Thứ Ba, 13 tháng 12, 2022

Liêu Trai Chí Dị Thập Di (46 - 54)

 


Liêu Trai Chí Dị Thập Di 

46. Vương Vân Hạc (Vương Vân Hạc)

Vương Trung Lập, tự Thang Thần, người Kha Lam. Học rộng nhớ dai, không gì không biết. Lúc trẻ chuyên Kinh Dịch, nổi tiếng chốn trường ốc. Trong nhà giàu có, hàng ngày khách tới chật cửa, tiếp đãi rất chu đáo, nhưng mình hưởng thụ thì hàng ngày chỉ một bát cơm suông canh miến mà thôi. Chưa được bốn mươi tuổi thì vợ chết, không lấy vợ kế, cũng không đi thi nữa. Ở riêng một phòng, giống hệt một nhà sư già. Như thế ba bốn năm mới ra ngoài, người ta cảm thấy trò chuyện lưu loát, thi họa hơn người, giống như có quỷ thần nhập vào, nhưng hỏi thì không nói. Từng ở trong quán trọ tại Bình Định, gặp Nhàn Nhàn công bảo làm thơ, liền viết "Ký dữ Nhàn Nhàn ngạo Lãng tiên, Ương tùy thi tửu trụy phàm duyên. Hoàng trần già đoạn lai thời lộ, Bất đáo Bồng Lai ngũ bách niên" (Gởi nhắn Nhàn Nhàn ngạo cuộc say, Uổng vì thơ rượu đọa trần ai. Bụi vàng che lấp đường lui tới, Xa cách Bồng Lai chục kiếp rồi). Nhân nói sĩ đại phu thời Đường có năm trăm người, đều là người tiên bị trích giáng, vì đời loạn mà trước tác, cũng có người mê muội không quay về, như ông và ta đều như thế.


Một hôm tới kinh đô, ngụ trong nhà Nhàn Nhàn công. Có thơ Trung thu rằng “Ấn thấu sơn hà ảnh, Chiếu khai thiên địa tâm. Nhân thế hữu giai hiểu, Ngã hung vô cổ câm” (Núi sông in bóng ấy, Trời đất rọi gương này. Dưới đời có sớm tối, Trong dạ chẳng xưa nay), Nhàn Nhàn công lấy làm lạ. Nhân đòi một chậu mực, theo lời đưa cho. Sáng hôm sau không cáo từ mà bỏ đi, trên vách còn lưu lại hai chữ “Cổ hạc”, nét chữ rộng một thước, theo thể phi hạc, khí vận sinh động, không biết lấy vật gì viết ra. Giây lát từ ngoài bước vào, hỏi vì sao làm thế thì không đáp, lại đề thơ bên cạnh rằng "Thiên địa chi gian nhất cổ nho, Tỉnh lai bất ký túy trung thư, Bàng nhân thác thử thần tiên tự, Chỉ khủng thần tiên tự bất như” (Đất trời có một hủ nho ta, Lúc say viết chữ nhớ đâu mà, Người ngoài cứ nói thần tiên viết, E chữ thần tiên cũng kém xa). Thơ của tiên sinh nhiều câu mang kỳ khí phương ngoại. Như "Túy tụ vũ hiềm thiên địa trách, Thi tình cuồng yếm hải sơn bình. Hốt kinh phong lãng nhĩ biên quá, Bất giác thần hình lai thế trung. Nhân quân cảm kích tùng quân thuyết, Tạc phá thiên cơ ngã diệc kinh” (Say múa luống chê trời đất hẹp, Hứng thơ lại chán núi gò bằng. Chợt nghe sóng gió vang bên gối, Chẳng biết thân mình đã xuống trần. Vì ông cảm kích nên ta nói, Nói rõ thiên cơ lại rợn lòng), như thế rất nhiều.


Có người hỏi chuyện ngoài đời cũng đáp một hai câu. Giỏi viết chữ lớn kiều phách khoa, thế rất mạnh mẽ, Nhàn Nhàn rất thích. Lý Chi Thuần ở Bình Sơn thường gặp tiên sinh, nói qua về nhân vật thời trước, dẫn lời tiên nho nghị luận mấy mươi điều, giống như từng người từng người tự bắt bí, kế theo ý mình mà đoán định, vì thế trở thành loại đứng đầu trong bọn biện giả. Lúc lên đường nói trước ngày chết, quả như lời ấy mà qua đời, được bốn mươi chín tuổi. Cuối đời đổi tên là Vân Hạc, hiệu là Nghĩ Hủ đạo nhân, nhân vật như Lữ Thế Họa cũng còn thua sút.

 

47. Xương Trần Hy Di (Trần Hy Di Linh Cốt)

 

Cốc Trương Siêu trong Hoa Sơn, linh cốt của Trần Hy Di ở đó. Đường núi cheo leo, bên dưới sâu không thấy đáy. Lý Khâm Thúc người Hà Trung từng tới đó. Xương của Trần to dài khác hẳn người đời nay, cứng nặng sáng loáng như ngọc xanh, việc thành đạo đều hiện rõ ở đó. Đệ tử Mỗ di hài cũng bên cạnh, nhưng so với Trần thì tiên phàm khác hẳn nhau.

 

48. Hai Chuyện Về Hồ (Hồ Nhị Tắc)

I.

Thiết Lý ở thôn Bắc Trịnh Dương Khúc, làm nghề bắt hồ. Một hôm giăng lưới dưới khu mộ cổ ở ngòi phía bắc, buộc một con bồ câu làm mồi, trèo lên cây lớn chờ. Sau canh hai, quần hồ kéo tới, nói tiếng người "Thiết Lý Thiết Lý, ngươi lấy bồ câu để nhử bọn ta à? Cha con ngươi giống như lừa ngựa, không chịu làm ruộng, chỉ học sát sinh, nội ngoại lục thân của bọn ta đều bị thằng giặc này làm hại. Hôm nay đã tới số trời, mau leo xuống đi. Nếu không bọn ta cưa đổ cây thì đừng trách”. Kế đó lập tức nghe tiếng cưa kéo xoèn xoẹt, tiếng gọi lớn mang chảo dầu tới để luộc thằng giặc này, lửa cũng nổi lên. Thiết Lý sợ, không biết làm sao, nhìn lại trong lưng chỉ có lưỡi búa lớn, nghĩ nếu cây đổ xuống thì cứ chém bừa. Giây lát trời sáng, hồ cũng bỏ đi. Trèo xuống thấy trên thân cây không có vết cưa kéo gì, bên cạnh chỉ có vài cái xương sườn trâu mà thôỉ. Thiết Lý biết là hồ biến ra ảo ảnh chứ không có thật, đêm ấy lại tới. Chưa đến canh hai, hồ tới khóc lóc chửi bới rất có lớp lang. Lý giắt ống pháo trong lưng, lấy ra ngầm đốt rồi ném xuống gốc cây. Hỏa dược phát nổ vang rền, quần hồ chạy tán loạn, bị lưới chụp xuống, nhắm mắt chờ chết, không nói một câu. Thiết Ly vung búa chém chết hết.


II.

Hồ Ngạn Cao giữ ấn triện huyện Tức Mặc, huyện thự ở góc thành cổ bị yêu hồ chiếm cứ, ban ngày núp, ban đêm ra, biến hóa đủ lối, có khi biến ra ngục tốt cởi trói cho tù nhân, có khi biến thành quan kỹ trộm chăn trong dịch trạm, dụ dỗ đàn ông đàn bà, có người bị mê loạn đến nỗi chết, người trong huyện không biết làm sao đành phải phụng thờ hương hỏa, đã hơn năm mươi năm. Ngạn Cao tới đáo nhiệm, hỏi biết được chuyện, nói với đồng liêu “Quan xá là cho người hiền ở, nay Huyện lệnh không ở được, mà để quỷ quái chiếm cứ à?”. Lúc ấy nhà cửa bỏ trống đã lâu, suy sụp tiêu điều, lập tức sai dọn cỏ.


Hôm sau Hồ ra sảnh xem việc, đến tối thắp đuốc bày ra ngồi chờ. Đến khuya hồ hú trong khu vườn phía sau, một con xướng hàng trăm con họa, giây lát chia ra vây quanh nội đình, trong bọn có một con hồ lớn lông trắng, ngồi xổm dưới đất rống lên như muốn cắn xé. Quân lính đều chạy tán loạn, không còn người nào. Ngạn Cao vẫn ngồi thẳng bất động, mà hồ cũng không dám xông tới, hồi lâu kéo cả bầy rút lui. Như thế liên tiếp ba ngày, rồi không tới nữa. Lại qua hơn mười ngày hồ ám một tỳ nữ, người ấy nhảy nhót cười rộ, điên cuồng như đang mộng mị. Ngạn Cao lấy son viết vào giữa chiếc thoa của tỳ nữ, bảo cút đi, tỳ nữ ấy lập tức tỉnh lại.


Sáng hôm sau, Huyện úy từ Tuần La về, gặp quần hồ mấy trăm con từ phía đông huyện đi về phía nam. Hồ lại ám một người đàn bà trong nhà lại mục Đăng Châu Giang Sùng. Sùng ra hải đảo mời đạo sĩ tới làm phép, nhân lúc người đàn bà đang điên cuồng, trói vào bánh xe, chôn trục xuống đất, sai người quay tít. Hồi lâu người đàn bà nôn ra nước dãi tanh hôi, là bầy hồ ở Túc Mặc bị Hồ công đuổi tới đó phá phách. Phụ lão ở Tức Mặc lập bia về việc Ngạn Cao, gọi là bia Hồ công đuổi hồ.

 

49. Khôi Tinh (Khôi Tinh)

 

Trương Tế Vũ ở Huy Thành, đi nằm mà chưa ngủ, chợt thấy ánh sáng soi sáng cả phòng, kinh ngạc nhìn ra, thấy một con quỷ cầm bút đứng, dáng như Khôi tinh, vội trở dậy vái lạy, ánh sáng cũng tắt dần. Từ đó tự phụ, cho rằng đó là điềm sẽ chiếm khôi nguyên. Về sau lại lạc phách không gì thành công, nhà cửa cũng suy sụp, người ruột thịt nối nhau chết, chỉ còn một mình Trương. Kẻ kia là Khôi tinh, sao không tạo phúc mà lại gây họa nhỉ!

 

50. Nhốt Rận (Tàng Sắt)

 

Người trong hương là Mỗ, ngẫu nhiên ngồi dưới gốc cây, mò bắt được một con rận, lấy giấy gói lại nhét vào cái lổ trên thân cây rồi đi. Hai ba năm sau lại đi ngang chỗ ấy, chợt nhớ chuyện trước, nhìn vào thấy mảnh giấy vẫn còn. Cầm lấy mở ra xem, thấy con rận mỏng như vỏ trấu, bèn đặt lên lòng bàn tay nhìn kỹ. Giây lát thấy lòng bàn tay rất ngứa, mà con rận to dần. Liền vứt đó về nhà, chỗ ngứa sưng to, đau đớn vài hôm thì chết.

 

51. Chuyện Lạ Về Rận (Sắt Dị)

 

Sau khi thành Đức Thuận bị phá, nhà dân dinh quan đều bị hủy. Dưới thành có vài mươi khẩu pháo, dây treo còn trong doanh cũ. Có người định tháo dây ấy, thấy sợi nào từ trên tới dưới cũng lúc nhúc rận lớn, như sáp chảy trên cây nến. Lúc loạn lạc trong cõi trời đất chuyện gì cũng có.

 

52. Kéo Ruột (Sưu Trường)

 

Người dân huyện Lai Dương là Mỗ ngủ trưa, thấy một người đàn ông dắt tay một người đàn bà bước vào. Người đàn bà vàng vọt sưng phù, bũng tròn căng như quả trứng, có vẻ rất buồn khổ. Người đàn ông thúc giục “Lại đây mau”. Mỗ cho rằng họ làm bậy, nên giả như vẫn ngủ để xem ra sao. Hai người bước vào, như không thấy trên giường có người. Người đàn ông lại hối thúc "Mau lên”. Người đàn bà tự phanh áo ra, để lộ da bụng, thấy to như cái trống. Người đàn ông rút ra một con dao mổ heo đâm vào, rạch từ ngực xuống tới rốn, sột soạt thành tiếng. Mỗ cả sợ, không dám thở mạnh. Người đàn bà nhíu mày nhịn đau, không hề kêu rên. Người đàn ông ngậm dao vào miệng, thò tay vào mớ ruột, kéo ra vắt lên khuỷu tay, vừa vắt vừa kéo, giây lát đầy kín cánh tay, liền lấy dao cắt, đặt lên ghế rồi kéo tiếp, trên ghế đầy ruột lại đặt lên bàn, trên bàn lại đầy. Lại vắt lên khuỷu tay, như người đánh cá kéo lưới, ném lên đầu Mỗ. Mỗ không nhịn nổi nữa, la lớn bật dậy bỏ chạy, mớ ruột rơi xuống dưới giường, hai chân bị vướng, tối tăm mặt mũi ngã xuống. Người nhà đổ tới xem, chỉ thấy trên người Mỗ đầy ruột heo, vào phòng nhìn quanh thì không có gì. Mọi người cho là Mỗ hoa mắt, cũng không ngạc nhiên. Đến khi Mỗ kể lại chuyện mình nhìn thấy, ai cũng lấy làm lạ, nhưng trong phòng hoàn toàn không có dấu vết nào.

 

53. Con Quái Trong Núi (Sơn Tiêu)

 

Người đàn bà Mỗ ở Truy Xuyên bị con quái trong núi gian dâm. Con quái nói "Nếu người thiếu cái chi dùng, ta sẽ đưa tới ngay". Từng đem vải tới chất đầy sân, đều có dấu ấn của kho quan Tế Nam. Nhà người đàn bà sợ vật của quan làm lụy mình nên xin mang đi, giây lát vải đều biến mất. Lời có con ngựa trắng yên vàng hàm thiếc bạc không biết từ đâu tới, nhưng thấy buộc trong tàu. Người nhà càng sợ, cầu khấn hồi lâu, con ngựa chợt biến mất. Bọn con em trong nhà bàn vụng với nhau "Nếu người ta không có con nối dõi, nó có thể đưa tới cho một đứa con không nhỉ?”. Sáng hôm sau thấy có một đứa nhỏ mày mắt như vẽ, bọc tã gấm thêu đặt ngay giữa giường. Già trẻ trong nhà cầu khẩn không muốn nhận nhưng con quái vẫn để đó. Bèn đặt tên đứa nhỏ là Thần Ca, được sáu tuổi thì bệnh chết.

 

54. Phu Nhân Trời Cho (Thiên Tứ Phu Nhân)

 

Miếu Lư Sơn Công ở Quảng Ninh rất linh ứng. Lại có pho tượng vẻ mặt rất hung dữ, đặt chỗ cây rừng thấp thoáng, ban ngày vào đó, nhìn thấy là nổi gai ốc. Người quanh đó nói lúc đêm khuya yên ắng vẫn nghe có tiếng tra hỏi quát tháo, nên người ta đều tìm đường vòng mà đi tránh qua chỗ ấy. Chư sinh Lương Mỗ nhà ở núi Suất Mã trong hương cùng bạn học trò chuyện, nói tới quỷ thần, kể ra những người can đảm, Lương đều không phục. Nhân nói “Ta có thể lúc chiều tối hay lúc trời âm u vào miếu Lư Sơn đi một vòng quanh hành lang". Bạn bè bèn hùa vào, nói “Nói đi được thì lấy gì làm bằng?". Lương nói “Trước tiên ta sẽ đi một vòng, lấy vật đánh dấu lại để làm chứng".


Chiều hôm sau hẹn cùng tới, bạn bè chờ ngoài cửa miếu, Lương xốc áo vào. Đánh dấu tới góc phía đông miếu, mò mẫm thấy một người đứng cạnh vách. Lương cho là ma, bèn cõng ra. Bạn bè đón hỏi thấy gì không, Lương cười nói “Ta cõng được một con ma ra đây, lấy lửa soi xem nào". Đánh lửa lên nhìn thì là một người đàn bà đẹp, áo quần khác hẳn vói thế tục, định hỏi han thì thấy hơi thở yếu ớt, giống như say rượu ngất đi. Mọi người đều cho là ma quỷ đứng quanh canh giữ. Hồi lâu người đàn bà mở mắt, thấy người đứng chung quanh, không kìm được hoảng sợ, hỏi đây là nơi nào. Mọi người bèn trả lời, kể lại chuyện tìm thấy trong miếu, lại hỏi là người hay ma, vì sao tới đây. Người đàn bà nói “Ta là con gái đại tộc Mỗ ở Dương Châu, gặp ngày tốt đang trên đường về nhà chồng, ngồi trong kiệu chợt bị con gió lớn thổi đi, đầu óc mê man, không biết vì sao lại tới đây?”. Mọi người vui mừng nói "Lương sinh chưa cưới vợ, quỷ thần bèn đưa một người vợ từ Dương Châu tới, quả thật có số trời, nên nhân dịp này thành hôn". Lương bèn dắt người đàn bà về, sau đó thi đỗ, làm quan hiển đạt. Người đàn bà sinh được mấy đứa con trai, nên người đương thời gọi là Phu nhân trời cho.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét