Người tỉnh nói chuyện
mộng du
Nhắc tới Mạc Ngôn là nhắc tới tiểu thuyết và
truyện ngắn. Nhà văn với các sáng tác Báu vật của đời,
Cao lương đỏ, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận, … đã trở thành tên tuổi quen
thuộc của độc giả. Sự góp mặt của tập tản văn “Người tỉnh nói chuyện mộng du”
thật khiêm nhường nhưng là món ăn “thú vị” đối với người đọc. Suy nghĩ về con
người và lẽ sống được bộc lộ trong nhiều bài viết.
Tập tản văn bao gồm 25
bài viết lớn nhỏ, ấn tượng về nước Nga, về thảo nguyên Nga và cuộc sống con
người Nga. Tiếng chim, cánh đồng thảo nguyên màu mỡ, hoàng hôn và ánh trăng. Có
các so sánh và liên tưởng rất thú vị trong tản văn Mạc Ngôn, “tiếng chim ríu rít như những em nhỏ vừa nghe
chuông tan lớp” hay “Dãy núi nhấp nhô khiến tôi liên tưởng đến một
thiếu nữ mơ màng đang nằm ngủ, những ngọn núi trông như những khuôn ngực đẫy đà”. Tâm hồn rộng mở, phóng khoáng có được niềm
hạnh phúc khi cảm giác “nắm
đầy ánh trăng trong lòng bàn tay… thậm chí cảm nhận được tiếng vỡ của trăng”.
Điều sâu sắc là nỗi lo
lắng và dự cảm của nhà văn. Niềm tin tưởng vào sức lao động và sáng tạo
của nhân dân lao động. Thiên nhiên Nga, con người Nga không những đem lại cho
tác giả cảm xúc “huy hoàng” mà đôi khi cả những “thất vọng ê chề”. Bữa ăn trưa
nhạt nhẽo chán chường khiến những tưởng tượng về một nước Nga văn học “bốc hơi”
hết, may thay phụ nữ Nga đã tạo một cảm tình đặc biệt với tác giả.
Động vật
Những bài viết về chó,
chim, ngựa cho thấy những tình cảm và kí ức không thể quên của nhà văn. Chuyện
bị chó cắn khiến ông có những chuyển biến tâm lí sâu sắc, buộc lòng phải giết
chó nhưng điều Mạc Ngôn đau lòng là mình không đánh chết nó “trong động tác đau
khổ”. Sự gắn bó của loài chó và con người trong lịch sử tiến hóa nhân loại,
những oan ức của chó, công lao của chó và cả những ẩn ức trong “đôi mắt” con
chó nhà trước khi chết là sợi dây tình cảm khiến nhà văn suy nghĩ. Cách nói bỗ
bã, nhưng giàu tình cảm là nét duyên của Mạc Ngôn trong văn chương. Cách mà ông
miêu tả hình ảnh những con chó đội mũ nhung be bé nằm trong “khe núi vú” của
những người đàn bà Nga cho thấy ông dành cho nước Nga và con người Nga một tình
cảm trìu mến.
Dù ở đâu thì những ấn
tượng về loài vật ở quê nhà vẫn đặc biệt. Chó nhà tuy không được bữa ăn ngon
như giống chó Đức nhưng điều chúng có là sự tự do. Nói về mối quan hệ gắn bó
giữa con người và loài vật, nhà văn gợi lên kỉ niêm khó quên về câu chuyện chân
gãy của con ngựa. Chỉ có ở con quê mình, ông mới tìm được “chất phóng túng
hoang dã” trên thân thể chúng. “Mấy chục con ngựa tung vó trên cánh đồng hoang sơ như một dòng
sông nhiều màu sắc đang ầm ầm nổi sóng”.
Theo cách nói của Mạc
Ngôn, ông đã “thâm nhập” vào “tâm linh” của loài vật mới có thể cảm nhận được
nỗi đau và suy nghĩ của chúng. Nhà văn rất chân thật, ông dám nhìn thẳng vào
đôi mắt từng con vật. Chuyện nhà văn báo cáo với cấp trên người đồng đội bắn
giết chim vô tội vạ cùng chi tiết cái lưỡi khi chết của con chim gõ kiến cho
thấy ông hiểu chúng như thế nào.
Cuộc sống ở Đông Bắc Cao Mật
Dành phần lớn cuốn
sách của mình, tác giả viết về những vấn đề có mối quan hệ mật thiết với con
người. Đó là chuyện ăn, chuyện ở, chuyện tắm và sở thích âm nhạc, đọc sách, …
Nếu đã đọc tiểu thuyết Mạc Ngôn, chúng ta đều biết rằng, bối cảnh và con người
trong nhiều tác phẩm đều có xuất phát từ quê hương Đông Bắc Cao Mật của ông.
Đọc Người tỉnh nói chuyện mộng du, ta có được hình dung chân thực về nơi nhà
văn sinh ra và lớn lên.
Chuyện “Tường hát”
miêu tả một cách cụ thể và tỉ mỉ cái làng quê ấy. Con đường cát vàng giữa làng
với hàng cây “vàng ươm” lá vào mùa thu, nắm đất đen qua “bàn tay điêu luyện”
của tổ tiên ông đã thành những đồ gốm sứ, những thảm cỏ cùng nhiều loại thú
trong thiên nhiên đã tạo nêm một không gian thôn dã thân quen và ấm áp. Những
cái ao trên đồng cùng những truyền thuyết của nó gợi lên sự tò mò và thích thú
cho người đọc về vùng đất này. Không chỉ có cảnh mà con người cũng là nhân tố
đặc sắc của câu chuyện. Đó là những Hứa Bàn Tay To, những cô gái câm xinh đẹp
gia tộc họ Tôn và bao lớp người ở Cao Mật. Hình ảnh “Chợ tuyết” mãi là kí
ức đẹp nơi tâm hồn nhà văn. Cũng như bức tường biết hát dù đã sụp đổ nhưng
những âm thanh thì đã thấm nhuần vào kí ức bao người và mãi mãi được lưu
truyền.
Chuyện ăn
Viết về quê hương, về
nơi mình sinh ra, trăn trở nhất trong sáng tác của tác giả là chuyện cái ăn. Ở
cuốn tạp tản văn này, ông dành nhiều trang sách viết về cái đói. Chuyện ăn ám
ảnh Mạc Ngôn. Bởi lẽ, ngay từ khi biết suy nghĩ, cái đói đã triền miên trong
đời sống của ông. Nhà văn sinh năm 1955, suốt 20 năm gắn bó ở quê nhà cho tới
ngày nhập ngũ (1976) là quãng thời gian đất nước Trung Quốc trải qua nhiều biến
động, cũng như bao người dân Trung Quốc, Mạc Ngôn đã sống những ngày tối tăm
nhất khi cái đói luôn rình rập, chực chờ và đe dọa. Tự nhận ham ăn thuộc về
phẩm chất con người mình. Cho tới tận sau này, dù không còn lo chuyện ăn nữa,
song cái ăn vẫn rất ám ảnh ông. Chuyện ông ăn nhiều, ăn nhanh hay “dáng ăn hùng
hổ” không đơn giản chỉ vì đói. Vấn đề ăn và cái đói đã trở thành những ấn tượng
sâu đậm trong tâm hồn Mạc Ngôn.
Chuyện giành ăn với cô
em họ, chuyện ăn vụng thức ăn thậm chí cả ăn trộm để ăn được Mạc Ngôn ghi chép
một cách tỉ mỉ. Những kí ức kinh hoàng về cái đói luôn hiển hiện thường trực
trong tâm trí nhà văn. U ám nhất là cái chết, người chết đói và bữa ăn ngày
đói. Nhưng vượt lên những năm tháng hắc ám đó, Mạc Ngôn vẫn giữ được cái nhìn
trong sáng về cuộc sống.
Cái đói trở thành nỗi
vật vã của con người, phủ trùm bóng đen không gian cảnh vật, song trong cái
đói, người ta cũng nhận được những giá trị đáng để sống tiếp. Nồi rau hổ lốn
trong chiếc mũ sắt, bát canh thịt ngựa, miếng bánh ép khô, cảnh cả làng đi tìm
cái ăn suốt 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Những kí ức tuổi thơ tuy ảm đạm nhưng
vẫn ấm tình người. Và cũng chính những ngày tháng ấy đã để lại trong Mạc Ngôn
nhiều trải nghiệm nhất để sau này trở thành nguồn tư liệu trong trang sách của
ông.
Không chỉ dừng ở
chuyện ăn, tản văn Mạc Ngôn nói về niềm hạnh phúc của con người. Đó có thể là
chuyện tắm nước nóng, chuyện cảm thụ âm nhạc, chuyện về đôi cừu, chuyện uống
trộm rượu, và hơn tất cả, trở đi trở lại trong tản văn của ông vẫn là những câu
chuyện về quê hương, những ước mơ, khát vọng từ một cậu bé ham đọc đến giấc
mộng đại học và trở thành nhà văn.
Đôi nét về Mạc Ngôn
Mạc Ngôn ham đọc từ
bé. Bằng cách này, cách khác, thưở nhỏ, ông đã đọc hầu hết các cuốn “nhàn thư”
như Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử truyện, Nho Lâm Ngoại Sử,… cũng như các bộ
tiểu thuyết hiện đại mà mình mượn được. Mạc Ngôn bộc lộ một trí nhớ đặc biệt từ
thưở bé. Dù trong điều kiện phải đọc giấu diếm và ngấu nghiến nhưng ông có thể
nhớ được hầu hết các tình tiết và tên tuổi các nhân vật. Kỉ niệm về đọc sách
thì nhiều, song niềm ham sách lưu lại trong Mạc Ngôn là chuyện đọc ké sách và
giành sách với anh trai. Trong điều kiện cuộc sống khó khăn, mỗi cuốn sách đã
đem lại cho nhà văn của chúng ta những ý nghĩa tinh thần vô cùng sâu sắc. Một
đứa bé đang học tiểu học có thể xúc động phát khóc lên trước nỗi đau của nhân
vật, rưng rưng những giọt nước mắt hạnh phúc trước mối tình của PaVen và
ĐoNhiA, điều đó chứng tỏ khả năng cảm thụ văn học và tâm hồn đặc biệt nhạy cảm,
vô cùng phong phú của tác giả.
Có lẽ Mạc Ngôn sinh ra
là để làm một nhà văn. Mặc dù con đường học hành không được hanh thông, phải
dừng học khi đang học dở lớp 5, nhưng tinh thần ham học của Mạc Ngôn thì vô
cùng lớn. Tháng ngày ngắn ngủi ngồi ở trường tiểu học còn ghi đậm trong tâm trí
nhà văn. Những bài văn có bút tích của thầy giáo Trương cùng chiếc quần không
đáy và chiếc thắt lưng là kỉ niệm đáng nhớ nhất mà tác giả có được thời đi học.
Chính vào thời gian bị
dừng học, phải trở thành người lao động, mộng văn chương đã hình thành trong
ông. Ngay từ những năm 70, từ thực tế nơi địa phương, Mạc Ngôn đã tập tành sáng
tác. Và sau nhiều lần chưa thành công, mùa thu năm 1981, truyện Mưa đêm xuân
bay bay của ông được đăng trên báo. Mất học trở thành trẻ chăn trâu cắt cỏ,
tưởng chừng tương lai đóng lại trước mặt, song bằng niềm ham học, Mạc Ngôn đã
mở ra cho mình một cánh cửa vào đời khác. Niềm yêu thích văn học thôi thúc mãnh
liệt trong ông. Thông qua con đường tự học, cậu bé nghèo ở một vùng quê còn
nhiều lạc hậu đã từng bước trở thành một nhà văn danh tiếng, một người có địa
vị bằng cấp trong xã hội (ông tốt nghiệp Học Viện Nghệ Thuật Quân Đội, lấy bằng
Thạc sĩ tại Viện Văn Lỗ Tấn).
Phong cách văn
chương
Sinh ra vào một giai
đoạn lịch sử đầy biến động, Mạc Ngôn phải sống một cuộc sống thiếu thốn từ bé.
Lúc nhỏ khi giành ăn khoai với cô em họ, ông chỉ ước có thể được một lần ăn
khoai no nê. Sau khi vào quân ngũ, những ngày no mới tồn tại trong ông. Khi dệt
giấc mộng văn chương, điều thôi thúc ông trở thành nhà văn là có thể được ăn
ngày ba bữa sủi cảo. Đọc tản văn Mạc Ngôn, nhiều điểm ở con người ông gây cho
người ta sự bất ngờ. Nhà văn có ước mơ là xây cho mình một bể tắm nước nóng.
Suy nghĩ “vui vui’ của ông “sẽ
đón quý khách khắp nơi đến nhà tôi tắm nước nóng. Chúng ta vừa ngâm mình trong
nước vừa bàn chuyện văn chuyện đời. Ôi! Cuộc sống sao mà hạnh phúc!”. Xuất phát điểm của mong muốn xây bể tắm
được tác giả hun đúc từ kí ức tắm sông ở quê nhà và những lần tắm nước nóng tới
60 độ khi còn trong quân ngũ. Dòng sông quê nóng rực dưới ánh mặt trời và cái
nóng khiến cơ thể đỏ lên như “con tôm luộc” trở thành “quầng sáng” và niềm
“khoái cảm” trong cuộc đời Mạc Ngôn.
Là người viết văn, tâm
hồn ông cũng rất dễ giao hòa với thế giới âm thanh – đó là âm nhạc. Lúc còn
chăn trâu cắt cỏ ở quê, tiếng chim, tiếng bò, tiếng trâu đã tạo nên cảm xúc khó
quên trong tâm hồn cậu bé Mạc Ngôn. Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê mà đời sống
vật chất và tinh thần còn nhiều thiếu thốn, Mạc Ngôn không có được những tháng
ngày tuổi thơ nâng niu và bao bọc, nhưng những thiệt thòi về một mặt nào đó,
lại khiến năng khiếu văn học của ông tỏa sáng.
Chính cuộc sống giữa
tự nhiên bao la đã cho ông khả năng quan sát, kinh nghiệm sống, tạo nên một tâm
hồn cực kỳ tinh tế và bén nhạy. Không chỉ có âm thanh của tự nhiên mà các hình
thức âm nhạc địa phương như loại hình ca kịch Miêu Xoang, người kéo đàn nhị,
những khúc ca tự tạo của mấy cô gái xóm giềng là những bài học giúp Mạc Ngôn có
được những kiến thức về cảm thụ âm nhạc. Mặc dù chỉ cảm nhận âm nhạc từ quan
sát đời sống nhưng những âm thanh kì diệu đã làm giàu có tâm hồn bay bổng và
nhiều cảm xúc nơi ông.
Đúng như ông nói, cố
hương đã trở thành “mạch nguồn” và là “động lực” trong hầu hết các sáng tác.
Tác phẩm “Cao lương đỏ” cho ta bắt gặp cây cao lương đầy sinh khí như có hồn,
có tính cách, tiểu thuyết “Đàn hương hình” lại mang đậm chất dân gian qua nghệ
thuật Miêu Xoang, hay hàng loạt các trang viết khác thì vẫn là cảnh, là người ở
vùng đất ấy. “Chùm ba bài”, “Dòng sông nóng bỏng”, “Cây cổ thụ thành tinh”,
“Chuyện về ông nội” là các bài viết biểu hiện rất rõ con người Mạc Ngôn. Vùng
kí ức không thể quên, cậu bé bị rơi xuống hố phân được anh trai bế ra dòng sông
vào trưa hè giữa bao người dân quê. Việc chặt cây liễu cổ thụ đã gây nên tai
nạn thương tâm tại làng quê (5 người chết và nhiều người bị thương).
Con người cần biết sợ
trước sức mạnh của tự nhiên và bí ẩn của văn hóa. Ông nội trong cảm nhận của Mạc
Ngôn là người nông dân tài hoa, kỹ thuật gặt lúa của ông “khó có ai có thể đọ
được”, ông còn biết đan lưới, lồng chim, bắt cua, bắt cá, bắn chim. Cuộc sống
nông thôn vào ngày mùa, khung cảnh lao động của người nông dân cùng bao truyện
kể “kỳ lạ” về tài năng, phẩm chất của người lao động là những thực tế sinh động
nhất về sự sống được nhà văn đưa lên trang sách.
Viết về miếng ăn, về
cái đói, chuyện tắm, chuyện nghe nhạc hay viết về loài vật đi nữa thì điều mà
ta cảm nhận qua tập tản văn là một tình cảm chân thành đầy ưu tư. Nhưng trên
tất cả, dù những chuyện thật buồn, thật thê thảm về người, về cảnh ở một giai
đoạn lịch sử nào đấy, tản văn Mạc Ngôn vẫn mang hơi thở nồng ấm. Giữa cái chết,
cái đói, sự kì diệu của cuộc sống vẫn đâm hoa nảy mầm.
Văn Mạc Ngôn viết về
những gì gắn bó máu thịt với ông, đó là những con người đã thành tên, thành
tuổi, đó là ngôi nhà nơi ông ở, là con đường, là cánh đồng, là những cái ao
làng, … Tất cả, dù thời gian có thay đổi, vẫn là người đấy, cảnh đấy. Dường như
vẫn đang hiện hữu. Tất nhiên, ở cuốn tạp văn này, nhà văn cũng đồng thời đề cập
tới nhiều vấn đề quan thiết như ảnh hưởng cụ thể của cố hương tới tiểu thuyết,
bàn về Faulkner và Mishima Yukio – những nhà tiểu thuyết vĩ đại của thế giới
hay chuyện làm phim Cao lương đỏ, chuyện đọc sách, chuyện anh hùng, về người
đẹp, … Nhưng sâu sắc, ám ảnh người viết là các trang sách đã đề cập ở trên.
Tống Thị Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét