BÊN
KIA SÔNG
Truyện tình đẹp nhất của Thạch
Lam
Bên Kia Sông là một truyện
ngắn trong tuyển tập tập Nắng Trong Vườn. Có lẽ đây là đoản thiên
lãng mạn hay nhất của Thạch Lam, một trong những truyện tình hay nhất của Tự
Lực Văn Đoàn, y hệt như không khí lãng mạn trong truyện ngắn Mối Tình Đầu
(Premier Amour) của Ivan Tourgueniev, cũng có thể tác giả đã chịu ảnh hưởng của
Tourgueniev.
Truyện một cậu
học trò lớp ba, mới mười mấy tuổi yêu một thiếu nữ lớn hơn mình một cách ngây
thơ chân thật.
Truyện được diễn tả bằng
lời tự thuật chân thành của một cậu bé về khoảng thời gian ngắn ngủi mà cậu đã
sống ở huyện Văn Dương và tình cảm của cậu. Thạch Lam có biệt tài biến những
câu chuyện do bạn bè kể lại thành những đoản thiên kiệt tác, đa số những truyện
dưới dạng tự thuật đều do người khác kể lại cho ông.
Vùng bến Sen ở
bên kia sông ám ảnh trí tưởng tượng của cậu bé vì thường nghe người ta kể cho
nhau nghe những chuyện sảy ra bên ấy, nhiều khi cậu ra sau nhà trèo lên mô đất
cao để nhìn sang bến Sen. Từ sự tò mò cậu quen Tiên nhà ở bên ấy, nhân dịp ấy
băng qua cầu sang Sen để thoả mãn trí tò mò của mình, và rồi được nếm mùi tình
yêu quí báu.
Bên Kia
Sông, một mối tình tuyệt diệu, kỳ ảo y như truyện thần tiên! Nó ngây
thơ chân thực quí báu và hiếm có thay! Một câu chuyện giản dị, đơn sơ đã được
bút pháp thần sầu của Thạch Lam đưa lên thành một đoản thiên lãng mạn tuyệt
vời, độc đáo, quí báu và hiếm có như mối tình thanh cao ấy với một chung cục
đượm vẻ buồn mênh mang và hoang vắng như cảnh bên kia sông.(Trọng Đạt)
BÊN KIA
SÔNG
Huyện lỵ nơi quê tôi là một huyện miền hạ du,
cũng giống những huyện lỵ khác của nước ta, không có gì là đặc biệt. Huyện
không to lắm, nhưng rất sầm uất và đông đúc. Nhờ có con đường xe hỏa đi qua, và
một con sông nhỏ, nhánh của sông Nhị hà, nên sự buôn bán đâm ra thịnh vượng.
Phố huyện có một giẫy - bên này là đường xe hỏa, một giẫy nhà lá trát vách hay
tường gỗ, những cửa hàng nho nhỏ của người trong làng mở bán các thức lặt vặt.
Trừ hai cái nhà gạch hai tầng và khá rộng: hai hiệu của người khách đến lập
nghiệp ở đây không biết từ bao giờ, hai hiệu buôn to nắm hết cả quyền lợi buôn
bán ở trong huyện. Sau quầy hàng bằng gỗ, lúc nào cũng thấy một hai chú Khách
ngồi gảy bàn tính, và ông chủ hiệu, người béo tốt, hồng hào, đầu bóng như hòn
bi, ngồi bệ vệ trong ghế bành, luôn tay châm mồi lửa vào cái điếu thuốc lào.
Những người khách chú ấy, và cái cửa hàng đồ sộ của họ, là những người vật lần
đầu gây cho tôi hình ảnh của sự giàu có, bởi làm cho tôi đoán thấy một nước lạ
ở đâu đâu, nước kỳ dị mà họ ở đấy đến đây; thường ngày, có khi hàng giờ, tôi
dừng lại đứng ngắm họ, nhìn nhận các cử chỉ của họ, và nghe tiếng họ nói líu
lo, khiến tôi nghĩ đến một thế giới khác lạ lùng.
Hồi ấy, tôi mới mười ba tuổi. Thầy mẹ tôi ở Hà
Nội vì buôn bán thua lỗ nên mới dọn hàng về huyện này - chỗ quê của thầy tôi -
đã được hai năm. Chúng tôi ở một căn nhà nhỏ ba gian ngay giữa phố, mặt trước
nhìn ra đường xe hỏa, mặt sau trông ra cảnh đồng ruộng. Mẹ tôi dọn một cửa hàng
tạp hóa nhỏ để bán cho những người nhà quê quanh vùng đấy họ lên huyện những
ngày phiên. Vì chợ họp ngay ở giữa phố, những hàng quà bánh, hàng gạo, hàng cà,
quang gánh ngổn ngang và thúng mủng xếp hàng hai dẫy đối diện nhau. Dưới trời,
tiếng ồn ào của người họp chợ, một tiếng ồn ào đặc biệt, vang động và sang
sảng, từ đám đông ấy bốc lên như ngọn lửa, bao trùm lấy cả huyện; một đám đông
hoạt động, và vui vẻ, rực rỡ nhiều màu, đầy ánh sáng và tiếng cười, lẫn những
câu chửi rủa lanh lảnh như kim qua không khí.
Đó là tất cả nơi quê tôi, tất cả quang cảnh
cái huyện Văn Dương miền hạ du, mà một người trong họ tôi sính làm thơ đã vịnh
trong bốn câu tuyệt tác này:
Văn Dương xuân sắc cớ sao buồn,
Đủ mặt ta, tàu khắp bán buôn.
Dưới bến thuyền buôn chen chúc đậu.
Trên
đường xe hỏa lại qua luôn!
Tôi qua ở đấy tất cả cái tuổi niên thiếu của
tôi, sung sướng và nhảy nhót như một con chim giữa cuộc sống hoạt động kia bao
bọc lấy tôi, để hết cả mắt mà trông, cả tai mà nghe, cả mũi mà ngửi cái mùi
cát, mùi đất, lẫn mùi khói rác người ta đốt ở đầu làng buổi chiều, theo gió với
sương mà tràn vào trong phố.
Tất cả chợ huyện, những kẽ ngách hay bãi không,
đối với tôi đều quen thuộc, thân mật như một vật cũ trong nhà. Nhưng, bên kia
sông, ở về phía huyện nha, cách chợ độ nửa cây số, có một nơi đối với tôi như
một xứ bí mật, xa lạ. Nơi ấy, người trong phố vẫn gọi là bến Sen, và con sông
đi qua chỗ ấy được gọi tên là sông Sen. Bến Sen là một túm nhà độ hơn mười nóc,
lấp vào cây cối xanh um, ở hai bên vệ một con đường giải đá đi tăm tắp không
biết về đâu. Phía sau, là một cánh đồng hoang, đầy bãi tha ma và bụi dứa; bên
này, một con đê nhỏ và một rặng cây; bên kia, một cái quán cột đá, đứng cạnh
con đường nhỏ ngoằn ngoèo đi vào làng có cây đa tiên, một cây đa cổ không biết
mấy trăm năm, rễ thẳng xuống đất to mấy người ôm, khiến không ai có thể phân
biệt được đâu là gốc, đâu là rễ. Gần đấy, có một cái phần mộ xây đá bỏ hoang,
một vài tượng đá mốc rêu lẫn trong cỏ rậm, dưới hai gốc thông cao vút, chội lên
cả một vùng.
Một cái cầu gỗ lung lay sắp đổ, một cái cầu
nhà nước đã bỏ, bắc qua sông, nối liền bến Sen với chợ huyện bên này. Trong
những dịp rất hiếm mà tôi được sang bên ấy, không lần nào tôi đi qua chiếc cầu
đó mà không ghê sợ; các ván cầu cũ đã mọt rung động dưới bước đi, và qua khe
hở, tôi trông thấy dòng sông thăm thẳm chảy. Nhưng những dịp sang chơi bến Sen
rất ít, vì người ở bên này không hay giao thiệp với người bên ấy. Bến Sen ăn về
tỉnh khác, tỉnh Bắc; những bọn cướp nhiều lần vào cướp ở phố huyện rồi lùi sang
đó để trốn tránh sự tầm nã, lại càng làm cho vùng đó đối với dân huyện, đối với
tôi, thành một vùng hay nhộn và đáng sợ. Người trong phố thường thì thầm kể với
nhau những chuyện xảy ra bên ấy; và mỗi khi có người ở bến Sen sang, ai ai cũng
chăm chú nhìn như một người ở chốn xa lạ nào đến.
Có lần, một ông cụ già râu bạc đến chơi nhà
tôi, cùng thầy tôi uống rượu và ngâm thơ phú. Khi biết ông ta ở bên Sen, tôi
nhìn ông ta khâm phục lắm, mẹ tôi lại bảo ông ta là một ông đồ rất hay chữ, ở
cái làng ven sông phía bên kia, một làng nổi tiếng vì ngày xưa, đã có một thời
mười tám ông tiến sĩ. Khi ông cụ ra về, tôi đưa ra đến đầu cầu, tôi dừng lại
nhìn ông giương ô đi qua cánh đồng, đến khi ông nhỏ lấp ở chân trời.
Vùng bên Sen cứ luôn luôn ám ảnh trí tưởng
tượng non nớt của tôi. Nhiều lần, tôi lẻn ra đằng sau nhà, đứng lên một mô đất
nhìn sang bên kia sông, nhìn khu nhà nấp bên cây cối, cái quán trơ vơ và rặng cây
trên bờ đê, bên con đường đi không biết về đâu, về những chốn xa xăm nào tận
bên kia giải đồi núi lờ mờ xanh ở chân trời; với tôi, sinh trưởng ở chốn đồng
bằng bùn lầy nước đọng, đồi núi quyến rũ như một tiếng gọi lạ lùng. Trong giải
núi ấy, có một quả đồi mà những buổi chiều nắng trong, tôi thấy nổi đỏ lên trời
xanh. Trên đỉnh đồi, người ta thấy rõ một chùm cây, mẹ tôi bảo đó là chùa Thiên
Thai. Thiên Thai! cái tên huyền ảo thần tiên ấy khiến tôi nghĩ đến những chốn
bồng lai xinh đẹp, chốn vui chơi của những tiên ông mà thầy tôi vẫn đọc đến tên
trong các truyện và kể cho tôi nghe. Rồi tôi thơ thẩn cho đến buổi chiều, đến
lúc mặt trời thấp xuống, để được trông cả vùng bên kia sông chói lòa, rực rỡ
tia ánh nắng; rồi tối hơn nữa, lúc chỉ còn ráng chiều chiếu các nền mây, được
trông dẫy nhà mờ đi và thấp xuống, lẫn vào mặt đất, và hai gốc thông cao lên,
nổi đen trên da trời.
*
Dần dần, tôi được có nhiều dịp sang chơi bên
Sen. Sự đó là nhờ ở anh Tiến, bạn tôi. Tôi đang học ở lớp ba trong trường, gần
hết năm, thì Tiến xin vào học. Tôi yêu mến anh ta ngay; Tiến là một đứa trẻ
mảnh dẻ và xinh xắn, mắt to và da trắng, tóc mềm như sợi tơ. Tôi yêu Tiến như
yêu một cô con gái, Tiến thùy mị, hiền lành và hết lòng với bạn. Nhưng ngoài
những nết tốt ấy, Tiến khiến tôi gần gụi và quyến rũ tôi là vì anh ở bên kia
sông. Một cái đó đã khiến cho anh ta đối với tôi trở nên một đứa trẻ kỳ dị khác
thường. Tôi kết bạn với Tiến rất là thân thiết, và chiều nào tan học, tôi cũng
tiễn anh ta đến tận đầu cầu rồi mới trở về.
Một hôm chủ nhật, Tiến rủ tôi sang chơi nhà.
Tôi sung sướng như một người sắp được đi phiêu lưu mạo hiểm, vì lần ấy là lần
đầu tôi được sang bên kia sông. Tôi với Tiến cùng đi qua cầu; chúng tôi dừng
lại tựa vào thành cầu nhìn xuống sông; mấy con thuyền của các người buôn bán
chen nhau đậu bên bờ, trên có mấy đứa trẻ chơi đùa và con chó nằm cuộn tròn
trên mui thuyền ngủ. Đó chính là những chiếc thuyền từ tỉnh Bắc về, chở những
thứ hàng lạ. Tiến giơ tay chỉ vào đám thuyền bảo tôi:
- Ngày trên Bắc về đây, chúng tôi cũng đi một
chiếc thuyền như thế này.
Tôi nhìn Tiến muốn hỏi anh ta về tỉnh Bắc xa
xôi ấy, nhưng lại thôi. Tiến đã giắt tay tôi qua cầu đi đến phố Sen. Nhà Tiến ở
cuối phố, sát ngay cánh đồng. Tôi thấy một cửa hàng tạp hóa cũng giống như cửa
hàng của mẹ tôi, nhưng nhỏ hơn. Trên tấm phản, sau mấy ngăn hàng, một bà cụ già
tóc bạc phơ, vẻ mặt nhân từ, đang ngồi tính tiền. Thấy tôi và Tiến bước vào, bà
cụ tươi nét mặt hỏi:
- Cháu đi đâu về thế?
Tiến vừa lấy vạt áo lau mồ hôi, vừa đáp:
- Thưa bà, con sang chợ
chơi ạ.
Bà cụ nhìn vào tôi, đứng
nấp sau lưng Tiến, bảo:
- Cháu về mà uống nước.
Cả cậu nữa, cậu vào chơi. Trời nắng thế này mà đi có nhọc không?
Tiếng bà cụ êm dịu và
ngọt ngào, khiến tôi thấy dễ chịu và vui vẻ.
Tiến mời tôi vào trong
nhà, bầy biện rất sơ sài, những đồ đạc rẻ tiền và cũ kỹ. Chúng tôi vừa ngồi thì
bỗng trong nhà bước ra một người con gái độ mười bẩy mười tám tuổi. Tôi biết
ngay là chị Tiến, vì giống Tiến như hệt, cũng nước da trắng, hai mắt to. Trông
thấy em, chị Thúy nở một nụ cười trên đôi môi thắm, một nụ cười tươi và duyên
sắc như trong đời tôi chưa từng thấy bao giờ.
- Em đã về đấy à?
Tiếng nói cũng êm dịu như
tiếng bà cụ, nhưng trong hơn. Thúy lại gần chúng tôi, săn sóc hỏi em. Tôi ngây
người trước cái sắc đẹp của nàng, trong lòng tự nhiên cảm động; tuy còn trẻ
nhưng tôi cũng biết là tôi đương đứng bên một sự gì quý báu và hiếm có, một sự
gì mong manh rồi sẽ không còn nữa.
Khi Thúy để tay lên vai
tôi, tôi thấy rung động cả người, tôi cảm thấy tôi bắt đầu yêu nàng.
- Em cùng học một lớp với
Tiến à?
- Vâng ạ.
Thúy vuốt sẽ qua tóc tôi,
bảo:
- Em ngoan ngoãn quá.
Nàng tiếp:
- Ở đây chơi với em Tiến
rồi ăn bánh nhé. Tiến, chị có để phần bánh trên bàn kia kìa.
Thúy không ăn, chỉ ngồi
nhìn chúng tôi; tôi thấy nàng nhìn Tiến rất thương yêu khiến tôi ghen với bạn
đã có người chị xinh đẹp và ân cần như thế. Nhưng nàng cũng hỏi chuyện tôi
luôn, tôi trả lời hoạt bát và vui vẻ, không phải cốt nói, nhưng cốt được nghe
cái tiếng trong trẻo và êm ái của nàng.
Ăn xong, Tiến rủ tôi ra
chơi ngoài bãi tha ma đằng sau nhà. Lần đầu, tôi được đứng giữa cái vùng bí
mật, được nhìn gần hai gốc thông với mấy tượng đá giấu trong cỏ. Tiếng thông
reo rì rào như một tiếng đàn xa lạ, trầm như ở một cõi khác nào đưa lại, và cái
quán cột đá lộng gió giữa cánh đồng hình như đang đợi chờ những người ở thời
nào, lâu lắm, đến nghỉ chân.
Từ hôm ấy, thường thường
tôi vẫn sang bên Sen luôn. Tôi muốn gần gụi cây cỏ bên vùng ấy, đối với tôi vẫn
có một vẻ riêng khác hẳn cây cối bên này. Tôi muốn được luôn luôn trông thấy
Thúy, được nghe tiếng nói của nàng, được nhìn cái miệng xinh tươi của nàng hé
trên hàm răng đen nhánh. Cả bà cụ cũng khiến tôi yêu mến. Tôi không biết rõ gì
về gia đình của Tiến, nhưng trên mặt các người trong nhà ấy, lúc nào tôi cũng
thấy phảng phất một vẻ trầm mặc, một nét thoáng buồn, càng khiến họ đáng yêu.
Tôi đoán trước khi đến buôn bán ở đây, họ đã có một cuộc đời lạ lùng và phong
phú, mà vết tích còn lại là những đồ vật kỳ dị, như thanh gươm, cái khánh đồng,
con rùa ngọc, để trong một cái tủ kính mà gỗ đã long sơn. Với lại họ khác những
người vui vẻ, thô sơ bên này thế; chị Thúy và Tiến đều có nước da trắng xanh,
chân tay nhỏ nhắn, những dáng điệu thanh nhã, tiếng nói nhẹ, không như các
người hồng hào vì cục mịch ở trước nhà tôi. Hồi ấy, tôi cho là vì họ ở cái vùng
bí mật ấy, hay là vì họ là những người khác thường nên mới dám đến ở đó.
Tôi chơi với Tiến càng
ngày càng thân mật; tôi được coi như một người con của gia đình ấy. Chị Thúy
coi tôi như em, cũng săn sóc và âu yếm tôi như Tiến. Nhiều khi chị để tôi ngả
đầu xuống bên lòng, xoa tóc tôi, hỏi những câu chuyện ân cần. Đến bây giờ trải
qua bao nhiêu lâu, tôi vẫn còn nhớ, lúc nhìn lên, đôi mắt trong và cái miệng
xinh thắm của nàng cúi xuống tôi, bàn tay nhỏ nhắn của nàng đặt trên trán tôi
nóng vì chạy nhảy ngoài cánh đồng. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh người con gái yểu
điệu và tươi đẹp ấy, nổi lên trong thời niên thiếu của tôi như một nàng tiên
hiền hậu, giữa một vùng cây cỏ lạ.
Nhưng không bao lâu, tôi
phải từ giã người bạn nhỏ của tôi; thầy mẹ tôi dọn nhà lên Hà Nội, tôi cũng
phải đi theo. Buổi cuối cùng của tôi với Tiến bên sông Sen vào một ngày mùa
đông u ám và rét lạnh. Chúng tôi cùng nhau đi thăm một lần cuối cùng mấy ông
tượng đá vẫn ngồi yên trong cỏ; giờ xa nhau gần đến, có lẽ không bao giờ còn
gặp nhau nữa, song chúng tôi còn trẻ quá không biết buồn. Đến lúc Thúy đặt tay
lên vai tôi, êm ái bảo:
- Bao giờ chị mới lại
được gặp em?
Tôi bỗng thổn thức cả
người, nước mắt tràn ra khóe mắt, tôi gục đầu vào vai Thúy khóc.
*
Câu chuyện phải có lúc hết. Mười năm sau tôi
mới lại có dịp trở về Văn Dương. Quang cảnh khác xưa, phố chợ bây giờ sầm uất
hơn, nhà ngói san sát. Những người cũ ngồi bán hàng đều già, râu tóc bạc, và
những trẻ cùng học với tôi trước kia bây giờ đã ngồi thay vào đấy, thành những
người lớn trông lạ hẳn đi.
Tôi sang bên kia sông; cái cầu sắt không còn
nữa: một đêm gió to, cầu bị sập và người ta cũng không sửa chữa vì con đường
sang Bắc ít người qua lại. Bây giờ qua sông phải dùng đò. Tôi qua đò lúc buổi
chiều, lúc sương đã bắt đầu xuống lẫn với khói trong mấy chiếc thuyền chài đậu
ở bến đưa ra. Một cảnh hoang tàn đợi tôi: bên kia sông, giờ chỉ còn là miếng
đất bỏ hoang, cỏ mọc trên những thềm nền nhà cũ. Một cái quán nước siêu vẹo
trống không bên một gốc đa cằn. Cả một dẫy phố đã mất đi, những cây cối lơ thơ
và xơ xác dưới gió chiều: chỉ giặng cây bên đê vẫn còn, vẫn như cũ, bên con
đường xa thẳm không biết về đâu, con đường sắp đầy ánh tối mênh mông, tận chân
trời không có một bóng người nào.
Tôi không dám đi xa nữa; buồn rầu, tôi trở lại
đò, qua dòng sông đã xám dưới sương mù. Tôi không hỏi người lái đò xem những
người trước ở đây bây giờ đâu, tôi chắc anh ta cũng không biết. Thấy chân cầu
gạch đen rêu phủ, tôi nhớ lại người bạn nhỏ của tôi, nhớ đến Thúy, dáng điệu
thùy mị đáng yêu của nàng, cái vẻ buồn lúc nào cũng phảng phất trên mặt nàng,
bây giờ tôi đoán biết đã che kín bao nhiêu sự đổi thay đau đớn. Đôi mắt nàng
như vừng trời trong thẳm tôi đã được soi thấy cái dư vị của cuộc đời.
Lên bờ, tôi còn quay lại lần cuối nữa, nhìn
rặng cây, cái quán, với làng mạc xa xa dưới chân giải núi tận đâu kia; vùng bên
kia sông đối với tôi không còn bí mật nữa, chỉ còn cho tôi trông thấy cái buồn
thảm của đất nghèo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét