- Những thứ họ mang
Trên cánh đồng
Tim O'brien
Khi bình minh lên trung đội gồm mười tám lính dàn thành một hàng lỏng lẻo rồi bắt đầu lội bì bõm cạnh nhau qua lớp bùn dày của cánh đồng cứt. Họ lội chậm chạp dưới trời mưa. Khom về phía trước, đầu cúi, họ dùng mũi súng là que dò, lội bì bõm qua cánh đồng, đến chỗ sông thì xoay người và lại bì bõm lội về. Họ mệt lử và khốn khổ; họ chỉ muốn một điều độc nhất là làm chuyện này cho xong đi. Kiowa đi rồi. Hắn đang nằm dưới bùn và nước, bị cuộc chiến này cuộn lấy, và ý nghĩ duy nhất của họ là tìm cho ra hắn, đào hắn lên rồi thì rời đến chỗ nào đó khô và ấm. Đêm qua thực nhọc nhằn. Có thể là đêm tồi tệ nhất xưa nay. Mưa rơi không ngớt, sông Trà Bồng tràn bờ, bùn lúc này dâng tới bắp đùi trong cánh đồng ven sông. Một làn sương xám là là trên mặt đất. Đằng Tây có tiếng sấm, những âm thanh rền rĩ nhẹ nhàng, mùa mưa dường như là một thành tố dai dẳng của cuộc chiến này. Mười tám tay lính di chuyển trong im lặng. Thiếu úy Jimmy Cross đi đầu, thỉnh thoảng lại nắn đội hình cho ngay, bảo mọi người lấp những chỗ trống. Quân phục của hắn đen sịt bùn; hai tay hắn, mặt hắn dơ dáy. Sáng sớm nay hắn đã đánh điện báo có người mất tích, nhưng giờ thì hắn quyết tâm tìm cho ra người của mình dù với giá nào, dù có phải nắm từng tảng bê tông để đắp đập ngăn sông và rút cạn toàn bộ cánh đồng. Hắn không thể mất một người của đơn vị mình như thế này được. Thế không được. Kiowa khi còn sống từng là một chiến binh cừ, một người tử tế, một Ki-tô hữu thuần thành, nên không thể nào có chuyện một Thiếu úy Cross cho phép một người tốt như thế mất tăm dưới lớp bùn nhão của một cánh đồng cứt.
Đột ngột, hắn đứng lại nhìn mây. Ngoại trừ thi thoảng có tiếng sấm còn thì sáng hôm ấy vô cùng tĩnh mịch, chỉ có mưa và tiếng bì đều đều của mười tám người lội tới lội lui trong vụng nước sâu. Thiếu úy Cross ước gì mưa sẽ ngớt. Dù chỉ một giờ thôi, được vậy thì mọi chuyện dễ hơn.
Nhưng rồi hắn nhún vai. Trận mưa này chính là cuộc chiến và hắn phải và hắn phải chiến đấu với nó.
Quay lại, hắn nhìn khắp cánh đồng và hét to bảo một gã trong đám lính tiến lê cho khít đội hình. Thức ra đâu phải một gã, chỉ là thằng nhóc thôi. Chú lính trẻ đứng trơ một mình ngay giữa cánh đồng, nước ngập tới gối, thọc cả hai tay xuống như đang săn lùng cái gì đó ngay dưới mặt nước. Hai tay thằng bế run lẩy bẩy. Jimmy Cross lại hét to nhưng chú lính trẻ không ngoảnh lại hay ngẩng lên. Trong cái pông sô có mũ trùm, mọi thứ két đặc bùn, mặt thằng bé không thể nào nhận ra được. Bùn nhão hồ như xóa sạch căn tính cá nhân, biến những người này thành các bản sao giống hệt nhau của một tay lính duy nhất, đó chính là cách Jimmy Cross đã được huấn luyện để đối xử với họ, như đối xử với những đơn vị dưới quyền có thể hoán đổi cho nhau. Đôi khi cũng khó, nhưng hắn cố tránh kiểu suy nghĩ đó. Hắn chả có tham vọng về đường binh nghiệp. Hắn thích coi lính của hắn không phải như những đơn vị mà như những con người. Và Kiowa là một con người tuyệt diệu, người tốt nhất, thông minh, lịch lãm, nói năng nhỏ nhẹ. Và cũng rất dũng cảm. Và đầy phẩm cách. Cha của thằng bé dạy trường dòng ở Oklahoma City, ở đó Kiowa được dưỡng dục để biết tin vào lời hứa cứu rỗi nhờ đấng Giê-su, niềm xác tín này đã luôn luôn hiện diện trong nụ cười thằng bé, trong tư thế của nó khi hướng ra thế giới, trong việc hắn chẳng bao giờ đi đâu mà không đem theo cuốn Tân Ước có tranh minh họa mà ông già hắn gửi qua bưu điện từ dạo tháng Giêng để làm quà sinh nhật.
Một tội ác, Jimmy Cross nghĩ.
Nhìn ra phía sông, hắn biết rõ một điều rằng mình đã phạm sai lầm khi dàn trận ở đây. Lệnh là từ cấp trên, đúng thế, nhưng dù sao hắn cũng nên thực thi chút nào đó quyền định đoạt khi tác chiến ở hiện trường. Đáng lẽ hắn phải rời lên chỗ đất cao hơn để đợi qua đêm, phải đánh điện báo cáo tọa độ giả. Giờ thì hắn chả làm gì được nữa, nhưng dù sao sai lầm vẫn là sai lầm và tổn thất thì quá lớn. Hắn buồn vì chuyện đó. Đứng giữa cánh đồng nước ngập sâu. Thiếu úy Jimmy Cross bắt đầu thảo trong đầu lá thư gửi cho cha thằng bé, không nhắc tới cánh đồng cứt này, mà chỉ nói Kiowa là một chiến binh cừ thế nào, một con người tuyệt ra sao, rằng nó là kiểu đứa con trai mà bất cứ người bố nào cũng có thể vĩnh viễn lấy làm tự hào.
Cuộc tìm diễn tiến chậm rì. Có một chặp buổi sáng dường như rạng lên, bầu trời chuyển sang màu xám sáng hơn, nhưng rồi mưa lại rơi nặng hạt và đều chằm chặp. Có cảm giác hoàng hôn chả bao giờ dứt.
Ở đầu mút bên trái đội hình, Azar cùng Norman Bowker và Mitchell Sanders lội bì bõm dọc mép cánh đồng gần sông nhất. Cả ba đều cao to, song thỉnh thoảng bùn vẫn lên tới giữa đùi, có khi tới tận háng.
Azar lắc đầu liên tục. Hắn vừa ho vừa lắc đầu rồi nói: “Nè, kể chuyện tếu nghe coi. Tao cá Kiowa ở đây, tao cá nó sẽ cười hô hố cho coi. Ăn cứt là chuyện tếu cổ điển của mày mà.”
“Được rồi,” Norman Bowker nói. “Giờ câm mõm đi.”
Azar thở dài. “Chết ngay chỗ đéo mẹ này,” hắn nói. “Đồ cánh đồng cứt chó. Tụi mày phải thừa nhận đi, đây là chuyện tếu đẳng cấp quốc tế.”
Ba người di chuyển bằng những bước chậm, nặng trịch. Khó mà giữ thăng bằng được. Bốt của họ thụt sâu vào bùn nhão, nó hút xuống rất mạnh, cứ mỗi bước họ lại phải kéo lên thật lực mới bứt ra được. Mưa tạo nên những khoảng hõm thoát hiện thoắt biến trên mặt nước, giống những cái mồm nhỏ, và đâu đâu cũng thối nồng nặc
Khi tơi sát sông, họ dịch sang phía Bắc vài mét rồi bắt đầu lội trở lại cánh đồng. Thỉnh thoảng họ dùng súng kiểm tra dưới đáy, nhưng hầu như họ chỉ rà soát bằng bàn chân.
“Một ca cổ điển,” Azar nói. “Cạp bùn, thì cứ gọi vậy, nói vậy là hiểu.”
“Đủ rồi,” Bowker nói.
“Như mấy cái phim cao bồi xưa ấy. Thêm một thằng da đỏ cạp bùn.”
“Tao nói nghiêm túc đó nghe. Nín ngay.”
Azar mỉm cười nói, “Cổ điển.”
Buổi sáng lạnh và ướt át. Cả đêm họ không ngủ, một chốc cũng không, nên cả ba đều cảm thấy căng thẳng trong khi băng qua cánh đồng về phía sông. Họ chả làm được gì cho Kiowa hết. Chỉ cố sao tìm ra hắn và đưa hắn lên trực thăng. Dù ai đó chết ở đâu thì cũng như nhau, vẫn là nỗi mong muốn nếu phải làm gì thì làm nhanh đi cho xong, không màu mè lễ nghi gì ráo, và cái họ muốn bây giờ là tới một làng nào đó, chui xuống dưới một mái nhà rồi thì quên đi hết những gì xảy ra hồi đêm.
Lội được nửa đồng Mitchell Sanders dừng lại. Hắn đứng một chốc, mắt nhắm, sờ soạng dưới đáy bằng một bàn chân, rồi hắn chuyển súng cho Norman Bowker và thò tay xuống bùn. Một giây sau hắn lôi lên một cái ba lô màu lục bê bết bùn.
“Rồi,” cuối cùng Mitchell Sanders nói, “thằng đó chỉ quanh quẩn đây thôi.”
“Tốt nhất là báo cho Thiếu úy.”
“Dẹp mẹ thằng chả đi.”
“Ừa nhưng mà…”
“Thiếu úy gì cái thằng đó,” Sanders nói. “Cho tụi mình đóng quân trong đống cứt. Thằng chả đéo biết mẹ gì.”
“Chả ai biết hết.” Bowker nói
“Có thể vậy, có thể không. Có tới hàng tỷ chỗ khác tụi mình lẽ ra có thể dàn trận hồi đêm, vậy mà thằng chả đi chọn cái cầu tiêu.”
Norman Bowker nhìn xuống cái ba lô. Nó làm bằng ni lông màu lục sẫm có khung nhôm, nhưng giờ thì nó nhìn giống thịt người đến kỳ cục.
“Đó không phải lỗi của Thiếu úy,” Bowker nhẹ nhàng nói.
“Vậy chứ của ai?”
“Chả của ai hết. Chả ai biết, phải về sau mới biết được.”
Mitchell Sanders phát ra một âm thanh trong cổ họng. Hắn giơ cao cái ba lô lên, tròng đai ba lô vào người mình, kéo hai quai cho thẳng. “Thôi được, nhưng riêng chuyện này thì chắc chắn. Thằng chả biết trời đang mưa. Thằng chả có biết về con sông. Một lại thêm một. Cộng hai thứ vào nhau, tụi mày sẽ luận ra được chính xác điều đã xảy ra.”
Sanders liếc nhìn con sông.
“Đi đi,” hắn nói, “Kiowa đang đợi tụi mình.”
Thế là chậm chạp, lom khom tránh mưa. Azar và Norman Bowker và Mitchell Sanders lại bắt đầu lội bì bõm giữa nước sâu, mắt nhìn xuống, tỏa dần ra từ chỗ họ đã tìm thấy cái ba lô.
Thiếu úy Jimmy Cross đứng cách đó năm mươi mét. Hắn đã viết xong lá thư trong đầu, giải thích chuyện này cho cha của Kiowa, và giờ hắn khoanh tay nhìn trung đội của hắn lội ngang lội dọc cánh đồng rộng. Một cách kỳ cục, cảnh này khiến hắn nhớ lại sân gôn công cộng của thành phố quê nhà hắn ở New Jersey. Một quả bóng bị lạc mất, hắn nghĩ. Các tay chơi mệt lử lùng tìm quả bóng khắp vùng cỏ không xén ngoài sân, chạy tới chạy lui tạo thành những mẫu hình dài mang tính hệ thống. Hắn ước gì mình ngay lúc này đang ở đó. Nơi lỗ thứ sáu. Nhìn ra ao nước làm chướng ngại chắn trước bãi cỏ phẳng xanh, gậy số bảy trong tay, tính toán gió và khoảng cách tự hỏi liệu mình có nên thay bằng một cây số tám không. Một quyết định khó khăn, nhưng nếu có mất thì ta chỉ mất một quả bóng. Ta không mất một tay chơi. Và ta cũng chả bao giờ phải lội vào trong ao nước tìm suốt ngày ở dưới bùn.
Jimmy Cross không mong muốn cái trách nhiệm chỉ huy những người này. Hắn chả bao giờ muốn. Hồi học năm thứ hai Đại học Mount Sebastian hắn đã ghi danh vào Khoa Huấn luyện Sĩ quan dự bị mà chẳng nghĩ gì nhiều. Tự động mà làm thôi: bởi bạn bè hắn đã tham gia, bởi nó tương đương với vài tín chỉ, và bởi dường như làm thế hay hơn là để ủy ban quân dịch bắt mình đi. Hắn không chuẩn bị. Hắn mới hai tư tuổi, tâm trí hắn không nằm ở đấy. Hắn chả bận tâm tới cuộc chiến dù thế này hay thế nọ, hắn không có nguyện vọng làm chỉ huy, và thậm chí kể cả sau mấy tháng nằm bờ ngủ bụi vừa rồi, suốt những ngày những đêm rồi, kể cả chừng đó hắn vẫn chưa đủ hiểu biết để ngăn không cho lính của mình đừng sa vào một cánh đồng cứt đái.
Điều đáng lẽ hắn phải làm, hắn tự nhủ, là hãy theo trực giác đầu tiên của mình. Hồi tối qua, khi họ tới được tọa độ đã định sẵn để đóng quân qua đêm đáng lẽ hắn phải nhìn kỹ và chuyển lên chỗ đất cao hơn. Đáng lẽ hắn phải biết. Chẳng có cớ gì để biện minh. Nơi một mép cánh đồng có một ngôi nhà nhỏ, và lập tức có đôi ba mama-san bước ra cảnh báo hắn. Số bét, họ nói. Đất dữ. Không phải chỗ tốt cho những chú GI tốt. Nhưng đây là chiến tranh, và hắn đã nhận lệnh, thế nên họ dựng công sự rồi chui vào dưới mấy tấm pông sô và cố nằm ngồi cho yên vị để qua đêm. Mưa mãi không ngừng. Nửa đêm, sông Trà Bồng tràn bờ. Cánh đồng biến thành bùn, cái gì cũng mềm nhũn nhão nhoét. Hắn nhớ nước cứ dâng, mùi thối khủng khiếp bắt đầu từ dưới đất lục bục trào lên. Mùi cá chết, một phần là thế, nhưng còn có gì đó nữa, thế rồi sau đó giữa đêm Mitchell Sanders bò ngang qua mưa và túm mạnh tay hắn, hỏi hắn làm cái chó gì mà cho đóng quân giữa một cánh đồng cứt. Cái nhà xí của làng này, Sanders nói. Hắn nhớ vẻ mặt Sanders. Gã đó nhìn hắn trừng trừng một lát rồi lau mồm và thì thầm, “Cứt,” đoạn bò trở về trong bóng tối.
Một sai lầm ngu xuẩn. Nó chỉ có thế, một sai lầm, nhưng nó đã giết chết Kiowa.
Thiếu úy Jimmy Cross cảm thấy cái gì đó thắt lại bên trong hắn. Trong thư gửi cho cha của Kiowa hắn sẽ xin lỗi thẳng thắn. Thừa nhận mình đã sai lầm vì ngu dốt
Duyên do nằm ở đâu hắn sẽ chỉ ra ở đấy. Hắn sẽ nói rằng, về mặt chiến thuật thì ngay từ đầu đó đã là chỗ không thể phòng thủ được. Vừa thấp vừa phẳng. Không có gì che chắn tự nhiên. Cho nên lúc đêm khuya, khi bị hỏa lực súng cối từ bên kia sông nã sang, họ chỉ làm được mỗi một việc là luồn xuống dưới bùn nhão, nằm đó đợi. Cả cánh đồng nổ tung. Mưa và bùn nhão và mảnh đạn, tất cả trộn lẫn vào nhau và cánh đồng sôi sùng sục. Hắn sẽ giải thích điều đó cho cha của Kiowa. Cẩn thận, không che giấu lỗi của chính mình, hắn sẽ kể rằng những viên đạn cối tạo nên những hố trũng trong sình lầy ra làm sao, khiến bùn bắn lên ào ạt như mưa, rồi thì mấy cái hố trũng ấy tự mình sụp vào mình, và lại đầy ặp bùn với nước, hút mọi thứ xuống, nuốt chửng mọi thứ, nào vũ khí nào dụng cụ đào công sự nào băng đạn, và bằng cách đó thằng con trai ông là Kiowa đã bị hợp vào làm một với bùn đất và với cuộc chiến tranh.
Lỗi của chính tôi, hắn sẽ nói thế.
Thẳng người dậy, Thiếu úy Jimmy Cross dụi mắt rồi cố suy nghĩ rành mạch. Mưa rơi rả rích, buồn và nhẹ.
Phía gần sông hắn lại nhận ra chú lính trẻ đang đứng một mình ngay giữa đồng. Vai thằng nhóc rung rung. Có lẽ do cái gì đó trong tư thế của chú lính, hay trong cái kiểu chú làm như đang với tay tìm cái gì đó vô hình dưới mặt nước, nhưng trong vài tích tắc Jimmy Cross đứng rất im, sợ cử động, song vẫn biết mình phải cử động, thế rồi hắn tự lẩm bẩm, “Lỗi do mình,” đoạn hắn gật đầu và lội ngang cánh đồng về phía thằng bé.
Chú lính trẻ đang chật vật cố đừng khóc.
Hắn, cả hắn, cũng tự buộc tội mình. Khom mình tới trước ngang thắt lưng, mò mẫm bằng cả hai tay, hắn như đang săn đuổi một sinh vật nào đó không chạm tới được, cái gì trơn chuội, con cá hay con ếch. Môi hắn động đậy. Cũng như Jimmy Cross, thằng bé đang giải thích mọi chuyện với một quan tòa vắng mặt. Không phải để bào chữa cho chính hắn. Thằng bé thừa nhận mình có tội và chỉ muốn trình bày nguyên nhân đầy đủ.
Lội ngang vài bước, hắn cúi xuống sờ soạng dọc theo mặt đáy mềm của cánh đồng.
Hắn hình dung khuôn mặt Kiowa. Hai người từng là bạn thân, bạn chí cốt, và hắn nhớ lại hồi đêm cả hai co ro ngồi dưới mấy tấm pông sô, mưa lạnh rơi không ngừng, nước dâng tới gối, nhưng Kiowa chỉ cười to một tiếng là cho qua mọi sự và nói rằng họ nên tập trung vào những điều tốt đẹp hơn. Thế là suốt một hồi lâu cả hai nói chuyện về gia đình và thị trấn quê mình. Đến một lúc, thằng bé nhớ lại, hắn đưa cho Kiowa xem ảnh bạn gái hắn. Hắn nhớ mình đã bật đèn pin lên. Làm thế là ngu, nhưng hắn vẫn làm, và hắn nhớ Kiowa cúi tới trước để xem tấm ảnh – “Chà, xinh quá,” hắn nói, và rồi cả cánh đồng nổ tung lên quanh hai đứa.
Như là ám sát vậy, thằng bé nghĩ. Cái đèn pin đã khiến cho điều đó xảy ra. Ngớ ngẩn và nguy hiểm. Và kết quả là Kiowa bạn hắn chết.
Đơn giản thế, hắn nghĩ.
Hắn ước gì có cách nào khác để nhìn nhận chuyện đó, nhưng không có. Thật đơn giản và thật kỳ cùng. Hắn nhớ hai quả đạn cối nã ngay cạnh. Rồi một quả thứ ba, còn gần hơn, và rồi phía bên tay trái hắn nghe thấy tiếng ai đó hét. Giọng hét khàn khẳn đặc, nhưng hắn biết ngay tức khắc đó là Kiowa
Hắn nhớ mình đã cố bò về phía tiếng thét. Tuy nhiên, không làm sao biết được hướng nào, cánh đồng cứ như hút hắn xuống, mọi thứ đen ngòm ướt nhoét quay cuồng, và hắn không sao đứng vững, rồi thì một quả nữa dập xuống ngay cạnh, và mãi một hồi hắn chả làm được gì khác ngoài nín thở hụp mình xuống nước.
Sau đó, khi hắn lại ngoi lên, không còn tiếng thét nào nữa. Có một cánh tay và một cái đồng hồ đeo tay rồi một chiếc bốt. Có những bong bóng sủi lên ở chỗ đáng ra là cái đầu Kiowa.
Hắn nhớ mình đã chộp lấy chiếc bốt. Hắn nhớ mình kéo mạnh, nhưng cánh đồng cứ như kéo ngược trở lại, giống một trò kéo co mà hắn không thể thắng, và cuối cùng hắn phải thì thầm tên bạn hắn rồi buông tay nhìn chiếc bốt chuội đi mất. Rồi mãi một hồi lâu có những cái hắn không nhớ được. Nhiều tiếng động, nhiều mùi. Về sau hắn thấy mình nằm trên một khoảnh đất nhỏ nhô cao, mặt ngửa lên trời, nếm vị của cánh đồng trong miệng, lắng nghe mưa, nghe những tiếng nổ và tiếng nước sủi bong bóng. Hắn chỉ một mình. Hắn đã mất hết. Hắn đã mất Kiowa mất vũ khí mất đèn pin và mất ảnh cô bạn gái. Điều này thì hắn nhớ. Hắn nhớ khi đó mình tự hỏi liệu có mất cả chính mình nữa không.
Giờ, trong cơn mưa buổi sáng dầm dề, thằng nhóc coi bộ cuống cuồng. Hắn nháo nhào lội hết chỗ này qua chỗ khác, khom xuống thọc cả hai tay vào nước. Hắn không ngẩng lên khi Thiếu úy Jimmy Cross đến gần.
“Ngay đây,” thằng nhóc nói. “Chắc phải ở ngay đây.”
Jimmy Cross nhớ mặt thằng nhóc nhưng tên thì không. Chuyện đó thỉnh thoảng cũng có. Hắn cố cư xử với người của mình như những cá nhân đôi khi những cái tên cứ trượt khỏi đầu hắn.
Hắn quan sát chú lính trẻ vục hai tay vào trong nước. “Ngay đây,” chú lính cứ nói mãi. Động tác của hắn có vẻ tán loạn và giật cục.
Jimmy Cross đợi một chút, rồi tiến tới gần hơn. “Nghe nè,” hắn nói khẽ, “cậu ta có thể ở bất cứ đâu.”
Thằng nhóc ngước lên. “Ai kia?”
“Kiowa. Chú không thể mong…”
“Kiowa chết rồi.”
“Ừ, chết.”
Chú lính trẻ gật. “Còn Billie thì sao?”
“Ai?”
“Bạn gái tôi. Cô ấy thì sao? Bức ảnh này, nó là bức duy nhất tôi có. Ngay đây, tôi làm mất rồi.”
Jimmy Cross lắc đầu. Hắn bứt rút vì không nhớ ra được cái tên nào.
“Chậm lại,” hắn nói. “Tôi không…”
“Ảnh của Billie. Tôi gói kỹ lắm, tôi giữ trong bao nhựa, để nó vẫn không sao hết nếu tôi có thể… Hồi đêm tụi tôi đang xem nó, tôi với Kiowa. Ngay đây. Tôi biết chắc nó ngay đâu đây thôi mà.”
Jimmy Cross cười với thằng nhóc. “Chú có thể xin cô ta tấm khác. Một tấm đẹp hơn.”
“Cô ấy sẽ không gửi tấm khác đâu. Cô ấy chẳng còn là bạn gái của tôi nữa, không đâu… Ôi, tôi phải tìm cho được.”
Thằng nhóc rụt tay ra khỏi nước.
Hắn lê bước sang bên cạnh và lại chúi người xuống vùi cả hai tay vào trong bùn. Vai hắn run. Thoáng chốc Thiếu úy Jimmy Cross tự hỏi súng của thằng nhóc đâu, mũ cối của nó nữa, nhưng chắc là tốt hơn đừng hỏi.
Hắn cảm thấy có phần thương hại. Trong khoảnh khắc trời đất dường như dịu đi. Nhiều tổn thương quá, hắn nghĩ. Hắn nhìn chú lính trẻ lội trong nước, cúi xuống rồi đứng lên rồi lại cúi xuống, làm như nếu cứ phí công như thế thì rốt cuộc sẽ có cái gì đó được cứu vãn.
Jimmy Cross thầm chúc thằng nhóc may mắn.
Đoạn hắn nhắm mắt và quay lại soạn lá thư gửi cho cha của Kiowa
Bên kia cánh đồng Azar với Norman Bowker và Mitchell Sanders đang lội dọc một bờ đê hẹp nơi mé đồng. Đã gần giữa trưa.
Norman Bowker tìm thấy Kiowa. Hắn nằm sâu sáu mươi phân dưới nước. Chẳng có gì lộ ra trừ một cái gót giầy bốt
“Nó đó hả?” Azar nói.
“Còn ai nữa?”
“Tao không biết.” Azar lắc đầu. “Tao không biết.”
Norman Bowker sờ cái bốt, che mắt trong một thoáng, rồi đứng dậy nhìn Azar.
“Chuyện cười ấy đâu rồi hả?” hắn nói.
“Chả cười chả gì ráo.”
“Cái chuyện ăn cứt ấy. Nghe chuyện đó đi nào.”
“Quên đi.”
Mitchell Sanders bảo hai thằng kia dẹp đi. Ba đứa lội đến bờ đê, bỏ ba lô và súng xuống, rồi lội trở lại chỗ chiếc bốt thò ra. Cái xác một phần bị nêm dưới một lớp bùn sâu trong nước. Khó lòng lấy thế để kéo; hễ kéo là bùn lại riết lấy chân họ giữ chặt. Giờ mưa đã rơi trở lại, nặng hạt hơn. Michell Sanders thọc tay xuống thì tìm ra chiếc bốt kia của Kiowa, và cả bọn chờ một thoáng, đoạn Sanders thở dài nói, “Được rồi,” và cả bọn túm lấy hai chiếc bốt kéo mạnh lên. Nhích ra được có một tí. Họ lại cố nữa, nhưng lần này cái xác tuyệt không nhúc nhích. Cố lần thứ ba xong thì họ dừng lại nhìn xuống một hồi. “Thêm lần nữa.” Norman Borker nói. Hắn đếm tới ba thì cả bọn cúi tới trước, kéo.
“Kẹt,” Mitchell Sanders nói.
“Tao thấy rồi. Chúa ơi.”
Họ lại cố, đoạn gọi Henry Dobbins và Chuột Kiley, thế rồi cả năm thằng chung tay kề lưng kéo, nhưng cái xác kẹt cứng
Azar leo lên bờ đê ngồi ôm bụng. Mặt hắn tái mét.
Mấy người khác đứng thành vòng tròn, nhìn mặt nước, rồi lát sau một người nói, “Tụi mình không thể bỏ nó lại đó,” và mấy người kia gật, bèn lấy dụng cụ đào công sự ra bắt đầu đào. Đào thật khó, thật cực. Cứ như chưa kịp đào xong thì bùn đã lại ùa hết vào, nhưng Kiowa là bạn họ nên họ vẫn cứ đào.
Từ từ, từng nhóm nhỏ, số còn lại của trung đội kéo đến quan sát. Chỉ Thiếu úy Jimmy Cross và chú lính trẻ là vẫn đang sục sạo cánh đồng.
“Tao nghĩ mình nên báo cho Thiếu uý biết,” Norman Bowker nói.
Mitchell Sanders lắc đầu. “Nước mẹ gì. Với lại thằng chả coi bộ đang khoái chí ở đằng đó, rất chi là khoái chí. Cứ để chả khoái chí đi.”
Sau mười phút họ đã làm lộ ra được gần hết phần thân dưới của Kiowa. Cái xác bị đâm chéo vào trong bùn, đầu chúc xuống, như một tay thợ lặn vừa mới từ trên tháp cao chúi xuống đầu đi trước. Đám người đứng lặng trong vài giây. Có một cảm giác kính sợ. Cuối cùng Mitchell Sanders gật đầu nói, “Làm cho xong đi nào,” thế là họ túm hai cái chân kéo mạnh lên, rồi lại kéo và một chút sau Kiowa trượt lên trên bề mặt. Một mảnh đạn băm nát. Người hắn phủ kín bùn màu lục hơi nhuốm xanh dương. “Được rồi,” Henry Dobbins nói, “có khi còn tệ hơn nữa kìa,” thì Dave Jensen liền nói, “Hơn là hơn thế nào hả? Nói tao nghe coi.” Cẩn thận, cố không nhìn cái xác, họ mang Kiowa lên bờ kênh rồi đặt hắn xuống. Họ dùng khăn lau sạch bùn đất. Chuột Kiley lục hết túi áo túi quần thằng nhóc, cho mấy thứ đồ cá nhân của hắn vào một bao nhựa, buộc bao vào cổ tay Kiowa, đoạn dùng đài vô tuyến gọi trực thăng cứu thương.
Rời khỏi chỗ đó, bọn họ mỗi người tìm ra một việc để làm, người hút thuốc, kẻ mở lon khẩu phần C, vài người chỉ đứng dưới mưa.
Với tất cả họ làm xong được việc đó thật nhẹ cả người. Giờ thì đã có hứa hẹn là họ sẽ tìm ra một túp nhà đâu đó, hay một ngôi chùa hoang, nơi họ có thể cởi hết quần áo, rũ bỏ hết mệt nhọc và có thể nhóm ngọn lửa nóng. Họ thấy buồn cho Kiowa. Nhưng họ cũng cảm thấy chếch choáng sao đó, một niềm vui thầm kín, vui vì họ vẫn sống, và bởi ngay cả cơn mưa này cũng còn tốt hơn là bị hút xuống dưới đáy một cánh đồng cứt, và bởi mọi thứ chẳng qua là vận may và sự ngẫu nhiên.
Azar ngồi xuống trên bờ đê cạnh Norman Bowker.
“Nghe nè,” hắn nói. “Mấy chuyện cười ngớ ngẩn ấy mà, thiệt ra tao chả có ý gì đâu.”
“Tụi mình đứa nào chả nói này nói nọ.”
“Ừ, nhưng khi nhìn thấy thằng đó, tao thấy như là – tao chả biết – như là nó đang nghe mình ấy.”
“Nó không nghe đâu.”
“Thì chắc là không. Nhưng tao thấy như là mình có lỗi, như là giá tao ngậm miệng lại thì chuyện này đã không xảy ra. Làm như đó là lỗi của tao ấy.”
Norman Bowker nhìn qua bên kia cánh đồng ướt.
“Chả lỗi của ai hết,” hắn nói. “Lỗi của tất cả.”
Gần chính giữa cánh đồng Thiếu úy Jimmy Cross ngồi xổm giữa bùn, gần như ngập lút cả người. Hắn đang sửa lại trong đầu bức thư gửi cho cha của Kiowa. Lần này là bức thư vô cảm, không có gì riêng tư. Một sĩ quan bày tỏ lời chia buồn của một sĩ quan. Không cần lời xin lỗi nào hết, bởi thực ra đây là một trong những chuyện chả ai ngờ, mà chiến tranh thì đầy rẫy chuyện chả ai ngờ, và dù sao thì cũng chả ai thay đổi gì được. Đó là sự thật, hắn nghĩ. Chính là sự thật.
Thiếu uý Cross dấn sâu hơn vào trong bùn, nước đen ngòm lên tới họng hắn, và cố tự nhủ đó là sự thật.
Cạnh hắn, cách vài bước về bên trái, chú lính trẻ vẫn đang tìm ảnh cô bạn gái hắn. Vẫn đang nhớ hắn đã giết Kiowa ra sao.
Thằng nhóc muốn tự thú. Hắn muốn kể cho Thiếu uý nghe rằng hồi nửa đêm qua hắn đã lôi ảnh của Billie ra đưa cho Kiowa rồi thì bật đèn pin, và Kiowa thì thầm, “Ôi cha, xinh quá,” rồi thì trong khoảng khắc ánh đèn pin làm cho mặt Billie loé lên, rồi thì ngay sau đó cánh đồng nổ tung hai thằng. Cái đèn pin gây ra chuyện ấy. Như là một đích ngắm loé sáng trong bóng tối.
Thằng nhóc nhìn lên trời, rồi nhìn Jimmy Cross.
“Ông à,” hắn nói.
Mưa và sương mù kéo qua trên cánh đồng thành từng mảnh xám rộng, trùm khắp. Gần kề có tiếng sấm.
“Ông à,” thằng nhóc nói, “tôi phải giải thích đôi điều.”
Nhưng Thiếu uý Jimmy Cross không nghe thằng nhóc. Mắt nhắm, hắn để mặc mình vục sâu hơn nữa xuống bùn, mặc cho cánh đồng lôi hắn xuống. Hắn nằm ngửa ra buông mình trên bùn.
Khi một người chết, cần phải đổ lỗi cho ai đó hay gì đó. Jimmy Cross hiểu điều ấy. Anh có thể đổ lỗi cho chiến tranh. Anh có thể đổ lỗi cho những thằng ngu đã làm ra cuộc chiến tranh. Anh có thể đổ lỗi cho Kiowa đã tự đưa mình vào đó. Anh có thể đổ lỗi cho mưa. Anh có thể đổ lỗi cho con sông. Anh có thể đổ lỗi cho cánh đồng, cho bùn, cho khí hậu. Anh có thể đổ lỗi cho kẻ thù. Anh có thể đổ lỗi cho những viên đạn cối. Anh có thể đổ lỗi cho những kẻ quá lười biếng không đọc nổi một tờ báo, những kẻ chán ngán với những con số đếm xác hằng ngày, những kẻ cứ hễ nghe nhắc tới chính trị là chuyển kênh. Anh có thể đổ lỗi cho toàn bộ đất nước. Anh có thể đổ lỗi cho Chúa Trời. Anh có thể đổ lỗi cho những kẻ làm ra đạn dược cho Karl Marx, cho một trò chơi khăm của số phận hay cho một ông già ở Omaha quên đi bỏ phiếu.
Dù vậy, giữa cánh đồng, những nguyên nhân đều là trực tiếp. Một khoảnh khắc sơ sẩy hoặc phán đoán sai hoặc thuần tuý ngu xuẩn đều dẫn tới những hậu quả kéo dài vĩnh viễn.
Mãi một hồi lâu Jimmy Cross nằm buông mình trên bùn. Nơi mấy đám mây ở phía Đông có tiếng trực thăng, nhưng hắn không để tâm. Mắt nhắm, bập bềnh giữa cánh đồng, hắn để mặc cho mình trôi đi. Hắn đang về lại nhà ở New Jersey. Một buổi chiều vàng óng trên sân gôn, bãi cỏ sum suê xanh tốt, hắn đang đưa bóng vào lỗ đầu tiên. Đó là một thế giới không có trách nhiệm gì. Khi chiến tranh kết thúc, hắn nghĩ, có khi chừng đó hắn mới sẽ viết thư cho cha Kiowa. Mà cũng có thể không. Có thể hắn chỉ vụt vài cái để dượt trước rồi thì đánh bóng dọc theo đường giữa và nhặt mấy cây gậy của hắn lên, trở gót bước vào trong buổi chiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét