NGỤY THƯ QUYỂN 8 - Nhị Công Tôn Đào tứ Trương truyện
Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Trương Dương, Công Tôn Độ, Trương Yên, Trương Tú, Trương Lỗ
Bản đồ lãnh chúa cuối thời Đông Hán năm 195, có vị trí các trận đánh lớn |
CÔNG TÔN ĐỘ TRUYỆN
Công Tôn Độ tự Thăng
Tế, vốn là người huyện Tương Bình quận Liêu Đông. Cha Độ là Diên, tránh quan(1) mà đến ở quận Huyền Thố, dùng Độ làm quan của quận ấy. Bấy giờ con của Huyền
Thố Thái thú Công Tôn Vực là Báo, mới mười tám tuổi, chết sớm. Độ thuở nhỏ có
tên là Báo(2), lại cùng tuổi với con của Vực, Vực gặp mà yêu quý Độ, sai thầy đến
dạy học, giúp cưới vợ cho. Sau cử Hữu đạo(3), bái làm Thượng thư lang, dần chuyển
làm Kí Châu Thứ sử, nói lời sai trái mà bị bãi chức. Người cùng quận là Từ Vinh
làm Trung lang tướng của Đổng Trác, tiến cử Độ làm Liêu Đông Thái thú. Độ vốn
là quan nhỏ của quận Huyền Thố, bị người quận Liêu Đông coi thường. Lúc đầu,
người của thuộc quốc(4) là Công Tôn Chiêu làm Tương Bình Lệnh, gọi con Độ là
Khang làm Ngũ Trưởng. Độ đến nhận chức, bắt Chiêu, đánh chết ở chợ Tương Bình.
Thổ hào họ lớn trong quận là bọn Điền Thiều không có ân giao kết, đều dùng hình
pháp mà giết hết hơn trăm nhà, trong quận rúng động. Đến phía đông đánh nước
Cao Câu Li, đến phía tây đánh người Ô Hoàn, uy lừng ngoài nước. Năm Sơ Bình thứ
nhất, Độ biết Trung Quốc rối loạn, bảo với quan thân cận là bọn Liễu Nghị,
Dương Nghi nói: "Lộc nhà Hán sắp hết, nay cùng các ông mưu làm Vương
thôi".
Ngụy thư viết:
"Độ nói với bọn Nghị, Nghi rằng: 'Có sách bói nói Tôn Đăng đáng làm Thiên
tử, Thái thú họ Công Tôn, tự Thăng Tế, Thăng là Đăng vậy''.
Bấy giờ ở xã Diên Lí
thuộc huyện Tương Bình có khối đá lớn, dời hơn một trượng, dưới có ba khối đá
nhỏ làm chân. Có người bảo Độ nói: "Đấy là điềm đã mũ(5) thời Hán Tuyên Đế,
mà tên ấp giống với tên tiên quân. Xã là đất đai, ý nói đáng có đất đai, mà ba
chân là phụ tá vậy". Độ thêm vui. Hà Nội Thái thú Lí Mẫn ngày trước là người
có tiếng trong quận, ghét việc mà Độ làm, sợ bị hại, bèn đem người nhà chạy vào
biển. Độ cả giận, đào mộ cha của hắn, xẻ quan đốt thây, giết họ hàng của hắn.
Tấn Dương thu viết:
"Con Mẫn đến cứu Mẫn, ra cửa ải, qua hai mươi năm không lấy vợ. Người
trong chua là Từ Mạc trách hắn nói: 'Bất hiếu chẳng gì lớn bằng không có người
nối dõi, sao lại suốt đời không lấy vợ vậy'! Bèn lấy vợ, sinh con là Dận rồi đuổi
vợ đi, thường dùng lễ chịu tang, không thôi lo buồn, được mấy năm thì chết. Dận
sinh ra không biết cha mẹ là ai, đến lúc biết, ăn rau chịu tang người thân cũng
ba năm. Vì không biết ông nội còn hay mất, cũng tự mình cúng tế. Do đó mà có tiếng
tăm, làm quan đến chức Tư đồ".
Thần là Tùng Chi xét:
Truyện gốc nói Mẫn đem người nhà vào biển, mà đây lại nói Mẫn lạc nhau với con,
chưa rõ nguyên nhân.
Chia quận Liêu Đông
lâp ra quận Liêu Tây, quận Trung Liêu, đặt chức Thái thú. Vượt biển lấy các huyện
quận Đông Lai, đặt chức Doanh Châu Thứ sử. Tự lập làm Liêu Đông Hầu, Bình Châu
Mục, truy phong cha là Diên làm Kiến Nghĩa Hầu. Lập miếu thờ hai vị tổ của nhà
Hán(6), thừa lệnh đắp đàn tế ở phía nam thành Tương Bình, cúng tế trời đất, cày
ruộng tịch điền(7), luyện binh, cưỡi xe màn loan, dùng chín cờ xí, lập quân kị
mao đầu, vũ lâm. Thái Tổ xét bái Độ làm Vũ uy Tướng quân, phong Vĩnh Ninh Hương
Hầu, Độ nói: "Ta làm chủ quận Liêu Đông, sao lại là huyện Vĩnh Ninh"!
Giấu ấn thao ở kho vũ khí. Độ chết, con là Khang thay tước, lấy tước Vĩnh Ninh
Hầu phong cho em là Cung. Năm đó là năm Kiến An thứ chín.
Năm thứ mười hai,
Thái Tổ đánh người Ô Hoàn của ba quận, (8) làm cỏ Liễu Thành. Bọn Viên Thượng
trốn đến Liêu Đông, Khang chém đem đầu Thượng đem đến. Lời này tại Vũ Đế kỉ.
Phong Khang làm Tương Bình Hầu, bái làm Tả Tướng quân. Khang chết, con là bọn
Hoảng, Uyên còn nhỏ, quân sĩ lập Cung làm Liêu Đông Thái thú. Văn Đế lên ngôi,
sai sứ đến bái Cung làm Xa kị Tướng quân, Giả tiết, phong Bình Quách Hầu, truy
tặng Khang làm Đại Tư mã.
Trước đây, Cung mắc bệnh
suy sụp trở thành người yểm(9), gầy yếu không coi được việc. Năm Thái Hóa thứ
hai, Uyên ép đoạt chức của Cung. Minh Đế lên ngôi, bái Uyên làm Dương liệt Tướng
quân, Liêu Đông Thái thú. Uyên sai sứ xuống phía nam giao kết với Tôn Quyền,
trao đổi hàng hóa.
Ngô thư chép Uyên
dâng biểu gửi Quyền nói: "Phần trộm nghĩ rằng mình gặp buổi trời đất quay
ngược, mắc phải vận không hay; con đường đến chỗ Nhà vua chưa yên, nghiêng ngả
rối loạn. Từ thời tiên nhân đến nay, thờ qua Hán, Ngụy, nhân theo cơ hội, giúp
nước giữ tiết cho nên đời sau dược thay chức tước, giữ nơi biên giới, nhưng vẫn
biết rằng phù lệnh chưa có chỗ theo về. Thường cảm kích ân dày, nhiều lần sai sứ
đi, lại nghĩ rằng bầy tôi không được giao kết với kẻ ngoài cõi, cho nên có ý giữ
chắc, ngăn chặn sứ giả lúc trước. Về nghĩa dẫu là không có tín ước nhưng há dám
quên ân lớn của nhà nước sao! Bệ hạ vỗ về giữ nước nhỏ này, trước sau sai bọn
Bùi Hiệu úy, Cát Đô úy đến, nhận được chiếu lệnh ấy, thấy chiếu chỉ nồng hậu, lại
thêm ý tốt, phân biệt sáng tối, tự thân xét rõ, lời ấy vẫn văng vẳng bên tai.
Thần ngày thì ngâm đọc, đêm thì ngủ mộng, suốt đời ghi nhớ lấy, tự thấy chí
mình không biết đủ. Thời nay nhiễu loạn, trời đất tắc nghẽn, can quan không ngừng,
dân chúng lìa tan. Ngẩng xem mệnh trời mà ngậm ngùi, đứng riêng một góc mà
trông mong bậc Thiên tử. Nay nhà Ngụy không giữ được ý tốt, không khen tặng
dòng dõi của công thần, lại sai người gièm vu người có chí tốt, nghe lời sai
trái của U Châu Thứ sử, Đông Lai Thái thú, rồi phát quân trong châu đánh phá quận
của thần. Đấy là thần không phản Ngụy, mà là Ngụy cắt dứt thần vậy. Thần nghe
nói rằng bầy tôi có cái nghĩa phục và bỏ, như Điền Nhiêu rời nước Tề, Nhạc Nghị
bỏ nước Triệu(10), đấy là vì không được thờ vua, cho nên chỉ giúp vua có đạo
thôi; Trần Bình, Cảnh Huống, cũng vì thấy thời loạn mà theo về nhà Hán, chăm chỉ
giúp vua. Cúi xét thấy đức của Bệ hạ không có hai trên đời, đời nay ít có, cho
nên người ta tự kính ngưỡng mà theo về, người phương xa ngưỡng trông nơi hiểm
trở như nhìn chỗ gần gũi vậy. Thực mong Bệ hạ bày mưu thần mà lập nên nghiệp lớn,
sửa soạn thế mạnh của sáu quân, thu lấy đất Hà, đất Lạc(11), làm vua thánh thay
ngôi. Vậy thì thiên hạ may lắm"! Ngụy lược viết: "Nhà nước biết Uyên
có hai lòng, lại sợ quan dân quận Liêu Đông bị Uyên lừa dối, bèn hạ chiếu đến
Liêu Đông, nhân đó bảo họ nói: 'Báo cho quan lại, tướng súy, dân chúng của quận
Huyền Thố, quận Liêu Đông được biết rằng: Giặc phản Tôn Quyền gặp lúc loạn lạc,
cậy vào công lao của tiên nhân cướp chiếm châu quận, trở thành bọn xấu, tự giữ
miền Giang Biểu, bôi bẩn gây bệnh. Trẫm mong hắn biết sửa đổi, cho nên cắt đất
phong Vương, sai phải ngoảnh mặt về phía nam xưng thần(12), bái đến chức Thượng
tướng, lấy lễ cửu tích mà đối đãi. Quyền tự chắp tay, hướng bắc cúi đầu, được sủng
ái của bầy tôi, được vinh hoa của phiên thần, chưa có ai được như Quyền vậy. Vậy
mà mang lòng chó sói, ra lệnh gây nạn, rút cuộc phản nghịch quên ân phản chủ, lừa
trời dối thần, lại dám tiếm hiệu. Cậy vào cái hiểm trở của miền Giang Biểu,
quân Nhà vua chưa đến đánh được. Từ đó đến nay, sai thuyền đi xa, vượt qua biển
lớn, thu nhiều tài vậy, dụ dỗ dân biên giới. Dân biên giới không biết cho nên
giao kết với hắn. Từ bậc trưởng lại trở xuống, chẳng ai chịu dừng. Lại sai sứ
là bọn Chu Hạ đưa trăm chiếc thuyền, dọc ngang nơi bờ biển, buôn bán tấp nập.
Đã không ngăn cấm, lại cho tặng ngựa khỏe, lại sai Túc Thư theo Hạ kết thân. Ấp
có mười nhà vẫn có người trung tín, người vùi vua vào chỗ xấu, đấy là điều mà
sách Xuân thu ghi chép. Nay các quận Liêu Đông, Huyền Thố vâng theo nhà nước,
những người đeo dải xanh dây đỏ có đến hàng trăm hàng nghìn người, đội khăn lụa
rủ dải tua, đều đeo ấn thao, vậy mà không nói lời giúp đỡ bày kế tốt. Rùa ngọc
vỡ trong hộp, hổ tê ra khỏi rương(13), đấy là lỗi của ai vậy? Nhà nước vì các
ông mà hổ thẹn thay! Xưa Hồ Đột có nói: 'Cha dạy con làm phụ tá, thì lấy gì mà
thờ vua? Phải dốc hết sức, xong rồi mới thôi'. Mà nay lại hùa theo mưu xấu, đi
theo kẻ gian, há chỉ có cái giáo hóa của cha anh không được rõ, mà không phải
vì cái việc làm của con em mà thôi sao! Như cỏ dại hại lúa, theo gió mà đốt lửa,
thì cây củ đều bị cháy, há được lợi riêng sao? Vả lại việc này rõ là dễ thấy,
không phải soi vào việc được thua của thời xưa mà sách truyên ghi chép. Miền
Giang Nam, miền Hải Bắc(14) có cái hiểm của đất đai dài vạn dặm, vua tôi miền
Liêu Đông không có cái hại đáng lo lắng, lợi thì có chỗ không lợi, quý thì có
chỗ không quý, đấy là tự chán ghét chỗ yên vui mà tìm lấy cái họa diệt vong, vứt
tiết tháo trung tiết mà coi trọng cái tiếng phản nghịch vậy. Quân trưởng của
người Man Mạch vẫn biết yêu lễ nghĩa, lấy đó mà thờ vua, mà cũng khó làm sao! Vả
lại Túc Thư không có tội, bị ép sai vào Ngô, nhận lệnh làm sứ giả không có
nghĩa, từ biệt với người nhà trước, khóc lóc mà đi. Rồi đến ngày bọn Chu Hạ chết,
chất thây ở núi Thành Sơn, Thư dẫu thoát chết nhưng hồn bay phách lạc. Cái gì bức
ép mới dẫn đến như thế? Nay trung thần liệt tướng đều căm giận quận Liêu Đông
làm trái đạo thờ vua, đều muốn cưỡi thuyền vượt qua biển Bột Hải, hẹn nhau xông
xáo. Trẫm là cha mẹ của thiên hạ, nghĩ rằng thiên hạ mới định, đã không muốn
gây can qua mỏi mệt, lội sông đi xa, hao tổn ở đấy, lại buồn lo bọn dân đen nơi
biên giới vẫn mê muội như thế, cho nên sai bọn Trung lang Vệ Thận, Thiệu Mạc
đem chiếu thư đến bảo cho biết trước. Nếu làm kẻ trung lương, làm đùi tay thì nên
giữ tiết tháo để giúp vua, chống ác theo thiện để lập công lớn, vậy thì phúc
nào to hơn? Nếu lo sợ mình từng làm việc ác nghịch dơ bẩn mà không dám nói ra,
mang lòng sợ hãi và những người khác từng cùng sứ giặc qua lại thì đều tha thứ
cho, cho các ngươi sửa đổi".
Quyền sai bọn Trương Di, Hứa Yến đem vàng ngọc châu bảo đến tặng, lập Uyên làm Yên Vương. Uyên cũng sợ Quyền ở xa không dựa cậy được, lại tham tài vật, dụ dỗ sứ giả, đều chém đem đầu bọn Di, Yến đến dâng,
Ngụy lược chép biểu của Uyên nói: "Thần trước
kia sai Hiệu úy Túc Thư, Lang trung lệnh Tôn Tông dùng lời hay lễ hậu đến để dụ
giặc Ngô. May nhờ đạo trời giáng phúc giúp Đại Ngụy, khiến cho bọn giặc sai lầm
u mê, làm trái lời bàn của bầy tôi, không nghe lời can gián mà lại tin theo lời
thần, sai thuyền đi xa, đem nhiều quân sĩ, đến đây bái phong. Thần đã bắt gọn,
được như ý mình, dẫu lo có tội, nhưng tự thấy vẫn may lắm. Quân giặc vốn có vạn
người, thêm bọn Thư, Tông có bảy, tám nghìn người nữa đi đến bến Đạp(15). Bọn sứ
giả là Trương Di, Hứa Yến cùng bọn Trung lang tướng Vạn Thái, Hiệu úy Bùi Tiềm
của bọn ngụy(16). đem hơn bốn trăm quan quân đem chiếu thư cùng tài vật đến quận
của thần. Bọn Thái, Tiềm đi riêng đem tài vật đến tặng, muốn nhân đó mua ngựa.
Tướng quân Hạ Đạt, Ngu Tư lĩnh quân còn lại ở trên thuyền. Thần vốn muốn nhân
lúc trời lạnh mà bắt lấy bọn Di nhưng quân sĩ của Di rất đông, chúng thấy thần
không chịu theo lệnh của Ngô bèn có ý nghi ngờ. Thần sợ chúng gây loạn trước,
muốn sống mà liều thân, cho nên thần liền cho quân đến vây lại, chém đầu bọn
Di, Yến, Thái, Tiềm. Bọn quan lại dẫn quân đông đi theo, đều là quân sĩ nhỏ bé,
xông đông xáo tây, không được như ý, đều cúi đầu xin hàng, cho nên thần không nỡ
giết chết, liền nhận làm tù binh, cho vào đội ngũ ra nơi biên giới. Lại sai
riêng bọn Hàn Khởi đem ba quân đi nhanh đến bến Đạp, sai bọn Trưởng sử Liễu Viễn
bày lễ chủ khách để dụ bọn Đạt, Tư; ba quân ẩn nấp để đợi ở dưới, lại đem đàn
ngựa cùng tài vật đến muốn mua bán. Bọn Đạt, Tư nghi ngờ không xuống thuyền,
sai năm, sáu người mua bán xuống trước, muốn trao mua. Bọn Khởi đánh trống vang
lừng, tên bay tán loạn, đánh chém hơn ba trăm thủ cấp, kẻ bị thương rơi xuống
nước mà chết chìm đến hơn hai trăm người, những kẻ còn lại phân tán vào hang
núi, phải đến hàng hoặc trốn náu đói rét mà chết, không tại trong số đó. Thu được
ấn bạc, ấn đồng, binh khí, hàng hóa, không thể kể hết. Lại kính sai Tây tào duyện
Công Tôn Hành đem chở các đồ cờ tiết, ấn thao, phù lệnh, cửu tích, tài vật của
giặc Quyền cùng thủ cấp, ấn thao, cờ tiết của bọn Di đến dầng". Lại nói:
"Túc Thư, Tôn Tống trước đây đi sứ đến Ngô, giặc Quyền hỏi các việc lớn nhỏ
trong nhà thần, bọn Thư, Tống nói thần có ba con, con là Tu cho ở em thần. Quyền
dám gian xảo, lại tự tiện bái phong. Nay kính đem ấn thao, phù lệnh đến dâng
lên. Thần dẫu không có phong thái người xưa biết rửa tai, sợ bị giặc Quyền bôi
trát dơ bẩn, nay dẫu đã theo ý trời mà đánh hắn, nhưng vẫn còn giận". Lại
nói: "Cha thần là Khang, lúc trước giết sứ giả của Quyền, gây kết thù oán.
Nay lại lừa dối, sai sứ đến dụ, khiến cho Quyền xiêu lòng, nước rỗng lộc kiệt,
sứ giả đi xa, sai quan lớn đến ở ngàn dặm, sắm sửa lễ nghi uy động cả phương
nam. Quyền lại đối đãi Thư, Tông rộng rãi ân cần, vua tôi trên dưới đều vui vẻ
tận tình. Vậy mà thần khiến cho bốn sứ giả bị giết, treo đầu ở chốn vạn dặm,
quân sĩ tan vỡ, chết gục chỗ bờ nước, hổ thẹn vươn xa, đau nhục ngút trời. Cái
xót giận của Quyền còn khắc vào xương thịt. Nếu trời làm yếu nghiệp của hắn,
khiến cho hắn tổn hại, Quyền sẽ đau lòng phát ra mà chết. Nếu số vận chưa hết,
hắn tất gây độc, lâu ngày tất làm việc cướp hại. Các đồn trại miền Từ Châu cùng
các quận Thành Dương tiếp gần với nhau, nếu năm sau có quân thuyền của hắn đến
cửa biển, nếu có tin tức, hãy nhanh báo cho thần, thần sẽ phòng bị". Lại
nói: "Nhà thần chịu ân, vừa sâu vừa nặng, từ lúc thần thay coi làm việc đến
nay, nhiều năm được yêu quý, được đối đãi đặc biệt không kể hết, chức phận phải
rong ruổi, nên đem hết sức đến chết mới thôi. Vậy mà thần ngu dốt, mưu kế mờ mịt,
không bắt sống được giặc để rồi dẫn đến bị nghi ngờ. Sớ biểu trước đây nói rõ
thế cuộc ngày nay, thực là thần muốn dẹp trừ quân giặc, khiến cho chúng tự cắt
đứt, cũng thật là không dám phản lại cái ân của nhiều đời mà nương theo bọn giặc
vậy. Vậy mà bị người ta ghét, lại thêm bị vu gièm, giả gây việc quân, rút cuộc
khiến cho thần bị nghi ngờ như việc có hổ giữa chợ, khiến cho thay ân đổi sủng,
gây phát oán giận, dẫn đến chìm đắm, lâu ngày lo lắng. May nhờ ân dày, lại được
khen thêm, khiến cho thần được sửa lỗi, cởi bỏ được nỗi lo, như oai trời sâu xa,
không bị xử sai, sớm được rũ bỏ, xóa bỏ nỗi ngục trước kia, nhân đó mà tự sáng
tỏ, lập được công nhỏ này. Thần đã vui vì việc xong, lại được tự trông coi, buồn
vì việc trước, như việc xấu này, vẫn để lại nỗi sợ, chưa dám tự yên. Mong Bệ hạ
kính theo lòng nhân giữ trọn vạn vật ngày xuân, dẹp bỏ hiềm nghi, vứt ném ý xét
nét, xét việc nay mà làm rõ việc trước, xét tấm lòng của thần, khiến cho thần
mãi được ôm bọc, được giữ chức phận đến lúc xuống chín suối". Lại nói:
"Thần được nhận vinh hoa, ân tình chưa trả, mà lại có tội lỗi, tự lấy làm
tiếc giận, tội đáng giết chết làm răn bảo cho mọi người. Làm sai phép thường,
giả kết thân với Ngô, cũng là vì cùng khốn, chưa lập công chuộc tội mà oai trời
đã giáng hình phạt đến, sợ rằng mãi bị vùi lấp không được tẩy rửa. Cho nên dám
tự sửa lỗi hơn một năm trước, sai sứ đến dụ Ngô, biết chúng tất đến, Quyền đến
xin ở quận, năm tháng thêm dài, trước không nói ra một lời ứng đáp, nay Quyền
sai sứ đến tất không nghi ngờ, cho nên đánh một trận là được như ý muốn, quan
thuộc quân sĩ, tụ tập đầy đủ, hàng hóa đem đến, nghiêng nước xiêu ngôi, dẫn đến
bị bắt, tan lìa diệt vong có đến hơn nghìn người, từ đó họa trừ không quay lại.
Đấy thực là bẻ mũi nhọn sắc bén của bọn gian, phá cái mạnh kiêu ngạo của giặc
ác, tỏ rõ cho thiên hạ biết, phá tổn cơ nghiệp của chúng, đủ để làm chúng hổ thẹn
vậy".
do đó Minh Đế bái
Uyên làm Đại Tư mã, phong Lạc Lãng Công, Trì tiết, lĩnh quận như trước.
Ngụy danh thần tấu
chép biểu của Trung lĩnh quân Hạ Hầu Hiến nói: "Công Tôn Uyên năm xưa dám
trái lệnh vua, bỏ dứt cống nạp, thực là mang hai lòng. Lại cậy chỗ hiểm trở mới
theo Tôn Quyền. Do đó ngỗ ngược, buông thả ở ngoài cõi. Túc Thư tự thân đến xem
kho phủ quân sĩ của giặc Quyền, biết chúng yếu kém không đủ để nương dựa, cho
nên quyết ý chém sứ giả của giặc mà thôi. Lại nữa người Cao Câu Li, người Uế Mạch
gây thù với Uyên, cướp bóc với nhau. Nay ngoài thì mất chỗ dựa với Ngô, trong
thì bị ngời Hồ cướp bóc, trong lòng biết nhà nước có thể đi theo đường bộ,
không thể không lo lắng được. Nhân lúc này, nên sai sứ giả đến kể rõ họa phúc.
Phụng xa Đô úy Tông Hoằng vào thời Vũ Hoàng Đế bắt đầu nhận đi sứ, mở thông đường
lối. Văn Hoàng Đế lên ngôi, muốn thông sứ giả, sai Hoằng đem vợ con về quê
quán, ban cho xe, ngựa, bốn trăm thất lụa. Hoằng đã nhận ân, xin chết vì nước,
không có ý quay về, xin giữ vợ con ở lại, tự thân nhận đi sứ. Công Tôn Khang
bèn xưng phiên thần. Vì Hoằng có ý nhận đi sứ, ban tước Quan Nội Hầu. Tính Hoằng
cứng cỏi, dốc lòng vì nước, ngày đêm chăm chỉ, nghĩ tự lập công. Vốn là con
cháu nhà quan, thuở nhỏ học hỏi, hiểu rộng sách truyện, phần nhiều thông suốt,
miệng nói nhanh nhẹn, lời lẽ không tầm thường, nói rõ lợi hại, đủ để lay động ý
người khác, rõ ràng để để xét việc, tài đủ để làm việc, lời đủ để được tin. Nếu
theo kế ấy, dẫu Lịch Sinh khuyên Tề Vương hàng, Lục Giả khuyên Úy Đà phục cũng
không hơn được thế. Muốn đi đường xa, không bằng thả ngựa kì kí(17) ra; muốn
chữa bệnh mình, không bằng mời Biển Thước đến. Mong xét ý ngu này".
Sứ giả đến, Uyên bày binh giáp làm thế trận, ra gặp sứ giả, lại nhiều lần sai tân khách trong nước nói lời xấu.
Ngô thư viết: "Ngụy sai sứ giả là Phó Dung, Nhiếp Quỳ đến bái
Uyên làm Lạc Lãng Công. Kế lại của Uyên từ Lạc Dương về, bảo Uyên nói: 'Sứ giả
là Tả Tuấn Bá, đều chọn kẻ dũng mãnh, không phải người thường'. Uyên do đó nghi
ngờ. Dung, Quỳ đến, trú trong nhà học. Uyên đem quân bộ kị vây họ trước, rồi
vào nhận phong. Dung, Quỳ cả kinh, do đo về Lạc Dương báo tình trạng".
Năm Cảnh Sơ thứ nhất(18),
lại sai bọn U Châu Thứ sử Quán Khâu Kiệm đem ấn thư đến gọi Uyên. Uyên bèn phát
binh, làm phản ở thành Liêu Toại, đánh với bọn Kiệm. Bọn Kiệm không được lợi mà
về. Uyên bèn tự lập làm Yên Vương, đặt trăm quan hữu tư. Sai sứ giả cầm cờ tiết,
mượn ấn Thiền vu(19) của người Tiên Ti mà phong bái dân biên giới, dụ gọi người
Tiên Ti vào xâm nhiễu miền bắc.
Ngụy thư viết:
"Uyên biết cuộc biến ấy không chỉ do từ Kiệm, bèn phòng bị. Sai sứ đến tạ
lỗi Ngô, tự xưng Yên Vương, xin làm nước giúp nhau. Nhưng vẫn sai quan thuộc tự
bày tỏ với Ngụy nói: 'Bọn thần bảy trăm tám mươi chín người là bọn Đại Tư mã
Trưởng sử Quách Hân, Tham quân Liễu Phổ nói: Nhận chiếu thư ngày kỉ mão tháng bảy
năm nay, cúi đọc kính cẩn mà hồn phách tán lạc, không biết tính mạng của đáng vứt
bỏ ở đâu! Bọn Hân cúi thân tự nghĩ mình là kẻ nhỏ bé sâu kiến, không được dùng
đến, may gặp cơ hội ngàn năm, được nhận ân đức tươi đẹp của tổ tiên Công Tôn
Uyên đến nay, ân trạch thấm đẫm, vinh hoa dồi dào. Dẫu mình không có công một tấc
một thước mà vẫn nhận được đầy nhiều; bèn được khen ngợi, viết tên lên phủ
quan, lại đều là kẻ chậm chạp mà được nương dựa vào rồng ngựa, được đeo thao
xanh dải tím, bay lướt tầng mây, cảm kích ân mà báo đền, dẫu chết cũng không
lùi bước. Bọn thần nghe nói rằng vua sáng ở trên phải nghe lời thẳng chọn lời
hay, bầy tôi ở dưới không được giấu diếm, cho nên bọn thần xin tự bày tỏ, liều
chết để giải oan. Quận tại biên giới, xa xôi khó phục, ba châu trước kia chuyển
chở tổn phí, đến để cung cấp đồ dùng thêm nhiều, làm Trung Quốc hao tổn. Nhưng
vẫn hiên ngang giữ gìn biên giới, đuốc lửa(20) vẫn trông nhau, văn thư vẫn qua
lại, buổi ngày vẫn đóng cửa thành, trên đường không có người đi, binh lính của
châu quận vẫn phải tản ra lao dịch, Vậy mà ông nội của Uyên là Độ mới đến nhận
chức ở quận, tiếp nhận chỗ hoang tàn, mở ánh sáng của Mặt trời Mặt trăng, bày
mưu thần vũ, tụ tập dân ô hợp, quét đất mà dựng nghiệp, oai lừng lẫy cả dân
khác, đức trạch bao bọc cả muôn vật. Đất Liêu Đông không bị phá hoại, thực là cậy
vào Độ vậy. Khổng Tử nói: 'Nếu không có Quản Trọng(21) thì ta phải búi tóc cài
vạt áo bên trái rồi'. Nếu không có Độ thì quận sớm đã thành gò hoang và dân
chúng đã bị bắt đi hết rồi vậy. Truyền lại phong tục, còn mãi không mất. Độ đã
hoăng mất, quan dân cảm mến, vui chọn con là Khang lên, tôn mà vâng theo Khang.
Khang thay dựng công to, dũng mãnh có mưu lược hay, văn sáng võ mạnh, nhân đức
bao bọc biên giới; lại có lòng hướng về nhà vua, cung kính thành thật giúp nước
dẹp loạn, tranh giành lập công, công to việc lớn đều ở phủ Vương. Độ, Khang gặp
lúc Vũ Hoàng Đế sáng suốt, cùng bày kế hay, giúp đỡ nhà Hán, cúi mình thần phục,
cung kính thờ Ngụy. Đấy là quận nhỏ mà công lớn, sợ mà kính phục, lại ngưỡng mộ
phong thái cao đẹp, trông mông đức tốt vậy. Vũ Hoàng Đế cũng xiêu lòng tiếp nhận,
đối đãi không tệ, công lao không kể to nhỏ, nhưnng thường không bị quên. Lại lệnh
cho Khang nói: 'Đất đai của miền Hải Bắc cắt cho phủ quân, con cháu đời sau đều
được có nó'. Trời cao đất dày thực là ban đức âm. Bọn thần lớn nhỏ đều vui lòng
ở dưới, vâng lệnh cẩn thận, không dám làm trái. Uyên sinh ra vốn có dáng vẻ đẹp
đẽ, thưở nhỏ chịu dạy bảo hiếu thuận, học văn luyện võ, trung thành ngay thẳng;
dân chúng kính ngưỡng, chẳng ai không yêu. Uyên kính theo tổ tiên, trông coi
muôn dân, lấy lễ mà dựng nước, lập dựng giáo hóa, thấy việc trước mắt, ràng buộc
phương xa, giữ nghĩa giúp vua, xem chỗ nguy như chỗ yên, người đời khen là kẻ
trung lương, không làm xấu tên tuổi. Tôn Quyền mộ nghĩa ấy, nước không xa hơn vạn
dặm, nhiều năm sai sứ đến, muốn tự giúp đỡ, dẫu đã bị giết hết, nhưng cũng
không ghi nhớ oán cũ, vẫn qua lại lũ lượt, xin được gần gũi. Uyên giữ tiết vốn
có không mưu lợi riêng, giữ chí vững như đá, lại càng chắc chắn. Nhưng vẫn sợ
lòng son chưa được giữ rõ, lại dùng lời lẽ nhún nhường đến bày tỏ, dụ sứ giả của
Quyền đến, treo đầu cắt tai chúng để tỏ rõ không có hai lòng với nhà vua vậy.
Ngô dẫu ở phương xa, nhưng lợi ở đường thủy, dương buồm là đến, không gì ngăn
cách nhưng Uyên không nghĩ về mối thù sâu cũ, vẫn ghi nhớ tiết tháo của bầy
tôi, cắt đứt cái vui của giặc Ngô mạnh, tỏ rõ ý thờ Ngụy, có thần minh soi
sáng, trời cao làm chứng. Bệ hạ soi sáng tốt đẹp, công võ đầy đủ, hiệu lệnh rộng
rãi, yêu quý hơn cả Tề, Lỗ, ban xuống bầy tôi, đều được nhận phúc lớn. Thật là
dựa ân trời ban, phải nên trọn vẹn trước sau, dốc hết sức đùi tay, để giữ mãi
tước lộc. Vậy mà không ngờ một sớm lại bị phá vỡ, Mong có ý an ủi, nghĩ về công
trước kia mà lo buồn không thôi, đau đáu vì bị rũ bỏ, khiến cho cả quận kêu
than, vỗ ngực khóc chảy máu. Những kẻ mà ba quân đánh dẹp là người Man, Di,
Nhung, Địch(22), kẻ kiêu ngạo không phục, do đó mới dùng võ, chưa từng nghe nói
kẻ giữ nghĩa mà lại bị đánh giết vậy. Theo phép tắc của bậc vua hiền thì ở cõi
hoang phục có chỗ không theo chức phận, thì tu văn sửa đức, nếu lại không đến
thì mới đánh dẹp. Uyên có lòng cung kính, cẩn thận giữ chức, chăm làm thờ vua,
có thể nói là gắng gỏi vậy. Dốc hết trung tiết mà lại bị họa hại, hát khúc Tiểu
biện, viết tập Li tao(23), đều là do đó vậy. Có kẻ nịnh nọt, nói lời ngon ngọt,
vẫn nên xét rõ, chỉ sợ không biết người tốt; lời gièm giống lời thẳng, làm mê
loạn vua hiền, phải xem lời văn thế nào, khiến cho biết được nguyên nhân của
nó. Nếu vua tin là có tội thì cũng nên có tam hữu(24), xét công mà giảm phạt,
nên bàn bạc đến tám lần. Vậy mà ngầm đem quân đến đánh úp, đại quân lén đến,
vung đao ruổi ngựa, vào đánh đất Liêu Đông. Dẫu là chó ngựa còn sợ chết, huống
chi là người! Do đó quan dân liều chết, chống lại quân của nhà vua. Uyên dẫu bị
oan uổng, đang bị họa hại nhưng vẫn cậy vào ân dày, trong lòng buồn bã cho rằng
tất do gian thần sắp đặt, tự ý ngang ngược, lại bảo bọn thần nói: 'Năm Kiến
Quang thứ nhất thời Hán An Đế, Liêu Đông thuộc quốc Đô úy Bàng Phấn nhận chiếu
thư ngàu ất mùi tháng ba có lệnh là bắt lấy U Châu Thứ sử Phùng Hoán, Huyền Thố
Thái thú Diêu Quang. Nhưng thực ra không có chiếu thư ngày ất mùi ấy, bèn sai
Thị Ngự sử U Châu Mục xét hỏi gian thần làm trái. Nay quan Thứ sử gièm vu tự ý
làm trái lệnh sao'? Bọn thần bàn cho rằng: 'Thứ sử dấy binh, thiên hạ nhiễu động,
đấy không phải tự ý mà là có chiếu lệnh'. Uyên lại ngẩng mặt than thở, tự làm
khổ thân không có tội. Nghĩ kĩ rằng đất đai nuôi người cũng là vì có cái công
to của tổ tiên, lại muốn vứt mũ cởi thao, chạy trốn vào rừng núi. Bọn thần níu
lại, thề theo đến chết, đóng giữ cửa phủ, không nghe theo ý của Uyên. Nhưng bọn
dũng sĩ của bảy trại, người Man Di của năm bộ lạc đều mong được ăn no, không
cùng lòng mưu tính, dương tay hô lớn, mở cửa trốn ra. Dân cày ngoài thành đều vứt
cuốc cày, chặt củi làm gậy, sửa bàn làm khiên, chạy nhanh đến cứu nạn, quân đội
đã thành, dẫu nhảy vào nước sôi lửa bỏng, chết không cần sống. Uyên dẫu bị vứt
bỏ, dẫu oán nhưng không giận, liền lệnh cho quân không được làm bừa, rồi tự tay
viết thư báo lên, lời lẽ rất tha thiết. Nhưng quan quân hăng hái, không thể giải
tán, đều đánh hết mình, đến chết không tiếc. Uyên sợ quan quân không theo mệnh
lệnh, bèn tự thân đi đôn đốc, tự đến phân giải, chỉ làm thế mới ngăn được. Cũng
vì cái ân cho một bát cơm thì bốn người xin chết vì người cho cơm, huống chi
nhiều đời nhà Uyên vốn có tín ước với trăm họ, ân lớn với lòng dân. Từ lúc Tiên
Đế mới dấy binh kịp đến Bệ hạ, ban cho Uyên ân sủng, vì Uyên công to đức dày, hết
lòng khen ngợi, Uyên nói lời lẽ tốt đẹp đến ở triều đình, dẫu là trẻ con sắp mặc
áo đi giày cũng nhẩm đọc văn hay, mở miệng là đọc được. Như chôn rồi đào lên, đấy
là điều mà người xưa láy làm thẹn. Tiểu Bạch, Trùng Nhĩ(25) là chư hầu thời
suy loạn mà vẫn ngưỡng mộ tín ước để làm nên nghiệp Bá. Kinh Thi khen Văn Vương
làm cho muôn nước tin phục, sách Luận ngữ khen Trọng Ni bỏ ăn mà giữ tín. Giữ
tín là tu đức, cũng quan trọng lắm vậy. Nay Ngô, Thục cùng xưng Đế, lập ra thế
chân vạc, thiên hạ đong đưa, chưa nối làm một, bọn thần thường vì Bệ hạ mà lo
việc ấy. Uyên giữ cãi vững của thành vàng, nắm lấy dân chúng hòa mục, nước giàu
quân mạnh, có thể lấy đó mà dùng. Nguyện dốc lòng vì nước, dẫu chết giữ đạo
hay, đem hết trung nghĩa để làm phên dậu của chín châu. Ngày nay hai tên giặc
dòm ngó, chưa biết khi nào định, mà không phòng bị, mà nếu Uyên bị hại, hiếp yếu
tránh mạnh là không phải là cái đạo của bậc Vương vậy. Bọn thần dẫu ngu hèn
cũng trộm nghĩ đấy là nỗi hổ thẹn. Nếu không có trời thì cái tốt xấu của quận
thần, vẫn chưa biết được; nếu nói có trời cũng đáng lo vậy! Bọn thần nghe nói rằng
làm tôi trong nhà, hai đời thì làm chủ trong nhà, ba đời thì làm vua trong nhà.
Bọn thần sinh ở cõi biên giới, xuất thân ở giữa chốn xa xôi, không được nhà Ngụy
giúp nhều, suốt đời lệ thuộc vào họ Công Tôn, nguyện đền áo cái ân sinh sôi và
ban tặng ấy. Xưa Khoái Thông nói thẳng, Hán Cao Tổ tha tội; Trịnh Đam nói lời
kính thuận, Tấn Văn Công tha chết. Bọn thần ngu dốt, không có tiết tháo lớn
nhũng cũng giữ ý nói thẳng, tỏ rõ tim gan, lời nói trái tai rồng lân(26), tội
đáng muôn chết. Chỉ mong Bệ hạ mở ý vỗ về, xét rõ lời gièm vu, khiến cho bọn thần
ở nơi xa mãi được giữ gìn".
Mùa xuân năm thứ hai,
sai Thái úy Tư Mã Tuyên Vương đánh Uyên. Tháng sáu, quân đến Liêu Đông.
Hán Tấn Xuân thu viết:
"Công Tôn Uyên tự lập, xưng niên hiệu là năm Chiêu Hán thứ nhất. Nghe tin
quân Ngụy đến đánh, lại xưng thần với Ngô, xin quân đánh phía bắc để tự cứu.
Người Ngô muốn giết sứ giả của Uyên, Dương Bát nói: 'Không nên, đấy là tỏ cái
giận của kẻ thất phu mà tổn cái kế của bậc Bá Vương vậy. Không bằng nhân đó mà
vỗ về hắn, sai quân tinh nhuệ ngầm đến xem thành bại. Nếu Ngụy đánh Uyên không
thắng thì quân ta đi xa đến cũng tỏ được ân kết với người ngoài, nghĩa trùm cả
vạn dặm, nếu quân mãi không giải, đầu đuôi ngăn cách thì ta đánh quận bên cạnh
của chúng, cướp nhanh rồi về, cũng đủ để tỏ ý phạt của trời, lại rửa được nỗi
nhục lúc trước'. Quyền nói: 'Hay'. Bèn sai quân đi ra. Bảo sứ giả của Uyên nói:
'Xin đợi hỏi sau, đang phải viết thư, sẽ cùng nhau gần gũi, cùng chung còn mất,
dẫu ngăn cách với Trung Nguyên, nhưng ta cũng vui lòng'. Lại nói: 'Chỗ mà Tư Mã
Ý đến không ở lại được, sẽ lo xa vì các ngươi vậy'.
Uyên sai tướng là bọn
Ti Hành, Dương Tộ đem mấy vạn quân bộ kị đóng ở thành Liêu Toại, đắp lũy vây
quanh hơn hai mươi dặm. Quân Tuyên Vương đến, Uyên sai Hành đón đánh. Tuyên
Vương sai tướng là bọn Hồ Tôn đánh phá chúng. Tuyên Vương lệnh đào lũy, dẫn
quân về phía đông nam, bị nguy cấp ở phía đông bắc, liền đi nhanh về huyện
Tương Bình. Bọn Hành sợ thành Tương Bình không giữ được, nhân buổi đêm chạy trốn.
Các quân đi đến núi Thủ, Uyên lại sai bọn Hành đem liều chết mà đánh, lại đánh,
đại phá chúng, rồi đem quân đến dưới thành, làm lũy vây quanh. Gặp mưa dầm hơn
hai mươi ngày, sông Liêu dâng cao, đưa thuyền từ cửa sông Liêu đến thẳng dưới
thành. Mưa tạnh, đắp đất làm gò, sửa khiên làm máy bắn đá mà bắn vào trong
thành. Uyên nguy khốn, lương hết, người ăn thịt nhau, người chết rất nhiều. Bọn
Tướng quân Dương Tộ hàng. Buổi đêm ngày bính dần tháng tám, có sao băng dài đến
mấy chục trượng từ phía đông bắc núi Thủ rơi xuống phía đông nam thành Tương
Bình. Ngày nhâm ngọ, quân Uyên vỡ, cùng con là Tu đem mấy trăm quân kị phá vây chạy
về phía đông nam, đại quân nhanh đánh chúng, đến chỗ mà sao băng rơi xuống,
chém cha con Uyên. Thành phá, chém mấy nghìn bọn Tướng quốc trở xuống, đem đầu
Uyên đến Lạc Dương. Các quận Liêu Đông, Đái Phương, Lạc Lãng, Huyền Thố đều
bình.
Trước đây, nhà Uyên
có điềm gở, có con chó đội mũ quấn áo đỏ chạy lên nhà, lại lúc đun bếp nấu chết
một đứa trẻ con trong nồi. Chợ phía đông bắc thành Tương Bình mọc ra miếng thịt,
dài tròn đến mấy thước, có đầu mắt môi miệng, không có tay chân mà dao động được.
Thầy bói nói: "Có hình mà không thành thân, có thân mà không có tiếng, nước
này sắp diệt vong". Từ năm Trung Bình thứ sáu Độ bắt đầu đến Liêu Đông kịp
đến Uyên là ba đời, cả thảy năm mươi năm thì diệt.
Ngụy lược viết:
"Lúc đầu anh Uyên là Hoảng làm con nuôi của Cung ở tại Lạc Dương, nghe nói
Uyên cướp lấy chức của Cung, nói là Uyên không giữ được đến cùng, nhiều lần
dâng biểu, muốn xin nhà nước đánh Uyên. Đế vì Uyên đã nắm quyền, cho nên nhân
đó mà vỗ về thôi. Lúc Uyên phản, bèn dùng hình pháp bắt trói Hoảng. Hoảng có lời
nói lúc trước, dẫu may không bị tội chết, nhưng trong là tình máu thịt, biết
Uyên phá thì đến lượt mình. Đầu Uyên đến, Hoảng tự xét tất chết, cùng con mình
ôm nhau khóc lóc. Bấy giờ nhà vua muốn cho họ sống, nhưng quan Hữu tư cho là
không nên, bèn giết họ".
Ghi chú:
(1) Tránh quan: tránh sự đuổi bắt của quan lại hoặc tránh
làm quan ở kinh sư mà xin đi làm quan ở nơi xa để tránh loạn họa.
(2) Độ thuở nhỏ có tên là Báo: thuở nhỏ tên là Báo, sau đổi
tên là Độ. Chỗ này có vẻ khó hiểu.
(3) Cử Hữu đạo: tiến cử người có đạo đức tốt lành ra làm
quan.
(4) Thuộc quốc: các nước nhỏ phụ thuộc quận Liêu Đông.
(5) Đá mũ : phiến đá lớn nằm trên ba phiến đá nhỏ giống
hình người đội mũ.
(6) Hai vị tổ của nhà Hán: Cao Tổ Lưu Bang lập nên nhà
Tây Hán và Quang Vũ Lưu Tú trung hưng lập nên nhà Đông Hán.
(7) Ruộng tịch điền: là ruộng của Đế Vương hoặc vua chư hầu.
Vào mùa xuân đầu năm vua tự mình cày cấy để khuyến khích người dân chăm làm
nông.
(8) Người Ô Hoàn của ba quận: người Ô Hoàn thuộc ba quận
biên giới phía đông bắc thời Hán, gồm quận Liêu Đông, quận Liêu Tây và quận Hữu
Bắc Bình.
(9) Người yểm: người không còn khả năng sinh con.
(10) Điền Nhiêu rời nước Tề, Nhạc Nghị bỏ nước Triệu: Điền
Nhiêu là một người tài giỏi của nước Lỗ thời Xuân thu, không được Lỗ Ai Công dùng,
bèn bỏ sang nước Yên làm đến Tướng quốc nắm triều chính, giúp nước Yên giàu có
yên bình. Nhạc Nghị của nước Triệu thời Chiến quốc, giỏi dùng
binh. Triệu Cũ Linh Vương gặp nạn, bỏ sang nước Yên, cùng
quân các nước Triệu, Sở, Hàn, Ngụy, Yên đánh bại quân Tề, nổi tiếng khắp chư hầu.
(11) Đất Hà, đất Lạc: vùng đất ven sông Hoàng Hà và sông
Lạc là trung tâm của Trung Quốc
(12) Ngoảnh mặt về phía nam xưng thần: Đế Vương Trung Quốc
thời xưa lúc lên triều đình bàn bạc cùng bầy tôi đều ngồi ngoảng mặt về phía nam.
Trung Quốc ở phía bắc bán cầu, Mặt trời hơi chếch về phía nam, thói quen ngoảnh
mặt về phía nam là đón ánh nắng Mặt trời.
(13) Rùa ngọc vỡ trong hộp, hổ tê ra khỏi rương: ý nói
tai họa từ trong phát ra, nuôi ong tay áo.
(14) Miền Giang Nam, miền Hải Bắc: Miền Giang Nam là miền
phía nam sông Trường Giang, là đất Đông Ngô mà Tôn Quyền chiếm giữ. Miền Hải Bắc
là miền phía bắc biển Bột Hải, là đất Liêu Đông mà Công Tôn Uyên chiếm giữ
(15) Bến Đạp.: là bến sông ở miền Liêu Đông, nơi thuyền
bè qua lại trao đổi hàng hoá.
(16) Ngụy: không phải chính thống. Chính quyền Tào Ngụy
xem Thục, Ngô là ngụy.
(17) Ngựa kì kí: ngựa khoẻ mỗi ngày có thể chạy nghìn dặm.
(18) Năm Cảnh Sơ thứ nhất: năm 237 Công nguyên thời Ngụy
Minh Đế.
(19) Thiền vu: tên gọi chung của vua Tiên Ti, Ô Hoàn,
Hung Nô thời xưa.
(20) Đuốc lửa : là đuốc lửa ở các chòi canh hoặc trại
quân nơi biên giới để báo hiệu khi có địch đến đánh.
(21) Quản Trọng : Quản Trọng là Tướng quốc của Tề Hoàn
Công thời Xuân thu, giúp nước Tề lớn mạnh đánh dẹp người Sơn Nhung phía bắc, giữ
vững phong tục của Trung Quốc.
(22) Man, Di, Nhung, Địch: Theo Lễ kí: phía nam Trung Quốc
gọi là người Man, phía đông gọi là người Di, phía tây gọi là người Nhung, phía
bắc gọi là người Địch. Ý nói người ở bốn phương ngoài Trung Quốc.
(23) Khúc hát Tiểu biện, bài thơ Li tao: Tiểu biện là tên
bài hát trong kinh Thi nói về một đứa trẻ than oán trời đất vì bị cha xua đuổi.
Li tao là bài thơ của Khuất Nguyên thời Chiến quốc, nói về nỗi lòng buồn bực của
Khuất Nguyên về chính trị yếu kém của nước Sở thời bấy giờ mà bị lưu đày ở miền
Kinh Tương.
(24) : là phép xử án có từ thời nhà Chu. Có ba tình huống
được tha thứ tội lỗi.
(25) Tiểu Bạch, Trùng Nhĩ : Tiểu Bạch là Tề Hoàn Công,
Trùng Nhĩ là Tấn Văn Công đều là chư hầu nổi tiếng thời Xuân thu.
(26) Rồng lân: con rồng và con lân là biểu tượng của Đế
Vương thời xưa.
Mục lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét