Làng Lưu Công Nhân vẽ 1960 |
CÁC VĨ NHÂN TÌNH LẺ
Phần 1
Dương Thu Hương
Trời
mưa mãi. Cái quán giải khát của phố huyện chỉ một mình tôi ngồi. Cốc cà phê đã
hết từ lâu, lớp nước đá tan đọng bên dưới. Góc này và góc kia, những chiếc bàn
bằng đá li- tô nhớp nháp đứng giữa những chiếc ghế chân sắt, trông lạnh lẽo và
thô bỉ. Làn ánh sáng trắng đục từ ngoài trời hắt vào như một thứ nhựa dính bám
lên các đồ vật, khiến chúng thảm hại hơn. Ở quầy hàng, cô mậu dịch viên quai mồm
ngáp, không buồn che đậy hai hàm răng đã hỏng men. Lát sau, cô lấy chiếc lược
ra, cẩn thận chải lại mớ tóc uốn loăn xoăn, kiểu tóc thường thấy ở các thị xã
xa đường quốc lộ. Một lũ ruồi vo ve lượn từ bàn này qua bàn khác, va đập vào tủ
kính rồi tìm cách lọt vào trong, mon men bò trên những chồng bánh nướng bánh dẻo
đã khô cứng.
Tôi cứ nhìn đồng hồ mãi, muốn
điên lên vì cơn mưa rả rích. Thời tiết này, dễ phải chôn chân ở đây rồi kiếm một
chỗ ngủ vạ vật cho qua đêm, chờ sáng mai mới về được. Tỉnh lỵ Q quê tôi ở bên
kia một dòng sông lớn. Trời mưa này, nhà thuyền nghỉ không chở khách. Dù có hò
rát cổ hay khóc hú lên họ cũng cứ khép cửa, neo thuyền không sang. Cầu không,
phà không, mà phương sách cuối cùng là bơi vượt sông cũng không thể được vì tôi
vốn nhát nước và yếu phổi.
- Mưa thối trời thối đất. Kiểu
này đến phải đong thóc phòng đói thôi…
Cô mậu dịch viên nói bâng
quơ. Hai bàn tay mập mạp của cô đập chiếc lược xuống mặt quầy hàng, rõ là đôi
bàn tay của một người đã quen cày cấy.
Tôi hỏi cô:
- Mưa này hại lúa lắm phải
không?
Cô gật đầu đáp:
- Lúa thối mà khoai ven bãi
cũng thối luôn. Rồi còn đói vàng mắt.
Tôi nhìn những lớp nước xiên
cheo chéo bên ngoài, không hề hứa hẹn một tia hy vọng nào, vừa lo vừa nản:
- Trời này tôi đành bó tay
thôi.
Cô gái gốc quê gật mái đầu
tóc quăn, có ý làm dáng:
- Bó tay là cái chắc. Nhưng
từ giờ tới chiều còn một chuyến ô tô nữa, thế nào cũng có khách chờ đò. Anh kết
bạn với họ mà thuê nhà trọ.
Ý nghĩ của cô ta xác thực.
Chưa bao giờ tôi phải ngủ qua đêm ở phố huyện. Nhưng tôi thường nghe mọi người
nói rằng muốn ngủ trọ ở đây ít nhất phải có một, hai người bạn đồng hành. Cái
dãy phố ven sông này giống như cửa gió, nó đón mọi thứ gió của bốn phương trời
hội tụ. Đủ các loại người buôn xuôi bán ngược, những kẻ lỡ độ đường, những người
thất cơ lỡ vận theo đường tỉnh lộ và theo dòng sông mà ghé độ ở đây một vài
đêm, một vài ngày, nghỉ ngơi hoặc toan tính, nuôi dưỡng những hy vọng hoặc chất
chồng thêm những thất vọng cho quãng đường sắp tới của mình. Những câu chuyện
ly kỳ về thân phận con người thường được truyền đi từ các phòng trọ. Các may mắn
và tai ương cũng thường xảy ra nơi ấy, nhưng tai ương bao giờ cũng nhiều hơn.
Tôi nhớ lại lần lượt những chuyện đã được nghe về phố huyện ven sông này. Rồi
lo âu phấp phỏng, từ phút ấy tôi chỉ ngóng ngóng chờ xem chuyến xe thứ hai đã tới
phố huyện hay chưa?
Chừng như hiểu được tâm trạng
tôi, cô mậu dịch viên nói:
- Thế nào cũng có chuyến xe
nữa. Mọi hôm nó tới bến lúc ba giờ.
Nhưng trời đất này, có khi
phải sập tối.
Ngừng vài giây, cô nói thêm:
- Anh có đói bụng thì mua
bánh mà ăn. Ở đây, chẳng - có gì hơn đâu.
Vâng, cám ơn cô.
Tôi đáp rồi bước tới quầy,
mua một cặp bánh chưng. Quả tình tôi muốn chờ ngớt mưa đi tìm một quán bún hoặc
phở khả dĩ ăn một bát cho ấm bụng. Nhưng tình thế này, suy tính ấy đã trở nên
sai lạc. Trở lại chỗ ngồi của mình, tôi bóc bánh ăn. Mỗi chiếc bánh có một cục
lá độn bên trong. Gạo nếp dẻo nhưng nhân lại bằng thứ đậu cua nhạt nhẽo. Cô bán
hàng buồn bỗng cất tiếng hát một điệu chèo. Tiếng mưa rì rào không ngớt bên
ngoài làm nhạc đệm cho khúc hát của cô. Xưa nay, tôi không thích nghe hát chèo,
nhưng tôi biết làn điệu chèo đạt tới đỉnh cao những cảm xúc của con người.
Không một ca khúc mới nào chiếm lĩnh được miền đất ấy, không ca khúc mới nào có
thể gây cho con người trạng thái hoàn tất và trọn vẹn đến thế khi nó muốn dẫn dắt
họ bước tới vùng hoan lạc khi hay trượt xuống vực sâu của nỗi xót xa. Những làn
điệu thảm khốc của chèo dường như không còn là âm thanh đơn thuần mà chúng đã
trở thành sự huyến dụ vật chất tựa bàn tay lôi kéo, tựa ánh mắt đắm chìm, tựa
tiếng kêu xé ruột đẩy con người tới cõi tận cùng của đau đớn não nề. Phải chăng
vì cơn mưa này, vì tiếng rì rào bất tận của dòng sông chìm trong màn nước trắng
bạc kia, vì khoảng không gian bao la không còn hạn hẹp bởi các phố xá, tường
vách, không còn chói chang bởi tiếng nhạc disco và ánh sáng đèn thuỷ ngân, phải
chăng cảnh trí thay đổi đã đem lại cho tôi một tâm trạng mới và một cảm xúc
thâm sâu khi tôi nghe tiếng hát chèo sai lạc…
Mải mê với ý nghĩ ấy, tôi chợt
giật mình khi hai người khách mới bước vào quán. Bất thần, tôi liếc đồng hồ:
- Bốn giờ mười lăm phút.
Chuyến ô tô thứ hai đã trễ không quá một tiếng rưỡi.
Hai người khách mới cởi áo
mưa, rũ xoàn xoạt một cách tự nhiên, rồi quẳng chúng lên chiếc bàn trống gần cửa,
bước vào tìm chỗ ngồi. Họ lượn đi lượn lại hai lần, để tìm chiếc bàn sạch nhất:
- Thôi, ngồi đây.
Người cao gầy, trắng trẻo bảo
bạn. Anh kia da bánh mật, thấp đậm, đôi mắt đen dài. Họ cùng xách thứ cặp giả
da, mài đen với những khóa lớn, khóa nhỏ mạ kền. Chắc chắn đó là thứ hàng của
nước ngoài.
- Kiếm vài chiếc bánh chưng
chén đã. No bụng rồi muốn nói chuyện trên trời dưới biển gì cũng xong.
Người cao gầy nói tiếp. Đoạn,
anh ta giơ tay vẫy cô mậu dịch viên:
- Đem cho anh vài chiếc bánh
ra đây.
- Vâng ạ.
Cô gái to béo đáp rồi cung
cúc xách chùm bánh chưng tới đặt trên bàn. Tôi chưa hết ngạc nhiên anh ta đã lại
nói tiếp, cũng với giọng sai phái như lúc trước:
- Pha ấm chè tráng miệng
nhé. Hồi này chè có khá hơn không hay vẫn thứ chè bồm ngang nhà lúc trước:
- Không đâu ạ…
Cô mậu dịch viên đáp: Em đã mua chè Thái chính cống rồi.
Nói xong, cô hối hả chụp chiếc
nón vẫn ném lăn lóc dưới sàn lên đầu, vượt qua khoảng sân đang rào rào mưa để tới
dãy nhà nhỏ phía sau, chắc hẳn là kho hay và bếp. Vẻ lười nhác thô lậu biến mất,
cô gái xăng xái, tươi tỉnh hẳn lên. Và dường như một nỗi sợ hãi mơ hồ nào đó chế
ngự cô, khiến ánh mắt cô vừa thăm dò lấm lét. Chừng hai phút sau, cô trở lại với
chiếc phích Trung Quốc cũ, được bọc cẩn thận bằng giẻ vụn. Buông gấu quần xuống,
cô lôi trong quầy ra một chiếc ấm trà nhỏ có lẽ đã mốc thếch từ lâu, rửa đi rửa
lại bằng nước mưa hứng ở mái hiên. Rồi, cô tráng lần nữa bằng nước sôi trong
phích, đổ trà vào pha. Trong lúc đó, hai vị khách bóc bánh ăn. Họ ăn tóp tép,
ngon lành. Khi cô gái bưng đĩa ấm chén tới, bốn chiếc bánh chỉ còn là một đống
lá trên mặt bàn.
- Dọn đi, dọn đi cho anh.
Người cao gầy hất hàm bảo cô
mậu dịch. Dáng điệu uy quyền ấy càng khiến tôi tò mò. Trong lúc tôi đang cố cắt
nghĩa mối quan hệ giữa người khách lạ với cô bán hàng thì chính anh ta đã ngẩng
lên nhìn tôi qua đôi kính cận dày cộp:
- Lại đây, lại đây uống nước
cậu.
Cách ăn nói suồng sã khiến
tôi ngạc nhiên nhưng vẻ tự tin của anh ta chinh phục tôi. Dường như bị ảnh hưởng
sự phục tùng tôi đi tới ngồi bên anh ta, trước chén nước trà nghi ngút khói.
Lúc đó, cô mậu dịch viên cất
tiếng:
- Anh ấy cũng về Q đấy.
Người đeo kính trắng nhìn
chõ vào mặt tôi:
- Cậu dân ở Q à?
Tôi gật đầu:
- Vâng.
Anh ta nhíu mày, lục tìm trí
nhớ:
- Quái lạ, sao tôi không biết
nhỉ. Hồi nhỏ, cậu học trường nào?
Tỉnh lỵ có ba trường phổ
thông cấp I. Nhưng tôi không học ở một trong số ba trường ấy mà học ở một làng
chuyên trồng thuốc lá với hành tây ngoại thị. Cái làng ấy nổi tiếng về sự trù
phú cũng như về những người đàn bà có biệt tài ứng đối trong giao tiếp. Tôi
đáp:
- Trường tôi học ở Ngàn Sơn.
- À, thể nào tôi không nhớ
được mặt cậu. Nhưng dẫu sao, chúng ta cũng là đồng hương. Anh em ta kết bạn được
đấy. Tôi là Vũ Sơn, nhà báo. Còn đây là thi sĩ Thanh Dương. Cậu tên là gì?
- Tôi tên Nam, làm thợ buồng
tối.
Tôi đáp, với một chút mặc cảm
vì nghề nghiệp của mình chẳng có gì đặc sắc so với họ. Nhưng Vũ Sơn đã thân mật
vỗ vai tôi:
- Nghề ấy là sướng nhất đấy.
Mưa không đến mặt nắng không đến đầu. Giá mà đổi được tôi đổi nghề cho cậu
ngay. Thôi, uống nước đi cho nóng.
Bàn tay anh ta mỏng, mềm.
Nhưng tôi thấy nó lạnh như con cá nhơm nhớp mồ hôi. Đó không chỉ là một cảm thức
mơ hồ, mà giống như sự đoán định. Tuy thế, tôi cũng thầm cảm ơn vẻ hồ hởi của
anh ta vì nó bớt cho tôi rất nhiều lo âu vẩn vơ và nỗi cô đơn. Chúng tôi lặng lẽ
uống chè, hết tuần này tới tuần khác. Khi nước nhạt, Vũ Sơn lại gọi cô mậu dịch
viên pha ấm trà khác. Cô gái vẫn ngồi phía sau quầy hàng, đon đả phục vụ ngay.
Vẻ mặt cô ta ngoan ngoãn như vẻ mặt của một con cún tới bữa ăn. Tôi đưa mắt
nhìn Vũ Sơn dò hỏi, nhưng anh ta dường như không thèm để ý tới vẻ băn khoăn của
tôi. Gỡ kính lau song lại đeo vào, đầu ngẩng cao nghiêm nghị anh nhìn ra làn
mưa trắng xóa. Những đợt nước rây chéo qua khung trời, lúc thưa lúc mau, không
một phút ngừng. Ánh nắng chiếu qua màn nước lúc đang trưa ánh lên như bạc giờ
đã ngã sang màu tro tím. Hơn năm giờ chiều rồi. Chẳng mấy chốc trời sẽ tối sập
xuống ngay. Lẫn trong tiếng rì rào êm nhẹ của dòng sông, tôi đã nghe tháy những
cơn gió reo qua dãy cột điện trong các khu vườn quanh phố.
- Có lẽ chúng ta nên đi tìm
quán trọ.
Tôi rụt rè đề nghị hai người.
Lúc này, nhà thơ Thanh Dương mới lên tiếng:
- Anh Nam có lý đấy. Đi
thôi.
- Ờ, đi.
Vũ Sơn đáp với giọng thờ ơ rồi
đứng lên. Chúng tôi trùm áo mưa đi tới quán trọ gần nhất. Suốt quãng đường, vẻ
đăm chiêu trên gương mặt nhà báo khiến tôi không dám bắt chuyện. Anh ta đang mải
nghĩ gì đó, những nếp nhăn hằn trên trán. Cần cổ gầy guộc vươn ra phía trước.
Những giọt nước mưa bám đầy trên hai má và chảy dọc theo sống mũi nối nhau rơi
xuống cằm.
Chúng tôi lội bùn lép nhép,
cố giơ cao gót chân để bùn khỏi bắn lên. Đi ngược lại phía chúng tôi, một đứa
bé dong chiếc xe bò chở gạch. Chú bé ở trần, mưa chảy thành dòng từ đầu xuống
chân. Những món tóc tơ của nó dính bết vào trán. Nhiều lắm, nó mới được mười
hai tuổi.
- Vắt rừ rừ rừ…
Chú bé quất cái dây da đen
lên lưng con vật và đưa mắt tò mò nhìn chúng tôi. Đột nhiên, Vũ Sơn cất tiếng
quát:
- Mưa gió thế này còn dong
xe đi hử? Bố mẹ mày đâu rồi?
Chú bé đánh xe bò đứng khựng
lại, sợ hãi nhìn người đàn ông không quen biết vừa quát nó một cách vô lý. Mắt
anh ta đỏ hoe, giương lên sau cặp kính. Thằng nhỏ đứng như trời trồng, không
nói năng chi. Tôi ngỡ rằng Vũ Sơn sẽ còn nói tiếp điều gì đấy với đứa trẻ,
nhưng anh ta đã lằm lằm bỏ đi, giẫm những bước chân giận dữ xuống bùn khiến nhà
thơ Thanh Dương lẫn tôi cuống cuồng bước theo và đứa bé nhìn ngơ ngác. Vượt qua
hai ngôi nhà nữa, Vũ Sơn đột ngột cất tiếng:
- Thời tiết chó đẻ.
Chúng tôi cùng im lặng không
đáp. Anh ta nói tiếp, với một giọng gộc lên vì đau đớn:
- Thật khốn nạn cho chúng
ta. Trời đất này, con em người ta ngồi trong cung văn hóa tập múa, gõ đàn hay
chơi bóng. Còn con em mình dong xe bò đi chở gạch kiếm tiền. Cái trái đất ông
Bàn cổ nặn ra thì tròn mà số phận con người lại méo. Các cậu thử nghĩ xem có quốc
gia nào nghèo khổ hơn nước mình hay không.
Cả nhà thơ trầm tư lẫn tôi đều
im lặng. Chẳng có gì mới hơn để trả lời câu hỏi ấy. Nhưng tôi đồng cảm với nỗi
cay đắng của Vũ Sơn. Anh ta vẫn bước đi hối hả, đầu cúi gằm, và từ đôi mắt đỏ
hoe những giọt nước mắt thầm lén chảy qua mi, hòa với nước mưa, chảy dọc theo sống
mũi nhọn.
Chừng dăm phút sau chúng tôi
tới quán trọ. Một ngôi nhà rất rộng, với bốn căn phòng vuông như hình bánh
chưng, các bức tường ám khói ẩm nước; những chiếc giường gỗ cũ kĩ, thô kệch kê
đối diện nhau như giường ở bệnh viện. Cứ hai giường có một bàn nước nhỏ, trên đặt
ngọn đèn dầu hỏa bóng hình trái đào. Một cái lọ thủy tinh khô khốc xưa kia dùng
để cắm hoa, giờ là nơi trú náu cho vài ba con nhậy. Không có tủ đứng, cũng không
có kệ chứa đồ nên khách trọ tùy ý đặt hành lý của mình ở cuối giường ngủ hoặc
trên bàn nước. Chủ trọ là một người đàn bà to béo, khuôn mặt dài, hai hàm răng
thô và khỏe như răng ngựa. Bà ta sắp cho ba chúng tôi ở phòng với một ông lão
người Nùng, gầy gò, ủ ê. Ông cụ từ miền thượng du sông theo đò dọc xuống đây.
Ngày mai, ông cụ sẽ gửi mua vé ô tô chợ đen để về Hà Nội thăm đứa con trai độc
nhất mổ dạ dày.
Sáu giờ rưỡi, trời tối sập.
Mưa càng nặng hạt hơn. Gió từ thượng nguồn sông đổ về. Tiếng rít lạnh lẽo, thâm
chú bao quanh các căn nhà, vây bọc con người bằng những ảnh hình huyền bí, biến
họ trở thành những đứa bé yếu đuối cần chở che. Vào thời khắc ấy không ai muốn
bước chân ra ngoài. Những cây đèn trái đào được thắn lên trong các căn phòng.
Khách trọ túm tụm tán chuyện hoặc theo hành lang chung đi tới căn bếp của bà chủ
trọ. Ở đây bà chủ bán trứng vịt luộc, bánh sắn và xôi với giá cắt cổ. Trong ba
người, tôi ít tuổi hơn cả nên tự nguyện xuống bếp, mua đồ ăn đem lên. Chúng tôi
vừa ăn vừa hỏi chuyện ông lão người Nùng.
- Cậu có vợ con chưa?
- Chưa.
- Thế là khỏe xác.
Nhà báo nói to: Tôi một vợ
hai con rồi. Cậu Thanh Dương này cũng thế. Chỉ có điều khác là vợ con tôi ở Q,
còn cậu ta lấy được gái Hà Nội, gia đình ở cả bên ngoại.
Tôi nói:
- Không phải tôi muốn khỏe
xác, mà tôi chưa tìm được người cả tôi lẫn bố mẹ tôi đều ưng thuận.
Vũ Sơn quay lại nhìn tôi như
quái vật, rồi anh ta xì bọt qua kẽ răng:
- Tại sao cậu lại có những ý
nghĩ đần độn thế. Cậu muốn bố mẹ cậu và cậu yêu chung một người à? Vậy thì hoặc
là cậu hoặc là ông bà già của cậu phải mắc chứng liệt thần kinh và không còn
làm chủ được ý nghĩ của bản thân nữa. Liệu cậu có muốn ôm ấp một cô nàng răng
đen, váy lĩnh, tóc bỏ đuôi gà không? Nhưng đó chính là người đẹp lý tưởng của cố
nội, cố ngoại, ông nội, ông ngoại cậu. Người cùng một thế hệ còn khó dung hòa
được các quan niệm sống nừa là người cách biệt nhau hàng vài chục tuổi…
Nhà báo ngừng lại. Xưa nay,
chưa ai nói nặng lời với tôi đến thế nhưng vẻ chân thành và nồng nhiệt của anh
ta khiến tôi không mảy may tự ái. Vũ Sơn không để ý tới tôi, nói tiếp:
- Nếu còn tự do thì hãy giữ
lấy tự do của mình, được ngày nào hay ngày ấy. Vợ con là thứ xiềng xích ghê gớm
nhất mà đã chui đầu vào anh chớ hy vọng thoát ra…
Dứt lời, anh ta vớ lấy điếu
cày móc ở bàn nước, nạp thuốc châm lửa rít sòng sọc. Đốm lửa cháy sáng trên nỏ
cày rọi vào gương mặt, rõ những nếp nhăn li ti trên gò má và đuôi mắt. Chợt,
anh ta quay lại chăm chú nhìn tôi:
- Nhưng thôi, vớ được cô nào
tử tế thì cưới tắp lự cho xong. Dễ mấy ai sống được cảnh độc thân trên cõi đời
này. Có cha, có mẹ có vợ, có con còn buồn như trấu cắn nữa là trơ trọi một
mình. Cậu tuổi gì nhỉ… Tuổi Sửu à, vậy thì sang năm cưới vợ là đúng số.
Thanh Dương ngồi bó gối từ
lâu, lặng lẽ nhìn ngọn lửa, anh ta thuộc loại người thầm kín. Tôi cũng không
nói gì thêm. Vũ Sơn nhắm đôi mắt mệt mỏi vài giây rồi lại mở ra, nhìn đăm đăm ô
cửa. Bên ngoài lớp kính cũ kỹ, hoen ố, đêm đen như than. Thi thoảng, một tia chớp
mỏng manh vẽ lên chân trời rạch lửa ngoằn ngoèo, sáng chói. Khoảnh khắc đó, thấy
rõ những hạt mưa thu mài miệt rơi.
° °
°
Tỉnh lỵ Q có tất thảy năm
dãy phố. Đa phần là những dãy phố đã được dựng lên sau thời kỳ tiêu thổ kháng
chiến, rồi dần dà người ta sửa mái, nâng tầng, cải cách dáng nhà hoặc nắn lại
khuôn cửa. Tùy theo túi tiền, tùy theo con mắt thẩm mỹ, tùy theo các cơn hứng
khởi của các khổ chủ mà những ngôi nhà nơi đây được định hình. Không còn một mớ
hổ lốn nào đa tạp hơn kiến trúc ở đây. Từ thứ nhà hiên bức bàn cổ tới các biệt
thự tí xíu, rập khuôn theo kiểu kiến trúc của các biệt thự tiểu chủ mà ta hay gặp
nhan nhản ở Cần Thơ, Thủ Đức, Long An hoặc Mỹ Tho sau ngày giải phóng. Từ những
căn nhà lợp nứa, tường trét tốc- xi xoàng xĩnh tới những nhà mươi, mười lăm
gian, cổng uốn nặng nề, long chầu phượng múa gắn mảnh thủy tinh hoặc mảnh sứ vỡ
trông lóa mắt. Duy chỉ hè phố là vẫn lát đá trắng như xưa. Giữa các phiến đá ấy,
lún phún từng đám cỏ kim và nơi chân tường, những dây cỏ leo mềm mại vươn lên
những chiếc vòi xanh nõn.
Trong thị xã, đám người
trung niên có thể biết rõ lai lịch từng căn nhà, xây cất năm nào, sửa chữa năm
nào, nhờ món lợi tức trời cho hoặc nhờ từng đồng xu tích cóp… Cũng như thế, dường
như người ta quen biết nhau từ đầu phố tới cuối phố, rồi từ phố nọ sang phố
kia. Tôi rời Q, năm mười hai tuổi, ra Hà Nội làm phụ buồng tối cho ông chú ruột.
Từ đó, tôi ở lì ngoài thủ
đô, họa hoằn mới về quê một hai bữa. Lần này, bố tôi ốm nặng, chú tôi thuê thợ
buồng tối ở một cửa hàng khác, bảo tôi về Q, chăm sóc phụng dưỡng bố vài tháng.
Cũng dịp đó, Vũ Sơn nghỉ dưỡng bệnh tràn nước phổi, Thanh Dương được ba tháng tự
do sáng tác, không còn bị quản thúc bởi tờ báo của bộ X nữa. Trời đã cho chúng
tôi cơ hội đó để gắn bó, thân thiết với nhau.
Ngay từ hôm đầu tiên, tôi đã
chứng kiến cảnh Vũ Sơn, đi giữa các đường phố kiêu hùng như một gã gà trống độc
nhất vô nhị dạo qua những chuồng gà mái. Ví như thế kể cũng lố, nhưng quả tình
tôi đã phải sửng sốt thán phục khi cả ông chủ tịch thị xã lẫn mấy bà ngồi bán
vé số đều chào anh ta niềm nở, vồn vã như nhau. Ở quán thịt chó bến ô tô nội tỉnh,
ông chủ quán đầu hói, vác bụng lặc lè chạy ra:
- Nhà báo, vào đây đã. Hôm
nay tôi có món dồi nướng và nhựa mận ngon tuyệt vời.
Tới cuối vườn hoa thiếu nhi,
một thiếu phụ chải chuốt, mặc áo lụa thêu vẫy gọi rối rít:
- Vào đây. Hôm nay chị nấu
xôi gấc vừng dừa. Chưa bán cho ai đâu. Thật may, chú nếm trước đã.
Vũ Sơn ngẫm nghĩ vài giây rồi
tặc lưỡi:
- Vào.
Anh ta giơ tay ngoắc chúng
tôi. Thiếu phụ chủ quán hớn hở đơm xôi vào chiếc đĩa Giang Tây hoa cúc, cẩn thận
ém những hạt xôi đỏ tươi, nhẫy mỡ cho gọn gàng. Rồi bàn tay héo úa của chị rải
những hạt vừng đã lột vỏ lẫn với những sợi dừa nạo lên trên, khéo léo và say mê
như múa.
- Ăn đi các cậu.
Vũ Sơn ra lệnh rồi cầm đũa
trước. Trong khi đó, chủ nhân sửa soạn ấm chén, pha trà. Mùi chè ướp hoa nhài
ngào ngạt bay.
- Thằng Lữ nhà chị dạo này
sao?
Vừa ăn, Vũ Sơn vừa buông tiếng
hỏi thiếu phụ. Người đàn bà chắc chỉ chờ có thế, vội vã lấy giọng than vãn:
- Khổ quá chú ơi. Lâu ngày
chú không về…
Nhưng chính lúc đó, anh ta
giơ tay lên cắt đứt câu chuyện một cách tàn nhẫn:
- Thôi đã, lúc khác nói chuyện
ấy. Giờ tôi phải đưa hai người bạn đến gặp anh Dự.
Dự là ông chủ tịch xã. Thiếu
phụ im bặt. Chị bưng khay trà đặt lên bàn rồi quay vào nhà trong. Chúng tôi uống
trà xong đứng dậy cáo từ. Thiếu phụ vội vã chạy ra:
- Chào các chú, lúc nào rảnh
mời các chú tới chơi.
Chị cười đon đả, nhưng những
nếp nhăn hằn sâu hai bên đuôi mắt. Vũ Sơn gật đầu, dáng điệu của một viên tướng
hạ cố tới ăn suất cơm đại táo với binh sĩ. Chúng tôi đi theo anh, như hai kẻ
tháp tùng. Dọc hè phố, người ta thần thì chỉ trỏ. Không cần thính tai lắm, cũng
biết được họ phẩm bình:
- Nhà báo Vũ Sơn đi với ai
thế?
- Thanh Dương, người vẫn có
thơ ngâm trong buổi tiếng thơ trên đài.
- Không, Thanh Dương còn lạ
gì, cái anh chàng tóc rậm mặc áo trắng kia.
- Anh, tay ấy thì chưa nghe
nói đến…
- Chắc cũng là một nhân vật
quan trọng. Anh Vũ Sơn là gì có thời gian mà chơi với những kẻ tầm xàm…
Đi hết dãy phố đó, tới ngã
tư, Vũ Sơn quay lại bảo tôi:
- Cậu thấy đấy, ở Q người ta
coi những ai được chơi với tôi là vinh hạnh. Cậu phải khao chúng tôi vì niềm
vinh hạnh ấy.
- Vâng, tôi sẵn lòng khao
hai anh - Tôi đáp - Vì nhờ có anh mà đêm qua tôi yên tâm ngủ. Đó là đêm đầu
tiên tôi ngủ xa nhà.
Vũ Sơn cười. Thanh Dương
cũng cười theo, đôi mắt đen của nhà thơ này lúc nào cũng ẩm ướt. Tôi cùng họ
vòng trở lại bến ô tô nội tỉnh. Ở đó, trong quán thịt chó của ông chủ hói,
chúng tôi thưởng thức thứ rượu cuốc lủi cháy cổ với dồi nướng ướp mỡ, thịt luộc
ướp giềng, nhựa mận, móng chó hầm nhừ. Trời mát, những làn gió tung tăng đuổi
đám lá kim phượng trên đường. Đôi khi, một lớp bụi trắng mờ mờ bốc lên rồi lát
sau không gian lại trở nên trong suốt. Tiếng chim từ vòm cây hoàng lan bên đường
vọng sang, lẫn với mùi nước hoa lãng đãng. Bên ngoài đám người đang say sưa chè
chén và la hét quanh những chiếc bàn nhớp nháp kia là khung trời thu tím. Màu
tím mơ hồ như có bụi phấn rắc trong khí quyển. Và sát những nóc nhà phố xá, vài
đám mây trắng lững thững trôi. Rượu ngà ngà khiến máu tôi rạo rực. Bỗng dưng,
tôi buột miệng kêu:
- Giá mà có một cây đàn. Và
ai biết hát…
Thanh Dương đang lau miệng.
Anh ta bỏ chiếc khăn xuống, trả lời tôi:
- Điều ước đó thì Vũ Sơn có
thể rút từ túi áo của anh ấy ra ngay.
Vũ Sơn gỡ kính xuống lau rồi
lại đeo vào theo thói quen, anh bảo chú bé phụ bếp:
- Đi gọi anh Ngọc Sang cho
chú. Nhớ bảo đem theo đàn.
Chú bé vâng một tiếng gọn lỏn
rồi chạy vụt đi. Chừng mười phút sau, nó hổn hển quay lại:
- Có rồi chú Vũ Sơn ạ.
Chú bé chưa dứt lời, một chiếc
Vet- spa đã lượn tới đỗ sát cửa quán cơm. Một chàng trai thấp đậm, tóc dài gần
chấm tai bước vào: anh ta cúi thấp đầu chào khiến những món tóc rũ xuống che
kín mặt. Khi người trai trẻ ngước lên, tôi thấy đôi mắt anh ta rất lớn, luôn mở
rộng và như luôn bị bao phủ bởi một lớp nước trong suốt. Vũ Sơn bảo:
- Bạn tôi nghe tiếng tăm cậu
từ Hà Nội. Hôm nay về quê anh ấy muốn được thưởng thức giọng ca của Ngọc Sang.
Người ca sĩ cười chào tôi lần
thứ hai. Còn Thanh Dương, hẳn đã nhiều lần gặp gỡ. Chàng trai gỡ cặp kính mát,
bỏ vào túi áo. Anh ta mặc một chiếc sơ mi in các khối màu đậm nhạt chồng chéo
lên nhau, xen vào đó là những chấm trắng li ti như những hạt bột sắn bị một bàn
tay vô tình ném tới. Chiếc quần Jin bó sát cặp đùi. Đôi giày da đế rất cao và
thô khiến ta liên tưởng tới hai hột lạc được cắm vào hai que tăm. Dẫu sao, dáng
vẻ bên ngoài của anh ta cũng trung thành với một ca sĩ tỉnh lỵ.
Vũ Sơn quay sang tôi, nghiêm
mặt nói:
- Tôi nói cho cậu rõ, cả đám
ca sĩ nổi tiếng ngoài trung ương cũng chẳng có thằng nào nghệ sĩ như cậu Ngọc Sang
này. Đã ba bốn lần phóng viên đài phát thanh về đây thu giọng hát của cậu ấy. Rồi
trong nháy mắt trở nên êm dịu, âu yếm, anh gật đầu bảo người ca sĩ kia:
- Hát đi mày. Trời đất này
mà không được nghe hát thì phí cả tuổi xuân…
Ngọc Sang lên dây đàn, dạo một
khúc nhạc ngắn rồi bắt đầu hát. Giọng anh ta ấm và khỏe, nhưng trong lối phô diễn
tình cảm có cái gì đó sai lệch và thô nháp, những cảm xúc anh ta đem tới cho
người nghe thường chênh vênh hoặc vượt quá cái ranh giới của sự no đủ, khiến họ
muốn co lại, muốn được đẩy lùi ra, tựa như khi đi xem phim màn ảnh rộng mà phải
ngồi quá gần, hay ngắm một người đàn bà đẹp mà bị soi vào từng vết mụn ruồi hay
từng mụn trứng cá.
…”Hỡi ơi Vê- ra, thành phố
mênh mông, làm sao anh tìm được, ôi cặp mắt đắm say của người tôi yêu…”
Cặp mi rậm của người ca sĩ
khép lại, tiếng ngân rung động không gian, những sợi gân cổ nổi trên cần cổ lực
lưỡng. Giây phút ấy, anh ta không còn hát cho người khác nghe mà hát để thỏa
mãn cơn đam mê của chính mình. Những ngón tay búng trên đàn run rẩy, hai gò má
chàng ca sĩ đỏ rực lên, cặp mắt lút chìm sau lớp nước long lanh của những cảm hứng
khiến anh ta hoàn toàn biệt lập với người nghe, với cái quán cơm xoàng xĩnh ám
khói nơi bến xe, với khoảng không gian chú sầu nơi tỉnh lỵ. Phải chăng phía sau
những âm thanh cuồng nhiệt kia là tro bụi của rất nhiều hy vọng và thất vọng,
là vết xé của một quãng đời dài đắm chìm trong những huyễn dụ và những ảo tưởng,
là nỗi đau không vùi lấp được của tâm hồn… Tôi nhìn chàng ca sĩ, xót xa. Là sao
những người môi nhờn mỡ đang tóp tép nhai thịt chó kia hiểu được tâm tình thầm
kín của anh ta sau mỗi câu hát.
Lúc đó, Vũ Sơn đột ngột cất
tiếng:
- Hay, hay… cậu khá thật.
Tôi cam đoan ở tỉnh này, bói không ra một thằng thứ hai nghệ sĩ được như cậu.
Ngọc Sang ngẩng lên, anh ta
chưa hết bàng hoàng bởi chính nỗi đam mê chế ngự mình. Vũ Sơn đã nói luôn:
- Lại đây, làm chén rượu với
chúng tôi.
Xin phép anh - Chàng ca sĩ từ
chối - Hôm nay nhà em có giỗ.
Vừa buông bát đũa thì thằng
nhỏ ở đây sang gọi.
- Thế hở?
Vũ Sơn nói, giọng ráo hoảnh:
Thế thì về nhà nghỉ lúc khác tôi đến chơi. Ở cái quán thịt chó này khét mù mù.
Tôi sững người. Chàng ca sĩ
xoay xoay cây đàn vài vòng rồi sượng sùng chào chúng tôi, ra về. Thanh Dương
bình thản cầm một cọng rau ngổ, nhấm nháp. Có lẽ anh ta đã quen với lối cư xử của
Vũ Sơn. Còn tôi, không thể chịu được, tôi ném một cái nhìn dữ dội vào mắt nhà
báo. Sau cặp kính trắng, đôi mắt anh ta vẫn mở rộng, trơ như hai hòn bi:
- Tụi này chỉ biết hát thôi.
Nói chuyện với chúng nó chán phè. Nghe hát xong thì đuổi chúng nó về cho rảnh
việc.
Tôi đứng lên, trả tiền chủ
quán rồi bước ra đường. Thanh Dương đi bên tôi. Vũ Sơn đi cuối cùng hai tay đút
túi quần, miệng chẩu ra huýt sáo. Chúng tôi vượt qua một dãy nhà hai tầng, tới
công viên dành cho trẻ nhỏ. Ở đó nhưng bụi cây tử vi đang độ nở hoa… Khắp các lối
đi rải sỏi, cánh hoa tử vi rắc đều như lớp thảm mỏng manh, tươi thắm. Vài khóm
xương rồng xanh xám, gai đen, trông gớm ghiếc mọc ở cuối khuôn viên.
Tôi chợt nghĩ cơn giận dữ của
mình với Vũ Sơn là vô lý. Anh ta là một con người riêng biệt, ngoài tôi. Để phá
vỡ sự im lặng nặng nề, tôi quay lại hỏi:
- Giờ anh tới chơi nhà ông Dự
chứ?
Vũ Sơn thôi không huýt sáo nữa,
hỏi lại tôi:
- Đến đấy làm gì?
Tôi đáp:
- Buổi sáng anh đã bảo với
bà chủ quán xôi…
Vũ Sơn cất tiếng à à… rồi tủm
tỉm cười:
- Bảo bà ta thế chứ đến đấy
làm gì… Dương này, hay chúng ta ra bãi cát làng Mơ đi. Đã lâu lắm rồi tôi chưa
trở lại nơi đó.
Thanh Dương quay sang hỏi
tôi:
- Anh Nam đã tới làng Mơ bao
giờ chưa?
Tôi thú nhận:
- Chưa.
Thi sĩ nói:
- Vậy thì nên đi. Làng ấy đẹp
nhất trong toàn tỉnh. Con gái cũng trắng nhất vùng. Từ đây tới đó chừng ba cây
số, chúng mình đi bộ cho vui. Mấy khi rảnh rỗi thế này. Ở Hà Nội, suốt ngày đêm
tôi đánh vật với bài vở, hết chủ nhiệm lại tới tổng biên tập báo quấy rầy. Bài
cứ đổ lên đổ xuống. Còn anh, chắc anh cũng phải chúi mũi vào buồng tối, đúng
không?
Tôi cười:
- Vâng. Cũng có khi tôi đi
chơi nhưng chỉ quanh quẩn vài rạp chiếu bóng với hai cái hồ.
- Xì…
Vũ Sơn tia bọt qua kẽ răng
khinh bỉ: Hồ Hoàn Kiếm so với hồ Ba Mẫu quê ta chỉ là một vũng nước trâu đầm.
Còn Hồ Tây có khá hơn nhưng trông trơ trẽn như một con bé nhà quê tròn trùng trục
lại mặc quần Jin trắng.
Chúng tôi ra khỏi thị xã,
qua một miền cỏ êm đềm để tới hồ Ba Mẫu. Con hồ rộng, phẳng lì như tấm gương. Bốn
chung quanh cỏ lót thảm nhung xanh. Xa chút nữa, một ngọn núi đứng kiêu hãnh với
những dải mây bao quanh. Nó in bóng xuống mặt hồ, vừa lẻ loi vừa xa vời như để
tự chiêm ngưỡng nỗi cô đơn kì diệu của mình, nỗi cô đơn già hơn đất đá, sung
mãn hơn khí trời, nước nôi, cây cỏ… Mặc dù đã hơn trưa, những bụi cỏ chưa tan hết
sương ánh lên như ngọc trai, Thanh Dương khẽ đọc một câu thơ của Véc- Len. Rồi
chúng tôi im lặng đi vòng qua con hồ, vượt một khúc ngòi tới bãi cát làng Mơ.
Gọi là bãi, thực ra đó chỉ
là một lưỡi cát chạy dọc bờ đê. Phía trong là bãi cỏ dưới bóng si cổ thụ. Từ
bãi cát này, nhìn thấy dòng sông trước mặt, quay lại, hồ Ba Mẫu ngay kề sau
lưng. Bên trái là những mái ngói xen bóng tre, bóng trúc làng Mơ. Bên phải là
con đường chạy trên sống đê, dẫn về phía tây tỉnh lỵ.
Tôi chưa thấy một cảnh trí
phóng khoáng, rực rỡ như vậy bao giờ. Kì thay, nó lại nằm trên chính mảnh đất
chôn nhau cắt rốn của tôi. Mười hai năm niên thiếu, tôi ốm tong, nhút nhát,
không dám rời mẹ nửa bước chân. Từ nhà tới trường, từ trường về nhà chỉ qua một
cánh đồng hẹp mẹ tôi cũng phải đưa đón. Khu vườn xanh om bóng cây của bà ngoại
với lũ chim chích chòe, sáo sậu, những con vành khuyên đỏm dáng, những ả chim
sâu tí hon là một thế giới no đủ cho trí tưởng tượng và mối tương giao bạn hữu
của tôi. Ba bốn ông bình vôi treo lủng lẳng trên cây vối già, ngôi miếu thờ
trong bụi duối, bức tranh ngũ hổ hoen ố nước mưa và bụi bặm… tất cả đủ thêu dệt
nên những huyền thoại của cõi sống và cõi chết, của kiếp người trên dương thế
và nơi lòng đất. Lần đầu tiên, khung cảnh khoáng đạt, tràn trề sinh khí của
thiên nhiên tràn vào lòng tôi, khơi mở một vùng tươi mói. Tôi chợt thấy quãng đời
trai trẻ đã qua của mình thẫm thê, èo ọt. Những tấm phim được cắt rời, ném vào chậu
thuốc. Những khuôn mặt hiện hình hoặc đen thẫm hoặc nhờ nhợt. Cây banh trong
tay xáo trộn và vớt phim lên như một cái máy vô tri vô giác. Ngón tay thấm nước
bọt đếm những tờ bạc thù lao cuối tuần. Ly cà phê hoặc tấm vé xem phim cứu chuộc
lại thời gian bị tiêu hủy… Tất cả đã từng là nguồn vui trong quá khứ. Giờ,
chúng héo úa, tẻ nhạt. Trước mắt tôi, dòng sông đang chảy. Những lượn sóng cuộn
xoáy rồi duỗi ra như bắp thịt của một vị thần khổng lồ. Những đám bọt rác từ
thượng nguồn sông đổ về bị sóng đánh tan tác rồi tụ lại nơi xoáy nước và chìm
nghỉm trong vực sâu tàn bạo của thủy vương. Ngay cả tiếng sóng dào dạt dồi đập
vào hai bờ, cũng trào dâng sức mạnh của sự tăng trưởng và biến cải. Dòng nước ấy,
đã mang trong lòng sâu của nó bao nhiêu hình ảnh kì thú của núi non, rừng rú,
những cánh hoa rực rỡ đã tàn lụi và những đám lá ngàn tuổi giữa thung sâu, những
lưu vật của con người đã ngã xuống trong cuộc tranh đấu khốc liệt với số phận
hoặc những xác thú bị dập vùi trong cơn tai biến… Mọi huyền bí của dòng phù sa
kia là cái tiền đề vĩnh cửu để tạo nên sự sống mới, luôn non trẻ và quyến rũ, tựa
như đám lúa trên cánh đồng ban mai.
Tôi đắm chìm trong ý nghĩ của
mình. Hai người bạn đồng hành im lặng. Lát sau, Vũ Sơn cất tiếng:
- Cậu cần phải đi, Nam ạ.
Làm người đàn ông phải từng trải. Các cụ đã nói rồi: Làm trai cho đáng nên
trai, Non Đông cũng trải non Đoài cũng qua. Sống đời công tử bọc nhung thì chán
lắm.
Mới chỉ cần đến bãi cát này,
ngồi ở đây, óc cậu đã vỡ vạc ra bao nhiêu điều mới mẻ, đúng không nào?…
Tôi không đáp nhưng thầm
thán phục con người đó. Anh ta có tư chất của một ông thầy phù thủy. Không nhìn
tôi, Vũ Sơn nói tiếp:
- Rồi hôm nào, tôi sẽ nói
cho cậu nghe về…
Vừa lúc ấy, tiếng hét của một
người đàn ông khiến chúng tôi giật mình:
- Đứng lại, con đĩ, đứng lại…
Phía trước anh ta, một người
đàn bà trẻ đang chạy về phía bờ sông như cơn cuồng phong. Họ từ ngôi nhà ở bìa
làng chạy ra. Thiếu phụ nhỏ bé nhưng chắc chắn. Cơ thể chị ta gọn gàng. Mái tóc
đen sổ xuống tận thắt lưng. Chị ta chạy rất nhanh khiến người đàn ông đuổi phía
sau thở hổn hển. Vừa đuổi vừa cất tiếng gào, anh ta giống như con lợn bị hoạn sổng
chuồng - Tao bảo mày đứng lại i i i…
Mặt tái nhợt, tay cầm chiếc
chày giã cua, loại chày tiện bằng gỗ cứng thường dùng ở nông thôn. Đôi mày cau
có, vầng trán hẹp trên sống mũi dồ, món tóc láng dầu dán xuống sọ… trông anh ta
vừa hung bạo vừa hèn nhát. Tôi đứng dậy:
- Tôi xuống đây. Các anh có
xuống không?
Vũ Sơn kéo áo tôi lại:
- Cậu đừng anh hùng rơm, kệ
xác chúng nó.
Tôi vùng khỏi bàn tay anh rồi
chạy xuống lưỡi cát. Thiếu phụ đã vượt qua đám ruộng ớt, ruộng cà ở bìa làng.
Chị bắt đầu leo ngược lên sườn đê. Người đàn ông còn chạy giữa các luống ớt. Đột
nhiên, thiếu phụ vướng quần ngã. Ở chỗ đó, sườn đê bị lở hõm vào một quãng sâu
nên chị rơi xuống hố và cứ thế lăn trở lại chân đê. Người đàn ông rú lên, hắn
ta đạp ào ào lên các luống ớt, rạch cà, lao tới con mồi vớt tất cả nỗi sung sướng
của loài dã thú. Ước lượng khoảng cách giữa tôi và hắn, rồi thu toàn bộ sức lực,
tôi lao tới người thiếu phụ vào đúng lúc gã giẫm chân lên bụng chị và giơ chiếc
chày. Đầu tôi húc vào nách hắn, và sức nặng toàn thân tôi đẩy hắn ngã xuống.
Cánh tay cầm chày của hắn đập xuống chân đê, điên rồ, hắn dùng cánh tay kia đấm
vào mặt tôi. Tôi tránh được cú đấm nhưng hắn quào lại rất nhanh và lần này,
ngón tay hắn móc rách đuôi mắt tôi. Cảm giác đau đớn nhục thể khiến máu tôi sôi
thêm. Huy động sức lực và sự tinh khôn của mình, tôi đá bật cái chày đi, lẩn
tránh mọi ngón đòn điên rồ tuyệt vọng của hắn và đánh hắn không thương tiếc. Hắn
chửi tục, cào cấu, nhổ nước bọt vào mặt tôi, giống như con rắn, vừa phun phì
phì vừa quằn quại lê lết trên mặt đất. Tôi nhìn gã, giáng cho gã những cú đấm
liên tục, chính xác. Lần đầu tiên trong đời tôi lao vào cuộc ẩu đả với niềm say
mê dữ dội đến thế. Tôi cũng không còn nhận thấy Vũ Sơn và Thanh Dương đã rời chỗ
ngồi của họ, xuống can tôi dừng tay. Khi tôi dừng tay, hắn nằm phơi bụng trên
bãi đất, bọt mép sùi ra lẫn những gợn máu, hai cánh tay nhợt như bụng cá thõng
thẹo vắt lên mái đầu bê bết đất lẫn lá cỏ.
- Thôi, đủ rồi.
Vũ Sơn bảo tôi: Đuôi mắt cậu
rách kia kìa, lo về nhà mà rửa kẻo nhiễm trùng. Vả lại, chúng mình cũng phải
chuồn đi thôi, dân làng nó kéo ra bây giờ là rầy rà to đấy.
Lúc ấy, người đàn bà cất tiếng:
- Em lạy các anh, các anh đi
bây giờ thì em chết.
Hai tay chị chắp lại trước
ngực và đôi mắt như lạc đi vì sợ hãi. Tôi nhìn người đã gây ra cuộc giao chiến
đầu tiên trong đời mình. Chị trạc hai mươi bảy, hai tám. Cũng có thể là ba mươi
hoặc hơn nữa nhưng gương mặt còn tươi mát. Cặp môi nhỏ, tròn đầy, quyến rũ. Cái
mũi hếch xinh xắn nằm giữa hai bầu má tròn, ửng đỏ. Đôi mắt lớn, đen như than với
cái nhìn dường như luôn ngạc nhiên, luôn tìm kiếm. Một vết thâm lớn ở sát đuôi
mắt trái, dấu vết của một cú đấm tàn nhẫn, khiến cho vẻ đẹp của chị nhuốm nỗi
đau đớn khó quên.
- Em lạy các anh…
Chị nhắc lại lần thứ hai,
ngước đôi mắt nhìn chúng tôi cầu cứu. Lúc ấy, một đám đông từ trong làng kéo
ra, cả đàn ông lẫn đàn bà cả thanh niên lẫn con nít. Có người đi tay không, có
kẻ cầm hèo cầm gậy. Họ nói gì đó với nhau, tôi nghe không rõ. Vũ Sơn kéo tôi lại
phía sau lưng anh, Thanh Dương cũng lùi một bước, đứng bên trái tôi, thì thầm:
- Anh Nam đừng nói gì với họ,
để cho anh Sơn ứng đối nhé.
Đám người trong làng đã tiến
gần chúng tôi. Trước tiên một bà già cao gầy, quấn khăn đen, xỉa xói vào mặt
thiếu phụ:
- Con trời đánh thánh vật
kia, con trốn chúa lộn chồng kia, mày lội ao chết đuối, mày qua sông đắm đò,
mày lên bàn đẻ đẻ ngang đẻ ngược, trời chu đất triệt, diều tha quạ mổ thứ đàn
bà như mày…
Bà ta vỗ tay đen đét, rồi nhảy
lên: Lại đây, lại đây, bà xé xác mày ra, bà móc mắt mày ra cho con ác là nó rỉa…
Một gã đàn ông trạc tứ tuần
có lẻ, cao lớn, lòng khòng, vẻ mặt và màu da nhang nhác như gã đàn ông vừa bị
tôi đánh, cau có túm áo bà già giật lại:
- Thôi đi, bà đừng la quang
quác làm gì, để tôi cho nó mấy hèo là yên chuyện.
Gã nhảy một bước, tới sáp mặt
Vũ Sơn. Thiếu phụ đã lùi về phía sau anh, cũng như tôi, cầu một sự che chở. Lúc
đó, Vũ Sơn quắc mắt lên, nhìn chòng chọc vào mắt gã đàn ông cầm hèo. Mắt anh ta
vốn đã lớn, lại lộ tròng, giờ vằn những tia máu li ti và phát ra những chùm tia
sáng lạnh lùng, nhọn sắc. Gã đàn ông thô kệch kia không chịu nổi luồng nhỡn
quang đó, cụp đôi mi xuống. Vũ Sơn giơ tay chỉ chiếc chày lăn lóc dưới đám ruộng
khô:
- Hãy nhìn kia.
Đám đông lia mắt nhìn theo
tay anh, cả gã đàn ông kia cũng vậy.
- Hãy nhìn cho kĩ.
Vũ Sơn nhắc lại lần thứ hai,
rồi anh nhếch mép cười nhạt, nụ cười ấy vừa khinh thị vừa dữ tợn. Nó khiến đám
đông rúm lại vì mặc cảm nhục nhã, cái mặc cảm thường chỉ nhận ra khi giáp mặt với
những người hoàn toàn xa lạ và có một đời sống quá cách biệt, vượt hẳn đời sống
của cá nhân mình.
Vũ Sơn hiểu rằng anh đã khống
chế được đám đông, và vẻ mặt anh trở lại ngạo mạn, kiêu hùng như khi anh đi giữa
các phố xá của tỉnh lỵ:
- Luật pháp nào cho phép các
người bao che cho gã đàn ông kia cầm chày đánh vợ. Luật pháp nào cho phép các
người hà hiếp đàn bà. Đây là nước Việt Nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa hay nước
An- nam của vua Khải Định? Đây là những năm cuối thế kỉ hai mươi hay đang thế kỉ
mười lăm?… Trả lời tôi đi…
Giọng nói anh vang động, đầy
quyền uy và sức thuyết phục. Đám nông dân đứng im thin thít. Nghe rõ tiếng bầy
ong rù rì dưới đám ruộng cà vọng tới. Vũ Sơn vẫn tiếp tục nhìn chòng chọc vào
đám đông, cặp mắt anh như muốn lột truồng họ ra, phơi bày vẻ trơ tráo và nghèo
nàn của tâm hồn họ, phơi bày bản tính hung bạo chung đụng với sự hèn nhát bên
trong một đời sống bản năng, thiếu hụt nhân cách.
Gã đàn ông bị tôi đánh đã tỉnh
lại, chống tay ngồi lên. Gã đưa mắt tìm kiếm vợ, rồi chìa nắm đấm về phía chị
ta:
- Rồi mày biết tay ông, con
đĩ.
Anh trai gã ngẩng đầu lên, hằm
hè nói theo:
- Con đàn bà ngoại tình, phải
đánh. Phép vua thua lệ làng.
Bà già nanh nọc lúc nãy lại
chống nạnh, nói xe xé:
- Mày cứ đánh chết con đĩ ấy
cho tao. Tội vạ đâu tao chịu.
Gã đàn ông cầm hèo huơ lên,
nhưng chân gã vẫn dính chặt xuống mặt đất. Vũ Sơn khoanh tay nhìn họ. Cứ như thế
thời khắc im lặng trôi qua. Chừng vài phút sau, một người đàn ông nữa từ trong
làng hối hả đi ra. Trông dáng điệu và cách ăn mặc của anh ta, chúng tôi đoán là
bí thư hoặc chủ nhiệm xã. Bước từng bước dài nóng nảy, anh ta vượt qua những mô
đất, những ruộng rau, hai cánh ta vung vẩy. Khi anh ta vừa tới giữa đám đông,
Vũ Sơn cất tiếng hỏi lạnh lẽo:
- Xin lỗi, anh là chủ tịch
xã?
Anh chàng chủ tịch giật mình
vì sự đoán định chính xác và giọng nói không hứa hẹn điều gì tốt đẹp, vội vã
đáp:
- Vâng, vâng…
Vũ Sơn tiếp:
- Tôi là Vũ Sơn, phóng viên
báo X. Tôi được lệnh viết một thiên phóng sự về tình hình dân chủ và luật pháp
trong các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Trước tiên là tỉnh Q. Tôi đã làm việc với anh
Quang tuần vừa qua.
Vũ Sơn ngừng lời. Tôi thấy
gương mặt chủ tịch xã nhợt nhạt. Những ý nghĩ luân chuyển qua óc anh ta có thể
đọc được rõ ràng. Chắc chắn anh ta có mối liên hệ nào đó về gia tộc hoặc quyền
lợi vật chất với gã đàn ông vừa đánh vợ. Chắc chắn là lương tâm anh ta không đủ
chiến thắng mối liên quan máu mủ hoặc các cám dỗ vật chất để ngăn cản những
hành động ngoài pháp luật. Nhất là những hành động đó được che đỡ bằng ngôn án
của đám đông, bằng những thiên kiến lưu truyền từ đời này qua đời khác. Sự xuất
hiện bất ngờ của những người lạ mặt những người có quan hệ với chủ tịch tỉnh -
người có quyền lực cao nhất trong mọi mối giao tiếp, và việc, họ chứng kiến tội
ác ngay trên lãnh địa của mình khiến vị chủ tịch xã hụt hơi. Anh ta quay lại
đám đông, quát:
- Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi?
Các người cứ làm bậy rồi tội vấy oan sang kẻ khác. Tất cả về ngay, nếu không
tôi sẽ huy động lực lượng dân quân ra giải quyết.
Rõ ràng đây là thái độ cứng
rắn lần đầu tiên của anh ta với gia đình kẻ hành hung. Ngay trong câu quát tháo
đó, đã hàm chứa sự hốt hoảng và giả trá. Đám đông cúi đầu, lục tục đi về phía
làng. Chủ tịch xã quay lại, nửa mời mọc, nửa năn nỉ:
- Trường hợp này phức tạp lắm.
Mời các đồng chí vào ủy ban chơi rồi tôi sẽ trình bày.
- Tôi bận, không có thời
gian.
Vũ Sơn đáp gọn lỏn: Nhưng nếu
sự việc này còn xảy ra, tôi sẽ yêu cầu đích thân chủ tịch Quang xuống đây chứng
kiến, để anh ấy không còn trách móc được chúng tôi trong việc phản ảnh tình
hình dân chủ và thi hành luật pháp ở tỉnh nhà.
Mặt chủ tịch xã trắng bệch
ra. Anh ta lắp bắp cái gì đó không nghe rõ. Vũ Sơn hất tay phác một cử chỉ cắt
đứt cuộc đối thoại:
- Thôi, anh về đi.
Nói xong, anh quay lưng bước
về phía bãi cát. Chúng tôi đi theo anh; bỏ lại thiếu phụ với gã chồng hung bạo
của chị. Khi tới nơi, chúng tôi lại ngồi dưới gốc si. Chủ tịch xã đã đi tới bìa
làng. Còn người đàn bà khốn khổ đang dìu chồng trở lại căn nhà sau bụi trúc. Gã
đàn ông bước tập tễnh, nhăn nhó. Vừa đi, hắn vừa làu bàu chửi vợ. Và cứ mươi bước
chân hắn lại đấm chị một quả vào lưng hoặc giật tóc chị một cái. Người đàn bà
nhẫn nhục bước. Không thấy chị ta khóc hoặc kêu rên một lời.
Tất cả chúng tôi đều chăm
chú nhìn họ, Vũ Sơn nhếch môi cười, làu bàu:
- Đấy cậu xem, cậu nhảy vào
như một đấng anh hùng cứu nạn, đến nỗi rách cả mặt, suýt nữa bị người nhà nó
giã làm tương. Vậy mà bây giờ thì… Có khi đêm nay hai đứa lại hú hí với nhau và
mươi tháng nữa một thằng lỏi con oe oe khóc chào đời… Hi hi hi…
Anh ta cất tiếng cười. Nhưng
hai dòng lệ đục ngầy lăn xuống má. Vũ Sơn giả bộ gỡ kính ra lau. Anh ta cúi xuống,
chùi nước mắt vào đầu gối.
° °
°
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét