CÁC VĨ NHÂN TÌNH LẺ
Phần 2
Dương Thu Hương
Ba chúng tôi đã qua tuần lễ
đầu tiên, mài miệt với những chuyến du lịch ngắn. Các trái núi, các ngôi chùa,
các bến sông quanh tỉnh lỵ, Vũ Sơn đã đưa Thanh Dương và tôi thăm thú hết. Sang
tuần thứ hai, anh tuyên bố đưa chúng tôi tới nhà những người hâm mộ anh. Đám
này khá đông, đủ loại. Từ các chú học trò cấp ba yêu thích văn chương mơ tưởng
một chân phóng viên báo trong tương lai đến các khổ chủ muốn nhờ cậy Vũ Sơn
giúp con cái họ vào một trường đại học, một cơ quan trung ương kiếm một tấm giấy
phép làm nhà hoặc tìm một vị thẩm phán có đủ năng lực trong vụ kiện chia đồ
hương hỏa… Về tất cả những lãnh vực ấy, ở đâu Vũ Sơn cũng có những người quen
thuộc, thân tín, biết nắm giữ một cách thông thạo những nhu yếu tinh thần và vật
chất của đời sống. Vả chăng, ở tất cả mọi môi trường xã hội, Vũ Sơn đều hiểu biết,
tuy không mấy chính xác, nhưng các kiến thức của anh đủ cho những con người
quen sống biệt lập trong góc đời cỏn con của mình phải kinh ngạc. Sự thiếu hụt
trong bề rộng và chiều sâu của kiến thức được bù đắp bởi lòng tự tin bẩm sinh của
anh. Và lòng tự tin ấy đôi khi được thánh hóa lên nhờ đức khiêm nhường quen thuộc
của cư dân tỉnh lỵ.
Chiều hôm trước anh đưa
chúng tôi tới nhà một ông hiệu trưởng cấp hai vừa được bổ nhiệm nhờ sự phát hiện
và biểu dương của anh trước Ty giáo dục tỉnh. Con trai ông bắt được một con ba
ba lớn trong đầm Những, nơi chàng trai làm việc. Cậu hì hụi đạp ba mươi cây số
về nhà biếu bố. Ông hiệu trưởng lại đạp xe năm cây số nữa để mời một người bạn
cố tri có biệt tài nấy ba ba tới nấu bữa cỗ đãi chúng tôi. Ông già này là cán bộ
ngân hàng tỉnh đã về hưu, một người tính tình nhẹ nhõm, thích giao tiếp. Ông
tên là Hưu, nhỏ bé, lẹm cằm. Ông mời chúng tôi tới nhà ông thăm thú cảnh điền
viên và ăn cơm thanh đạm vào trưa hôm sau. Vũ Sơn thay mặt chúng tôi nhận lời,
anh nói với ông bằng một giọng nửa đùa nửa thật:
- Quý bác lắm mới đi đường đột
thế này đấy nhé. Còn bao nhiêu nơi chờ đợi…
- Vâng, quý hóa quá…
Ông già đáp: Đã mấy khi các
anh về tới tỉnh nhà…
Hôm sau Thanh Dương đến rủ
tôi trước. Rồi sau đó, hai chúng tôi tới nhà Vũ Sơn. Anh còn đang cuộn tròn
trong chăn, đôi mắt đỏ kè ngáy ngủ:
- Mấy giờ rồi?
Thanh Dương đáp:
- Bảy rưỡi. Dậy được rồi nhà
báo trứ danh ạ.
Vũ Sơn ngáp một tràng vài ba
cái rồi mới bò trong đống chăn như chiếc kén tằm chui ra:
- Đêm qua tôi đọc lại Đốt,
ba giờ sáng mới tắt đèn đi ngủ.
Chúng tôi chờ anh làm vệ
sinh buổi sáng và thay quần áo rồi đạp xe theo tỉnh lộ, ngược lên phía bắc thị
xã. Nhà ông già Hưu ngay ven đường, một ngôi nhà nửa cổ nửa kim nhưng thuận mắt.
Mảnh sân vuông đặt hai dãy chậu cây cảnh, từ cây trắc bá tới cây trúc kim, từ
lan hoàng diệp tới cúc gấm và hồng Đà Lạt. Có lẽ, bộ sưu tập này là tất cả niềm
say mê và kiêu hãnh của chủ nhân. Tôi đã từng tới nhiều nhà nuôi trồng cây cảnh,
nhưng chưa ở đâu gặp sự chăm chút tới mức phi lý như ở đây. Những chiếc chậu cổ
men xanh được lau bóng như chén uống trà Tàu trong các gia đình quý phái. Những
viên sỏi rải trên gốc trúc kim hoặc tùng cảnh sạch như mỗi sớm chúng được lượm
lên và lau rửa bằng bọt xà phòng. Ngay cả tới những chậu cây lớn đổ bằng đá li-
tô hồng hoặc nâu cũng lấp lánh như mặt kính. Chẳng chậu cây nào có một mảy lá
úa hoặc viên đất dính. Từ búp lá nõn đầu cành cho tới những chiếc lá già cuối
cùng bám sát gốc cây đều tinh khiết tựa hồ được chạm từ thứ ngọc xanh sắc màu đậm
nhạt khác nhau.
Thanh Dương thốt tiếng trầm
trồ:
- Bác có một vườn cảnh lý tưởng.
Tìm khắp thành phố Hà Nội cũng khó mà có những chậu cảnh như ở đây.
Chủ nhân sung sướng mỉm cười,
và đáp lại với giọng khiêm nhường:
- Còn thiếu nhiều thứ cây
quý lắm anh ạ. Tôi dự tính năm năm nữa mới đủ chơi.
Vũ Sơn chắp tay đi đi lại lại
trong sân, anh ngước nhìn giàn dưa Tây đang trổ hoa vàng chóe trên đầu, ghé sát
tai tôi thì thầm:
- Sáng nay Thanh Dương sẽ đỡ
chuyện cho chúng mình. Nào là cây cảnh, nào nghề nuôi chim, chọi gà, nuôi cá
vàng, gây giống vẹt… Cái khoản ấy tôi với cậu phải chắp tay lạy hắn ta. Trong
hình hài của Thanh Dương có một lão già đích thực.
Quả nhiên, ông già Hưu bám
sát lấy Thanh Dương ngay tức khắc. Anh chàng thi sĩ trầm mặc này thủ thỉ với
ông đủ các thứ chuyện về thú điền viên. Hai người ngồi ngay trên sân, giữa những
chậu cây cảnh ma say mê đối thoại.
Vũ Sơn rủ tôi ra mảnh ao nhỏ sau nhà, nơi có những bụi cây móng ròng thơm nức trùm lên một cây vối. Anh nói với tôi về Đốt- tôi- ép- ski, Tôn- stôi, Hê- min- uây… vì tôi ham đọc sách, tôi có thể hiểu được những khúc mắc, những kiến giải của anh, nhẫn nại nghe anh bày tỏ. Anh nói lưu loát, cuốn hút, tôi không biết được thời gian trôi qua. Chợt chủ nhân chạy ra, rối rít xin lỗi và mời chúng tôi vào nhà uống nước. Hóa ra, ông già Hưu cũng là một người say mê, bồng bột. Bị câu chuyện bất tận của Thanh Dương hấp dẫn, ông đã quên khuấy cương vị chủ nhân.
Chúng tôi bước vào nhà, cùng
lúc bà vợ và cô con gái duy nhất của ông đi chợ về. Họ cất tiếng chào, chúng
tôi chào lại họ. Bà già cũng nhỏ bé tươi tắn như chồng, với đôi mắt đen và sâu,
cặp môi đều đặn, chắc chắn bà đã gây sóng gió cho những trái tim trai trẻ thời
bà còn là một thiếu nữ má hồng răng trắng. Nhưng cô gái mới thật là một nhan sắc
lộng lẫy, đầy sức chinh phục. Cô thâu tóm đủ những nét trội của mẹ nhưng tất cả
những nét đó đều được biến cải, nâng cấp lên một cách đáng kinh ngạc. Nhìn cô,
người ta biết chắc chắn cô là kết quả của cuộc hôn phối giữa hai con người dưới
mái nhà ấy, đồng thời người ta cũng ngờ vực tạo hóa vì nó đã nhào nặn lại một
cách uyển chuyển và khiến cho mọi đường nét, mọi hình khối đạt tới mức hoàn mỹ.
Cả bố và mẹ cô đều thấp bé, nhưng cô lại dong dỏng cao. Tấm thân thon thả, săn
chắc bó trong tấm áo lụa giản dị cổ tròn và chiếc quần hàng tuýt- xi may theo
kiểu Jin ống hẹp. Mắt cô đen, đắm đuối như mắt bà mẹ nhưng cặp mi dài rậm hơn
khiến đôi mắt ấy trở thành những con sóng đầy ma lực. Sống mũi, cặp môi, những
món tóc mai, nốt ruồi tí xíu bên cằm… Cô khiến cả ba chúng tôi sững sờ. Không
tin được ở góc tỉnh lỵ quê nhà lại có một thiếu nữ đẹp đến thế, mặc dù các thiếu
nữ xinh đẹp nhất Hà Nội chúng tôi đã được ngắm nhìn dăm bảy lượt, hoặc gần, hoặc
xa…
- Mời các anh xơi nước. Chè
Thái Nguyên mua cân, bà nhà tôi ướp lấy. Năm trước, bà ấy ướp hoa ngâu. Năm
nay, ướp hoa nhài. Mấy bụi nhài ở bờ ao cơ man là hoa nở. Giá ở Hà Nội đã có tiền,
nhưng ở đây thả cho lũ ong rờn…
Một gã bán kem rong đi qua,
bóp chuông hơi: Tí toe, tí toe… kèm theo tiếng rao: “Kem cây đặc biệt, ăn mau kẻo
sắp hết mùa”. Rồi một cỗ xe bò lọc cọc đi tới, ông già đánh xe ngồi giữa đống
rơm, gà gập ngủ. Chừng mươi phút nữa, mới có một đám dân buôn hồng, buôn bưởi
gánh hàng về chợ, vừa đi vừa chuyện trò. Khung cảnh đơn điệu của tỉnh lỵ diễn
qua, trong khuôn cửa có hai lần cánh. Sát khuôn cửa ấy, treo lửng lơ chiếc
xích- đông bằng gỗ lát. Trên khuôn đó, thấy những cuốn sách quen thuộc: một anh
hùng thời đại của Léc- mông- tốp. Bác sĩ Ji- va- gô của Pa- têch- nác. Cha và
con của Tuốc- ghê- nhi- ép. Thơ E- xe- nhin và thơ Pus- kin. Các trường thiên
tiểu thuyết của Sô- lô- khốp. Rồi các tác phẩm của Đốt và tuyển tập. Con đường
đau khổ của A- lếch- xây Tôn- stôi… Chắc chắn đây là tủ sách của người con gái,
một chiếc kẹp tóc nằm bên dưới chiếc lọ nhỏ xíu, cắm độc nhất bông hồng.
Chúng tôi chưa uống hết tuần
trà cô đã xuất hiện, đĩa bánh rán trên tay:
- Mẹ bảo đem lên cho bố mời
khách uống trà.
Cô nói, với dáng vẻ tự tin
tuy có đôi chút ngượng ngùng. Ông già Hưu giới thiệu chúng tôi, lần lượt từng
người. Rồi ông quay lại rót nước tiếp. Cô gái đi xuống bếp, ông nói:
- Con gái tôi tên Hạnh, Thúy
Hạnh. Nó đang học đại học y năm thứ nhất, tôi gặp nạn. Cảnh nhà neo bến, côi
cút, bà già tôi đổ bệnh khùng. Suốt ngày bà ấy khấn vái, ra sân vái trời, vào
nhà vái bàn thờ tổ tiên gia tộc. Cơm nước không chịu nấu, chỉ mua hoa sen ăn.
Cháu Hạnh bỏ học về nhà chăm mẹ. Năm sau, vận hạn qua đi, tôi xin về hưu vui
thú cảnh gia đình. Mẹ cháu hoàn toàn khỏi bệnh, chúng tôi giục cháu đi học tiếp
nhưng nó không chịu đi nữa. Bây giờ, suốt ngày nó ngồi đọc sách. Ngoài thời giờ
đọc sách, nó nhận hàng về may. Nhờ trời, chúng tôi sống không đến nỗi nào.
Nhưng thấy con bé cứ quanh quẩn ở nhà, chán chường mọi thứ mà tôi buồn quá. Cái
tai nạn không chỉ làm tổn thương mình tôi, con gái tôi trẻ mỏ thế, làm sao tôi
tạo lại cho nó được nguồn vui và lòng tin bây giờ?…
Cái cằm nhỏ của ông run lên.
Lát sau, cơn xúc động trôi qua, ông lại vui vẻ nói tới cách trồng cây cảnh,
cách chiết hồng Thúy Kiều và gây các loại phong lan quý, cách tỉa tùng và trúc
vào những thời tiết khác nhau. Thanh Dương tiếp chuyện ông, Vũ Sơn và tôi bó gối
ngồi nghe.
Đồng hồ điểm mười hai tiếng,
cô gái bưng mâm cơm lên, đặt giữa phản:
- Mời bố và các anh xơi cơm.
Nói xong, cô xách phích nước
xuống sân. Ông già Hưu bê vò rượu, mở nùi lá chuối khô, rót vào chiếc thẫu thủy
tinh. Từ miệng vò sành, chảy ra thứ rượu màu đỏ sẫm. Khi rượu tới ngang lưng thẫu,
một con rắn thò cái đầu cứng đơ khỏi miệng vò. Ông già dừng tay, thận trọng dựng
vò rượu lên, dùng lá chuối chùi rồi nút chặt lại. Xong, ông lấy chiếc phễu thủy
tinh nhỏ xíu từ tủ chè ra, rót rượu ở thẫu vào chai. Từ chai, ông mới lại rót
ra từng chiếc chén sứ nhỏ, nhỉnh hơn chén trà hạt mít đôi chút, mời rượu chúng
tôi:
- Không mấy khi tôi gặp được
các anh…
Ông già nói: Ở đây buồn lắm,
vài ba tháng mấy thằng bạn cố tri mới lọc cọc đạp xe tới gặp nhau một lần. Lúc
gặp đã vậy, lúc rủi không gặp lại đạp xe về chán nẫu cả ruột. Mà mỗi lúc mỗi
già, nhìn con đường nắng lóa, mắt cứ như mờ đi, cẳng chân tê cứng lại, lâu dần
rồi ai nấy cũng chỉ quanh quẩn với xó nhà của mình. Cái tuổi già nó mau tồi tệ
lắm các anh ạ. Kìa, các anh lên đũa đi. Bà nhà tôi với cháu Hạnh ăn dưới bếp. Ở
đây không có lệ đàn bà, con gái ngồi nhắm rượu với đàn ông.
Trên chiếc mâm đồng bóng
loáng, đĩa xào còn bốc khói nghi ngút, nem rán cũng nóng nhưng các món quay,
món hầm đã nguội. Rõ ràng những người đàn bà trong nhà ít làm cơm đãi khách và
cũng không có năng khiếu về mặt này. Tuy nhiên, mọi món ăn cũng như các thứ vật
dụng đều tinh tươm, sạch sẽ, khiến ta yên tâm. Ông già uống rượu, hai gò má hồng
lên, cặp mắt long lanh trong cơn ngây ngất của những cảm xúc bị dồn nén quá lâu
đã đến giây phút muốn giãi bày. Chúng tôi đáp chuyện ông, nhẹ nhàng dò chừng nỗi
ưu uất của một tâm hồn nhạy cảm và nồng nhiệt. Cuối bữa ăn, ông gạt đôi đũa
sang một bên, rồi kể cho chúng tôi nghe cái tai nạn lớn nhất trong đời ông. Ông
phụ trách ngân hàng, một cơ quan quan trọng bậc nhất tỉnh này. Vốn người trung
thực, đặt nhiệt tâm vào công việc, ông không biết cương vị của ông được các cán
bộ dưới quyền mình thèm khát. Luôn luôn bận rộn, luôn luôn bị lôi kéo bởi các
cuộc họp cấp tỉnh. Ông không thường xuyên kiểm tra lại hành vi những người dưới
quyền, những người này đã từng có quan hệ tình cảm khăng khít với ông, đã từng
được ông giúp đỡ khi gặp sóng gió. Với niềm tin thơ ngây ở sự thẳng thắn và tấm
lòng nhân hậu của bản thân, ông không thăm dò được những tăm tối. Ông không đo
đếm được các mưu kế hiểm độc, ông không đủ từng trải để hình dung được sự đê tiện
của con người. Và như thế, ông rơi vào trận đồ bát quái của các dục vọng âm hiểm.
Ông, người có quyền lực cao nhất cơ quan, người chịu trách nhiệm trước chữ ký của
mình đã buộc phải lãnh án tù bởi sự tham nhũng của những kẻ dưới quyền. Cố
nhiên, phó giám đốc ngân hàng, người chủ mưu bày đặt và điều khiển trận tấn
công âm thầm trong ba năm dài đã thế chân ông. Y đã đạt được cái cao vọng y hằng
thèm khát. Một chiếc xe sang trọng có người lái mở sẵn cửa chờ đợi, những tiệc
tùng liên miên nơi này và nơi khác, ưu thế chính trị và tài chính cho cả đám
con cháu, họ hàng nội ngoại nhờ cậy, chút danh vọng để đặt lên bàn thờ gia tộc
ngày giỗ tết… Ông vào tù, bà vợ mắc chứng tâm thần, và con gái ông bỏ học…
Ông chớp mắt để tránh cho một
giọt lệ khỏi lăn ra, kết thúc câu chuyện bằng câu hỏi ai oán:
- Bây giờ mọi chuyện qua rồi.
Tôi có thể vui thú với những chậu cảnh của tôi hơn mọi vui thú ở cõi đời. Bí
thư tỉnh đã về tận đây mời tôi ra làm việc, tôi từ chối. Một bông hồng Thúy Kiều
nở với tôi quan trọng hơn việc tiếp chuyện các vị cán bộ tỉnh ủy… Nhưng còn con
Hạnh, tôi không muốn nó sống mãi trong tâm trạng này. Nó còn trẻ quá, và tôi
không thể…
Vũ Sơn đặt một bàn tay lên
vai ông:
- Bác cứ yên tâm. Trăng tới
rằm trăng tròn, hoa tới thì hoa nở. Đã là kiếp con người, ai cũng trải qua những
khoảnh khắc bi lụy, đau thương. Nhưng nỗi đau nào cũng sẽ qua. Cô ấy sẽ trở lại
bình ổn, khi yêu.
Ông già lắc đầu:
- Trong vòng hai năm nay, dễ
có tới non hai chục đám hỏi. Con trai ông đại tá Thinh, con trai ông trung tá
Tú ở tỉnh đội, con trai bà giáo Giang hiện làm ở Viện khoa học xã hội Hà Nội…
- Thôi, thôi…
Vũ Sơn cắt đứt cái danh sách
dài dằng dặc của ông: Tình yêu không phải cái thứ hỏi han ấy. Rồi bác cứ nghiệm
xem… Cháu bảo đảm với bác rằng cô Hạnh sẽ vui vẻ, trẻ trung như trước. Chắc chắn
sẽ có ngày đó. Và chúng cháu tới đây mở vò rượu rắn của bác ra…
Chúng tôi cáo từ. Chủ nhân
đi theo dặn đi dặn lại:
- Ôi, chào các anh. Nhớ quay
lại thăm chúng tôi đấy nhé. Thật quý hóa quá…
Khi tới cổng, tôi chợt nhớ rằng
chưa xuống bếp chào bà chủ với cô con gái. Tôi ghé tai Vũ Sơn thì thầm:
- Cả anh, cả Thanh Dương, cả
tôi đều đoảng vị. Làm sao bây giờ?
Anh nháy mắt:
- Thôi kệ, còn tới chơi lần
khác.
Nhưng lúc đó, Hạnh đi ra,
đem rổ chanh tặng chúng tôi, nói là chanh vườn nhà. Chúng tôi lên xe, cô còn đứng
ngó theo.
- Con bé đẹp quá. Vũ Sơn
nói: Của này mà sang Hà Nội đắt chồng như tôm tươi. Đủ loại mũ cao áo dài tới xếp
hàng chầu chực. Vậy mà ở đây quanh ra quẩn vào thở than với dăm chậu cây cảnh.
Nay mai, lấy một anh chồng lèn quèn nữa là xong đời. Các cụ nói đúng thật:
Tiếc
thay cây quế giữa rừng
Thơm
tho ai biết, ngát lừng ai hay…
Thanh Dương không nói, cắm
cúi đạp xe. Nhưng đôi mắt đen ẩm ướt của anh ta ẩn giấu vẻ bồn chồn.
Trong tuần lễ, chúng tôi còn
tới chơi vài nhà quen thuộc của Vũ Sơn. Thanh Dương vốn ít nói, giờ đây càng lơ
đãng hơn trong các cuộc giao tiếp. Dường như chàng thi sĩ luôn đuổi theo các ý
tưởng riêng, phiêu diêu trong cái thế giới ấy cho tới khi câu hỏi hay một cái vỗ
vai đột ngột kéo anh về thực tại. Đôi lần, trước vẻ sững sờ, hốt hoảng, Vũ Sơn
giương đôi mắt hầu tròn xoe lên, nhìn bạn chòng chọc. Nhưng rồi anh ta không
nói gì mà chỉ lẳng lặng quay đi. Tới buổi tối thứ hai tuần lễ sau đó Vũ Sơn hẹn
đưa chúng tôi đến dự đám chơi tổ tôm của ông chú vợ anh:
- Tôi với các cậu ù ù cạc cạc
biết gì tổ tôm với tổ tép. Nhưng sống ở đời cái gì cũng nên để mắt ngó qua. Vả
lại, rã đám tổ tôm bà thím tôi sẽ nấu một nồi cháo gà và một nồi chè đậu xanh
đãi khách.
Tối hôm đó, đúng bảy rưỡi
chúng tôi đã có mặt ở nhà ông chú Vũ Sơn. Khoảng non một chục ông già, bà lão
đã tề tựu ở đấy. Người phì phèo hút thuốc, kẻ tóp tép ăn khế đường hoặc kẹo bột.
Vẻ mặt ai nấy hí hửng như trẻ con được quà. Hóa ra, người già cũng ham chơi hệt
như con nít - Tôi thầm nghĩ và để tâm quan sát từng người một - Quả nhiên, tới
lúc chủ nhà dọn chỗ, xếp bàn tổ tôm, họ cũng hồi hộp, nao nức dường như cuộc
chơi quyết định quãng đời còn lại của mình. Người này, kẻ khác đôi co, kiện tụng
đòi được ngồi chung chiếu với những người ưa thích hoặc chắc chắn không đủ khả
năng tiêu diệt mình một cách tàn bạo. Ông chú Vũ Sơn là người từng trải lịch
lãm, chỉ trong vài ba phút ông đã dàn hòa được mọi mối mâu thuẫn, làm cho tất cả
hài lòng với nụ cười hóm hỉnh và những câu đùa nhẹ nhàng. Khoảng tám giờ kém
năm, cuộc chơi bắt đầu. Bắt chước Vũ Sơn, tôi cũng ngồi rìa một đám. Nhưng chỉ
mươi phút sau, biết mình không thể hiểu được tôi đành đứng lên. Thanh Dương
không còn trong phòng, anh ta đã chuồn trước tôi. Chỉ một mình Vũ Sơn hòa nhập
vào đám đánh bài say mê, sung sướng. Tôi mở cửa, lững thững đi dọc phố. Trời
đêm, hơi thu se lạnh. Chân trời trong ngần đọng trên các dãy núi, tựa lớp nước
nhuốm phẩm lam. Vài ngôi sao hiếm hoi nhưng sáng rực, bắn tóe ra từng chùm tia
bạc. Những vòm kim phượng, ẩm ướt và run rẩy, khẽ thở than vì tình yêu muộn
màng với mùa thu đã tàn úa trước thời khắc biệt ly. Tôi bước chậm rãi, không
nghĩ ngợi gì. Đột nhiên, tôi thấy phố đã hết, phía trước là cánh đồng mờ mờ dưới
ánh sao. Cách tôi hai bước chân, một bụi cây tử vi khum khum như cánh diều. Và
sau bụi tử vi ấy, nhô lên hai mái đầu của một cặp tình nhân.
- Thật dơ dáng.
Tôi thầm rủa mình vì rời vào
tình thế trớ trêu. Chỉ cần tôi bước thêm một bước hay xoay lưng đi trở lại, cặp
tình nhân kia sẽ nhận ra tôi. Họ vừa rời nhau ra sau một cái hôn dài. Tôi nghe
người con gái thở dồn dập, nói:
- Em sợ quá.
Người con trai khẽ cất tiếng
cười, đáp lại:
- Không có gì đáng sợ trên đời…
Ngập ngừng vài giây, anh ta
nói thêm: Trừ tình yêu.
Tôi nhận ra giọng Thanh
Dương, như cái máy tôi lẳng lặng ngồi xuống, cố gắng không gây nên một tiếng động
nhỏ. Sau đó, người con gái lại cất tiếng, và tôi biết cô chính là Thúy Hạnh,
thiếu nữ xinh đẹp đã đứng sau cánh cổng nhìn theo chúng tôi trong buổi chia tay
hôm trước. Giọng cô bồn chồn, day dứt:
- Khi ngồi bên anh, cảm giác
sợ hãi không còn. Nhưng khi chỉ có một mình, nỗi ân hận làm em đau đớn. Em sợ từng
cái nhìn của mẹ, hay một câu hỏi vô tình của bố, hoặc chuyện kể về một mối tình
vụng trộm nào đó… Và nỗi tủi hổ bám riết lấy em, như chiếc móc sắt cắm vào da
thịt, không thể gỡ.
- Anh hiểu những ý nghĩ của
em.
Thanh Dương ngắt lời cô gái.
Giọng nói của anh cũng giống như đôi mắt ẩm ướt của anh, thì thầm, lôi cuốn:
- Tình yêu luôn vô tội, trước
đất trời cũng như trước con người. Bởi vì tình yêu không phải là sản vật được tạo
nên do ý muốn của chúng ta, mà do tạo hóa. Trước khi gặp em, anh đâu biết mình
còn có thể bị lay động, bị mê muội trước một người con gái. Nghề của anh, em biết
rồi đấy, luôn luôn gặp những thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp, ăn mặc diêm dúa và
biết đủ cách ăn chơi. Trong các cuộc họp báo, trong các cuộc đọc thơ, trong các
cuộc du lịch dài và ngắn… cơ man nào là cơ hội, cơ man những khuôn mặt đàn bà…
Nhưng anh đã nhìn tất cả bọn họ như những con rối bằng cao su, những con búp bê
nhồi mùn cưa hoặc vải vụn… Vợ anh, người đàn bà đê tiện, độc ác ấy đã khiến anh
ghê sợ và thù ghét toàn bộ thế giới đàn bà. Anh cảm thấy sau những gương mặt tô
son trát phấn ấy là bộ mặt thật của họ, bệnh hoạn và nhàu nát. Họ sẽ gào lên:
Tiền đâu? Lấy gì cho tôi mua giày dép, áo lông, lấy gì cho tôi đặt bánh kẹo
sinh nhật, lấy gì cho tôi thuê người mắc công- tơ riêng và chữa lại máy nước. Họ
sẽ nhiếc móc anh đủ điều nếu anh không thỏa mãn nhu cầu ấy hoặc sẽ hành hạ anh
em thân thích của anh, một khi đụng chạm đến quyền lợi mà họ cho là bất khả xâm
phạm. Cuộc sống địa ngục đã xây đắp cho anh một thành lũy chắc chắn, mọi sự
công phá của đàn bà đều vô hại. Thế mà giờ đây, tất cả đã tan tành. Không, anh
không muốn thế. Bàn tay của thượng đế dẫn dắt anh tới với em. Nếu có lỗi lầm, lỗi
lầm ấy thuộc về thượng đế, cả anh và cả em đều không dự phần trong chuyện đó.
- Nhưng xã hội sẽ lên án. Và
trước tiên, gia đình em đau khổ. Không thể giải thích cho bố mẹ em hiểu được
chuyện này. Các cụ không tha thứ, không bao giờ tha thứ.
- Em đã hòa đồng đời sống của
em vào nỗi đau khổ của bố mẹ em. Rõ ràng, đó là một hy sinh lớn lao mà những kẻ
tầm thường không làm nổi. Bố mẹ em sẽ tha thứ cho em tất cả, vì lòng hiếu dễ ấy…
Vả chăng, nếu các cụ không tha thứ được, em cũng phải tự quyết định cuộc sống của
mình.
Thúy Hạnh thở dài:
- Em sợ lắm.
- Đừng sợ. Cuộc đời này cũng
giống như những cái mặt hổ phù, nhìn phía trước thì hung tợn, lật phía sau lên
chỉ là mấy lớp giấy bồi. Anh đã nói với em, không có gì đáng sợ trên thế gian,
trừ tình yêu. Tình yêu hủy diệt con người hơn bom đạn, bệnh tật, đói khổ. Tình
yêu cũng cho con người khả năng chiến thắng hơn bất cứ sức mạnh nào khác. Thanh
Dương ngừng lời. Tôi tưởng tượng đôi mắt đa tình của anh ta đang khép lại trong
bóng tối. Vài giây sau, anh ta khẽ cất tiếng cười:
- Thật trớ trêu. Chỉ cách
đây một tuần, khi chưa biết em, cuộc sống của anh bình ổn. Vậy mà sau lúc gặp
em, tất cả đổi thay, tất cả quay cuồng. Như một thân cây bị bão nhổ bật rễ, anh
không còn đứng vững nữa. Anh đã mất toàn bộ khả năng tự điều khiển. Suốt những
ngày vừa qua, anh mừng hay tủi, vui hay buồn, nhìn cõi đời tươi sáng hay chú tối,
hy vọng hay tuyệt vọng… tất cả tùy thuộc vào em.
Cô gái im lặng. Tôi tin chắc
cô đang đắm chìm trong cảm giác thần thánh của tình yêu. Một giây đi qua. Rồi
mái đầu Thanh Dương cúi xuống. Lợi dụng cái hôn dài của cặp tình nhân, tôi rón
rén đứng lên, quay trở lại thị xã.
Đám tổ tôm vừa kết thúc. Mọi
người còn đang hoan hỉ bình phẩm về các ván bài. Bà chủ nhà bưng nồi cháo gà với
hai chồng bát chiết yêu ra. Tay áo xắn tới khuỷu, bà thận trọng múc cháo vào từng
bát, rắc thịt gà xé, lá chanh, hành tươi thái nhỏ và hạt tiêu nhanh thoăn thoắt
như một bà bán cháo thực thụ. Những bát cháo nóng được sắp vào hai chiếc mâm đồng
cỡ lớn, đặt lên chiếu. Ông chủ xoa tay:
- Xin mời các bác.
Vũ Sơn đã ngồi chồm hỗm
trong một góc chiếu, ngẩng lên bảo tôi.
- Ngồi vào đi cậu.
Rồi, đưa cặp mắt tròn xoe liếc
qua gian phòng, anh hỏi:
- Thanh Dương đâu?
Tôi ngồi xuống, bưng cháo
lên ăn vài thìa rồi mới thủng thẳng đáp:
- Chắc là đi dạo phố. Anh ấy
thuộc phố xá ở đây hơn tôi.
Vũ Sơn vẫn nhìn chòng chọc
vào mặt tôi, văng tục:
- Dạo mát cái con khỉ. Chỉ
những thằng điên mới lang thang một mình lúc này.
Tôi chưa kịp đáp, anh ta đã
quay sang ông già to béo ngồi bên cạnh, nói lem lém:
- Bác ù ván cuối cùng non
quá. Không ai dại gì ù vào lúc đó…
Bác chủ nhà đi tới các mâm,
nhẩm đếm số khách ăn, cất tiếng:
- Anh Sơn này, còn anh Thanh
Dương chưa thấy về. Thím bắc lại nồi cháo lên bếp than nhá?
Vũ Sơn đáp gọn lỏn:
- Kệ nó thím ạ. Cứ vét hết
cho mọi người ăn.
Tới chầu thứ hai, chè đỗ
xanh đường cát cũng không thấy nhà thơ xuất hiện. Chúng tôi ăn xong còn ngồi
chơi với hai ông bà chủ tới quá nửa đêm mới trở về. Vũ Sơn đạp xe chầm chậm
bênt, cái bóng dài nghêu in xuống đường. Lúc đó, tôi mới thấy vai anh gầy và so
như vai người nghiện.
- Tại sao cậu im lặng mãi thế
Nam?
Đột nhiên, anh cất tiếng hỏi.
Tôi nói:
- Thế anh muốn tôi nói gì?
Vũ Sơn không trả lời. Lúc ấy,
đã gần tới nhà anh. Cả hai chúng tôi cùng lặng lẽ đạp xe đến tận cái cổng hẹp
và có mái như cổng tam quan. Anh nhảy xuống, nói:
- Sáng mai đến tôi đấy nhé.
° °
°
Hôm sau, khoảng tám giờ sáng
tôi thức dậy. Hai mẹ con tôi nấu xôi ăn còn bố tôi ăn cháo thịt. Từ hôm tôi về,
ông cụ khỏe hẳn ra. Ngày vài lần cụ nhắc tôi lấy vợ. Cụ cố ăn hết hai bữa cháo
với một bữa cơm để giữ được chân cứng đá mềm tới ngày bế cháu đích tôn. Biết
tôi đến chơi nhà Vũ Sơn, cụ bảo:
- Anh ấy là người danh giá
nhất tỉnh này. Mày chơi với kẻ hèn bố cũng không cấm, nhưng chơi với người sang
như thế thì tự khắc sáng mắt ra.
Vũ Sơn đã thức dậy, khoác
chăn ngồi chồm hổm trên giường. Tôi bước vào, ngồi xuống chiếc ghế mây tự pha
chè uống, và hỏi:
- Bà xã của anh đi làm rồi?
Vũ Sơn đáp:
- Đi rồi.
Hai mắt anh đỏ dọc, đầy gỉ,
chưa kịp rửa. Tôi nói:
- Anh rửa mặt đi.
Vũ Sơn không trả lời, ngồi
thừ ra. Lúc ấy, vợ anh dắt xe đạp đi vào cổng. Chiếc xe của chị choáng lộn, râu
tôm bật tanh tách. Đồ phụ tùng toàn của ngoại. Trông dáng điệu, tôi biết người
đàn bà hoàn toàn mãn nguyện vì chiếc xe đạp mới lắp và bộ đồ đắt tiền đang mặc
cũng vừa may. Chị chào tôi, đi lại thu vén vài thứ đồ vặt rồi bảo chồng:
- Trưa nay em không về đâu,
anh liệu mà cho lũ trẻ ăn cơm.
Vũ Sơn đáp:
- Biết rồi, cô đi đi.
Rồi ngay sau đó, anh quay
sang tôi:
- Cậu có thấy thứ mào gà
tiên ở nhà ông Hưu bữa trước kì lạ không. Giá nó thuần một màu vàng lòng trứng
hay màu tím đen thì quý quá. Màu đỏ thường rồi, người ta thích loại hồng màu
xanh, cúc màu đen và thược dược màu tím vi- ô- lét…
Vợ anh vừa dắt xe ra khỏi
ngõ, bài diễn văn về hoa tức khắc dừng lại. Tôi chưa hỏi, anh đã giải thích.
Tôi với vợ tôi vừa cãi nhau
suốt đêm qua. Tôi buồn lắm nhưng thấy cô ta quay về, phải nói tào lao với cậu
cho vui. Đàn bà là quái vật. Nó biết rằng nó làm khổ được mình thì cứ thế, nó
hành cho đến lúc chết. Với một người đàn ông thực sự, kẻ thù lớn nhất là hai thứ
này: sự ngu dốt và vợ con của anh ta.
Tôi ngẫm nghĩ đôi chút, rồi
tìm cách an ủi:
- Vợ chồng nào mà chẳng có
lúc cãi nhau. Tôi thấy chị ấy cũng lành.
- Cậu dốt lắm…
Vũ Sơn đột nhiên quát lên,
trán nhăn hẳn lại: Thế nào là lành? Sao còn ít tuổi mà cậu có những ý tưởng già
nua, cằn cỗi như vậy? Sự ngu đần tiêu diệt nhân loại thê thảm hơn mọi tội sát
nhân ta thấy hằng ngày bằng mắt thịt. Một tên đao phủ chém rụng năm bảy cái đầu
dễ bị người đời căm ghét hơn một gã thầy mo đưa từng bộ lạc vào chỗ chết bằng
những lời huyễn dụ. Cái phép so sánh giản đơn thế mà ai cũng bỏ qua. Tôi căm
ghét sự ngu đần, nhất là khi nó kèm theo quá nhiều dục vọng…
Anh hất chăn khỏi vai, quơ
chân tìm dép. Tôi lại uống trà. Hai đứa con trai anh dắt nhau vào nhà, giương mắt
nhìn tôi rồi gọi:
- Bố ơi, bố…
Vũ Sơn từ sân đáp vóng lên:
- Xuống bếp tao bảo…
Tôi nghe anh dặn đứa con lớn
rằng cơm ủ trong giành tích, thức ăn đã bày sẵn trong mâm với bát thìa, buổi
trưa chỉ việc mở lồng bàn lên mà ăn.
Thằng bé hỏi:
- Thế bố đi đâu?
- Đi đâu là việc của tao, cấm
hỏi.
Ông bố gắt, bước lên nhà.
Mái đầu vừa nhúng nước của anh nhỏ tong tong. Vũ Sơn cởi sơ mi, lau tóc rồi ném
nó lên sợi dây thép chăng ngoài hồi. Thân hình anh khẳng khiu, ngực lép dẹt. Vừa
mặc quần áo, anh vừa nói:
- Lòng tham với sự ngu đần
cùng sống trong một người sẽ biến thành thứ quả ung thối. Nhưng khi nó được đặt
trong quan hệ vợ chồng, cha con, bè bạn thì nó sẽ làm ung thối các mối giao kết
ấy. Tôi có thể nói trắng ra cho cậu biết điều này…
nhưng tới đó, anh đột nhiên
dừng lại:
- Xe đạp cậu đâu, ta đi đi
thôi.
Chúng tôi dong xe ra phố, đạp
đi. Thấy Vũ Sơn ở trong tâm trạng ấy, tôi im lặng. Dọc đường, anh dừng lại chào
chủ tịch Dự, đồn phó công an huyện, bà Thoa, chủ nhiệm hợp tác xã thêu ren, một
ông thiếu tướng về hưu to béo. Khi tới gần khuôn viên, chúng tôi rẽ vào nhà thiếu
phụ bán xôi gấc hôm trước. Hôm nay, chị đem xôi vò chè đường đãi chúng tôi. Vũ
Sơn ăn xong, bảo thiếu phụ gọi đứa con trai của chị lên. Anh mắng chú bé một trận
nên thân vì đủ thứ tội hư hỏng, lêu lổng, phá tán tiền bạc của cải gia đình…
Chú bé cúi gằm mặt trước con người được dân cư cả thị xã kính nể. Trước lúc đi,
Vũ Sơn ghé tai thiếu phụ, nói nhỏ:
- Phải nghiêm thế cho nó sợ.
Nhưng chị yên trí, tôi sẽ nói với anh Dự cho.
Người đàn bà mừng rỡ:
- Vâng, may mắn cho tôi quá,
trăm sự nhờ cậy chú.
- Đừng có mừng vội - Anh ngắt
lời chị một cách thô lỗ - Tôi chỉ giúp lần này nữa thôi. Chị không nghiêm với
nó, hỏng lần nữa tôi sẽ tống vào trại cải tạo.
- Vân, vâng…
Người mẹ tội nghiệp đáp: Tôi
nhớ lời chú bữa trước rồi. Chờ cho cuộc trao đổi giữa hai người chấm dứt, tôi hỏi
Vũ Sơn:
- Anh định đưa tôi đi đâu
bây giờ?
Vũ Sơn hất tay:
- Đi, cứ đi đi đã.
Tôi đành lặng lẽ đạp xe theo
anh, ngạc nhiên vì chính sự cả nể của mình. Chúng tôi tới một ngôi nhà khá lớn
gần chợ. Cánh cửa khép hờ, Vũ Sơn đẩy tung ra:
- Bố có nhà không đấy?
Một ông già ngồi hút thuốc
trên tràn kỉ ngẩng lên:
- Bố có nhà, con về bao giờ
mà không thấy đến?
Vũ Sơn bảo tôi ngồi xuống
tràng kỉ, giới thiệu:
- Đây là Nam, bạn con.
Sau đó, anh mới trả lời ông
bố vợ:
- Về hai tuần, nhưng bận
liên miên, không lúc nào xuống hầu cụ được.
Ông già niềm nở hỏi chuyện
tôi. Hóa ra ông cụ cùng trong hội chơi chim với bố tôi hàng chục năm nay. Xong,
ông quay ra hỏi Vũ Sơn về công việc, về sức khỏe của anh, sốt sắng, ưu ái.
- Bây giờ hai anh em ngồi
chơi, bố ra chợ gọi mẹ về nấu cơm trưa. Nhà có con cá quả sống trong chum rồi,
bảo bà cụ mua cái chân giò về luộc nhắm rượu.
Vũ Sơn giơ tay xua;
- Thôi bố ơi, đừng cơm cháo
gì nữa. Con đang có chuyện buồn nẫu ruột đây…
Ông già ngồi lại xuống tràng
kỉ, thu hai tay lên đùi:
- Có chuyện gì?
- Có, có…
Vũ Sơn gật đầu lia lịa:
- Có chuyện về cô gái yêu của
cụ đây…
Ông già không hỏi thêm,
nhưng vẻ mặt hiện lên nỗi lo lắng. Cậu con rể ông kể:
- Bữa trước con xuống viết
bài cho nhà máy gạch M. Cậu giám đốc vốn là bạn học cũ thời phổ thông. Nó xuất
cái hóa đơn năm vạn gạch giá rẻ. Con đã bảo cô ấy chỉ dùng ba vạn thôi, còn hai
van để cho cô Cúc, em vợ cậu giám đốc lấy. Dặn đứt lưỡi rồi, nhưng cô ấy tham
quá, cô ấy bán sạch năm vạn lấy tiền bỏ túi. Cô em vợ cậu bạn con lên xe gạch
thấy bãi đất trống lẳng lặng bỏ về, không thèm nói nửa lời. Cụ co hiểu như thế
nghĩa là gì không?… Người ta khinh, khinh bằng rác cái giống coi đồng xu to như
bánh xe bò. Trời đất ơi, con bé Cúc ấy, tuổi ít hơn, trình độ văn hóa thấp hơn,
mà nó xử sự cao thượng như vậy. Còn con gái cụ thì… Thế gian đã có câu rồi: Đi
buôn có bạn, đi bán có thuyền… Cô ấy làm thế này là bôi gio trát trấu vào mặt
con. Làm sao con dám ngẩng lên nhìn anh em, bè bạn? Làm sao con còn dám vác cặp
tới nơi này nơi kia mà viết lách?… Một đồn mười, mười đồn trăm, ở cái tỉnh nhỏ
như vạt áo này chuyện gì thiên hạ không biết?… Thôi, con chịu rồi, con gái cụ
đem trả cụ, cụ gọi cô ấy về mà nuôi…
Vũ Sơn ngừng lời, mặt đỏ phừng
phừng, bọt sùi cả ra mép. Ông bố vợ anh ngồi thẫn thờ, hai ngón tay bất giác
xoa vào nhau như đang vê mồi thuốc lào. Trông vẻ mặt ông cụ tội nghiệp quá, khiến
tôi bỗng ngượng lây. Tôi đứng dậy, đi lòng vòng quanh nhà, xem mấy bức tranh gà
lợn. Chợt, tôi thấy tấm ảnh chụp một vị lãnh tụ nhà nước. Vị lãnh tụ đang đi,
tay chỉ về phía trước, dáng điệu hối hả. Khung cảnh xung quanh cho ta rõ đó là
một công trường. Sát bên tay trái ông là Vũ Sơn, tay phải và phía sau là cả một
đám đông những chuyên viên, thư ký, cán bộ hướng dẫn tham quan, người tháp
tùng, bảo vệ… Có lẽ, đây là ngày đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời phóng viên của
Vũ Sơn, anh ta đã cố gắng lưu giữ lại niềm vinh hạnh đó. Bức ảnh được phóng to,
lồng khung kính, treo nơi trang trọng nhất của căn nhà. Bên dưới, sát lề ảnh,
ghi dòng chữ:
Tặng bố mẹ và các em. Kí: Vũ
Sơn.
Tôi trở lại chỗ ngồi, tự rót
nước uống cho không khí thân mật. Ông bố vợ Vũ Sơn bảo tôi:
- Cháu Nam ở lại ăn cơm với
hai bác cho vui. Rồi có chuyện gì ta bàn tính sau.
Tôi chưa kịp trả lời, Vũ Sơn
đã gạt phắt đi.
- Thôi thôi, chẳng bụng dạ
nào mà cơm cháo nữa. Vả lại, đã có chỗ mời chúng con trưa nay rồi.
Nói xong, anh rít thêm điếu
thuốc lào rồi đứng dậy ra về. Tôi chào ông lão tội nghiệp, đi theo anh. Khi
chúng tôi đã đạp xe tới ngã tư, thấy vẻ mặt Vũ Sơn dịu đi, tôi mới hỏi:
- Bây giờ đi ăn cỗ ở đâu?
Vũ Sơn đáp:
- Cỗ bàn gi. Tôi phải chơi
võ ấy cho họ sợ. Ông bà cụ tốt nhưng con gái họ thì tôi ngán tới tận mang tai…
Đi với tới đừng lo đói, a… vào đây.
Nhà của Thanh Dương đứng kề
một hiệu may lớn. Ngôi nhà hai tầng xinh xắn, tuy kiểu kiến trúc có hơi cổ. Bố
mẹ Thanh Dương trước có đại lý nước mắm nhưng mười năm trở lại đây đã dẹp hàng
mắm muối để mở quầy bán sách. Một tấm biển tôn sơn vàng nhạt, kẻ dòng chữ đen
treo phía trước:
Hiệu sách Hoa Mai
Bán và cho thuê các loại
sách.
Không hiểu một hiệu sách ở tỉnh
lỵ lời lãi hàng tháng bao nhiêu nhưng gia cảnh nhà Thanh Dương khang trang lắm.
Có thể, bố mẹ anh còn giữ được vốn liếng cũ và biết cách bắt nó sinh sản, cũng
có thể vì họ đã quen nếp sống phong lưu. Lúc chúng tôi đến, hai ông bà đang ngồi
gật gù uống trà sen, ông vừa đọc vừa bình Kiều, bà ngồi nghe chăm chú và ngưỡng
mộ như một khán giả lý tưởng. Vũ Sơn đã quen, anh bước sồng sộc vào, cất tiếng
hỏi:
- Thanh Dương đâu hai bác?
Ông bà cụ cùng ngẩng lên
chào chúng tôi rồi đáp:
- Em nó đi từ sáng, bảo tới
chỗ hai anh.
Vũ Sơn đáp ngay:
- Cháu với Nam có việc đột
xuất phải đi từ năm giờ sáng. Chắc không gặp chúng cháu nó lại rẽ vào nhà Ngọc
Sang đàn hát rồi. Dạo này thằng Sang có mấy cô bạn khá lắm.
Đoạn, anh ngồi xuống ghế, uống
một lúc ba chén trà. Bà mẹ Thanh Dương đứng lên:
- Sáng nhà mới đồ xôi đỗ,
ông ấy lại nấu cả chè hạt sen mời các anh xơi.
- Thôi thôi…
Vũ Sơn kêu to, xua tay lia lịa
như đuổi một nỗi ám ảnh khủng khiếp nào đó: Từ sáng đến giờ chúng cháu đã phải
ăn đủ thứ xôi chè rồi. Nào là xôi gấc, xôi đỗ, xôi trắng thịt quay. Nào là chè
đỗ đen, chè đường, chè bà cốt… giờ bác có xôi ngọc chè vàng cháu cũng chịu. Chỉ
thèm một bát bún thôi…
Bà già đon đả:
- Vậy tôi chạy quàng ra chợ
mua bún với lòng về nhé.
Vũ Sơn đưa mắt nháy tôi,
đáp:
- Thôi, bún lòng làm gì cho
tốn. Bác cứ kiếm con cá quả kha khá vào, làm món bún cá quả rau cải là nhất.
Cháu đã đi đủ nơi, sơn hào hải vị đủ thứ nhưng chỉ mê độc nhất món bún cá quê
mình.
Bà lão sắm sắn vào trong nhà
thay áo, cắp rổ đi chợ. Vũ Sơn kéo tôi ngồi nghe ông cụ bình thơ Kiều. Quả là
anh có nghệ thuật tung hứng, và cái nghệ thuật ấy chỉ những thằng ma lanh, quen
tiếp xúc với đủ loại người như tôi mới nhận ra. Những ngày làm việc trong phòng
giao dịch ghi biên lai và trả ảnh đã dạy tôi cách đón bắt ý nghĩ thật của con
người, cách lọc chúng khỏi những ngôn từ giả trá, mềm mỏng, cách lôi chúng từ
dưới đáy sâu của những đối thoại vòng vèo, chằng chịt… Ông già nghiêng đầu, lên
giọng đọc một câu thơ mới, rồi gõ ngón tay khô khỏng xuống khay nước, cất tiếng:
- Anh có nhận với tôi rằng
chẳng còn ai theo được Nguyễn Du không? Cụ ấy không còn là thi nhân mà đã vượt
lên bậc thánh. Thời đại của các anh bây giờ nhảm nhí, chẳng còn thơ phú nữa, chỉ
có trò ghép chữ ba lăng nhăng. Thời chúng tôi, mấy gã thầy đồ gàn, không manh
áo che thân cũng đủ tài bịa ra hàng tá văn chương thứ ấy. Hồi trai trẻ thơ Là
mác- tin, thơ Véc- len, thơ Bô- đờ- le tôi đọc chán chê rồi, thích thì có thích
nhưng vẫn thấy nó là loại thứ hai. Kiểu như ta uống chè búp ướp sen rồi mà phải
uống chè bồm gói…
- Phải phải, bác nói chí phải…
Vũ Sơn tiếp lời: Hội nghị
thơ toàn quốc năm ngoái cháu đã phát biểu ý kiến rồi: Nền thơ đang lâm nguy,
đang cần phải nuôi dưỡng và chữa chạy. Đám thi sĩ trẻ bây giờ làm thơ như đàn
bà thái rau cải vậy, họ có để tâm nghiền ngẫm nghề nghiệp đâu. Cứ nghe thấy tên
một nhà thơ châu Âu là họ cuồng lên. Biết đâu rằng ngay cả Răm- bô, Prê- ve, A-
pô- li- ne cũng đều là cát bụi trước cụ Nguyễn Du nhà mình.
Ông già lim dim mắt, nhìn Vũ
Sơn trìu mến:
- Tôi không ngờ ở tuổi anh
mà đã biết được điều ấy. Cái thằng Dương nhà này không có nổi một phần ba trí
óc tinh khôn, tỉnh táo như anh.
Vũ Sơn cười:
- Không, nó tinh khôn gấp ba
lần cháu.
Ông già lắc đầu:
- Tinh khôn nỗi gì?
Vũ Sơn đưa mắt nhìn tôi rất
nhanh, rồi đáp:
- Nó lại để cho bác thấy sự
tinh khôn thì hỏng chuyện… Vừa lúc ấy bà già đi chợ về, giơ con cá khoe:
- Ông xem, con cá gần hai
cân cơ đấy. Đám thợ câu quăng vừa đưa dưới hồ lên.
Ông già bảo:
- Ngon đấy, bà nấu cẩn thận
cho các anh ấy ăn.
Khoảng nửa giờ sau chúng tôi
được thết một bữa bún ngon lành. Nói không ngoa, tìm cả mùa đông ở Hà Nội cũng
không có một hàng bún nào ngon như thế. Sau bữa ăn, ông bố Thanh Dương đưa cuốn
an- bom cho tôi xem. Tình cờ, tôi lại lật đúng bức ảnh chụp vị lãnh tụ nhà nước
đi cùng với nhóm người tháp tùng và các nhà báo, trong đó có Vũ Sơn. Bên dưới,
là dòng chữ đề:
Tặng hai bác và Thanh Dương.
Chữ ký kéo loằng ngoằng như
những sợi bún rối. Tôi lật qua các tấm ảnh, gấp cuốn sổ lại, uống nửa chén trà
rồi cáo từ.
Tối hôm ấy, bố tôi ngồi nói
chuyện với đám khách từ quê lên. Họ đem theo nào tay nải gạo, lồng gà, buồng
chuối lỉnh kỉnh. Tuy là họ hàng, tôi chẳng biết ai. Bố tôi phải giới thiệu lai
lịch của từng người, mối liên quan nội ngoại người tôi phải chào là bá, người
tôi phải xưng là anh…
Sau khi thủ tục đã hoàn tất
rồi, cụ sung sướng bảo với đám người trong gia tộc:
- Thằng cháu Nam nhà tôi chịu
khó đọc sách lắm. Mọi việc trên đời nó đều thông tỏ. Đúng là cha mẹ sinh con trời
sinh tính, vợ chồng tôi cả đời có cầm đến quyển sách đâu. Dạo này, cháu nó chơi
với nhà báo Vũ Sơn, các anh các chị biết chứ, anh ấy là cố vấn đặc biệt của
lãnh tụ nhà nước, cả tỉnh này nể vì…
° °
°
Vết rách ở đuôi mắt tôi đã
thành sẹo. Tuy vậy, đôi khi, hình ảnh người thiếu phụ nhỏ bé có nước da ngà và
cặp mắt đam mê luôn mở rộng, luôn nhìn đời như tìm kiếm hiện lên trong óc não
tôi. Cứ mỗi lần ấy, tôi lại thấy chị mới lạ như từ một ngọn triều xa ngái trở về.
Nhưng rạch cây, những vườn cà, vườn ớt, bờ đê dốc và dòng sông gào réo sủi bọt…
tất cả tạo dựng lại khoảng không gian khoáng đạt, lồng lộng mây gió, mời gọi,
xáo trộn, uy hiếp tâm hồn vốn dĩ bình lặng của tôi. Có một tiếng nức nở, yếu ớt,
nhưng không thể dập xóa được cất lên dai dẳng trong đáy sâu trái tim thầm kín,
không sao cắt nghĩa nổi nó từ đâu tới, không sao hiểu được nó sẽ đi về đâu như
cơn mê triền miên ám ảnh. Giữa các cuộc chơi, giữa những buổi giao tiếp ồn ào,
vui vẻ, tôi chợt nhớ tới lưỡi cát vàng, bờ đê nghiêng nghiêng, và ngọn núi in vẻ
đẹp cô đơn xuống lòng hồ. Có lẽ, mình cần trở lại nơi đó một lần nữa chăng? Có
lẽ, cảnh phố xá đông đúc muôn thuở đã gieo vào mình nỗi thèm khát thiên nhiên,
và nỗi thèm khát ấy chưa thỏa?…
Một sáng, tôi đang ngồi rọc
tờ báo mới cho bố, chợt có tiếng nói rụt rè:
- Em xin hỏi các bác, đây có
phải nhà cậu Nam không ạ?
Tôi ngẩng lên, một bà già nhỏ
bé đội thúng gạo nếp, tay xách nải đứng thập thò trước cửa.
- Cháu là Nam, xin mời bác
vào.
Tôi đáp lời, đỡ thúng gạo
trên đầu bà lão xuống. Bà đưa mắt rụt rè liếc quanh căn buồng, sờ lên mặt chiếc
ghế mây như thử xem có chắc chắn không rồi mới ngồi lên. Tôi pha trà, rót mời
bà. Bà bưng chén trà, đắn đo, rồi đặt xuống:
- Tôi là mẹ cháu Hồng - Bà tự
giới thiệu với nỗi bối rối.
- Cái con bé bữa trước bị chồng
đánh.
Thấy tôi à lên một tiếng,
hai mang tai bà lão đỏ ửng, bà cúi mặt, nói tiếp:
- Tôi vừa ở đằng nhà báo Vũ
Sơn lại đây. Anh ấy nói rằng cậu là người cứu cháu. Thằng chồng con bé đã đánh
cậu rách mặt mà cậu không quản ngại… Chúng tôi có lỗi với cậu nhiều quá. Ở đời,
con dại cái mang. Xin cậu cho hai chữ đại xá…
Chúng tôi có chút quà mọn, gọi
là của bạc lòng thành…
Bà loay hoay cởi tay nải, lấy
ra mấy khuôn bánh ngũ vị, một cân chè, một gói mứt sen và đặt tất cả lên thúng
nếp:
- Thể nào cụ ông cụ bà cũng
phải cúng hương hoa một tháng đôi lần, xin cậu vui lòng nhận.
Nói xong, bà lão ngước mắt
nhìn tôi, van vỉ và buồn tủi như mắt kẻ tội đồ. Giây phút ấy, tôi chợt nghĩ rằng
nếu tôi là con gái, tôi cũng trạc tuổi thiếu phụ kia, nếu sự bất hạnh rủi ro
rơi vào số kiếp tôi, một ngày nào đấy mẹ tôi cũng sẽ phải bưng thúng gạo nếp và
các thứ quà tặng kia tới nhà ai đó, nói với họ bằng giọng run rẩy, và ngước lên
nhìn họ khẩn cầu. Sự liên tưởng ấy khiến tim tôi se lại. Tôi nói:
- Bác hãy coi đây là một
hành động bình thường, cậu mọi người đàn ông.
Bà lão lắc đầu:
- Không, không, cậu đừng từ
chối. Cậu từ chối chúng tôi đau lòng lắm. Từ thuở nhỏ tới nay, tôi chưa ăn ở bạc
ác với ai, sao số kiếp trớ trêu, oan uổng…
Hai giọt lệ mờ đục trào ra từ
đôi mắt sâu, mí đã gấp nếp nhưng còn ánh lên vẻ đẹp của thời xa xôi. Rồi những
giọt khác nối tiếp nhau lăn qua gò má dăn deo, chi chít vết thời gian đầy ải.
Bà lão cởi tấm khăn vuông đội đầu xuống, chặm nước mắt, hỉ mũi, cố chặn lại tiếng
nức nở.
Tôi khép cửa, ngồi xuống chờ
đợi. Lát sau, khi những tiếng nức nở dịu dần, bà cụ bắt đầu kể chuyện.
Ở làng Mơ, gia đình bà vốn
là một nhà trung lưu, nền nếp, được mọi người kính nể. Ông bà cụ khéo tính toán
làm ăn nên đời sống khá dư dật. Những dịp giỗ tết, cưới cheo, đình đám… trong
làng ngoài xã không ai dám buông một tiếng ỉ eo. Ông bà cụ có ba con: hai trai,
một gái. Anh con cả là sĩ quan, cấp tá đóng tít tận miền Nam, thi thoảng mới về
làng, đem theo một cô vợ Sài Gòn những ríu rít như tiếng chim, quần áo là lượt,
môi son má phấn. Thoạt đầu, người làng đi theo chị xem hệt như xem người ngoại
quốc. Sau ve dịu dàng lẫn tiếng cười hồn nhiên của chị chinh phục được họ. Hai
đứa con trai chị cũng nói giọng miền Nam nhưng cực kỳ kháu khỉnh, lễ phép, gặp
ông già bà cả chúng đều vòng tay cúi đầu chào, khiến ai nấy nức nở khen ngợi.
Lũ trẻ mất dạy trong làng phát ghen lên vì những tấm sơ mi sạch bong, không dây
vết mực, những đôi dép đế kếp, những chiếc quần Jin thứ thiệt của chúng. Tóm lại,
gia đình người con cả tuy xa xôi nhưng luôn nuôi giữ cho hai ông bà mối hãnh diện
với bà con xóm mạc. Anh con trai thứ hai dạy cấp hai ở một huyện cách làng vài
chục cây số. Tuần một hai lần anh phóng xe máy về. Ông bà cụ đã cưới cho anh một
cô dâu hiền lành đảm đang, làm trong ban quản trị hợp tác. Người con dâu thứ
hai tuy có kém nhan sắc nhưng bù lại, chị rất khéo léo chiều bố mẹ chồng, lo từ
chai rượu của ông bố tới miếng trầu, tấm áo cho bà mẹ. Vả lại, chị khỏe mạnh,
ngay từ năm đầu tiên về làm dâu đã đẻ cho hai cụ một đứa cháu trai lọt lòng vừa
đúng bốn cân. Việc nặng trong nhà, một tay chị quán xuyến. Trai làng, dẫu xốc
vác, chưa chắc đã có nhiều người giúp sức, lo toan mọi sự trơn tru như chị. Quả
tình, trời đã cho hai ông bà đứa con dâu ấy để làm cột trụ trong nhà, gánh vác
gia cảnh lúc họ vào tuổi xế bóng. Ngày ngày, cứ bế đứa cháu to như chiếc cối
đá, trắng phau phau họ đã nở nang gan ruột, chẳng cần phải mâm cao cỗ đầy. Cả
cuộc đời cần cù làm lụng, ăn ở có nhân có đức với kẻ dưới người trên của họ được
đền bù xứng đáng nếu không có người con gái út, cái cô Hồng đa đoan kia…
Người con gái út thông minh,
nhanh nhẹn từ thuở nhỏ. Lên năm lên sáu, cô bé đã chỉ huy cả đám trẻ chăn trâu
trong làng đánh trâu vượt đầm, vượt sông dăm bảy cây số tới bãi cỏ xã khác. Xã ấy,
toàn dân buôn nên ruộng bỏ hoang, cỏ đồng tốt lút chuôi dao. Tuy vậy, thấy trâu
làng khác tới ăn họ vẫn vác hèo ra đuổi. Cô bé Hồng bày ra đủ thứ trò tinh quái
chống lũ người ích kỷ. Cuối cùng, lũ trẻ chăn trâu đủ nhẫn nại để thắng họ, và
đàn trâu làng Mơ trở thành đàn trâu lý tưởng cho bất cứ hợp tác xã nào trong
vùng. Lớn thêm một chút, Hồng đi học. Bao giờ cô bé cũng dẫn đầu lớp. Bọn con
trai muốn nhờ cô giải toán hoặc làm văn hộ đều phải cõng cô qua ngòi, hoặc nộp
những thứ quà mà chúng có trong túi: Từ quả nhót cho tới nắm xôi. Năm mười ba,
sang tuổi dậy thì, Hồng lớn vùn vụt, và nhan sắc cũng biến đổi từng ngày. Chỉ một
mùa hè, cô đã từ đứa bé trở thành một thiếu nữ má đỏ như gấc chín. Học ở đâu
cũng thế, đám con trai lớn tuổi lẫn những ông thầy giáo trẻ quanh quẩn nhét thư
vào túi áo hoặc kẹp giữa những trang sách của Hồng. Cô gái chưa yêu ai cả, suốt
ngày chơi đùa với chúng bạn và cười như đứa trẻ.
Thế nhưng, nhan sắc lồng lộng
của cô đã khiến bố mẹ cô lo lắng. Hồng nhan phải kiếp đa đoan, lời các cụ đã nhắc.
Hai ông bà bàn tính, cố tránh cho con gái một số mệnh trầm luân nen buộc cô
thôi học. Hai cụ nghĩ rằng sự nhiễu loạn do cô gái gây nên cho đám con trai ở bất
cứ nơi nào cô đến sẽ là tai ương giáng xuống đầu họ. Tốt nhất cho cô ở nhà, làm
hợp tác xã hoặc xin dạy mẫu giáo, kiếm một người chồng tử tế. Năm ấy, Hồng đang
học lớp chín, chỉ một năm nữa, cô sẽ thi đại học. Việc bố mẹ bắt thôi học về dạy
mẫu giáo làm cho cô choáng váng như sét đánh. Cô khóc lóc, van xin, kêu gào nhiều
tuần lễ hỏi hai ông bà sắt đá không lay. Các bậc bố mẹ bao giờ cũng tin rằng
mình đúng. Vốn sống trong gia đình nề nếp, cô gái nguôi dần, mặc dù cô không
tin rằng bố mẹ đã tính xa hơn và chính xác hơn bản thân mình. Giấc mơ đại học
nguôi đi trong cuộc sống mới. Lúc ấy, Lương xuất hiện. Anh ta vốn là bạn với
anh trai thứ hai của Hồng, đi học trung cấp thủy lợi rồi ra làm việc ở tỉnh
khác đã vài năm. Lương ít về quê. Vì cách sông cách đò, anh vắng mặt hơn một
năm mới trở về thăm bố mẹ. Cô thiếu nữ xinh đẹp xuất hiện trước mặt anh ta như
giấc mơ, bởi lần phép trước, anh mới chỉ thấy cô là một cô học trò kháu khỉnh.
Lương đã si mê Hồng ngay tức khắc. Bố mẹ anh ta thúc giục con trai lấy vợ từ
lâu mừng rơn, hối hả mở một chiến dịch, bao vây gia đình và bản thân cô gái bằng
những quà tặng, những lời hứa hẹn êm dịu, những viễn ảnh tốt đẹp của cặp uyên
ương. Về mặt gia cơ, hai gia đình cũng tương xứng. Bố mẹ Hồng chỉ đắn đo vì thấy
Lương hiền lành, ít nói nhưng bà mẹ anh ta đáo để tai quái nổi tiếng trong xóm,
ngoài làng. Đúng lúc hai ông bà đang chần chừ, bà nội của Lương ốm nặng. Anh ta
đã vác bộ mặt sầu thảm tới gặp họ van vỉ. Khi hai ông bà mềm lòng, anh ta lại đến
gặp Hồng xin cô thương cho cảnh sống đơn chiếc muộn màng của mình. Hồng đang lẻ
loi, đám bạn cùng tuổi khá sắc sảo đã lên tỉnh học. Quanh quẩn trong làng chỉ
còn các bà nạ dòng với các cô gái ít may mắn và cũng kém thông minh. Chuyện trò
với họ hết ngày đến đêm chũng quanh quẩn những cơm áo, lúa mạ, việc cưới xin,
ma chay, mảnh quần lụa đen lên giá bao nhiêu đồng hoặc sắm một tấm áo mùa đông
hết bao nhiêu thúng thóc… Dẫu sao, Lương cũng có học và đang làm việc. Qua anh
ta, cô thấy một thế giới rộng lớn hơn cái thế giới tủn mủn đang tù hãm mình. Vả
chăng, cái mặt anh ta tuy không thật đẹp nhưng cũng dễ coi… Và, chỉ trong vài
tuần, lễ cưới kèm theo sau lễ hỏi. Các gia đình trong họ, chưa kịp ăn hết cau
sêu Tết lần trước đã nghe pháo đón dâu vang lên ngoài ngõ và thấy cô dâu Hồng,
má đỏ, môi đỏ, mặc áo dài quần trắng như dân thị xã đi từ ngõ nhà mình tới ngõ
nhà chồng, giữa một đoàn người huyên náo cười nói…
Cưới xong, những lời hứa hẹn
tốt đẹp của ông bố bà mẹ chồng tan biến cùng khói thuốc. Họ chẳng cho Hồng nhà
riêng, cũng chẳng cắt cho một nửa mảnh vườn, cũng chẳng mua cho cô chiếc xe đạp
Thống Nhất nữ… Khi họ trắng trợn tuyên bố những điều đó, Hồng có thai hai
tháng. Cô khóc ba đêm ngày rồi về nhà xin một đôi khuyên hai đồng cân. Bản năng
người đàn bà, kẻ tạo dựng và kiến thiết thành lũy gia đình vụt trồi lên trong
tâm hồn cô, với tất cả sức mạnh của thù hận, với sự tinh khôn và ý chí chiến thắng,
cô đã tiêu diệt cô gái mơ mộng trong mình, lao vào cuộc vật lộn với đời sống,
chỉ một mục đích làm giàu và khiến cả dòng họ nhà chồng phải nhục nhã về sự bội
ước trắng trợn, đê hèn của họ…
Cô bỏ nghề dạy mẫu giáo, đi
buôn. Từ những chuyến buôn vặt từ xã tới tỉnh lỵ, cô đã vượt sang những chuyến
buôn đường xa từ tỉnh này qua tỉnh khác, tới cả thủ đô. Vốn liếng nhân lên rất
nhanh, Hồng bắt đầu mua đất khi giá đất còn hạ. Cô làm ba gian nhà. Rồi vài năm
sau, giá đất tăng vọt lên, cô cắt nửa mảnh đất cũ bán đi lấy tiền gây ngôi nhà
mái bằng mới, biến ba gian nhà cũ thành nơi để hàng và đồ gia dụng. Đồng tiền
trong tay cô xoay như con thò lò, sinh sôi nảy nở từng ngày từng tuần một. Làng
Mơ vốn là làng nửa nông nửa thương từ xưa. Đám đàn bà đi buôn khá đông và khá
sành sỏi nhưng chưa ai phất lên một cách kì lạ như Hồng. Người bảo cô mát tay
buôn, người bảo đôi mắt mê hồn của cô hút thần Tài nên tiền bạc tuôn vào nhà cô
như nước. Vốn thông minh, đi nhiều, Hồng đã đem lại cho gia đình cô những tiện
nghi sinh hoạt mới nhất mà dân đô thị cũng phải mơ ước. Chiếc máy thu hình đầu
tiên trong tỉnh là máy của cô chứ không phải của dân thị xã. Và suốt ba tháng,
từng đoàn trai gái từ tỉnh lỵ men theo hồ tới làng Mơ xem nhờ màn ảnh nhỏ. Chỉ một
điều lạ, khác hẳn những người đàn bà trong làng, Hồng không thu vén cho cái tiểu
gia đình của mình. Tất cả những thứ tài sản có giá trị nhất cô đều cho bố mẹ: từ
máy thu hình tới ra- đi- ô cát- sét, từ quạt để bàn tới tủ lạnh hoặc sa- lông.
Gia đình bên chồng căm tức, lồng lộn. Họ chửi cạnh khóe đủ điều nhưng Hồng chỉ
cười nhạt. Cô trở nên một đối tượng để họ vừa thù ghét vừa sợ hãi…
Khi Hồng có đứa con thứ hai,
Lương gặp tai nạn sụt xương sống. Anh về mất sức, mở hiệu thợ may. Vợ anh đã lo
đủ tiền gửi anh học nghề thợ may sáu tháng ở thị xã và cất công xuống tận Hải
Phòng mua cho chồng một chiếc máy khâu Con Bướm nguyên hộp. Nhưng Lương vốn bạc
nhược. Anh ta không có sự tinh tế lẫ đức cần cù để trở thành một người thợ may
giỏi. Ỷ lại vào tài kiếm tiền của vợ, Lương rong chơi suốt ngày. Trong các cuộc
rượu la cà, anh nghe lời xúc xiểm của họ hàng gia quyến rằng Hồng thu vén cho bố
mẹ đẻ cô, rằng sự thu vén đó xâm phạm vào quyền lợi và lòng tự trọng của anh, rằng
anh không thể tha thứ cho cô mà phải chứng tỏ uy lực của mình. Hết cuộc rượu,
anh chồng hùng hổ về nhà, co chân đập cửa và bắt đầu chửi vợ.
Thoạt đầu, Hồng im lặng chịu
đựng. Sau, cô nhắc cho Lương hiểu rằng anh không có quyền đòi hỏi những gì anh
không gặt hái được. Rằng cho tới tận lúc này anh cũng chỉ là một kẻ sống thừa,
dựa trên những giọt mồ hôi của cô. Sự bất lực và nỗi nhục nhã khiến Lương càng
điên khùng hơn, anh ta đập phá đồ đạc hành hạ con cái, và cuối cùng đánh vợ.
Đúng lúc đó, người đàn ông thứ hai xuất hiện. Anh là một thiếu úy giải ngũ,
cũng ở cùng xã nhưng mới rời khu trại về làng. Cùng tuổi với Hồng, anh ta cường
tráng, dẻo dai và hấp dẫn bất kỳ người nào nói chuyện với anh bằng sự cởi mở,
thân thiện. Hồi chiến tranh, anh đã ở chiến trường miền Nam vài năm, rồi đóng
quân ở Cam Ranh, Đà Nẵng, sau rối về Hải Phòng trước khi giải ngũ. Bố mẹ anh dạm
hỏi cho anh một cô gái ở xóm Trại khi anh vắng nhà, và làm lễ cưới trong tuần
anh về phép. Anh đẻ với cô một đứa con trai nhưng thẳng thắn tuyên bố rằng
không hợp nên hai người khó có thể sống lâu dài…
Tôi hỏi bà già:
- Anh thiếu úy ấy có dám
tuyên bố công khai rằng yêu cô Hồng không bác?
Bà già đáp:
- Có, nó ngỗ ngược như thế mới
khổ cho chúng tôi. Ba năm nay, gia cảnh nhà tôi như địa ngục. Cứ mỗi bận chúng
nó đi với nhau, thằng Lương lại đánh con cháu Hồng thừa sống thiếu chết. Rồi tới
khi nó biết, nó lại trả thù anh em nhà Lương. Tay chủ tịch xã dọa nạt mãi cung
không nổi.
- Tại sao bữa trước, gia
đình bác không ai can thiệp?
- Ai dám can hở cậu? Con gái
mình ngoại tình, họ có đánh chết cũng phải ngồi yên trong nhà mà nghiến răng lại.
Cậu nghĩ xem, máy chảy ruột mềm, dù có hư đốn cũng là thịt mình dứt ra…
- Nếu cô Hồng không còn yêu
anh Lương nữa, sao bác không cho họ ly hôn.
- Cậu ơi, ở nhà quê chúng
tôi bỏ vợ bỏ chồng là việc điếm nhục gia phong… Mà chúng tôi có cho bỏ thằng chồng
nó cũng không chịu ký. Ngày nào nó cũng uống nửa lít rượu, lại cờ bạc nữa, rời
con bé Hồng thì biết móc ở đâu ra?…
Bà già nói những lời cuối với
vẻ tuyệt vọng. Từ đôi mắt mờ đục, những giọt lệ lại trào ra. Vừa lau nước mắt
bà vừa thu lượm đồ, rồi chào tôi ra về.
Tôi ngồi lặng hồi lâu, óc
não xáo trộn. Một gương mặt đàn bà lạ lẫm nở rộng trước mặt tôi, biến thành đất
đai, đồng ruộng. Đôi mắt sầu não như hai mảnh hồ và những dòng nước mắt trào ra
bất tận như những con suối âm chú, đầy lá cây và xác thú thối rữa. Rồi phía sau
gương mặt người đàn bà vô danh ấy, là thiếu phụ bữa trước, với đôi gò má ửng đỏ,
cặp mắt đen mê đắm mở rộng luôn khơi mở một thế giới lạ lùng, cặp môi tròn
trĩnh tựa trái cây chín lúc mùa thu… Tôi không còn phân biệt được những cảm xúc
đang chen lấn trong mình. Xót xa, lo âu, thù ghét, nhớ nhung hay thương xót.
Nhưng tôi không chịu nổi sự giằng xé của chúng. Tôi tới nhà Vũ Sơn.
Anh đang ngồi bó gối trước
bàn, mắt đỏ dọc. Dưới nền nhà, cũng một thúng gạo nếp và những thứ đồ mà bà lão
mang tới cho tôi. Thấy tôi, anh với điếu cày rít sòng sọc liền hai mồi thuốc.
Đoạn, anh bỏ chiếc điếu cày vào chiếc ống đạn cối, bảo:
- Đi, tôi với cậu vào làng.
Anh dắt xe ra cửa, khóa cửa,
nhét khóa vào lỗ thủng ở đầu hồi rồi cùng tôi đạp xe đi. Suốt quãng đường,
chúng tôi cùng im lặng. Khi đã đi hết con đường tỉnh lộ, chúng tôi rẽ lên sống
đê. Chỉ vài trăm thước sau, tôi đã nhìn thấy Thanh Dương ngồi với Hạnh dưới
bóng cây gạo. Họ đang chụm đầu vào nhau trò chuyện nên không nhìn thấy chúng
tôi. Tôi nói:
- Quay về đi anh Sơn, để
ngày khác.
Vũ Sơn đang cắm cúi đạp, chợt
ngẩng lên. Và anh vừa phanh vừa chống đôi chân dài nghêu xuống đường. Hai chúng
tôi quay lại tỉnh lỵ. Vũ Sơn nhếch mép cười, rồi bảo:
- Cậu thấy không, cái mặt thật
của đời bao giờ cũng nửa đen nửa trắng. Chuyện bi ai nhất ở sát cạnh những trò
hài, tôi đánh cuộc cái đầu tôi với cậu: Dù có sống ba trăm tuổi, cậu cũng sẽ
không bắt gặp một việc gì đó, chỉ đơn thuần đem tới nước mắt hay đem tới niềm
vui…
° °
°
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét