được yên, không thờ Tần thì bị nguy; nếu gây ra họa để cần được báo phúc, tính kế nông nổi để kết oán sâu, tí. ái Tần để thuận Sở, thì dù muốn không mất nước cũng không thể được. Cho nên đối với đại vương không có gì bằng thờ Tần. Tần chẳng muốn gì hơn là làm cho Sở yếu. Không nước nào làm cho Sở yếu bằng nước Hàn. Đó không phải là vì Hàn mạnh hơn Sở đâu; mà vì địa thế khiến như vậy. Nay đại vương về Tây mà thờ Tần để đánh Sở thì Tần Vương chắc chắn sẽ mừng. Đánh Sở để lấy lợi cho đất mình, chuyển họa làm vui lòng Tần, không kế gì tiện hơn thế!
Hàn Vương nghe theo kế của Trương Nghi.
Trương Nghi về báo với Tần Huệ Vương. Tần Huệ Vương phong cho Nghi năm ấp gọi là Vũ Tín Quân. Rồi sai Trương Nghi đi sang Đông, nói về Tề Mẫn Vương:
- Trong thiên hạ không nước nào mạnh hơn Tề. Đại thần phụ huynh giàu thịnh dông vui. Thế mà những người bày kế cho đại vương đều nói chuyện nhất thời, không nghĩ cái lợi trăm đời. Những kẻ theo hợp tung chắc chắn nói với đại vương: “Nước Tề ở phía Tây có nước Triệu mạnh, ở phía Nam có nước Hàn, nước Lương. Tề là nước nhờ cậy có bể. Đất rộng dân nhiều, quân mạnh, tướng dũng cảm. Dẫu có trăm nước Tần cũng không làm gì được. Tề Đại vương cho lời nói của họ là hay, mà không tính đến sự thực. Những kẻ theo hợp tung bè đảng a dua, ai cũng cho hợp tung là phải. Thần nghe Tề với Lỗ ba lần đánh nhau. Lỗ ba lần thắng, rồi sau đó nước diệt vong. Tuy có cái tiếng là thắng, nhưng thực ra là mất nước, thế là cớ làm sao? Vì Tề lớn mà Lỗ nhỏ. Nay Tần với Tề cũng như Tề với Lỗ vậy. Tần và Triệu đánh nhau ở sông Chương, hai lần đánh thì hai lần Triệu thắng Tần; đánh nhau ở gần Bàn Ngô, hai lần đánh thì hai lần Triệu thắng Tần: Sau bốn trận đánh nhau, Triệu mất vài chục vạn quân. Hàm Đan mới còn, tuy được cái tiếng thắng Tần, nhưng nước đã bị tan nát. Vì sao thế Vì Tần mạnh mà Triệu yếu. Nay nước Tần, nước Sở gả con cho nhau, làm nước anh em. Hàn dâng đất Nghi Dương, Ngụy hiến đất Hà Ngoại, Triệu vào chầu ở Dẫn Trì, cắt đất Hạ Gian để thờ Tần. Đại vương không thờ Tần, Tần sẽ xui Hàn, Lương đánh đất phía Nam của Tề, đem tất cả quân của Triệu vượt sông Thanh Hà, hướng tới Bắc Quan thì Lâm Tri, Tức Mặc sẽ không phải là đất của đại vương nữa. Một khi nước đã bị đánh, dẫu đại vương muốn thờ Tần cũng không thể được. Thế cho nên xin đại vương tính việc đó cho kỹ.
Tề Vương nói:
- Nước Tề ở xa xôi hẻo lánh trên bể Đông Hải, chưa hề được nghe điều lợi lâu dài của xã tắc.
Bèn nghe lời Trương Nghi.
Trương Nghi đi sang phía Tây, nói với Triệu Vương:
- Tần Vương của tệ ấp sai thần dâng kế ngu muội lên đại vương. Đại vương cầm đầu thiên hạ để bài xích Tần. Quân của Tần không dám ra cửa Hàm Cốc đã mười năm nay. Uy thanh của đại vương lan ra vùng Sơn Đông. Tệ ấp sợ hãi thế áo giáp, mài binh khí, sắm xe ngựa, tập ruổi ngựa bắn tên, ra sức làm ruộng, tích trữ thóc, giữ bờ cõi bốn bề, buồn sầu lo sợ không dám ho he, đó là vì đại vương có ý trách lỗi tệ ấp sâu sắc Nay với lực lượng của đại vương lại muốn lấy đất Ba; đất Thục, chiếm Hán Trung thôn tính hai Chu, dời chín vạc giữ bến Bạch Mã; Tần tuy ở xa xôi, nhưng trong lòng tức giận nung nấu đã lâu. Nay Tần có binh sĩ mặc áo giáp mỏi yếu đóng ở Dẫn Trì, vượt sông Hà, qua sông Chương chiếm giữ Bàn Ngô, hội ở dưới Hàm Đan, xin định ngày giáp tí hợp chiếu để sửa lại cái việc của chúa Trụ nhà ân(11). Kính sai thần đến nói trước để tả hữu của đại vương biết. Đại vương tin những kẻ theo chước hợp tung là cậy có Tô Tần. Tô Tẩn đánh lừa chư hầu lấy phải làm trái, lấy trái làm phải. Muốn phản nước Tề, lại sai xé xác mình ở chợ. Rõ ràng là thiên hạ không thể thống nhất được. Nay Sở với Tần là nước anh em, mà Hàn, Lương xưng thần làm hàng rào phía Đông; Tề dâng đất sản xuất ra cá muối, thế là chặt một cánh tay phải của Triệu. Mất cánh tay phải mà cùng người chiến đấu mất bè cánh, bị cô lập, làm sao khỏi nguy được? Nay Tần đem ba đạo quân: một đạo chặn Ngọ Đạo, bảo Tề cử quân sang đò sông Thanh Hà, đóng ở phía Đông Hàm Đan; một đạo đóng ở Thành Cao, xua quân của Hàn, Lương ra Hà Thủy; một đạo đóng ở Dẫn Trì, ước với bốn nước cùng nhau hợp nhất để đánh Triệu. Triệu hàng phục thì đất của Triệu sẽ bị chia tư. Vì thế cho nên thần không đám giấu ý, ẩn tình, xin nói trước để tả hữu của đại vương biết. Thần trộm nghĩ đối với đại vương chẳng gì bằng gặp Tần Vương ở Dẫn Trì, mặt trông thấy nhau và miệng giao kết với nhau, xin đóng quân lại, không đánh nhau. Mong đại vương quyết định kế cho.
Triệu Vương nói:
- Thời tiên vương, Phụng Dương Quân chuyên quyền cậy thế, che giấu tiên vương, một mình cai quản công việc. Quả nhân ở trong cung, dựa vào các quan Sư, Phó, không dự bàn việc nước. Tiên vương mất đi, quả nhân tuổi còn ít, ngày phụng tự còn mới, trong lòng vẫn trộm nghi ngờ về việc ấy cho là theo phe hợp tung không thờ Tần không phải là cái lợi lâu dài cho nước, nên muốn thay lòng đổi ý, cắt đất tạ lỗi trước để thờ Tần. Đang định ruổi xe đi mau, chợt được nghe lởi bảo sáng rõ của sứ giả.
Triệu Vương nghe theo Trương Nghi.
Trương Nghi bèn đi về phía Bắc, đến nước Yên, nói với Yến Chiêu Vương:
- Nước mà đại vương thân thiện, không đâu bằng Triệu. Xưa Triệu Tương Tử đã gả chị cho vua nước Đại. Triệu Tương Tử thôn tính nước Đại bèn hẹn với vua nước Đại gặp nhau ở ải Câu Chú. Tương Tử sai thợ làm cái môi múc bằng kim khí có cán dài, có thể dùng để đánh người. Tương Tử cùng vua nước Đại uống rượu ngầm dặn người nhà bếp: “Khi chén đã vui say thì bưng ngay canh nóng lên, quay môi múc để đánh nó”. Bấy giờ uống rượu vui say, đến lúc dâng canh nóng, nhà bếp bưng canh lên, nhân quay môi đánh vua nước Đại chết. óc ở đầu vua nước Đại thảy nhảy nhụa ra đất. Chị của Tương Tử nghe tin ấy, bèn mài trâm để tự đâm mình, cho nên đến nay có núi tên là Ma Trâm (mài trâm). Chuyện vua nước Đại bị bại vong, thiên hạ ai cũng nghe. Nay Triệu Vương tham lam, tàn bạo, đại vương đã thấy rõ điều đó Vả lại đại vương cho Triệu Vương là đáng thân chăng? Triệu cử quân đánh Yên hai lần vây quốc đô nước Yên để uy hiếp, đại vương cắt mười thành để tạ Triệu. Nay Triệu Vương đã vào chầu ở Dẫn Trì, dâng đất Hà Gian để thờ Tần. Nếu đại vương không thờ Tần, Tần sẽ đem quân xuống Vân Trung, Cửu Nguyên, xua quân Triệu để đánh Yên, thì Dịch Thủy, Trường Thành không phải là đất của đại vương nữa. Vả lại ngày nay, Triệu đối với Tần cũng như là quận, huyện của Tần vậy, không dám cử quân càn bậy để đánh. Nay đại vương thờ Tần, Tần Vương tất mừng, Triệu không dám hành động bậy. Thế là ở phía Tây dại vương có nước Tần mạnh giúp đỡ, mà ở phía Nam không có tai vạ Tề, Triệu. Vì thế, nên mong đại vương tính toán kỹ điều đó cho.
Yên Vương nói:
- Quả nhân là man di ở xa, tuy là người lớn, nhưng chỉ như đứa trẻ con, không có đủ trí khôn để theo một mưu kế gì Nay may được thượng khách chỉ bảo cho xin hướng về phía Tây để thờ Tần, dâng cho Tần năm thành ở cuối núi Hằng Sơn.
Yên Vương nghe Nghi. Nghi về báo, chưa đến Hàm Dương thì Tần Huệ Vương đã chết. Vũ Vương lên ngôi. Vũ Vương từ khi còn là thái tử đã không ưa Trương Nghi. Đến khi lên ngôi, quần thần phần nhiều gièm pha Trương Nghi, nói:
- Chớ tin hắn, hắn chỉ xoay xở bán nước để được người ưa. Nếu Tần còn dùng hắn nữa e làm thiên hạ cười.
Chư hầu biết Trương Nghi thôi không được Vũ Vương dùng, đều bỏ liên hoành, lại hợp tung.
Năm đầu thời Tần Vũ Vương, quần thần ngày đêm ghét Trương Nghi chưa thôi, thì những lời trách móc của Tề lại dồn đến. Trương Nghi sợ bị giết, bèn nói với Tần Vũ Vương:
- Nghi có cái kế vụng về, xin hiến đại vương.
Vũ Vương nói:
- Thế nào?
Nghi nói:
- Muốn mưu tính cho xã tắc nước Tần, thì phương Đông phải có biến cố to, đại vương mới có thể cắt lấy được nhiều đất. Nay nghe nói Tề Vương rất ghét Nghi, Nghi ở đâu, Tề tất cử quân đánh đấy. Cho nên Nghi xin đại vương cho mang cái thân ngu đần này đi sang Lương. Tề thế nào cũng đem quân đánh Lương. Quân của Lương, Tề cầm cự mãi ở dưới thành không dám rời nhau, đại vương nhân dịp ấy đánh Hàn, vào Tam Xuyên, đem quân ra cửa Hàm Cốc, kéo đến kinh đô Chu, không đánh chác gì mà đồ tế tự của Chu tất phải đem ra. Mượn uy thế thiên tử, cầm những đồ tịch. ấy là vương nghiệp đấy.
Tần Vương lấy làm phải, mới sắp đủ ba mươi cỗ binh xa để đưa Trương Nghi vào Lương. Tề quả nhiên đưa quân đánh Lương. Lương Ai Vương sợ lắm. Trương Nghi nói:
- Đại vương chớ lo. Tôi xin bắt Tề bãi binh.
Nghi bèn sai môn hạ là Phùng Hỷ sang Sở, nhân tiện sai ông ta sang Tề, bảo Tề Vương:
- Đại vương rất ghét Trương Nghi. Tuy nhiên đại vương giữ Nghi ở Tần cũng là hậu đấy.
Tề Vương nói:
- Quả nhân ghét Nghi, Nghi ở đâu ta tất cử binh đánh đấy. Sao lại cho là giữ hắn?
Sứ giả thưa:
- Thế là vương giữ Nghi đấy. Khi Nghi ra đi, vốn đã dặn Tần Vương: “Muốn mưu tính cho nhà vua thì phương Đông phải có biến lớn, nhà vua mới có thể cắt lấy được nhiều đất. Nay Tề Vương rất ghét Nghi, Nghi ở đâu tất cử binh đánh đấy. Cho nên Nghi xin cho lại cái thân ngu đần để đi sang Lương. Tề tất cử quân đánh Lương. Quân của Tề, Lương cầm cự nhau mãi ở dưới thành không dám rời nhau. Nhân dịp ấy đại vương đánh Hàn, vào Tam Xuyên, kéo quân ra cửa Hàm Cốc, rồi kéo đến kinh đô nhà Chu, không đánh chắc gì mà đồ tế tự của Chu tất phải đem ra, rồi mượn thế thiên tử, cầm những đồ tịch của Chu. ấy là vương nghiệp đấy”, Tần Vương lấy làm phải, mới sắp đủ ba mươi cỗ binh xa để đưa Nghi vào Lương. Thế là Lương ở trong, tự làm mỏi mệt nước mình; mà ở ngoài đi đánh nước giao hiếu với mình. Mở rộng kẻ cừu địch, ở bên láng giềng để tự làm nguy mình, và làm cho Nghi được Tần Vương tin cậy. Thần bảo giữ Nghi là thế đấy.
Tề Vương nói:
- Phải.
Bèn sai bãi binh. Trương Nghi làm tướng ở nước Ngụy một năm, chết ở nước Ngụy.
2. Trần Chẩn là kẻ sĩ du thuyết, cùng với Trương Nghi thờ Tần Huệ Vương đều được quý trọng và tranh nhau được nhà vua yêu. Trương Nghi nói xấu Trần Chẩn với Tần Vương:
- Chẩn trọng của, khinh sứ giả. Tần, Sở sẽ là hai nước giao hiếu với nhau. Nay Sở không thân thêm với Tần mà lại thân với Chẩn, thế mà Chẩn lo cho mình nhiều mà lo cho đại vương thì ít đấy. Vả lại Chẩn muốn bỏ Tần để sang Sở, sao đại vương không cho đi?
Nhà vua bảo Trần Chẩn:
- Ta nghe nói ngươi muốn bỏ Tần sang Sở, việc ấy có không?
Trần Chẩn nói:
- Có
Tần Vương nói:
- Lời của Nghi quả đúng thật.
Trần Chẩn nói:
- Không những một Nghi biết mà những kẻ sĩ thi thố học thuyết của mình đều biết việc ấy. Ngày xưa Tử Tự trung với vua mà thiên hạ tranh nhau mời ông ta ra làm quan; Tăng Sâm hiếu với cha mẹ mà thiên hạ xin để làm con. Cho nên bán con hầu mà không phải đưa ra khỏi làng xóm, chứng tỏ là con hầu tốt. Bị chồng bỏ mà lại lấy được chồng ở trong làng xóm là người đàn bà giỏi. Nay nếu Chẩn bất trung với vua sao Sở lại cho là trung được? Trung mà lại bị bỏ rơi Chẩn không đi Sở thì đi đâu?
Nhà vua cho là phải, bèn đãi Chẩn tử tế. Chẩn ở Tần được một năm, Tần Huệ Vương vẫn dùng Trương Nghi làm thừa tướng. Cuối cùng Trần Chẩn chạy sang Sở, Sở chưa trọng dụng Chẩn, nhưng sai Chẩn đi sứ sang Tần. Khi đi qua Lương, Chẩn muốn vào yết kiến Tê Thủ. Tê Thủ từ tạ không tiếp. Chẩn nói:
- Tôi đến là vì có việc muốn hỏi ông. Ông không tiếp Chẩn. Chẩn sắp đi, không đợi được.
Ngày khác Tê Thủ tiếp Chẩn, Chẩn nói:
- Sao ông thích uống rượu thế?
Tê Thủ nói:
- Vì không có việc.
Trần Chẩn nói:
- Tôi xin làm cho ông có nhiều việc được không?
Tê Thủ nói:
- Thế nào?
Trần Chẩn nói:
- Điền Nhu (tướng quốc nước Ngụy) ước với chư hầu hợp tung, Sở Vương nghi ngờ chưa tin. Ông hãy nói với nhà vua: Thần với Yên Vương, Triệu Vương là chỗ quen biết cũ, họ mấy lần sai người đến nói, không có việc gì sao không gặp nhau? Ông nói với Sở Vương xin đi, Sở Vương cho ông đi, ông đừng xin nhiều xe, chỉ lấy ba chục cỗ bày ra ở trước sân, rồi nói rõ là đi sang Yên, Triệu.
Thuyết khách của Yên, Triệu nghe biết, ruổi xe về báo với vua họ. Yên, Triệu sai người đón Tê Thủ. Sở Vương nghe vậy giận lắm, nói:
- Điền Nhu cùng quả nhân giao ước, mà Tê Thủ đi sang Yên, Triệu; thế là Điền Nhu lừa dối ta. Vua Sở không nghe theo việc hợp tung của Nhu. Tề nghe tin Tê Thủ đi sang miền Bắc, sai người đem công việc ủy thác cho Tê Thủ, Tê Thủ làm tướng cả ba nước. Công việc đều do Tê Thủ quyết định.
Chẩn bèn đến Tần. Hàn, Ngụy đánh nhau một năm trời không xong. Tần Huệ Vương muốn cứu họ, hỏi các quan hầu. Có người nói cứu là hơn, có người nói đừng cứu. Huệ Vương chưa quyết định được việc ấy. Chợt Trần Chẩn đến Tần, Tần Huệ Vương nói:
- Ngươi bỏ quả nhân đi sang Sở, vậy có nhớ quả nhân không?
Trần Chẩn nói:
- Đại vương đã nghe chuyện Trang Tích nước Việt rồi chứ?
Vua nói:
- Chưa nghe.
Trần Chẩn nói:
- Trang Tích là người Việt làm quan nước Sở đến tước cầm ngọc khuê. Được ít lâu bị bệnh. Sở Vương nói: “Tích là kẻ hèn mọn ở nước Việt, nay làm quan ở nước Sở đến tước cầm ngọc khuê, thật là phú quý, vậy còn nhớ Việt chăng?”. Quan Trung tả thưa rằng: “Phàm người ta nhớ nhung thì tất ở lúc có bệnh đau ốm. Hắn nhớ Việt thì nói tiếng Việt, không nhớ Việt thì nói tiếng Sở”. Sai người đến nghe thì ông ta vẫn còn chuộng tiếng Việt. Nay thần tuy bị bỏ đuổi sang Sở, há không nói được tiếng Tần sao?
Huệ Vương bảo:
- Phải. Nay Hàn, Ngụy đánh nhau một năm không xong, có người bảo quả nhân cứu họ là hơn, có người bảo đừng cứu họ. Quả nhân không quyết định được, mong ngươingoài việc vì vua của ngươi, còn vì quả nhân mưu tính việc ấy.
Trần Chẩn nói:
- Đã có ai đem chuyện Biện Trang Tử đâm hổ nói với đại vương chưa? Biện Trang muốn dâm hổ, đứa trẻ ở quán trọ ngăn nói rằng: “Hai con hổ sắp ăn thịt con trâu, ăn ngon miệng thế nào chúng cũng tranh nhau, tranh nhau thì phải đánh nhau. Khi đánh nhau thì con hổ lớn bị thương, con hổ nhỏ chết. Nhằm con bị thương mà đâm thì làm một việc mà được cả hai”. Biện Trang Tử cho là phải, đứng chờ. Được một lát hai con hổ quả đánh nhau thật, con lớn bị thương, con nhỏ chết, Biện Trang Tử nhằm con bị thương mà đâm, làm một việc mà quả được cả hai con hổ. Nay Hàn, Ngụy đánh nhau một năm trời không xong, thế nào nước lớn cũng bị thương, nước nhỏ cũng bị mất. Nhằm nước bị thương mà đánh, làm một mà được hai, cũng như chuyện Biện Trang Tử đâm hổ vậy. Vua của thần cũng như đại vương chẳng lo việc gì khác.
Huệ Vương nói:
- Phải
Rồi không cứu ai, nước lớn quả bị thương, nước nhỏ bị mất. Tần dấy quân đánh được nước lớn. Đó là mưu kế của Trần Chẩn.
3. Tê Thủ (tên quan nước Ngụy) là người đất âm Tấn nước Ngụy, tên là Diễn, họ là Công Tôn, Tê Thủ không chơi với Trương Nghi. Trương Nghi vì Tần sang Ngụy, Ngụy Vương dùng Trương Nghi làm tướng quốc. Tê Thủ bực bội sai người bảo Hàn Công Thúc:
- Trương Nghi đã làm cho Tần, Ngụy giao hiếu với nhau. Hắn nói rằng: “Ngụy đánh Nam Dương, Tần đánh Tam Xuyên”. Ngụy Vương sở dĩ quý Trương Nghi là vì muốn được đất của Hàn và muốn lấy Nam Dương. Tại sao ông không mời ông Công Tôn Diễn đến cho ông ta làm quan to? Nếu làm thế thì có thể cản trở được sự giao hiếu của Tần và Ngụy. Ngụy tất lo đánh Tần mà bỏ Nghi, thu nạp Hàn mà dùng Diễn làm tướng quốc.
Công Thúc cho là tiện, nhân giao đất của Hàn cho Tê Thủ để làm công. Quả nhiên Diễn làm tướng quốc nước Ngụy.
Trương Nghi đi. Vua nước Nghĩa Cừ sang triều nước Ngụy. Tê Thủ nghe tin Trương Nghi lại làm thừa tướng nước Tần, ghét Nghi, bèn nói với vua nước Nghĩa Cừ:
- Đường xa sau này lại không được gặp nhau nữa. Xin bày tỏ sự tình.
Rồi nói:
- Các nước ở Sơn Đông không làm gì thì Tần được dịp đốt phá, cướp bóc đất nước ngài. Nếu các nước đánh Tần, Tần sẽ nhẹ phần sứ giả, nặng phần lễ vật để phụng sự nước ngài.
Đến sau, năm trước đánh Tần, Trần Chẩn bảo Tần Vương:
- Vua nước Nghĩa Cừ là vua hiền trong các nước Man Di. Chẳng bằng đút lót họ để làm yên tâm họ.
Tần Vương nói:
- Phải.
Bèn lấy nghìn tấm gấm thêu, trăm người đàn bà đưa cho vua nước Nghĩa Cừ. Vua nước Nghĩa Cừ mời quần thần đến bàn:
- Công Tôn Diễn nói là thế chăng(12)?
Bèn cử quân đánh úp Tần, quân Tần bị thua to ở gần ấp Lý Bá. sau khi Trương Nghi chết, Tê Thủ vào làm tướng nước Tần, có lần đã mang ấn tướng quốc năm nước làm ước trưởng.
4. Thái sử công nói: Đất Tam Tấn có nhiều kẻ sĩ quyền biến. Những kẻ chủ trương hợp tung, liên hoành để làm cho Tần mạnh, nói chung đều là người của Tam Tấn. Việc làm của Trương Nghi tệ hại hơn việc làm của Tô Tần. Song người đời ghét Tô Tần, vì Tô Tần chết trước, Nghi lại nêu bày chỗ kém của Tô Tẩn để bênh vực cái thuyết của mình, làm cho thuyết liên hoành của mình thành công. Tóm lại, cả hai người ấy đều là những kẻ gian trá nguy hiểm làm sao!
................................................
(1). Một chi tiết hết sức điển hình.
(2). Tổ của Tư Mã Thiên.
(3). Nhị Chu: Đông Chu và Tây Chu.
(4). Chín vạc: Vua Hạ Vũ đúc chín cái vạc để tượng trưng cho chín châu trong thiên hạ. Thời tam đại coi chín vạc ấy là bảo vật khí truyền nước. Thành Thang thiên chín vạc ấy ra Thương ấp. Chu Vũ Vương lại thiên ra Lạc ấp.
(5). Lương: Đại Lương là nơi Ngụy Huệ Vương đóng đô.
(6). Xin hài cất: xin từ chức, ý nói để cho hài cốt được đem về chôn ở quê hương.
(7). Tả hữu của đại vương nghĩa đen là các quân hầu, ở đây là chỉ nhà vua.
(8). Đất hiểm trở, sông Hoàng Hà vắt ngang, bốn bề biên giới che ngăn làm cho nước vững chắc.
(9). Khuê là thứ ngọc mà vương hầu được cầm khi triều hội tế tự, thời phong kiến dùng ngọc làm con tin. Ngọc khuê tùy theo tước vị có khác nhau.
(10). Quân: quả cân nặng 30 cân.
(11). Ý nói đánh Triệu. Ngày giáp tí là ngày Vũ Vương đánh và tiêu diệt Trụ.
(12). Ý Diễn nói Tần chẳng thương gì vua nước Nghĩa Cừ muốn được yên ổn thì chỉ có một cách là đánh Tần thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét