Nhà văn Xuân Sách |
CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN ?
(Kỳ 1)
Tác giả: Nhật Tuấn
Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới
xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được
sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, tướng
Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng
Lại Giang lúc đó là Trưởng Chi nhánh NXB Văn Học tại TP HCM được nghe
cuốn băng này và đề nghị Xuân Sách cho xuất bản với tên “CHÂN DUNG NHÀ
VĂN”.
Mặc dầu NXB Văn học đã phải rào trước đón sau
trong lời nói đầu :
“Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào
của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa,
hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co
của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người
cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân
gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.
Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất
cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung. Dù sao đây cũng là 100
bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong
làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc
và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất
mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn,
và lượng thứ cho những khiếm khuyết”.
Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành,
nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết: “Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là
điều tôi không ngờ đến.Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im
lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa
kiểm điểm và thu hồi.”
Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.
Trước hết, hãy nghe nhà thơ Xuân Sách tâm sự
về cái “cảm hứng chủ đạo” khi viết tập thơ “Lên chùa” sau đổi thành “Chân dung
nhà văn”:
“Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái
xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị
biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp
trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai
thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông
thường... Tóm lại đó là thế gìới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học
và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi.”
Nhưng rồi khi tiếp cận với họ, ông cảm thấy “vỡ
mộng”:
“Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn
nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã
hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia
tôi mơ ước.
Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi
hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt
đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên
các tác phẩm và tính cách nhà văn… Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những
tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi
cứ băn khoăn tự hỏi: ''Sao
thế nhỉ, với bề dầy tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong
lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một
chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu
mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi” . Vì vậy chân dung
của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó,
thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên.”
Và thế là Xuân Sách đặt bút viết tập thơ “Lên
chùa” àm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó. Nhà thơ Xuân Sách kể lại:
“Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều
tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các
tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn''; ''Xóm mới''; ''Cỏ non'' và tên
cái truyện đầu tay được nhắc đến: ''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy:
“Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
Ngó trông về xóm mới khuất
xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại
giở thư nhà ra xem.
Tôi đưa bài thơ cho
Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ
không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người
khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới
đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi
run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh:
- Thằng này (chỉ tôi) ghê
quá, không phải trò đùa nữa rồi !
Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng
đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông
thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn
có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết
nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại
giở thư nhà ra xem''!
Bài thơ về Hồ Phương đã
trở thành bài đầu tiên mở đường cho vệt thơ “Lên Chùa” trong suốt 30 năm của
Xuân Sách.
Mùa xuân năm Nhâm Thân
(1992) ,vào dịp lần đầu tiên xuất bản tập thơ ông phát biểu:
“Nói về đồng nghiệp cũng
là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ
thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm” đâu chỉ là số phận
của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là
lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống,
không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật
đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước
quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có
nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng
những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời
cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau ! Những bài thơ
chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó
được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài ‘’ngoài
luồng’’ cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính
chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được,
nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.”
Và chính với “cảm hứng
chủ đạo” có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách gọi là viết
“chân dung” mà thực ra ông đã vạch trần “chân tướng “ nhà văn vậy.
Ông tên thật là Ngô Xuân
Sách, sinh ngày 4-7-1932 tại Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hoá. Năm
1960, ông bắt đầu công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Từ năm 1981 đến năm
1986, ông làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Năm 1987, ông chuyển vào làm
Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997. Đầu năm 2008, nhà thơ
Xuân Sách chuyển ra Hà Nội sống với con gái để có điều kiện chữa bệnh suy gan
và suy thận. Thế nhưng, do tuổi cao sức yếu, sau mấy ngày nằm ở bệnh viện,
khuya ngày 2-6 nhà thơ Xuân Sách đã lặng lẽ từ biệt cõi đời.
Đọc Xuân Sách trước tiên
ta cảm phục lòng dũng cảm của ông. Văn học Việt Nam vào những năm “trời đất nổi
cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970, xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao
cấp, văn hoá văn nghệ bị “quản lý” đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch
trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tuỵ hiến
dâng tài năng và tâm huyết cho… Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa”.
Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu,
chủ soái của văn hoá nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ, vẫn xỏ xiên:
“Ta đi tới đỉnh cao muôn
trượng
Mắt trông về tám hướng
phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ
trụ
Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng
hát
Trông về Việt Bắc tít
mù mây
Nhà càng lộng gió thơ
càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở
đây…”
Với nhà thơ Chế Lan Viên,
thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, Xuân Sách thẳng tay ra
đòn:
“ Điêu tàn ư
? Chả phải điêu tàn đâu
Anh đã tính “Vàng Sao”
từ độ ấy
Chim báo bão gió chiều nào che
chiều nấy
Lựa ánh sáng trên
đầu mà đổi sắc phù sa
Trước 1945, nhà phê bình
Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật
vị nhân sinh?”, từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên”,
bởi thế Xuân Sách hạ bút:
“Vị nghệ thuật nửa đời
người
Nửa đời sau lại vị người
cấp trên
Thi nhân còn một chút
duyên
Lại vò cho nát lại lèn
cho đau
Bình thơ tới thủa bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu
nhân tình
Tàn canh tỉnh rượu bóng
mình cũng tan”
Nhà văn Nguyễn
Tuân trước cách mạng nổi đình đám với "Vang bóng một thời”, nhưng
từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc, xù xì để trở thành một nhà văn chỉ
“ngợi ca chế độ”:
“Vang bóng một thời đâu
dễ quên
Sông Đà cũng muốn
đẩy thuyền lên
Chén rượu tình
rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại chút lệ ưu
phiền”
Nhà thơ Lưu Trọng Lư, “con
nai vàng “ đã thành “vờ ngơ ngác” để leo lên tới
chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ:
“Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa Xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương…”
Nhà thơ Huy Cận ngày xưa với “Lửa
thiêng", từ sau khi đi theo cách mạng, thơ ông cũng “nói dối”:
“Các vị La hán chùa Tây Phương
Các vị gầy quá còn tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến trường như trảy hội
Đừng nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu ?”
Nhà thơ Xuân Diệu ngày xưa có "Thơ
thơ", nay thì:
"Hai đợt sóng dâng, Một khối hồng
Không làm trôi được chút Phấn thông
Chao ơi Ngói mới, nhà
không mới
Riêng còn chẳng có, có
gì Chung”
Nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm quan cách mạng
nhưng vẫn viết “con nai đen” ngụ ý xỏ xiên:
“Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng
chờ…”
Nhà văn Tô Hoài chỉ được “con dế mèn” từ thời
trước cách mạng, sau đó “tàn phai” trong những tác phẩm viết phục vụ cách mạng:
“Dế mèn lưu lạc mười năm
Để o chuột phải ôm cầm thuyền
ai
Miền Tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang”
Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với Bỉ
vỏ , đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết “đồ sộ’ về số trang
nhưng chẳng mấy giá trị:
“Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng Gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đã đến dộng rừng Yên Thế
Con hổ già uống rươụ giả vờ say…”
Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với Kép
Tư Bền từ sau cách mạng thì… hết lộc trời, còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng:
“Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm
thôi
Bới trong đống rác nên trời
phạt
Trời phạt chưa xong bác đã cười…”
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng
làm thơ bí hiểm với câu thơ “nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than
ôi từ ngày đi theo cách mạng, ông “làm công tác Hội” nhiều
hơn làm thơ:
“Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà…”
Nhà văn Ngô Tất Tố sau cách mạng thời gian cầm
bút ngắn ngủi cũng chưa làm nên dấu mốc nào sau “Tắt đèn”:
“tại ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn…”
Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây
đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một
khổ thơ ngắn, bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân
thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc nào của mấy anh phê bình văn học “ăn theo
nói leo”.(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét