Thứ Ba, 24 tháng 1, 2023

Sông ngòi Việt Nam - III. HỆ THỐNG SÔNG HỒNG

 

Cầu Long Biên bắc qua Sông Hồng.

III. HỆ THỐNG SÔNG HỒNG: 

Hệ thống sông hồng là hệ thống sông lớn nhất Việt Nam. Hệ thống sông hồng có rất nhiều phụ lưu, hai phụ lưu quan trọng nhất là Sông Đà và Sông Lô. Hai phụ lưu chính này cùng với các phụ lưu khác tạo thành mạng lưới sông hình rẻ quạt và hội tụ tại việt trì. Chính dạng mạng lưới sông này đã tổ hợp lũ các phụ lưu vói lũ của dòng chính để gây nên những trận lũ lớn ở đồng bằng bắc bộ.


1. Sông Hồng:


- Sông Hồng có tổng chiều dài là 1.149 km với lưu vực 143.700 Km² (55.483 mi²) bắt nguồn từ dãy núi Hoành Đoạn, Nguy Sơn, Đại Lý, Vân Nam, Trung Quốc chảy vào Việt Nam qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định và đổ ra biển Đông tại cửa Ba Lạt giữa hai tỉnh Nam Định và Thái Bình. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km tính từ ngã 3 Nậm Thi đến cửa Ba Lạt.


- Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà, hay sông Cái. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Nguyên Giang, đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang. Đoạn chảy qua Phú Thọ gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà. Sử Việt còn ghi sông với tên Phú Lương.


- Dòng chính (chủ lưu) của sông Hồng bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chi lưu phía đông bắt nguồn từ vùng núi huyện Tường Vân. Chủ yếu nó chảy theo hướng tây bắc-đông nam, qua huyện tự trị Nguyên Giang của người Thái và người Cáp Nê (Hani) (ở Việt Nam gọi là người Hà Nhì).


- Đến biên giới Việt - Trung, sông Hồng chạy dọc theo biên giới khoảng 80 km; đoạn thì sang bên lãnh thổ Việt Nam, đoạn thì sang bên lãnh thổ Trung Quốc. Điểm tiếp xúc đầu tiên của sông Hồng với lãnh thổ Việt Nam tại xã A Mú Sung (huyện Bát Sát), chính giữa sông là điểm phân chia lãnh thổ hai nước. Đến thành phố Lào Cai, sông Hồng chảy hẳn vào lãnh thổ Việt Nam, khi về xuôi sông qua phía đông thủ đô Hà Nội, cuối cùng đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt (ranh giới giữa hai tỉnh Thái Bình và Nam Định).


- Các phụ lưu chính của sông Hồng trên lãnh thổ Việt Nam có thể kể đến là sông Đà, sông Lô; đến lượt sông Lô có phụ lưu là sông Chảy và sông Gâm. Ở Trung Quốc, các sông như sông Lý Tiên (tức sông Đà), sông Đăng Điều (tức sông Nậm Na), sông Bàn Long (tức sông Lô) và sông Phổ Mai (tức sông Nho Quế) cùng một số sông nhỏ khác như sông Mễ Phúc, sông Nam Khê chảy qua biên giới hai nước vào Việt Nam.


- Các phân lưu chính của Sông Hồng có:


+ Phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả Lại thuộc Hải Dương và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến Quý Cao (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái Bình.


+ Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang hay Ninh Cơ), xuôi về hạ lưu lai có hai sông nối sông Hồng và sông Đáy là sông Phủ Lý và sông Nam Định.

Cầu đường sắt Hồ Kiều

2. Nậm Thi:
 

Sông Nậm Thi chạy quanh phía Bắc tỉnh Lào Cai, đồng thời là ranh giới tự nhiên Việt Nam với Trung Quốc. Nước sông quanh năm trong xanh, là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho nhà máy nước của thành phố Lào Cai. Sông Nậm Thi hợp lưu với sông Hồng ngay tại biên giới giữa thành phố Lào Cai và Trung Quốc. Sông Hồng sau khi được Nậm Thi hợp lưu thì chảy hẳn vào lãnh thổ Việt Nam. Thác Tà Lâm là ngọn thác nguồn đẹp nổi tiếng trên sông Nậm Thi. Thác nằm phía tây huyện Mường Khương (Lào Cai), nằm giữa hai ngọn núi như hai con rồng đang vươn xuống, đầu rồng ngẩng cao bằng nhau. Mình và đuôi rồng vắt lên dãy núi con voi sừng sững cõng trên mình rừng xanh bát ngát.


Sông Đà đoạn chảy qua huyện Ba Vì.

3. Sông Đà:

- Sông Đà, còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ.


- Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983 km), diện tích lưu vực là 52.900 km². Ở Trung Quốc, sông có tên là Lý Tiên Giang, do hai nhánh Bả Biên Giang và A Mặc Giang hợp thành. Trong một số tiếng châu Âu, sông Đà được dịch là sông Đen (tiếng Anh: Black River; tiếng Pháp: Rivière Noire). Đoạn ở Trung Quốc dài khoảng 400 km từ núi Nguy Bảo ở huyện tự trị người Di người Hồi Nguy Sơn phía nam châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chảy theo hướng tây bắc-đông nam qua Phổ Nhĩ.


- Đoạn ở Việt Nam dài 527 km (có tài liệu ghi 543 km). Điểm đầu là biên giới Việt Nam-Trung Quốc tại huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông chảy qua các tỉnh Tây Bắc là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ (phân chia huyện Thanh Thủy, Phú Thọ với Ba Vì, Hà Nội). Điểm cuối là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.


- Đoạn đầu sông trên lãnh thổ Việt Nam, sông Đà còn được gọi là Nậm Tè. Các phụ lưu trên lãnh thổ Việt Nam gồm Nậm Na (ở tả ngạn), Nậm Mốc (ở hữu ngạn).


- Sông có lưu lượng nước lớn, cung cấp 31% lượng nước cho sông Hồng và là một nguồn tài nguyên thủy điện lớn cho ngành công nghiệp điện Việt Nam. Năm 1994, khánh thành Nhà máy Thủy điện Hoà Bình có công suất 1.920 MW với 8 tổ máy.

Ngã ba sông Nậm Na và sông Đà, nơi dinh thự Đèo Văn Long

4. Sông Nậm Na: 

Sông Nậm Na dài khoảng 86km bắt nguồn từ một dãy núi cao trên 2000m của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Nậm Na là phụ lưu lớn nhất của sông Đà và hợp lưu với dòng sông này tại Mường Lay - Lai Châu. Nằm dọc theo quốc lộ nối hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, vẻ hiền hòa và thơ mộng của dòng sông đã khiến cho con lộ này trở thành một trong những cung đường quyến rũ nhất của Tây Bắc. Hình ảnh cầu Hang Tôm - cây cầu dây văng lớn nhất miền Bắc khi xưa, mà tương lai sẽ bị chìm trong nước sau khi thủy điện Sơn La hoàn thành, luôn gắn liền với những bức hình của Nậm Na.


Sông Lô, đoạn chảy qua Phú Thọ
5. Sông Lô:

- Sông Lô là phụ lưu tả ngạn (bên trái) của sông Hồng, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy vào Việt Nam tại xã Thanh Thuỷ, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Điểm cuối là ngã ba Việt Trì, còn gọi là ngã ba Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, nơi sông Lô đổ vào sông Hồng. Phần đầu nguồn tại Trung Quốc có tên là Bàn Long Giang, còn phần chảy tại Việt Nam có tên là sông Lô, sông Lô còn có tên là "Mã Giang". Tổng diện tích lưu vực: 39.000 km², trong đó phần ở Việt Nam là 22.600 km². Đoạn sông Lô chảy ở Việt Nam có chiều dài 274 km.


- Sông Lô có hai phụ lưu lớn là Sông Chảy chi lưu phía hữu ngạn, Sông Gâm, chi lưu phía tả ngạn. Ngoài ra còn có các phụ lưu nhỏ khác như: Sông Phó Đáy, chi lưu phía tả ngạn, hợp lưu gần Việt Trì. Sông Con, chi lưu phía hữu ngạn, hợp lưu tại thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang.

Hồ Thác Bà trên sông Chảy ở đoạn chảy qua tỉnh Yên Bái.

- Sông Chảy:

+ Sông Chảy phát nguyên từ sườn tây nam đỉnh Tây Côn Lĩnh (2.419 m) và sườn đông bắc đỉnh Kiều Liên Ti (2402 m) trên khối núi thượng nguồn sông Chảy, phía tây bắc tỉnh Hà Giang, vượt qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái rồi chảy vào sông Lô ở Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Sông Chảy còn có tên là "Lôi Hà".


+ Từ Kiều Liêu Ti nó chảy tới gần thị trấn Vinh Quang của huyện Hoàng Su Phì rồi chảy qua huyện Xín Mần tới huyện Si Ma Cai. Trên đoạn này, khoảng 5 km của sông Chảy là biên giới Việt - Trung giữa tỉnh Lào Cai, Việt Nam (bao gồm ranh giới các xã Lùng Cải, Lùng Sui, Sán Chải, Si Ma Cai và Nàn Sán), với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Sông Chảy có đoạn cách Sông Hồng khoảng 15 km với dãy núi Con Voi ở giữa ngăn lưu vực hai dòng sông. Sông chảy qua địa phận xã Việt Tiến (huyện Bảo Yên), các xã Minh Chuẩn,  An Lạc và Tô Mậu của huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái. Tại địa phận huyện này và huyện Yên Bình là hồ Thác Bà dài hơn 50 km, do đập ngăn nước của nhà máy thủy điện Thác Bà tạo ra. Sau khi chảy qua thị trấn Thác Bà và các xã Hán Đà, Đại Minh của huyện này thì nó chảy vào xã Đông Khê, huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ để sau đó hợp lưu với sông Lô tại ranh giới giữa thị trấn Đoan Hùng và hai xã Chí Đám, Hữu Đô.


- Hồ Thác Bà thuộc hai huyện Lục Yên và Yên Bình (Yên Bái): Là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam, hồ là nguồn cung cấp nước cho nhà máy Nhà máy thủy điện Thác Bà (nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt Nam) thuộc tỉnh Yên Bái. Hồ nằm cách Hà Nội 140 km theo quốc lộ 2 về phía tây.


+ Hồ Thác Bà được hình thành khi đập thủy điện Thác Bà hoàn tất năm 1970 ngăn dòng sông Chảy và tạo ra hồ. Diện tích vùng hồ: 23400 ha, diện tích mặt nước: 19050 ha, dài: 80 km, mực nước dao động từ 46 m đến 58 m, chứa được 3 đến 3,9 tỉ mét khối nước. Ngoài dòng sông Chảy là nơi cung cấp nước chủ yếu, hồ Thác Bà còn có một hệ thống sông ngòi lớn như: ngòi Hành, ngòi Cát,... đổ về, làm tăng lượng phù sa lớn và các loài sinh vật phong phú cho hồ.


+ Hồ Thác Bà có hơn 1.300 đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều hang động và cảnh đẹp sơn thủy hữu tình.

Sông Gâm tại xã Yên Phú huyện Bắc Mê
6. Sông Gâm:

- Sông Gâm còn gọi là Sông Gầm, là một phụ lưu của sông Lô chảy theo hướng từ Bắc xuống Nam. Sông xuất phát từ tỉnh Vân Nam (Yunnan) (Trung Quốc) chảy vào địa giới tỉnh Quảng Tây (Guangxi) rồi vào Việt Nam ở tỉnh Cao Bằng. Thị trấn Bảo Lạc nằm ở tả ngạn sông. Xuôi theo dòng nước tới Na Động thì sông Gâm nhận nước của sông Nho Quế từ Lũng Cú, điểm cực Bắc nước Việt Nam đổ về nới rộng lòng sông. Sông Gâm quanh co chảy qua địa giới tỉnh Hà Giang trước khi chảy vào tỉnh Tuyên Quang. Sông Gâm đổ vào sông Lô ở Bình Ca phía Bắc thị xã Tuyên Quang.


- Sông Gâm có một phụ lưu chính bên tả ngạn là Sông Năng. Sông này rót nước từ Hồ Ba Bể bên tỉnh Bắc Kạn vào sông Gâm.


Sông Nho Quế nhìn từ đèo Mã Pí Lèng
7. Sông Nho Quế: 

Sông Nho Quế (phần thượng lưu, ở Trung Quốc gọi là sông Phổ Mai) là một con sông bắt nguồn từ vùng núi Nghiễm Sơn (Vân Nam, Trung Quốc) cao 1.500 m, chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, xẻ qua cao nguyên Đồng Văn, qua các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc thuộc địa phận tỉnh Hà Giang để nhập vào sông Gâm tại Na Nát thuộc xã Lý Bôn, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng. Là chi lưu phía tả ngạn của sông Gâm, sông Nho Quế dài 192 km (phần ở Việt Nam là 46 km). Diện tích lưu vực 6.052 km² (phần ở Việt Nam 2.010 km²), độ cao trung bình 1.255 m, độ dốc trung bình 18,7%. Thung lũng dạng hẻm vực.Nho Quế có một chi lưu chính phía hữu ngạn là sông Nhiễm.


Đoạn sông Phó Đáy chảy qua địa phận xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch

8. Sông Phó Đáy:

- Sông Phó Đáy là một chi lưu bên tả ngạn của sông Lô, có thượng lưu và trung lưu chảy trên địa bàn vùng núi và trung du phía Bắc, còn hạ lưu chảy trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Sông Phó Đáy bắt nguồn từ vùng núi Tam Tạo, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, chảy qua các huyện Yên Sơn, Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang, huyện Lập Thạch, Tam Đảo, Tam Dương, Vĩnh Tường của tỉnh Vĩnh Phúc và nhập vào sông Lô tại giữa xã Sơn Đông (Lập Thạch) và xã Việt Xuân (Vĩnh Tường) phía trên cầu Việt Trì độ 200 m. Bên kia sông Lô tại ngã ba sông là địa phận tỉnh Phú Thọ. Từ ngã ba sông Phó Đáy và sông Lô đi tiếp về phía hạ lưu của sông Lô chưa đến 2 km là ngã ba sông nơi sông Lô hợp lưu vào sông Hồng. Sông Phó Đáy có nhiều phụ lưu nhỏ.
- Đoạn trên địa bàn Bắc Kạn dài 36 km, diện tích lưu vực là 250 km2, lưu lượng bình quân là 9,7 m3/s.


- Đoạn trên địa bàn Tuyên Quang dài 84 km.


- Đoạn trên địa bàn Vĩnh Phúc dài 41,5 km, lưu lượng bình quân là 23 m3/giây. Sông Phó Đáy ở đây còn được gọi là sông Đáy, làm thành ranh giới tự nhiên giữa Lập Thạch với Tam Đảo và giữa Lập Thạch với Tam Dương, Lập Thạch với Vĩnh Tường.


- Mùa mưa, trên sông Phó Đáy thường hay có lũ quét và lũ ống gây nhiều thiệt hại về tài sản và tính mạng cho người dân sống hai bên bờ.


- Sông Phó Đáy (chủ yếu là đoạn qua Tuyên Quang) được nhắc đến trong bài thơ "Đi thuyền trên sông Đáy" và bài "Rằm tháng Giêng" của Hồ Chí Minh.


9. Sông Con:

Sông Con (Hà Giang) phụ lưu cấp I của Sông Lô. Bắt nguồn từ sườn tây nam vùng núi thượng nguồn Sông Chảy ở tỉnh Hà Giang, chảy theo hướng tây bắc - đông nam, nhập vào bờ phải Sông Lô tại Vĩnh Tuy. Dài 76 km. Diện tích lưu vực 1.370 km2, cao trung bình 430 m, độ dốc trung bình 23,6%, mật độ sông suối 1,40 km/km2. Tổng lượng nước trung bình năm là 2,06 km3, ứng với lưu lượng trung bình năm 65,3 m3/s, môđun dòng chảy năm 47,7 l/s.km2. Sông Chảy thuộc loại nhiều nước.


10. Sông Luộc:

Xưa kia gọi là sông Phú Nông là một trong những con sông nối sông Hồng với sông Thái Bình. Điểm đầu là ngã ba giao với sông Hồng tại Phương Trà - xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Đoạn đầu của sông Luộc là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình. Điểm cuối là chỗ gặp sông Thái Bình tại Quý Cao, xã Giang Biên, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Sông có chiều dài 72 km; các loại tàu thuyền, xà lan có tải trọng dưới 300 tấn đều có thể vận tải trên sông cả 2 mùa. Sông Luộc Là đường thủy quan trọng nối Hà Nội với các tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam và cảng Hải Phòng.


11. Sông Đáy:

- Sông Đáy rút nước từ sông Hồng ra vịnh Bắc Bộ. Sông Đáy chảy gọn trong vùng đồng bằng Bắc Bộ với dòng sông chảy song song bên hữu ngạn hạ lưu sông Hồng.


- Sông Đáy có chiều dài khoảng 240 km và lưu vực (cùng với phụ lưu sông Nhuệ) hơn 7.500 km² trên địa bàn các tỉnh thành Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định.


- Là một phân lưu của sông Hồng, sông Đáy nhận nước của sông Hồng ở địa phận Hà Nội giữa huyện Phúc Thọ và huyện Đan Phượng. Quãng sông này còn có tên là sông Hát hay Hát Giang. Chỗ sông Hồng tiếp nước là Hát môn.


- Lưu lượng của sông bất thường nên mùa mưa thì lũ quét lại thêm dòng sông quanh co uốn khúc nên dễ tạo ra những ghềnh nước lớn. Đến mùa khô thì lòng sông có chỗ cạn lội qua được nên thượng lưu sông Đáy thuyền bè không dùng được.


- Xuôi đến Vân Đình thì lòng sông rộng ra, lưu lượng chậm lại nên có thể đi thuyền được. Khúc sông này men đến vùng chân núi nên phong cảnh hữu tình. Đến địa phận huyện Mỹ Đức, sông Đáy tiếp nhận dòng suối Yến (thủy lộ vào chùa Hương). Vượt đến tỉnh Hà Nam khi sông chảy vào thành phố Phủ Lý thì dòng sông Nhuệ góp nước từ phía tả ngạn. Sông Đáy tiếp tục hành trình xuôi nam đón sông Bôi (sông Hoàng Long) bên hữu ngạn từ miền núi tỉnh Hòa Bình và Ninh Bình dồn về tại ngã ba Gián Khẩu, cách thành phố Ninh Bình khoảng 10 km về phía Bắc. Đoạn này sông được gọi sông Gián Khẩu. Qua khỏi Ninh Bình khoảng 20 km thì bên tả ngạn có phụ lưu là sông Đào (sông Nam Định) thêm nước. Gần đến biển, sông Đáy chuyển hướng từ Tây Bắc-Đông Nam sang Đông Bắc-Tây Nam rồi đổ ra vịnh Bắc Bộ ở Cửa Đáy, xưa gọi là cửa Đại An hay Đại Ác thuộc huyện Kim Sơn.


- Các phụ lưu lớn của sông Đáy ở phía hữu ngạn có sông Tích, sông Thanh Hà, sông Hoàng Long.Ở phía tả ngạn có sông Nhuệ, sông Châu, sông Sắt và sông Đào Nam Định. Sông Đào ở Nam Định là chi lưu của sông Hồng đổ vào sông Đáy ở Độc Bộ. Ngoài ra sông Ninh Cơ cũng là chi lưu của sông Hồng liên hệ với sông Đáy bởi sông Quần Liêu.


- Lưu vực dòng sông Đáy lưu giữ nhiều di tích lịch sử như:

+ Miếu Hát ở Hát Môn thờ Hai Bà Trưng. Tương truyền hai bà gieo mình xuống dòng sông Hát tự vẫn sau khi thua giặc Đông Hán ở Lãng Bạc nên dân chúng dựng đền thờ ở Hát Môn.


+ Vân Đình là quê hương cụ nghè Dương Khuê, tiến sĩ năm 1868 triều Tự Đức. Cụ là bạn cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến nên khi cụ Dương Khuê mất, cụ Nguyễn Khuyến có viết bài điếu văn "Khóc bạn" rất nổi tiếng.


+ Chùa Hương trong khu vực Suối Yến, huyện Mỹ Đức.


+ Kẽm Trống, một thắng cảnh độc đáo tạo ra bởi một đoạn sông và 2 bên bờ thuộc ranh giới 2 tỉnh Hà Nam và Ninh Bình.


+ Cửa sông Đáy nằm chính giữa khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng.


+ Kim Sơn, vùng đất ven biển nơi doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ năm 1828 cho đắp đê ngăn sóng biển để lập ra thôn, ấp mới.


+ Sông Đáy trong văn học.


+ Mùa hoa cải bên sông là tên một câu chuyện, một bộ phim, một bài hát nổi tiếng về dòng sông Đáy.


+ Nguyễn Du có bài thơ chữ Nho, "Thanh Quyết giang vãn thiếu", tả cảnh chiều trên sông Thanh Quyết, tức là sông Gián Khẩu, đoạn hạ lưu sông Đáy.


12. Sông Hoàng Long:

- Sông Hoàng Long là một chi lưu của sông Đáy, nhập vào sông Đáy tại ngã ba Gián Khẩu. Đến lượt mình, sông Hoàng Long lại là hợp lưu của sông Lạng và sông Bôi, hai sông nhập lại thành Hoàng Long tại Kênh Gà, xã Gia Thịnh. Trên đường đi sông Hoàng Long còn có các nhánh là sông Chanh, sông Sào Khê, sông Lựng, sông Đào, sông Chim, ...


- Sông Hoàng Long chảy qua địa phận các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư đều thuộc tỉnh Ninh Bình. Đoạn từ chỗ sông Bôi và sông Lạng hợp lưu tới chỗ sông Hoàng Long hợp lưu vào sông Đáy dài khoảng 25 km, chỗ rộng nhất 300 m.Từ sông Hoàng Long có thể theo các nhánh dẫn vào các điểm du lịch như suối nước nóng Kênh Gà, động Vân Trình, Cố đô Hoa Lư, hang động Tràng An, chùa Bái Đính.


- Ý nghĩa tên gọi:

+ Sông Hoàng Long từ xưa có tên là sông Đại Hoàng. Theo truyền thuyết, Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) khi còn nhỏ đã tự xưng vương, hai bên tả hữu có Đinh Điền và Nguyễn Bặc đứng hầu. Người chú nghe tin Đinh Bộ Lĩnh xưng vương, thất kinh cầm gươm đuổi đánh. Đinh Bộ Lĩnh phải chạy trốn chú từ làng Mai Phương thuộc xã Gia Hưng ngày nay đến bến đò Trường Yên (xã Gia Thắng) thì cùng đường bèn kêu rồng vàng (hoàng long) trợ giúp. Rồng vàng nổi lên đưa Đinh Bộ Lĩnh qua sông, người chú nhìn thấy rồng vàng lại thất kinh lần nữa bèn cắm gươm xuống và quỳ lạy theo. Con sông từ đó được mang tên sông Hoàng Long. Nơi người chú cắm Gươm xuống mọc lên một ngọn núi mà người dân nơi đây gọi là núi Cắm Gươm (núi Kiếp Lĩnh).


+ Lễ hội cố đô Hoa Lư luôn có tục rước nước từ sông Hoàng Long về đền Vua Đinh Tiên Hoàng ở khu di tích cố đô Hoa Lư để tái hiện lại truyền thuyết này.


13. Sông Bôi:

- Sông Bôi chảy qua 2 tỉnh Hòa Bình và Ninh Bình, sông là nhánh chính đổ vào sông Hoàng Long.


- Sông Bôi bắt nguồn từ vùng Núi Hang (thuộc xã Thượng Tiến, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình), ở độ cao 300 m, chảy qua các huyện Kim Bôi, Lạc Thủy (tỉnh Hòa Bình) và các huyện Nho Quan, Gia Viễn (tỉnh Ninh Bình). Sông Bôi hợp lưu với sông Hoàng Long tại giáp ranh giữa xã Đức Long (huyện Nho Quan) và xã Gia Phú (huyện Gia Viễn).


- Chiều dài tổng cộng khoảng 125 km. Diện tích lưu vực 1.550 km², độ cao trung bình 173 m. Có 2 nguồn nước khoáng đổ vào thượng lưu và hạ lưu sông Bôi là nước khoáng Kim Bôi (Hòa Bình và nước khoáng Kênh Gà (Ninh Bình)


14. Sông Vạc: 

Sông Vạc là chi lưu của sông Đáy. Sông Vạc do một số phân lưu của sông Hoàng Long như các sông Chanh, sông Sào Khê, sông Ngô Đồng, sông Luồn, sông Vo, sông Vân hợp lưu tại địa phận huyện Hoa Lư chảy qua ranh giới giữa hai huyện Yên Mô và Yên Khánh, chảy qua huyện Kim Sơn rồi hội lưu vào sông Đáy.


15. Sông Sào Khê:

- Sông Sào Khê là con sông chảy qua khu di tích cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đây là một con sông được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Sông Sào Khê hiện được xây kè, nạo vét dòng chảy, tôn tạo cảnh quan để trở thành tuyến du lịch đường sông vào cố đô Hoa Lư.


- Sông Sào Khê chảy theo hướng chính Bắc Nam và ngược lại tùy theo mùa, dòng chảy chủ yếu thuộc huyện Hoa Lư và một phần ranh giới với thành phố Ninh Bình. Điểm khởi đầu phía bắc bắt đầu nối sông Hoàng Long từ cống Trường Yên, xuyên dọc kinh đô Hoa Lư rồi uốn lượn bên rìa đông khu thắng cảnh Tràng An qua xã Ninh Xuân và ranh giới giữa 2 xã Ninh Thắng, Ninh Tiến rồi cùng với sông Chanh nối với sông Vân, sông Vạc tại cầu Vân trên quốc lộ 1A. Tổng chiều dài sông khoảng 14 km, bề rộng lòng sông dao động từ 20 m đến 141 m. Trên sông có các di tích khác như cầu Đông, cầu Dền, Ghềnh Tháp - phủ Vườn Thiên. Vì vậy mà toàn cảnh sông và hai bên bờ là danh thắng tự nhiên được công nhận là di tích văn hóa quốc gia thuộc cố đô Hoa Lư.


- Không chỉ là cửa ngõ đường thủy vào cố đô Hoa Lư và khu danh thắng Tràng An, sông Sào Khê còn được công nhận là di tích lịch sử gắn với kinh đô Hoa Lư và sự kiện dời đô về Thăng Long bằng đường thủy.


16. Sông Vân:

- Sông Vân (tên cổ sông Vân Sàng) là một chi lưu của sông Đáy, chảy dọc bên 2 quốc lộ ở thành phố Ninh Bình (bắt đầu từ các sông nhánh đổ vào sông Vạc tại cầu Yên đến cầu Lim nằm bên quốc lộ 1A, từ cầu Lim đến cửa sông chảy bên quốc lộ 10). Sông Vân hợp lưu với sông Đáy tại ngã ba chân núi Non Nước. Đoạn mang tên sông Vân có chiều dài trên 7 km, chỗ rộng nhất tới 300 m. Sông Vân cũng nối thông thủy với các sông nhỏ khác là sông Sào Khê và sông Chanh.


- Sông Vân và công viên cây xanh hai bên bờ đồng thời là ranh giới tự nhiên giữa các cặp phường Nam Thành - Thanh Bình và Vân Giang - Thanh Bình của thành phố Ninh Bình. Có 6 cầu bắc qua sông này gồm: cầu Vòm, cầu Vũng Trắm, cầu Lim, cầu Trà Là, cầu Vân Giang và cầu Âu Vân.


- Sông Vân là một dòng sông có giá trị lịch sử, nơi gắn với các chiến công của Việt Nam trong kháng chiến chống quân nhà Tống dưới thời vua Lê Đại Hành. Tương truyền, khi Lê Hoàn đánh thắng giặc Tống trở về Hoa Lư, Dương Vân Nga đã kê giường bên bờ sông đón và giao hoan với nhà vua, lập tức có gió thổi mây bay đến trên trời soi xuống dòng sông. Từ đó mà sông có tên là Vân Sàng (giường mây). Ngày nay ở hạ lưu, hai bên bờ sông là hai con đường mang tên Lê Đại Hành và Dương Vân Nga, gần đó có đền Đồng Bến là nơi ghi dấu những truyền thuyết về thiên tình sử này.


- Sông Vân chảy qua nhiều thắng cảnh, di tích lịch sử như núi Non Nước, chợ Rồng Ninh Bình, đền Trương Hán Siêu, công viên sông Vân, nhà văn hóa thành phố. Người ta thường nghĩ tới hình ảnh "núi Thuý, sông Vân" khi nhắc tới thành phố Ninh Bình.


17. Sông Càn:

- Sông Càn là một phân lưu của sông Đáy, chảy qua hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Sông Càn lấy nước từ sông Đáy tại Gia Viễn, chảy qua Hoa Lư, thị xã Tam Điệp, Yên Mô (Ninh Bình) rồi qua Nga Sơn (Thanh Hóa) tiếp tục chuyển hướng Đông chảy vào ranh giới huyện này với huyện Kim Sơn (Ninh Bình) rồi đổ ra biển Đông theo hướng Tây Nam tại cửa Càn (Kim Sơn).


- Sông Càn là sông có nhiều phụ lưu khắp chiều dài. Sông cũng có rất nhiều tên gọi địa phương như sông Tống, sông Hoát, sông Bình Minh Tây, v.v. Sông chảy qua nhiều địa danh nổi tiếng như cửa biển Thần Phù, hồ Đồng Thái, cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), động Từ Thức (Thanh Hoá), Sông cũng là một phần ranh giới tự nhiên giữa miền Bắc và miền Trung tiếp nối theo dãy Tam Điệp, là đường biên phía tây của khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng.


18. Sông Đào Nam Định:

- Sông Nam Định, với tên khác là sông Đào, là một phân lưu của sông Hồng. Nó đưa một phần nước của sông Hồng đổ vào sông Đáy và chảy ra biển Đông. Toàn bộ chiều dài của sông là 33 km.


- Tuy "Nam Định" là tên được sử dụng nhiều trong các bản đồ, song tên phổ biến của nó trong dân gian là "Đào". Có hai giả thuyết về chữ "Đào" trong tên gọi của con sông. Thuyết thứ nhất cho rằng vì đây là sông nhân tạo, do con người đào để nối sông Hồng với sông Đáy nhằm phát triển thủy lợi và giao thông đường thủy. Thuyết thứ hai cho rằng sở dĩ gọi là sông Đào vì nước sông luôn có màu đỏ.


- Sông Nam Định chảy trên địa phận tỉnh Nam Định, bắt đầu từ sông Hồng đi theo hướng Nam qua ranh giới giữa thành phố Nam Định và huyện Mỹ Lộc, đi qua thành phố Nam Định, qua ranh giới giữa hai huyện huyện Vụ Bản và Nam Trực, ranh giới giữa hai huyện Ý Yên và Nghĩa Hưng, và đổ vào sông Đáy. Ngoài cầu Đò Quan ở thành phố Nam Định bắc qua sông, chính quyền tỉnh Nam Định còn đang triển khai dự án bắc cầu Nam Định.


19. Sông Ninh Cơ:

- Sông Ninh Cơ là một nhánh nhỏ phía hạ lưu của sông Hồng chảy hoàn toàn trong tỉnh Nam Định. Điểm bắt đầu của nó là nơi tiếp giáp hai xã Trực Chính (huyện Trực Ninh) và Xuân Hồng (huyện Xuân Trường). Nó chảy qua ranh giới hai huyện Trực Ninh, Xuân Trường, sau đó xuyên ngang qua huyện Trực Ninh rồi đổi hướng để tạo thành ranh giới tự nhiên giữa huyện này với huyện Nghĩa Hưng. Đoạn cuối là ranh giới giữa hai huyện Hải Hậu (phía đông) và Nghĩa Hưng (phía tây) và đổ ra cửa Lạch Giang, tại nơi tiếp giáp của xã Nghĩa Phúc (huyện Nghĩa Hưng) với thị trấn Thịnh Long (huyện Hải Hậu). Cầu Lạc Quần là cầu duy nhất bắc qua sông này, phía Bắc cầu là huyện Trực Ninh, phía Nam cầu là huyện Xuân Trường. Con sông này chảy gần như hình sin theo hướng Bắc Đông Bắc - Tây Nam với chiều dài khoảng 55 km. Nó đem lại nguồn nước và phù sa khá tốt cho 2 huyện Nghĩa Hưng và Trực Ninh. Vào mùa lũ, nước sông dâng khá lớn, có thể nước tới mặt đê cao 15 m.


- Con sông này là nơi diễn ra cuộc thi bơi Trải hằng năm trong Lễ Hội Truyền Thống Chùa Keo Hành Thiện. Đây là một trong những phong tục truyền thống hết sức đặc sặc của người dân Hành Thiện nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.


20. Kênh Quần Liêu: 

Sông Quần Liêu nối thông sông Ninh Cơ với sông Đáy.


21. Sông Thanh Hà: 

Sông Thanh Hà bắt nguồn từ Hoà Bình đổ vào sông Đáy tại Bạch Tuyết.


22. Sông Đập: 

Sông Đập phụ lưu của sông Hoàng Long, đổ vào sông Hoàng Long ở gần trạm thuỷ văn Bến Đế, sông có lưu vực là 91km2, chiều dài sông là 29km.


23. Sông Lạng: 

Sông Lạng là phụ lưu chính đổ vào sông Hoàng Long ở dưới trạm thuỷ văn Bến Đế. Sông có diện tích lưu vực là 204km2, chiều dài sông 31,5km.


24. Sông Vị Hoàng:

- Sông Vị Hoàng là con sông đào chảy qua đất Vị Hoàng tỉnh Nam Định. Con sông này ngày nay không còn nữa.


- Theo sử cũ, sông Vị Hoàng được đào vào đời Trần, nối sông Đáy với sông Vĩnh Tế (Vĩnh Giang) chảy quanh co quanh phủ Thiên Trường xưa.


- Năm 1832, do sông Vị Hoàng chảy xiết, làm bờ sông ngày càng xói lở và khu phố buôn bán phía Đông Bắc thành Vị Hoàng có nguy cơ bị mất. Theo nguyện vọng của địa phương, vua Minh Mạng cho đào một con sông mới, được gọi là sông Đào, để chia sẻ dòng nước từ kênh Phù Long đến bến đò Lương Xá, tách làng Vị Hoàng thành hai làng: Vị Hoàng và Vị Khê. Từ đây, nước sông Hồng không còn đổ nhiều vào sông Vị Hoàng, sông chảy chậm và bị phù sa lắng đọng, bồi lấp dần.


- Khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sông Vị Hoàng đã bị lấp dần nên còn được gọi là sông Lấp. Ngày nay, hầu như không còn vết tích của sông Vị Hoàng.


- Sách Việt sử thông giám cương mục viết rằng: "Việc đào sông Vị Hoàng đã chặn mất long mạch nên nhà Trần mất ngôi".


25. Sông Cửu An:

- Sông Cửu An là  con sông nhỏ nằm trong hệ thống thủy nông Bắc-Hưng-Hải, thuộc địa phận tỉnh Hải Dương, một phần chảy theo ranh giới giữa Hải Dương và vùng phía đông tỉnh Hưng Yên.


- Sông Cửu An vốn là một phân lưu của sông Hồng, chảy về phía đông, về sau bị vùi lấp ở phần cửa sông.


- Sông còn được gọi là sông Cửu Yên, sông Si, sông Ba Đông, sông Bằng Ngang.


- Hiện nay, sông Cửu An chảy từ Nghi Xuyên đến ngã ba Tòng Hóa (Phù Cừ), tổng chiều dài 23,5 km. Mặc dù sông Cửu An không lớn nhưng lại đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp tại những vùng sông chảy qua.


26. Sông Diêm Hộ:

- Sông Diêm Hộ, một con sông nhỏ thuộc hệ thống sông Hồng chảy trong tỉnh Thái Bình.


- Sông được tách ra từ sông Luộc tại địa phận xã Quỳnh Thọ (Quỳnh Phụ) chảy ngoằn ngoèo theo hướng Đông Nam qua huyện Quỳnh Phụ, xã Đông Kinh huyện Đông Hưng đến địa phận xã Thái Giang (Thái Thụy) sông đổi hướng chảy theo hướng Tây Đông và đổ ra biển Đông tại cửa Diêm Hộ (phía nam thị trấn Diêm Điền - Thái Thụy).


- Sông có tổng chiều dài khoảng hơn 40 km, đi qua và làm một phần ranh giới tự nhiên giữa các huyện Quỳnh Phụ và Đông Hưng, Đông Hưng và Thái Thụy, sông có bề ngang rộng ở đoạn chảy qua huyện Thái Thụy và chia đôi huyện Thái Thụy thành hai địa phận có diện tích tương đương nhau.


27. Sông Trà Lý:

- Sông Trà Lý là một phân lưu của sông Hồng chảy ngang qua tỉnh Thái Bình gần như theo hướng Tây Tây Bắc-Đông Đông Nam với một vài đoạn uốn cong, chiều dài khoảng 67 km. Đoạn chảy qua thành phố Thái Bình có tên là sông Bo gắn liền với giống ổi Bo nổi tiếng của xã Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình.


- Điểm đầu từ ngã ba Phạm Lỗ nơi giáp ranh của xã Phú Phúc (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) với hai xã Hồng Minh (huyện Hưng Hà), Hồng Lý (huyện Vũ Thư) cùng tỉnh Thái Bình. Đây là điểm nối với sông Hồng.

 

- Điểm cuối là cửa Trà Lý đổ ra biển Đông, ranh giới giữa hai xã Thái Đô (huyện Thái Thụy) và xã Đông Hải (huyện Tiền Hải) cùng tỉnh Thái Bình.


- Trên sông Trà Lý hiện có 4 cây cầu bắc qua, tại thành phố Thái Bình có 3 cầu là cầu Hoà Bình, cầu Thái Bình (còn gọi là cầu Bo mới), cầu Độc Lập (cầu Bo cũ); cầu Trà Lý phía sát cửa sông nối hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy.


- Sông Thanh Hà: Có lưu vực nhỏ 390km2, bắt nguồn từ Hoà Bình đổ vào sông Đáy tại Bạch Tuyết.


- Các sông nội đồng: Sông Nhuệ, sông Châu, sông Sắt, sông Vạc, sông Càn đều là những trục cấp và tiêu nước cho các khu vực.


28. Sông Tích: 

Bắt nguồn từ dãy núi Ba Vì, có chiều dài 110km, đổ vào sông Đáy tại Ba Thá.


29. Sông Nhuệ:

- Sông Nhuệ tức Nhuệ Giang là một con sông nhỏ, dài khoảng 76 km, chảy ngoằn ngoèo gần như theo hướng bắc Tây Bắc-Nam Đông Nam qua địa phận thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Nam.


- Điểm bắt đầu của nó là cống Liên Mạc, lấy nước từ sông Hồng trong địa phận huyện Từ Liêm (thành phố Hà Nội) và điểm kết thúc của nó là cống Phủ Lý khi hợp lưu với sông Đáy gần thành phố Phủ Lý (tỉnh Hà Nam). Sông chảy qua các quận, huyện, thị trấn gồm quận Cầu Giấy, Hà Đông, huyện Từ Liêm, Thanh Trì, Hoài Đức, Thường Tín, Thanh Oai, Phú Xuyên và cuối cùng đổ vào sông Đáy ở khu vực thành phố Phủ Lý. Diện tích lưu vực của nó khoảng 1.075 km² (phần bị các đê bao bọc). Ngoài ra, nối sông Đáy với sông Nhuệ còn có các sông nhỏ như sông La Khê (qua thành phố Hà Đông), sông Tô Lịch, sông Vân Đình, sông Duy Tiên, sông Ngoại Độ v.v...


- Năm 1831, vua Minh Mạng ra đạo dụ thành lập tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Lý Nhân v.v. Sông Nhuệ và sông Hồng được lấy làm gianh giới của tỉnh Hà Nội. Tên Hà Nội có nghĩa là "bên trong sông" tức là khu vực giữa 2 con sông này.


- Do hệ thống sông Thái Bình có nối với sông Hồng bởi sông Đuống (ở Thượng Lưu) và sông Luộc (ở hạ lưu) nên đôi khi người ta còn gọi hệ thống này là hệ thống sông Hồng - Thái Bình và nó tạo ra khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Hệ thống này giúp phân nước sông Hồng khi mùa lũ, làm giảm thiệt hại ở hạ lưu sông Hồng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét