THIÊN SỨ
CHƯƠNG 3 - BÉ HON
Thực ra, tôi không phải đứa con út. Tôi buộc lòng thay thế bé Hon. Nó không có tuổi, khó lòng hình dung nó già hơn hay trẻ hơn. Nó đến, rồi đi, như một thiên sứ pha lê ghé trần gian nhân cuộc dạo chơi miên viễn.
Bé Hon ra đời, khi mẹ tôi tưởng không còn sinh nở được nữa. Một
bữa, không hiểu sao cả dây quần áo nhà phơi bị bỏ quên qua đêm ngoài trời. Kì
lạ, chỉ riêng bộ đồ lót của mẹ đẫm sương và loang lổ vết từa tựa như chàm. Mẹ
ca cẩm, rồi tặc lưỡi: “Không mất là may! Thôi thì đồ lót, ai thấy mà sợ!” (Quan
điểm phổ biến của con người với những gì khuất mắt. Khủng hoảng thế hệ, chị
Hằng mắc bệnh sùng bái đồ lót, chị kén chọn chúng như thể kén chọn tri âm. Hỏi,
không có năm 1975 trọng đại và cuộc xâm lấn ồn ĩ của thế giới tiêu dùng slip
corset tinh xảo, TV cassette tinh xảo, cigarette whisky tinh xảo túa ra từ nửa
nam đất nước, liệu những vùng cơ thể thầm kín của chị tôi có chịu cảnh cô đơn?)
Không lâu sau, mẹ mang thai. Bố mẹ phân vân, 4 anh chị em tôi đã
quá đủ để chất gánh nặng lo toan lần hồi từng bữa, rồi tặc lưỡi: “Thôi thì trời
sinh voi, trời sinh cỏ. Của trời cho, mất gì chẳng nhận!”
Con bé lọt lòng, không chịu cất tiếng khóc, mà mỉm cười làm thân
với đủ 13 nữ hộ sinh đứng quanh bàn đẻ. Thế là cả 13, lúc đầu ngơ ngác, sau bật
khóc như một đồng ca. Mẹ tôi, hoảng hốt cực độ, bắt giọng lĩnh xướng. Họ im bặt
khi bố xuất hiện, và con bé lại mỉm cười với bố, khiến ông ngã phịch xuống một
chiếc ghế. Đó không phải là nụ cười hài nhi. Bé Hon chưa bao giờ là một hài
nhi. Nụ cười ấy tàng ẩn trong thời gian, chu du hành trình bất tận của nó, và
đôi khi cũng hiện ra nguyên vẹn dưới mắt người trần.
Nó ăn ít, ngủ ít, chỉ cười. Nó không chịu hé mở bí mật về tuổi
tác mình cho bất kì ai, ngay từ đầu. Nó không mang nét nào của người trong gia
đình: tóc óng mượt, mắt lóng lanh như mắt thiếu nữ, cặp má lúc nào cũng 3 tuổi,
cái miệng lúc nào cũng mỉm cười thân thiện và bí ẩn với muôn vật, nước da trong
suốt, trắng xanh, sứ giả pha lê dịu dàng mỏng mảnh. Mẹ bảo, trần đời, chưa có
đứa trẻ nào dễ nuôi vậy.
Nó nằm trong chiếc nôi bé xíu, lặng lẽ ngủ, cứ tỉnh dậy là ban
phát hào phóng nụ cười mê hồn cho muôn vật. Nụ cười bảo chúng tôi đi lại nhón
gót, nói năng khẽ khàng và nhìn nhau nương nhẹ. Đó là những ngày thần tiên. Mọi
sinh hoạt gia đình, bữa cơm thanh đạm thường lệ, buổi tối xum vầy, giấc ngủ
êm... bỗng thành những nghi lễ giản dị và trang trọng. Kẻ khóc thuê trên mái
thôi nỉ non bài ca mặn đắng. Những chiếc chân ghế long không còn kêu ken két ai
oán nữa. Như có chiếc đũa thần bắt nhịp điệu sống êm ả lạ thường. Những con
người tưởng đã gán thanh quản bẩm sinh là gầm ghè cáu bẳn, tưởng đã thả nổi
gương mặt nhân chi sơ của mình cho những nếp hằn lo âu khắc nghiệt, bỗng hóa
thân trở lại thuở ban đầu. Thế giới vụt sáng trong và hiền lành, mang bộ mặt
hài đồng ngủ trong nôi. Hạnh phúc giản dị và bất ngờ quá, khiến tôi ngộp thở.
Kẻ ngỗ ngược nhất nhà, anh cả tôi, bỗng thành mềm yếu. Sáng
sáng, anh dậy trước, rón rén tới cạnh bên chiếc giường nôi, có khi cả tiếng
đồng hồ, chờ nhận nụ cười đầu tiên bé Hon tặng cho ngày sắp đến, rồi nhẹ nhàng
mở cửa, xách nước giặt quần áo cả nhà, sau đó mới đánh thức mọi người. Thời kỳ
đó, anh vừa đào ngũ, đạp xích lô chui lủi ở Hà Nội và không nuôi nhiều hy vọng
ở cuộc đời. Mẹ ngạc nhiên: “Thằng Hạc giở chứng đấy à?”. Bố: “Ôi dào, được dăm
bữa nửa tháng!” Anh tôi cười hiền lành, một homo-A đích thực.
Nhưng những dấu hiệu báo động đầu tiên đã xuất hiện. Đôi khi bố
đi làm về, mệt mỏi bởi những nỗi phiền muộn bất tận lúc nhân sự, lúc tiền lương
ở cơ quan, ngồi phịch xuống giường, vơ lấy chiếc điếu cày, và vừa đưa điếu lên
ngang chừng, bỗng dập đóm, quăng điếu, rủa: “Cười cái gì mà cười! Có cái gì mà
cười! Ai cười với mày!” Cỗ máy tâm lý của con người quả là bí ẩn, nó chỉ cần
vừa đủ dầu mỡ dể tránh rệu rạo, quá tay một chút nó tuột xích, và mọi chuyện
đều hỏng. Cỗ máy của bố đơn điệu, hình như càng đơn điệu càng khó lường. Bé Hon
làm sao lường nổi. Nó không thể phanh nụ cười pha lê ấy, như loài ve sầu không
thể phanh giọng hát – chức năng tồn tại của mình. Cuộc đụng độ giữa những cỗ
máy và thiên sứ pha lê. Những cái nhón gót, khẽ khàng, gượng nhẹ quả là thứ xa
xỉ phẩm gia đình tôi không kham nổi.
Huống hồ những cái hôn.
Tập nói, bé Hon chỉ biết một câu duy nhất: “Thơm nào!” Nó đã
thôi nằm trong chiếc giường nôi. Nó lẫm chẫm khắp nhà, vòng cành tay mảnh mai
như 2 bông lau ôm cổ bất kỳ người nào, chìa đôi môi bé xíu hồng hồng, thỏ thẻ:
“Thơm nào!” và hào phóng ban phát những cái hôn trẻ thơ thơm ngậy mùi sữa. Gia
đình tôi quay cuồng trong dòng thác hôn bất tận của nó. Mặt chúng tôi lúc nào
cũng ướt đẫm mùi sữa. Nó không cần biết ai đang làm gì, đang ghĩ gì, đang bận
bịu với bất kể chuyện gì, nhu cầu “thơm nào” của nó buộc thế giới phải dừng tay
đáp, dẫu chiến tranh đang rơi xuống đầu cũng vậy.
Nhưng loài người còn nhiều việc cần kíp hơn những cái hôn. Thỉnh
thoảng, mẹ gắt lên: “Ra chỗ khác, thơm với tho gì, không kịp mở mắt đây này!:
Bố: “Thôi, thôi, đủ rồi, ướt nhoèn cả mặt người ta!” Con bé không vội nản, lại
lẫm chẫm vòng quanh nhà, tìm kiếm những cặp môi sẵn sàng đón nhận nguồn yêu
không bao giờ cạn của nó. Nhiều lúc, chẳng còn ai, nó ngọt ngào rủ “Thơm nào”
với con mèo khoang, và con mèo không bao giờ từ chối.
Tôi cũng không bao giờ từ chối. Tôi sẵn lòng ôm cả phần yêu chưa
kịp phân phát của bé Hon. Nhưng con bé, như tất cả những kẻ hào phóng, ý thức
sâu sắc về lẽ công bằng, và kiên tâm vòng quanh thế giới 400 ô vuông nâu, đến
với những ai chưa nhận đủ môi hôn ở đời.
Giá tất cả những ai chưa nhận đủ môi hôn ở đời đều kêu to tín
hiệu SOS.
Hôm anh cả tôi nhận giấy triệu nhập ngũ trở lại, bé Hon cũng sà
đến, đòi “thơm nào.” Lúc đầu, anh không để ý, mắt cứ nhìn như chọc thủng trần
nhà, móng tay đánh lách cách, sau, anh gạt phắt nó sang bên, lầu bầu: “Cút!”.
Thì chính anh đã từng thức canh bên chiếc giường nôi, chờ nhận nụ cười mê hồn
đầu tiên trong ngày của bé. Lại một cỗ máy rò rỉ. Không phải do tuột xích?
Hôm sau, bé Hon không dậy nữa. Cả nhà bận bịu với buổi liên hoan
tiễn đưa anh tôi lên đường, chẳng ai để mắt đến nó. Tôi ôm con mèo khoang ngé
xuống chiếc giường nôi bé xíu, thấy bé Hon khép mắt, miệng vẫn mỉm cười làm
thân với muôn vật. Sau này, mẹ bảo: “Tôi ngó vào, tưởng nó ngủ. Ngủ mà vẫn cười
cơ chứ!”
Nhưng bé Hon không bao giờ dậy nữa, sứ giả pha lê yếu ớt, lạc
vào thế giới này ban phát nụ cười và môi hôn. Nó không cần ai vuốt mắt, tự nó,
đủ cho nó, cho cả muôn vật xung quanh. Nó đi, mang theo bí mật về sự có mặt lạ
lùng của nó ở gia đình tôi. Bố kết luận: “Thôi thì của thiên trả địa.”
Đó là một ngày mùa đông giá buốt. Tới phút chót, cập môi đòi vô
tận những cái hôn của bé vẫn chói rực như 2 mảnh than hồng rơi lạc giữ trần
gian u xám lạnh lùng. Tôi trốn dưới gầm giường, con mèo khoang cũng thế, khi
người ta đưa bé Hon đi. Tôi không khóc, nhân danh nụ cười và những cái hôn thơm
ngậy mùi sữa. Không phải mất mát, mà là lời cảnh tỉnh. Sứ giả của tình yêu đã
đến, đã kiên nhẫn và đã bỏ đi, con chim trốn tuyết. Chỉ còn biết hy vọng một
ngày mùa ấm đón chim về.
Mẹ cấm khẩu mất một tuần. Khi giọng trở lại, mẹ chỉ còn nhớ
những lời nguyền rủa. Mấy ngày sau, con mèo khoang từng ở nhà tôi 8 năm trời
cũng bỏ đi, nó vốn là mèo hoang lạc tới. Anh Hạc đóng gần biên giới phía bắc 3
năm, xuất ngũ kịp ngày bốc mộ bé Hon. Lúc mở ra, quan tài trống không, thơm tho
sạch sẽ, đọng duy nhất nụ cười làm thân với muôn vật của thiên sứ pha lê bị
trục xuất. Người ta hỏa thiêu chiếc áo gỗ tinh khiết ấy, hỏa thiêu luôn nụ cười
của bé, người ta hoàn thành bổn phận của kẻ ở lại.
Tôi buộc lòng thành đứa con út. Trời không sinh ra tôi, đất cũng
chẳng nhận tôi về. Chỉ có bé Hon hưởng hành trình ấy. Hành trình khép kín.
Chương 2 - Mưa
Chương 4 - Chủ nhật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét