- Những thứ họ mang
Nhà thờ
Tim O'brien
Một chiều nọ, đâu đó về phía Tây bán đảo Batangan, chúng tôi bắt gặp một ngôi chùa bị bỏ hoang. Hay gần như bỏ hoang, bởi có hai thầy chùa sống ở đó trong một cái chòi bằng giấy dầu, họ trông coi một mảnh vườn nhỏ và dăm ngôi đền đổ nát. Họ hầu như chả biết tí tiếng Anh nào. Khi chúng tôi đào công sự cá nhân ở ngoài sân, mấy thầy chùa không có vẻ bực tức hay khó chịu, mặc dù ông trẻ hơn lấy tay làm động tác giống như lau chùi cái gì đó. Không ai đoán được thế nghĩa là gì. Ông già hơn dẫn chúng tôi vào trong chùa. Chùa vừa tối vừa mát lạnh, tôi nhớ vậy, tường sụt lở, cửa sổ chất đầy bao cát, trần thủng lỗ chỗ. “Tin xấu đây,” Kiowa nói. “Với nhà thờ chùa chiền các thứ thì không đùa được.” Nhưng chúng tôi ngủ qua đêm tại đó, biến ngôi chùa thành một pháo đài nhỏ, rồi bảy tám ngày sau đó chúng tôi dùng chỗ ấy làm trụ sở tác chiến. Quãng thời gian ấy hầu như thật thanh bình. Sáng nào hai thầy chùa cũng lấy xô xách nước cho chúng tôi. Họ cười khúc khích khi chúng tôi cởi trần tô hô ra tắm; họ mỉm cười vui vẻ khi chúng tôi xát xà phòng và hắt nước vào nhau. Vào ngày thứ hai ông già hơn đem một cái ghế bằng mây vào cho Thiếu úy Jimmy Cross dùng, ông để cái ghế gần khu vực ban thờ, cúi mình rồi ra dấu bảo hắn ngồi. Ông thầy tu già có vẻ tự hào về cái ghế, tự hào rằng có một người như Thiếu úy Cross ngồi lên đấy. Một lần khác thầy trẻ hơn đưa cho chúng tôi mấy quả dưa hấu chín cắt trong vườn của chú ta. Chú ta đứng nhìn chúng tôi chén mấy quả dưa cho tới khi còn trơ vỏ, đoạn chú ta vừa cười vừa lấy tay làm cái động tác kỳ lạ giống như là lau rửa cái gì.
Mặc dù mấy thầy chùa tử tế với tất cả chúng tôi, nhưng họ đặc biệt yêu thích Henry Dobbins. “Lính Chúa,” họ nói, “lính Chúa tốt.”
Ngồi xổm lặng lẽ trong ngôi chùa mát lạnh, họ thường giúp Dobbins tháo và lau khẩu súng máy của hắn, cẩn thận bôi dầu lên các cơ phận súng. Cả ba người có vẻ hiểu nhau. Chẳng trao đôi gì bằng lời, chỉ là một sự lặng lẽ họ có chung.
“Mày biết không,” một sáng nọ Dobbins bảo Kiowa, “sau chiến tranh có khi tao về nhập bọn với mấy tay này.”
“Nhập bọn ra làm sao?”
“Mặc áo cà sa. Phát thệ.”
Kiowa ngẫm nghĩ. “Cái này mới đây. Tao không biết là mày có tinh thần tôn giáo tài cỡ đó.”
“Chà, không phải vậy đâu,” Dobbins nói. Bên cạnh hắn, hai thầy chùa đang làm việc với khẩu M-60. Hắn quan sát họ thay nhau luồn que thông nòng bôi đẫy dầu vào trong nòng súng. “Tao không hẳn là loại người thích đi nhà thờ. Hồi tao còn nhỏ xíu, lâu rồi, mấy buổi lễ Chủ nhật tao hay ngồi đếm gạch trên tường. Nhà thờ không phải thứ cho tao. Nhưng lên trung học thì tao bắt đầu nghĩ có khi tao thích làm mục sư. Có nhà nè, có xe nè. Đồ ăn ê hề. Sống như thế coi bộ cũng khá.”
“Mày nghiêm túc đó chớ?” Kiowa nói.
Dobbins nhún vai. “Nghiêm túc cái gì? Hồi đó tao còn con nít. Vấn đề là tao tin Thượng đế tin các thứ, nhưng cái làm tao thích thì không phải là cái phần tôn giáo. Cái chính là tử tế với mọi người, vậy thôi. Sống đàng hoàng.”
“Phải,” Kiowa nói.
“Thăm viếng người bệnh, kiểu như thế. Cái vụ đó có khi tao cũng chả giỏi. Phần nào liên quan tới đầu óc – thuyết giáo này nọ – thì không, nhưng phần nào liên quan đến mọi người thì chắc tao làm được.” Henry Dobbins im lặng một lát. Hắn mỉm cười với ông thầy già, lúc này ông đang lau bộ cò súng của khẩu súng máy.
“Nhưng dù sao,” Dobbins nói, “tao không thể là mục sư thứ thiệt được, bởi muốn vậy mình phải hết sức là sáng láng. Ý tao là phần ở trên ấy. Phải có đầu óc. Mày phải giải thích vài chuyện khó, kiểu như vì sao người ta chết, hay vì sao Thượng đế phát minh ra bệnh lao và mọi thứ tương tự.” Hắn lắc đầu. “Chỉ là tao không đủ sáng láng cho chuyện ấy. Rồi lại còn phải mộ đạo, phải tu hành nữa. Suốt ngần ấy năm rồi tao vẫn cứ ghét nhà thờ mày ạ.”
“Có lẽ mày sẽ thay đổi,” Kiowa nói.
Henry Dobbins nhắm mắt một thoáng, rồi phá lên cười.
“Có một điều này chắc chắn, tao mà mặc mấy cái áo thụng như tụi này thì coi lóng ngóng mắc cười lắm, như là Huynh Tuck ấy. Có khi tao sẽ làm thế. Tìm một tu viện ở đâu đó. Vận áo thụng và tử tế với mọi người.”
“Nghe hay đó,” Kiowa nói.
Hai thầy chùa im lặng trong khi lau chùi và tra dầu khẩu súng máy. Mặc dù hầu như không nói được tiếng Anh, nhưng hình như họ rất tôn trọng cuộc trò chuyện này, như thể họ cảm thấy người ta đang bàn luận những vấn đề quan trọng. Chú trẻ hơn dùng một tấm vải màu vàng để lau bụi băng đạn.
“Còn mày thì sao?” Dobbins hỏi.
“Làm sao?”
“Ờ thì mày đi đâu cũng đem Kinh Thánh theo, mày chả bao giờ chửi rủa hay gì, vậy thì mày chắc phải…”
“Từ nhỏ tới lớn tao luôn vậy mà,” Kiowa nói.
“Mày có khi nào – mày hiểu đó – có khi nào nghĩ tới chuyện làm mục sư không?”
“Không. Chưa bao giờ.”
Dobbins phá lên cười. “Mục sư da đỏ. Trời ạ, cái đó tao khoái nhìn thấy đó nha. Đeo lông chim mấy lại mặc áo choàng da trâu.”
Kiowa nằm ngửa, nhìn lên trần, hồi lâu hắn không nói gì. Đoạn hắn ngồi dậy cầm bi đông uống một ngụm.
“Mục sư thì không,” hắn nói, “nhưng mà tao có thích nhà thờ. Thích cái cảm giác khi mình vào trong đó. Cảm thấy dễ chịu khi mình ngồi đó, vậy thôi, như khi mình ở trong rừng và tất cả thật im lặng, ngoại trừ cái âm thanh mà mình không nghe được.”
“Ừ.”
“Mày có khi nào thấy vậy không?”
“Cũng có.”
Kiowa khẽ hực một tiếng ở trong họng. “Chuyện này sai bét cả,” hắn nói.
“Cái gì?”
“Đóng quân ở đây. Thế là sai. Gì thì gì, đây cũng là chỗ người ta thờ cúng.”
Dobbins gật. “Đúng.”
“Nơi thờ cúng,” Kiowa nói. “Sai rồi.”
Khi hai thầy tu lau xong khẩu súng máy, Henry Dobbins bắt đầu lắp lại, lau chỗ dầu thừa, đoạn hắn đưa cho mỗi thầy tu một hộp đào và một thanh sô cô la. “OK,” hắn nói, “đi đi, mau, các cậu. Đớp đi.” Hai thầy tu cúi mình rồi ra khỏi chùa, bước vào nắng sáng rực rỡ.
Henry Dobbins làm động tác lau chùi bằng cả hai tay.
“Mày nói đúng,” hắn nói. “Mình chỉ có thể làm một việc là sống tử tế. Đối xử đàng hoàng với họ, hiểu không?”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét