TRANG TỬ NAM HOA KINH: CHƯƠNG 17 - THU THỦY 莊子 南華經
Bậc đại nhân hành
động không làm hại ai cũng không coi trọng lòng nhân và sự gia ân cho người. Họ
hành động không vì lợi, không khinh người coi cửa, người đầy tớ, không tranh
của cải, không coi trọng sự từ nhượng, làm việc thì không nhờ cậy ai, mà cũng
không khoe rằng chỉ trông cậy ở sức mình, cũng không khinh bọn tham ô. Hạnh thì
khác hẳn thế tục mà không tự hào rằng mình khác người; làm thì theo đám đông mà
không khinh bọn siểm nịnh. Tước lộc không khuyến khích được họ, hình phạt không
làm nhục họ được vì họ biết rằng không có gì định được phải trái, lớn và nhỏ.
1
Mùa thu khi nước dưng,
cả trăm con sông đổ dồn ra Hoàng Hà, dòng nước mênh mông, tới nỗi đứng bờ bên
đây nhìn qua bờ bên kia không phân biệt được con bò với con ngựa.
Hà Bá (thần sông Hoàng
Hà) hoan hỉ, cho mình làm chủ được hết những cái đẹp trong thiên hạ. Nhưng khi
xuôi dòng qua phía Đông, tới Bắc Hải[442] thấy làn nước vô biên trải ra trước
mặt, mới quay lại, ngửng đầu lên nhìn [thần biển là] Nhược, bảo:
- Tục ngữ có câu:
“Người nào được nghe trăm điều về đạo[443] thì tự cho là không ai bằng mình”.
Đó chính là trường hợp của tôi. Tôi đã nghe người ta chê kiến văn của Trọng Ni
không được bao nhiêu, khinh nghĩa khí của Bá Di là tầm thường, mới đầu tôi
không tin; bây giờ tôi mới thấy chỗ vô biên của Ngài, nếu tôi không đến cửa của
Ngài [mà thụ giáo] thì nguy cho tôi, tôi sẽ vĩnh viễn bị bậc thức giả chê cười
mất.
Thần Bắc Hải đáp:
- Không thể nói về
biển cho một con ếch ở đáy giếng nghe được, vì nó chỉ thấy một khoảng không
gian hẹp quá. Không thể nói về băng tuyết cho một con trùng chỉ sống một mùa hè
nghe được vì nó sống một khoảng thời gian ngắn quá. Không thể luận về đạo giáo
cho một kẻ sĩ quê mùa[444] nghe được vì họ bị trói buộc trong điều lễ giáo.
Nay anh ra khỏi lòng
sông, thấy biển cả mà nhận rằng mình tầm thường thì ta có thể giảng cái chân lí
lớn[445] cho anh nghe được. Nước trong thiên hạ, không đâu rộng bằng biển. Vạn
con sông đổ hoài vào đó, không bao giờ ngừng mà nó cũng không hề vơi. Mùa xuân,
mùa thu nó vẫn vậy, không biết nắng hạn (xuân) hay lụt lội (thu). Lưu lượng nó
hơn hẳn Trường Giang và Hoàng Hà[446] không biết bao nhiêu mà kể.
Vậy mà ta không lấy
thế mà tự đắc, vì so với trời đất, với tất cả những vật thụ khí âm dương, thì
ta có khác gì một hòn cuội, một cây nhỏ trong núi lớn. Biết rằng mình nhỏ rồi,
đâu còn tự đắc nữa?
So với trời đất, bốn
biển khác gì cái hang nhỏ trong cái chằm lớn? So với bốn biển, Trung Quốc khác
gì một hạt lúa trong cái kho lớn? Sinh vật có cả vạn loài mà loài người chỉ là
một. Trong số những người sống ở chín châu (tức Trung Quốc), ăn lúa để sống, đi
lại với nhau bằng thuyền và xe, thì cá nhân chỉ là một phần tử. Vậy người so
với vạn vật có khác gì đầu sợi lông trên mình con ngựa? Cái mà ngũ đế kế thừa,
cái mà tam vương tranh giành nhau, cái mà hạng người có nhân lấy làm lo lắng,
hạng người có tài năng phải lao khổ, rốt cục chỉ có vậy thôi ư! Bá Di từ nhượng
mà được cái danh thơm, Khổng tử bàn luận mà được coi là bác học. Họ tự hào về
đức về tài của họ, có khác gì lúc nãy anh khoe nước của anh nhiều không?
Hà Bá nói:
- Vậy tôi có thể cho
trời đất là lớn mà đầu sợi lông là nhỏ được không?
- Không. Vì cái lượng
của vạn vật thì vô cùng mà thời gian thì không ngừng, nó biến đổi hoài[447],
không biết đâu là thuỷ đâu là chung[448]. Cho nên bậc đại trí nhìn xa rồi nhìn
gần, thấy nhỏ không cho là ít, thấy lớn không cho là nhiều, vì biết rằng cái
lượng của vật vô cùng; hiểu lẽ xưa cũng như nay, không tiếc thời xưa mà cũng
không cầu gì ở thời nay, vì biết rằng thời gian không ngừng; xét luật đầy vơi ở
trên đời, khi được đã không mừng mà khi mất cũng không lo, vì biết rằng số phận
bất thường. Theo con đường bằng phẳng[449] rồi không cho sống là vui, chết là
hoạ, vì biết rằng sống chết không có gì là vĩnh cửu. Cái ta biết ít hơn cái ta
không biết, cuộc đời ta sống không dài bằng thời gian trước khi ta sinh ra. Lấy
cái cực nhỏ [tức trí tuệ và đời sống của ta] mà muốn hiểu đến cùng cái cực lớn
[tức tất cả cái ta không biết và cả thới gian trước khi ta sinh ra], như vậy là
mê loạn, không bao giờ thoả mãn được. Đã vậy rồi thì làm sao có thể biết được
đầu cái lông làm tiêu chuẩn cho cái cực nhỏ, mà trời đất làm tiêu chuẩn cho cái
cực lớn?
Hà Bá hỏi:
- Bọn nghị luận ngày
nay bảo cái cực nhỏ không có hình thể, cái cực lớn không có giới hạn, có thực
vậy không?
- Từ lập trường nhỏ mà
xem cái lớn thì không thấy khắp được, từ lập trường lớn mà xem cái nhỏ thì
không thấy rõ được. Cái cực nhỏ là cái nhỏ nhất trong những cái nhỏ, cái cực
lớn là cái lớn nhất trong những cái lớn. Hai cái đó đều có ưu điểm riêng, hiện
tượng đó vốn có[450]. Phân biệt tinh với thô là xét những vật hữu hình; những
vật vô hình thì không thể phân chia ra được; cái gì không có giới hạn thì không
thể tính được. Cái có thể diễn bằng lời được là cái “thô” của của sự vật, cái
mà ý có thể đạt được là cái “tinh” của sự vật. Cái gì mà lời không thể diễn, ý
không thể đạt thì vượt lên trên cái tinh và cái thô.
Bậc đại nhân hành động
không làm hại ai cũng không coi trọng lòng nhân và sự gia ân cho người. Họ hành
động không vì lợi, không khinh người coi cửa, người đầy tớ, không tranh của
cải, không coi trọng sự từ nhượng, làm việc thì không nhờ cậy ai, mà cũng không
khoe rằng chỉ trông cậy ở sức mình, cũng không khinh bọn tham ô. Hạnh thì khác
hẳn thế tục mà không tự hào rằng mình khác người; làm thì theo đám đông mà
không khinh bọn siểm nịnh. Tước lộc không khuyến khích được họ, hình phạt không
làm nhục họ được vì họ biết rằng không có gì định được phải trái, lớn và nhỏ.
Ta nghe nói rằng: “Bậc đạt Đạo thì không có danh tiếng, bậc chí đức thì không
cần được gì cả, còn bậc đại nhân thì không biết có mình”. Đó là tự thu giảm (từ
nhượng) tới mức độ cực cao[451].
Hà Bá hỏi:
- [Vật không có tinh
và thô, nhưng có trong và ngoài], vậy lấy bề ngoài hay bề trong mà xét thì làm
sao phân biệt được quí tiện, lớn nhỏ?
Thần Bắc Hải đáp:
- Theo lập trường Đạo
mà xét thì vật không có quí tiện. Theo lập trường của vật mà xét thì vật nào
cũng cho mình là quí mà vật khác là tiện. Theo thế tục mà xét thì quí tiện
không tuỳ thuộc chính mình [mà tuỳ thuộc ý kiến của người khác về mình].
Lấy con mắt sai biệt
mà xét, muốn nhấn vào chỗ lớn[452] thì không vật nào không lớn; muốn nhấn vào
chỗ nhỏ thì không vật nào là không nhỏ. Biết trời đất chỉ nhỏ bằng hột kê mà
đầu chiếc lông lớn bằng đồi, núi, tức là hiểu rõ cái độ số sai biệt rồi.
Xét về phương diện
công hiệu, muốn nhấn vào sự công dụng thì không vật nào không có công dụng ;
muốn nhấn vào sự vô dụng thì không vật nào có công dụng. Biết được đông và tây
đối lập nhau, mà phải có phương này mới có phương kia, tức là phân định được
công dụng mỗi vật rồi.
Xét về phương diện ý
hướng, muốn nhấn vào chỗ phải của mỗi vật thì không vật nào là không phải; muốn
nhấn vào vào chỗ không phải của mỗi vật thì vật nào cũng là không phải. Biết
rằng Nghiêu và Kiệt đều tự cho mình là phải mà đối phương là quấy, tức là có ý
niệm đúng về ý tưởng, hành vi của mọi người rồi.
Xưa kia Nghiêu và
Thuấn vì nhường ngôi mà thành đế vương, vua Yên và Khoái vì nhường ngôi cho tể
tướng là Tử Chi[453] mà thân chết, nước mất; Thang và Võ [vương] nhờ tranh đoạt
mà lên ngôi vua, Bạch công[454] vì tranh đoạt mà bị giết. Do đó mà xét, việc
tranh đoạt hay nhường ngôi, hành vi của Nghiêu và Kiệt, bên nào là cao quí, bên
nào là đê tiện, đều là tuỳ thời, không có gì là nhất định.
Cái đòn nóc hoặc cái
rường nhà có thể dùng để tông cửa thành mà không thể dùng để lắp cái lỗ nhỏ, vì
mỗi việc có một khí cụ riêng. Loài ngựa tốt kí, kì, và con Hoa lưu[455] một
ngày đi ngàn dặm mà bắt chuột không bằng con li tinh[456], vì mỗi loài có một
tài riêng. Ban đêm con cú, con vọ bắt được con mạt, thấy được đầu chiếc lông,
mà ban ngày mở mắt ra cũng không thấy được ngọn đồi, ngọn núi, đó là bản tính
của mỗi loài vật.
Cho nên bảo chỉ muốn
bắt chước cái phải mà bỏ cái trái, chỉ muốn có trị mà không có loạn là chưa
hiểu cái lí của trời đất; cái bản thể của vạn vật. Như vậy không khác gì chỉ
muốn bắt chước trời mà không biết có đất, bắt chước âm mà không biết có dương,
điều đó hiển nhiên là không thể được. Nếu cứ cố chấp giữ ý đó thì không phải là
ngu muội cũng là lừa gạt. Ngủ đế nhường ngôi mỗi vị mỗi khác, tam đại nhừng
ngôi mỗi nhà mỗi khác. Kẻ nào chiếm quyền, mà không hợp thời nghi, trái với
lòng dân thì gọi là kẻ cướp ngôi; nếu hợp thời nghi, thuận với lòng dân thì gọi
là hợp nghĩa. Thôi đừng nói nữa, Hà Bá! Anh làm sao phân biệt được quí tiện,
lớn nhỏ.
Hà Bá hỏi:
- Vậy thì tôi nên làm
gì? Không nên làm gì? Nên từ bỏ hay nên nhận cái gì? Nên tiến hay nên lui? Phải
làm sao đây?
Thần Bắc Hải đáp:
- Theo lập trường Đạo
mà xét thì có gì là quí, là tiện? Đó chỉ là tương đối trái nhau thôi[457]. Anh
đừng nên câu chấp, như vậy trái với đạo. Cái gì là ít, là nhiều? Ít, nhiều chỉ
là những nhận định nhất thời thôi. Anh đừng chấp nhất trong hành vi, như vậy là
sai Đạo.
- Anh phải nghiêm như
một ông vua, không có ân huệ thiên tư, phải tự tại[458] như thần Xã trong lúc
tế lễ, không ban phúc cho riêng ai; lòng phải rộng rãi như bốn phương vô cùng,
không có bờ cõi, ôm cả vạn vật, không che chở riêng cho vật nào. Như vậy là vô
tư.
Vạn vật đều ngang
nhau, có vật nào dài, vật nào ngắn đâu? Đạo không có đầu có cuối. Vật sinh rồi
chết, đừng trông cậy nó thành tựu vì vật có lúc đầy lúc vơi, không có hình thể
bất biến. Tuổi không lùi lại được, thời gian không thể ngừng lại được. Có tăng
thì có giảm, có đầy có vơi, có chung thì có thuỷ. Có thể coi đó là xu hướng của
Đạo, tình lí của vạn vật. Đời vạn vật qua mau như ngựa chạy, không có cái động
nào mà không biến, không lúc nào là không chuyển. Anh hỏi nên làm gì, không nên
làm gì ư? Thì cứ để cho bản thân anh tự nhiên biến hoá.
Hà Bá hỏi:
- Đạo có gì mà quí
vậy?
Thần Bắc Hải đáp:
- Ai hiểu Đạo thì tất
biết lí[459], biết được lí thì rõ phép quyền biến, rõ phép quyền biến thì không
bị ngoại vật làm tổn thương. Bậc chí đức thì vô lửa mà không nóng, xuống nước
mà không chìm, nóng và lạnh không làm cho đau được, cầm thú không làm hại được.
Không phải bậc chí đức khinh suất coi thường những cái đó; họ xét rõ an nguy,
bình tĩnh trước hoạ và phúc, thận trọng tiến lui, cho nên không cái gì làm hại
được.
Cho nên bảo: “Trời ở
trong, người ở ngoài[460], mà Đức ở trời. Biết được tác dụng của trời, của
người thì lấy trời làm gốc mà đứng vững ở Đức[461]; người như vậy có thể tiến
lui, co duỗi, trở về cái cốt yếu mà bàn về cái cao nhất của Đạo”.
Hà Bá hỏi:
- Thế nào là trời? Thế
nào là người?
- Bò và ngựa có bốn
chân, đó là trời [thiên nhiên], cột đầu ngựa, xỏ mũi bò là người [làm ra]. Đừng
đem cái người mà mà diệt cái thiên nhiên, đừng đem hành động mà diệt trật tự vũ
trụ [mệnh][462], đừng đem cái bản tính của mình mà hi sinh có danh tiếng. Cẩn
thận giữ đúng như vậy mà dừng quên, thì là trở về cái bản chất [phản kì chân]
của mình.
2
Con quì ước ao được
như con huyên, con huyên ước ao được như con rắn; con rắn ước ao được như gió;
gió ước ao được như mắt; mắt ước ao được như tim[463].
Con quì bảo con huyên:
- Tôi lò cò một chân
mà đi, không bằng anh được[464]. Sao mà anh dùng được cả vạn chân như vậy?
Con huyên đáp:
- Không phải vậy. Anh
có thấy một người nhổ nước miếng không? Những giọt phun ra lớn thì như hạt
châu, nhỏ như sương mù, hết thảy đều rớt xuống, lẫn lộn, nhiều vô số kể. Tôi
vận động theo bản tính tự nhiên [thiên cơ], không hiểu tại sao như vậy.
Con huyên hỏi con rắn:
- Tôi có nhiều chân
như vậy, anh không có chân, mà tôi không đi nhanh bằng anh?
Con rắn đáp:
- Đó là do bản tính tự
nhiên, không thể thay đổi được. Tôi có cần dùng gì đến chân đâu?
Con rắn hỏi gió:
- Tôi đi bằng xương
sống và hai bên sườn của tôi, như vậy là tôi có hình thể. Còn anh ù ù nổi lên ở
Bắc Hải, thổi tới Nam Hải, mà cơ hồ không có hình thể. Tại sao vậy?
Gió đáp:
- Phải, tôi ù ù nổi
lên ở Bắc Hải, thổi tới Nam Hải, nhưng người ta lấy ngón tay trỏ tôi, tôi không
chống lại được, lấy chân đạp tôi, tôi cũng đành chịu. Tuy nhiên làm gẫy cây
lớn, thổi bay nóc nhà lớn, thì chỉ tôi mới làm được. Vậy tôi biết dùng những
cái thua nhỏ để thành một cái thắng lớn. Chỉ bậc thánh nhân mới tạo được những
thắng lớn.
3
Khi Khổng Tử đi tới
đất Khuông, bị một đám người bao vây vòng trong, vòng ngoài. Vậy mà ông vẫn đàn
hát không ngừng.
Tử Lộ lại gần hỏi:
- Lúc này mà sao thầy
vui được như vậy? Khổng Tử đáp:
- Lai đây thầy nói cho
nghe. Ta vốn tránh sự khốn cùng từ lâu, mà không thoát khỏi, đó là do số mệnh.
Ta vốn mong được thông đạt từ lâu mà không sao được, đó là thời vận. Thời
Nghiêu Thuấn không ai khốn khổ, đâu phải vì ai cũng khôn cả. Thời Kiệt, Trụ,
không ai sung sướng, không phải vì ai cũng ngu cả. Thời thế khiến vậy.
Xuống nước mà không sợ
con giao[465], con rồng, đó là cái dũng của bọn chài lưới; trên bộ mà không sợ
con tê ngưu, con cọp, đó là cái dũng của bọn thợ săn. Trước mũi gươm đao, mà
coi chết như sống, đó là cái dũng của liệt sĩ. Biết rằng khốn cùng do mệnh,
thông đạt nhờ thời, gặp nạn lớn mà không sợ, đó là cái dũng của thánh nhân. Do
[tức Tử Lộ], anh cứ yên tâm. Số mệnh thầy đã được an bài rồi.
Một lát sau, một người
đeo binh khí, tiến tới xin lỗi Khổng Tử:
- chúng tôi lầm ngài
là Dương Hổ nên mới bao vây. Bây giờ biết là lầm, xin ngài thứ lỗi cho.
Nói rồi, người đó rút
lui.
4
Công Tôn Long[466] hỏi
Nguỵ Mâu[467]:
- Hồi trẻ tôi học đạo
tiên vương, lớn lên hiểu rõ nhân nghĩa, biết hỗn hợp cái giống nhau và cái khác
nhau, tách cái rắn và cái cứng (trong cục đá) ra, phủ nhận cái mà người khác
xác nhận, chấp nhận cái người khác không chấp nhận, làmhoang mang trí tuệ bách
gia, khuất phục được nhiều người khi biện thuyết, tôi tự cho như vậy là kiến
thức tuyệt vời rồi. Nhưng bây giờ nghe lời nghị luận của Trang tử, tôi ngạc nhiên,
hoang mang, không biết tại tôi lí luận chưa sâu sắc hay trí tuệ tôi không bằng
ông ấy, mà đành câm miệng không nói gì được. Xin hỏi ông như vậy là nghĩa làm
sao?
Công tử Mâu ngồi dựa
vào cái kỉ, thở dài, ngước mắt lên trời mà cười:
- Ông có được nghe kể
chuyện này không? Một con ếch nhỏ ngồi trong một cái giếng sụp nói với một con
rùa lớn Biển đông: “Tôi sung sướng quá, tôi có thể ra khỏi giếng, nhảy lên
miệng giếng, rồi lại vô giếng, ngồi nghỉ trong những kẽ gạch của thành giếng.
Bơi trong nước thì nước đở nách và cằm tôi, nhảy xuống bùn thì bùn lấp chân tôi
tới mắc cá. Ngó lại phía sau, thấy con lăng quăng, con cua, con nòng nọc, không
con nào sướng bằng tôi. Vã lại một mình chiếm một chỗ nước tụ, tự do bơi lội
trong một cái giếng sụp, còn vui gì hơn nữa? Sao anh không vô giếng tôi một lát
coi cho biết?
Con rùa Biển đông vừa
mới muốn đút cái chân bên trái vô giếng thì thấy không còn chỗ vì cái đùi bên
phải đã bít cái giếng rồi. Nó từ từ rút chân ra, lùi lại, bảo con ếch:
- Biển đông mênh mông,
ngàn dậm đã thấm gì, sâu thăm thẳm, ngàn nhẫn[468] đã thấm gì. Thời vua Vũ, cứ
mười năm thì chín năm lụt, vậy mà mực nước biển không lên. Thời vua Thang, tám
năm thì bảy năm hạn hán, vậy mà bờ biển không lùi ra xa. Không vì thời gian
ngắn hay dài mà thay đổi, không vì mưa nhiều hay ít mà tăng giảm, đó là cái vui
lớn của Biển đông.
Con ếch trong cái
giếng sụp nghe vậy ngạc nhiên, thu hình lại, hoảng hốt, bối rối.
[Công tử Mâu nói
tiếp:]
- Vả lại, người nào mà
trí tuệ chưa biết được đâu là phải đâu là trái mà đòi xét thuyết của Trang tử
thì khác gì con muỗi muốn khiêng núi trên vai hoặc con rết muốn chạy đua với
sông Hoàng Hà. Không thể nào được. Người nào trí tuệ không nhận được những sâu
sắc tế nhị, kì diệu trong nghị luận mà chỉ tìm những thắng lợi nhất thời thì khác
gì con ếch nhỏ trong cái giếng súp đó?
Trang tử, chân đạp vào
suối vàng mà bay bỗng lên trời xanh, không phân biệt Nam, Bắc, tinh thần bàn
bạc khắp vũ trụ, nhập vào chỗ thâm áo không lường được, không phân biệt Đông,
Tây, xuất phát từ chỗ tối tâm nguyên thuỷ (huyền minh) rồi trở về với Đạo.
Mà ông hẹp hòi muốn
lấy nhãn quang thế tục để phân tích, dùng biện luận để tìm hiểu, có khác gì
nhìn trời qua một ống trúc, đâm[469] mặt đất bằng một cây dùi. Như vậy có nhỏ
mọn quá không? Ông nên thôi đi.
Ông có nghe nói bọn
thanh niên [quê mùa] ở Thọ Lăng [một ấp ở nước Yên] lại Hàm Đan [kinh đô của
Triệu] học dáng đi uyển chuyển của người Triệu không? Chưa học được thì đã quên
cách đi cũ của họ rồi, đành phải bỏ mà trở về. Như ông không về ngay đi thì sẽ
quên hết những điều ông đã biết mà mất cái nghề nguỵ biện của ông.
Công Tôn Long mở miệng
không được, lưỡi ríu lại, vội vàng chạy đi.
5
Trang tử câu trên sông
Bộc.Vua Sở[470] phái hai vị đại phu lại báo trước “sẽ xin đem việc nước lại làm
phiền ông”.
Trang tử vẫn cầm cần
câu, không ngoảnh lại, mà đáp:
- Tôi nghe nước Sở có
một con rùa thần, chết đã ba ngàn năm, nhà vua gói nó vào chiếc khăn, cất trong
cái hộp ở trên miếu đường. Con rùa ấy chịu chết mà lưu lại bộ xương cho người
ta thờ hay thích sống mà lết cái đuôi trong bùn?
Hai vị đại phu đáp:
- Thà sống mà lết cái
đuôi trong bùn còn hơn.
Trang tử bảo:
- Vậy hai ông về đi!
Tôi cũng thích lết cái đuôi trong bùn đây”.
6
Huệ tử [tức Huệ Thi]
làm tể tướng nước Lương. Trang tử qua thăm. Có kẻ nói với Huệ tử rằng Trang tử
lại để tranh ngôi tể tướng. Huệ tử sợ hải, sai người tìm Trang tử khắp nước
suốt ba ngày đêm.
Khi tới, Trang tử bảo:
- Ông có biết một con
chim ở phương Nam người ta gọi là con uyên sồ[471]không? Khi nó cất cánh từ Nam
hải mà lên Bắc hải, không phải là cây ngô đồng thì nó không đậu, không phải là
hột luyện thì nó không ăn, không phải là nước suối ngọt thì nó không uống. Một
con chim cú đương rỉa xác một con chuột thấy nó bay ngang [sợ nó tranh ăn],
ngửng lên nhìn nó, kêu lên một tiếng lớn doạ nó. Nay ông vì [cái ngôi tể tướng]
nước Lương mà cũng muốn kêu lên để doạ tôi sao?
7 [472]
Trang tử cùng với Huệ
tử đi dạo trên cầu sông Hào. Trang tử bảo:
- Đàn cá du [473] kia
thung thăng bơi lội, đó là cái vui của cá.
Huệ tử bẻ:
- Ông không phải là
cá, làm sao biết được cái vui của cá?
Trang tử đáp:
- Ông không phải là
tôi, làm sao biết được rằng tôi không biết cái vui của cá?
- Tôi không phải là
ông, dĩ nhiên tôi không biết được ông, nhưng ông không phải là cá thì hiển
nhiên là ông không biết được cái vui của cá.
Trang tử bảo:
- Xin trở lại câu hỏi
đầu tiên. Ông hỏi tôi làm sao biết được cái vui của cá. Như vậy tức là ông nhận
rằng tôi đã biết cái vui đó rồi [nên mới hỏi làm sao tôi biết được?]. Làm sao
biết tôi được ư? Thì đây: tôi đứng trên cầu sông Hào này mà biết được.
NHẬN ĐỊNH
Các học giả từ Vương
Phu Chi, Diệp Quốc Khánh tới La Căn Trạch, Hoàng Cẩm Hoành… đều cho rằng chương
này không phải của Trang tử viết.
Như bài 5 (Trang tử
câu trên sông Bộc, không chịu giúp vua Sở), bài 6 (Trang tử ví mình như con
“uyên sồ”, cho Huệ tử là con cú) đều là của người đời sau viết về Trang. Hiển
nhiên nhất là bài 4 trong đó Nguỵ Mâu cực lực đề cao Trang.
“Trang tử chân đạp vào
suối vàng mà bay bổng lên trời xanh… tinh thần bàn bạc khắp vũ trụ, nhập vào
chỗ thâm áo không lường được…”.
Một lẽ nữa là bút pháp
có chỗ nặng về biện thuyết, lô gích, khác xa bút pháp của Trang, như bài 7.
Lẽ thứ ba, trong bài 1
có câu:
“Xưa kia, vua Yên là
Khoát nhường ngôi cho Tử Chi…”. Việc đó xảy ra vào thời Tề Tuyên vương, tức
đương thời Trang tử. Người viết bài đó phải sinh sau Trang tử nên mới dùng hai
chữ “xưa kia” (tích giả).
Nhưng xét về nội dung
thì những tư tưởng chính trong chương, không có lớn nhỏ, sang hèn, thị phi (bài
1); vật nào cũng có khả năng riêng, hoạt động theo bản tính, vậy không nên ganh
tị, ước ao được như những vật khác (bài 2), biện luận không giúp ta tìm được
chân lí (bài 4) thì đúng là tư tưởng của Trang trong Tề vật luận và Tiêu dao
du.
Đặc biệt là những đoạn
dưới đây trong bài 1:
- Không thể cho trời
đất là lớn mà sợi lông là nhỏ vì “cái lượng của vật thì vô cùng mà thời gian
thì không ngừng, nó biến đổi hoài, không biết đâu là thuỷ là chung”.
- “Theo lập trường Đạo
mà xét thì vật không có quí tiện… Lấy con mắt sai biệt mà xét, muốn nhấn vào
chỗ lớn thì không vật nào không lớn; muốn nhấn vào chỗ nhỏ thì không vật nào là
không nhỏ… Xét về phương diện ý hướng, muốn nhấn vào chỗ phải của mỗi vật thì
không vật nào là không phải, muốn nhấn vào chỗ không phải thì không vật nào là
không phải”.
- Vạn vật đều ngang
nhau, có vật nào dài, vật nào ngắn đâu? Đạo không có đầu có cuối. Vật sinh rồi
chết, đừng trông cậy nó thành tựu vì vật có lúc đầy lúc vơi, không có hình thể
bất biến. Tuổi không lùi lại được, thời gian không thể ngừng lại được. Có tăng
thì có giảm, có đầy có vơi, có chung thì có thuỷ. Có thể coi đó là xu hướng của
Đạo, lí của vạn vật…”.
Chỉ là khai triển tư
tưởng của Trang, nhưng phải là môn đệ thông minh, trung thành của Trang mới
viết được. Có nhà đoán rằng hạng môn đệ đó sống đời Tần hoặc Hán.
Tuy nhiên, trong bài 1
đó, cũng có điểm khác Trang. Tác giả có vẻ không chấp nhận sự huyền bí, bảo
hạng chí đức vô lửa mà không nóng, xuống nước mà không chìm, nóng lạnh không
làm cho đau được, không làm hại được chỉ là vì thận trọng tiến lui, xét rõ an
nguy, bình tĩnh trước hoạ phúc.
Chương này được nhiều
người thích vì giọng khoáng đạt trong bài 1 và những cố sự về Trang (bài 5, 6,
7) tuy không chắc là đúng, nhưng lí thú.
Chú thích :
[442] Bắc hải đây là
phía bắc Đông hải.
[443] Nghĩa là chưa
được bao nhiêu mà tự cho là nhiều.
[444] Nguyên văn: khúc
sĩ, kẻ sĩ ở chốn quê mùa, hẻo lánh; có sách giảng là kẻ tiểu nhân.
[445] Nguyên văn: đại
lí. L.K.h. dịch là cái trật tự trong xã hội.
[446] Hai con sông lớn
nhất Trung Hoa.
[447] Vật biến đổi
hoài nên lượng của nó vô cùng.
[448] Thời gian trôi
hoài nên không biết đâu là đầu là cuối.
[449] Câu này mỗi sách
hiểu mỗi khác, tôi dịch theo ý riêng, không chắc đã đúng.
[450] Nguyên văn: Cố
di tiện, thử thế chi hữu dã. Mỗi sách giảng mỗi khác. Có sách dịch là: …đều có
tiện lợi riêng, do hình thể mà nói.
[451] Nguyên văn cũng
rất tối nghĩa: ước phận chi chí dã. Có sách dịch là: từ bỏ tới cực độ. Sách
khác dịch là hợp tất cả làm một.
[452] Nguyên văn: nhân
kì sở đại nhi đại chi. Có sách dịch là: nhân cái lớn của mỗi vật. [Trong sách,
những lời này dùng để chú giải câu “muốn nhấn vào chỗ lớn” và cả hai câu ở hai
đoạn tiếp theo: “muốn nhấn mạnh vào sự công dụng” và “muốn nhấn mạnh vào chỗ
phải của mỗi vật”; nhưng đối chiếu với bản Nguyễn Duy Cần và bản chữ Hán trên
trang http://gx.kdd.cc/8/4O/, thì nguyên văn ba câu tương ứng lần lượt là: nhân
kì sở đại nhi đại chi 因 其 所 大 而 大 之; nhân kì sở hữu nhi hữu chi 因 其 所 有 而 有 之; nhân kỳ sở nhiên nhi nhiên chi 因 其 所 然 而 然 之 - Goldfish].
[453] Việc này xảy ra
vào thời Tề Tuyên vương (coi Chiến Quốc sách – VIII.9 – trang 626 – Lá Bối –
1972), vậy là xảy ra ở thời Trang tử. Nhưng người viết bài này sống sau Trang
tử, nên mới sắp vào việc thời xưa (tích giả - xưa kia).
[454] Tên là Thắng,
cháu nội của Sở Bình vương, dấy binh tranh ngôi, bị Diệp công giết.
[455] Hoa lưu: tên một
con ngựa tốt trong số tám con ngựa tốt của Chu Mục vương. [Goldfish].
[456] Một loài chồn.
[457] Nguyên văn: phản
diễn. Có sách dịch là “hợp nhất”, tức là tuy hai mà một. Có sách giảng là quí,
tiện tuần hoàn nhau.
[458] Nguyên văn: diêu
diêu là tươi tỉnh.
[459] Theo L.K.h., lí
đây là trật tự của vũ trụ.
[460] Nghĩa là thiên
cơ ở trong lòng, hành vi của người hiện ra ở ngoài.
[461] Theo L.K.h., chữ
đắc (trong vị hồ đắc) phải sửa là chữ đức.
[462] Nguyên văn: vô
dĩ cố diệt mệnh. H.C.H. dịch là đừng vì sự cố mà huỷ diệt tính mệnh. Tôi theo
L.K.h.
[463] Có thể hiểu như
vầy: con quì (một quái vật tượng trưng có một chân) đi chậm hơn con huyên (một
loài trùng có trăm chân, con rết chẳng?) có trăm chân, con huyên bò chậm hơn
con rắn không có chân, rắn đi nhanh không bằng gió, gió còn thua mắt vì mắt
thấy liền, mắt thua tim (tinh thần) vì tim nghĩ tới được những cái mà mắt không
thấy. Do dó con quì ước ao được như con huyên, con huyên ước ao được như con
rắn…
[464] Nguyên văn: dư
vô như hĩ. Có sách dịch: không gì tiến bằng tôi.
[465] Con giao, theo
tự điển, cùng một loại với con rồng.
[466] Công Tôn Long ở
trong phái danh gia (khoảng -330 -242), kém Trang tử khoảng ba chục tuổi. Trong
chương Tề vật luận, Trang tử đã chỉ trích thuyết của Công Tôn Long. Công Tôn
Long tách cái cứng và cái trắng (li kiên bạch); còn Huệ Thi thì hỗn hợp cái
giống nhau và cái khác nhau (hợp đồng dị). Tác giả bài này không phải Trang tử,
đã lầm, cho thuyết hợp đồng dị cũng của Công Tôn Long.
[467] Công tử nước Nguỵ,
tên Mâu, chính là môn đệ Dương Chu, ở đây tác giả cho là môn đệ Trang tử.
[468] Mỗi nhẫn là tám
thước đời Chu.
[469] Nguyên văn: chỉ.
H.C.H. dịch là đo.
[470] Sở Uy vương. Sử
kí của Tư Mã Thiên cũng chép truyện này, nhưng lời khác hẳn.
[471] Một loài chim
phượng
[472] Trong sách in
thiếu (tên bài) 1, 2, 7. Về sau, với các lỗi như thế, tôi chỉ sửa mà không chú
thích.
[473] Một loại
cá trắng.
(Theo: Trang Tử Nam
Hoa Kinh, Nguyễn Hiến Lê, NXB VH-TT, 1994.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét