Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Nguyên Ngọc viết về: "Trở lại Mèo Vạc"

 

Chiếc váy xòe xếp ly của người H'mong

Nguyên Ngọc viết về: "Trở lại Mèo Vạc"

 

Nguyên Ngọc


CÓ MỘT NGUYÊN-NGỌC-KHÁC KHI NHỚ VÀ VIẾT VỀ MÈO VẠC/VỀ CÔ GÁI H'MÔNG THÀO MỸ NGÀY NÀO... NHƯNG NHỮNG HỒI ỨC ĐẦY CHẤT THƠ ẤY ĐÃ PHẢI CHÌM XUỐNG DƯỚI NHỮNG THỰC TẾ TÀN BẠO CỦA CUỘC SỐNG TRONG "NĂM 1991" (Trên Văn Việt):

http://vanviet.info/van/nam-1991-ky-1/

KỲ 1.

Năm 1991 của tôi là một năm rất lắm chuyện, dồn dập, có lẽ cũng cần và nên kể. Chỉ riêng chuyện giải thưởng Hội Nhà văn 91 đã khá ầm ĩ, còn nợ chưa kể hết, lần này lại xin khất. Chuyện kể hôm nay có phần dính dáng ít nhiều đến anh Trần Độ, chắc cũng không ngẫu nhiên.

Anh Trần Độ tham gia cách mạng từ năm 1939, ở tù Pháp nhiều lần, lần sau cùng là tù Sơn La, cùng các ông Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy…, năm 1943 anh vượt thoát trên đường bị giải từ Sơn La đi Côn Đảo, quay về Hà Nội tham gia khởi nghĩa tháng Tám. Trong kháng chiến chống Pháp anh là chính ủy sư đoàn 312 đánh trận Him Lam mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ; trong chống Mỹ là Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam… Một con nguời có cuộc đời đầy ắp và dãi dầu như thế, thật lạ, lại có một tâm hồn vẫn trẻ trung, đặc biệt giữ được tính tò mò rất quý ở trẻ con mà hầu hết chúng ta được gọi là người lớn đã đánh mất (người ta bảo trừ các nghệ sĩ tài ba và các nhà bác học cao siêu).

Một hôm anh khoe với tôi vừa đọc được trên báo nào đó bài của Phương Quỳnh viết về ngôi miếu cổ ở Hà Nội thờ hai cô ca nữ, anh rất thích và tò mò muốn biết tường tận. Tôi nói tôi có quen Quỳnh, đấy là một là người Hà Nội gốc, rất am hiểu văn hóa Hà thành. Anh bảo nếu có thể thì mời Phương Quỳnh hôm nào đến chơi. Quỳnh đồng ý, hẹn ngày, khoảng 2 giờ chiều. Gần 2 giờ chiều hôm ấy, tôi đang nghỉ trưa, sực nhớ nhà anh Độ có cái cổng quấn dây xích sắt mấy vòng, nhà cẩn thận ban ngày vẫn thêm ổ khóa bên trong nhưng nhà anh thì chẳng bao giờ, ai vào cứ tự gỡ dây xích ra mà vào, mấy hôm đó chuông cổng nhà anh lại hỏng, chưa sửa. Tôi sợ Phương Quỳnh đến, không biết tự gỡ xích sắt mở cổng, bấm chuông mãi chẳng ai ra, sẽ rất lúng túng. Tôi vội chạy đến, quả nhiên thấy cô đang loay hoay với chiếc chuông câm. Tôi mở cổng, đưa Quỳnh vào. Hóa ra trong nhà đang có khách: Dương Thu Hương và một người đàn ông lạ, khá béo, mặc áo nâu nhạt, cúc bằng vải, vừa hơi giống thầy tu vừa giống Tàu. Từ phút đầu tôi đã thấy không có thiện cảm với vị khách bất ngờ ấy, chưa hiểu vì sao, một cảm giác hơi khó chịu. Dương Thu Hương thì rất vui, cô vồn vã giới thiệu: Đây là anh Bùi Duy Tâm, mới ở Pháp về. Rồi cô quay sang chúng tôi: Xin giới thiệu với anh Tâm, đây là chị Phương Quỳnh, còn đây là anh Nguyên Ngọc… Người tên là Tâm ấy nói như reo lên: Ôi, quý hóa quá. Xin chào chị Quỳnh, xin chào anh Ngọc! Rồi ông ta nhận xét ngay: Anh Ngọc giống anh Nguyễn Quang Sáng quá! Phương Quỳnh nãy giờ vẫn im lặng, bỗng lên tiếng, giọng sẵng: Ông Bùi Duy Tâm nhầm rồi, anh Ngọc và anh Sáng rất thân nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau, một người thích tự do ăn chơi, một người cũng tự do nhưng rất nghiêm túc…

Không khí nhạt nhẽo, ngồi lại nữa vô duyên, Quỳnh và tôi đứng dậy kiếu ra về. Đến cổng, Quỳnh bảo sao mới trông đã thấy khó chịu, chẳng ra làm sao.

Mấy bữa sau tôi có hỏi lại anh Độ sao đã hẹn Quỳnh anh lại tiếp Bùi Duy Tâm cùng lúc? Anh bảo mình có biết trước gì đâu, con Hương cứ thế tự động dắt ông ấy tới gọi là ra mắt, mình cũng bất ngờ. Quen biết gần gũi nhau đã rất thân, có lần Thế Thanh và tôi đã nói với anh: Anh Độ ơi, anh tốt quá, nhưng nói thật anh chơi với mọi người rất “tạp”, ai cũng có thể thản nhiên tự xông vào nhà anh, có ngày chúng hại anh như không. Anh cười: Mình sống đàng hoàng, mọi thứ đều công khai, có gi phải đề phòng cho mệt…

Ấy là vào đầu năm, khoảng tháng 3. Đến tháng 4, anh Độ lại có chuyện tò mò mới. Nghe đồn trên Hòa Bình có cô bé có thể nói chuyện với tiên, anh rủ tôi và Nguyễn Văn Hạnh lên xem thử. Muốn xem người có khả năng ly kỳ thế thì phải nhờ đến anh Nguyễn Hoàng Phương, là nhà vật lý tên tuổi đồng thời chuyên nghiên cứu hiện tượng ngoại cảm, dẫn đường. Anh Phương đã nhận lời, nhưng sáng hôm ba chúng tôi đánh xe đến đón ở Hàng Chuối, anh chạy ra xin lỗi, vừa có một bà ngoại cảm cơ sở của anh trên Sóc Sơn bị công an bắt, anh phải lên cứu ngay. Đành đánh xe về.

Trên đường về anh Độ bỗng nảy ý kiến ghé lại thăm Dương Thu Hương ở 25 Ngô Thời Nhiệm, nghe cô ấy ốm đã mấy hôm. Tôi bàn: Có lẽ không nên các anh ạ, ba anh em mình đều là đối tượng thường xuyên bị theo dõi, cùng đến nhà Hương một lúc chẳng hay đâu, để rồi từng người lần lượt đến thăm sau. Anh Độ và Hạnh đều thấy phải. Chúng tôi bèn rẽ vào nhà Phương Quỳnh. Thì thấy một anh công an đang ngồi ở đấy. Hỏi ra, Quỳnh có cậu con trai học trường Sân khấu Điện ảnh, đám này tối tối hay tụ tập cờ bạc, khoảng hai tuần trước bị công an ập vào, nhưng chỉ bắt mỗi con trai Quỳnh, giam tận trên Diễn. Người công an đến là để báo sáng nay họ sẽ thả cậu ấy, yêu cầu Quỳnh lên Diễn nhận con về… Thế là đi đến đâu cũng chẳng được gì, ba chúng tôi đành giải tán…

Tôi về nhà, khoảng hai rưỡi chiều thì nghe tin Dương Thu Hương bị bắt, chắc trong lúc ba chúng tôi đang định ghé thăm cô. Còn việc bắt con trai Quỳnh rồi hôm nay công an đến tận nhà báo tin sẽ thả, yêu cầu mẹ đi đón con về, hẳn là chi tiết tính trước rất chặt chẽ trong “kế hoạch tác chiến” của người ta. Quỳnh rất thân Hương, cần cách ly cô ra xa trong lúc bắt Hương. Về sau anh Độ bảo: Sao bữa đó cậu Ngọc sáng suốt thế nhỉ, chút nữa thì ba chúng mình đã có thể sa vào tình huống rất chi là bi hài. Còn anh Hà Sĩ Phu thì lại vô tình lâm vào đúng cái vố chúng tôi tình cờ tránh được. Từ tận Đà Lạt xa xôi, anh ra Hà Nội và đến thăm Dương Thu Hương đúng lúc công an ập vào bắt cô. Theo nguyên tắc bắt người, anh bị họ giữ luôn vì là người lạ đang có mặt tại chỗ, bị đưa về trụ sở Bộ Công an trên đường Trần Bình Trọng tra vấn suốt ngày, rồi liên tiếp mấy ngày sau phải đến trình diện để giải trình… Cứ nghĩ đến cảnh sáng hôm ấy cả ba chúng tôi, dẫu sao cũng đều là nhân vật tên tuổi và khá oai phong, bỗng rơi vào vở kịch tương tự Hà Sĩ Phu thì sẽ khôi hài và bi đát đến phải ghi vào sử sách mất!…

Ngay xế chiều hôm ấy tôi đi Tuyên Quang hồi đó còn là tỉnh lỵ Hà Tuyên. Chả là Hội Văn nghệ Hà Tuyên mở trại sáng tác, có lời mời lên giúp.

Lúc này tôi đang đọc các tiểu luận của Milan Kundera, Nghệ thuật tiểu thuyết và Những di chúc bị phản bội. Ra đi trong đầu vẫn lởn vởn những câu đang tìm cách dịch cho thoát tinh thần của tác giả. Còn ám ảnh vì những ý tưởng của ông về tiểu thuyết.

Nhà văn Milan Kundera.
 Ảnh Boris Pelcer

Kundera là nhà văn Tiệp, bị chính quyền đàn áp ông đã lưu vong sang Pháp, được Tổng thống Mitterrand trao quốc tịch Pháp. Về sự kiện này, nhà phê bình Guy Scarpetta viết: Bằng cách đuổi Milan Kundera ra khỏi nước mình, Tiệp đã tặng châu Âu một nhà tiểu thuyết hàng đầu thế giới. Ở ta Phạm Xuân Nguyên đã liên tiếp dịch nhiều tiểu thuyết của Kundera: Sự bất tử, Bản nguyên, Chậm rãi… Bên Mỹ, anh Trịnh Y Thư đã dịch rất hay Đời nhẹ khôn kham, gần đây lại có Tập sách cái cười và sự lãng quên… Tôi chỉ dịch một tiểu thuyết Lễ hội của vô nghĩa được coi là tác phẩm cuối cùng của ông. Tôi thích dịch các tiểu luận của ông hơn. Kundera viết tiểu luận rất hay. Các tiểu luận của ông là những tiểu thuyết về số phận của tiểu thuyết, trong đó tiểu thuyết là một nhân vật với những chìm nổi bất tận của nó. Ông coi tiểu thuyết không chỉ là một thể loại, mà là một cấp độ tư duy của con người khi Thời Hiện đại ra đời, niềm tin vào lý tính lên ngôi, trong cơn say mê hiểu biết của nó, liên tục chẻ thế giới ra thành những phần nhỏ riêng rẽ ngày càng tách biệt. Tiểu thuyết xuất hiện nhằm “cứu” thế giới bằng cách chăm chú gìn giữ cái nhìn tổng thể toàn vẹn về sự vật và con người. Cho nên tiểu thuyết về bản chất là rất mở và tự do, nó là thể loại dung nạp mọi thể loại. Tôi có cảm giác, dù còn mơ hồ, có vẻ đấy là cái tôi đang đi tìm trong trăn trở vất vả nhiều năm qua. Và, lạ vậy, cũng chưa thật hiểu vì sao, dường như tất cả những điều đó lại liên quan đến chính chuyến đi này của tôi.

Hẳn cũng đã manh nha từ những chuyến đi trước nữa. Tôi là người chậm chạp, phải góp nhặt từng chút. Kỳ thực dù đã đắm minh quá sâu trong sử thi thời chiến và khá trì trệ trong viết lách, hơn mười năm ngụp lặn chìm nổi sau 1975, nhất là từ khi được ném vào chính giữa dòng xoáy của đời sống văn học gay gắt tính xã hội, trong các tế bào sâu kín của tôi không thể ít nhiều không có biến đổi, tôi cũng đã phải biết nhìn đời nhìn người khác đi. Anh Nguyễn Đăng Mạnh trong một cuốn sách phê bình văn học đã gọi tôi là “con người lãng mạn”, anh chê tôi mới đúng một nửa. Chính xác hơn tôi là nhà văn lãng mạn anh hùng ca. Từng vang dội một thời. Tôi biết tôi phải thay đổi nhưng để thay đổi mà vẫn còn là tôi thì phải lãng mạn đời hơn, mà đời, hôm nay tôi biết rồi, vốn đầy cay đắng.

Trong chuyến lang thang mấy năm đi tìm dấu vết con đường mòn Biển Đông, khi mò xuống tới cái xóm heo hút nằm sát mép sóng tận cuối huyện Duyên Hải của Trà Vinh, tôi chỉ nói chuyện qua với thuyền trưởng anh hùng Ba Thắng, còn thì bỗng tập trung chú ý đến một bà già lưng còng đến thành hình thước thợ suốt ngày lom khom ngoài vườn, đến tối hỏi ra mới biết đấy chính là vợ anh Ba. Lưng chị bị gãy đến thế không phải vì một tai nạn nào, mà vì mười năm gánh một khối hạnh phúc lạ lùng đến không thể tưởng.

Chuyện éo le thế này: Hồi cuối những năm 50 thế kỷ trước, từ chi bộ thôn xã cho đến huyện ủy, tỉnh ủy Trà Vinh, nói chi đến gia đình và xóm giềng, đều yên trí anh Ba Thắng mới cưới vợ được mấy tháng đã bỏ nhà nhảy bưng theo cách mạng, chỉ vài người cao nhất ở Khu ủy Khu 9 biết anh được chọn gửi ra Bắc học thành thuyền trưởng cho con đường Biển Đông đang bí mật hình thành. Rồi anh đi hàng chục chuyến mạo hiểm đưa hàng nghìn tấn “hàng” từ Bắc vào các bến, chủ yếu từ Sóc Trăng, Bạc Liêu xuống tới Rạch Gốc, Đầm Cùng hai phía mũi Cà Mau. Mãi tới đầu 1965 mới có một chuyến về đích thị bến Duyên Hải Trà Vinh cách nhà không đến mươi cây số. Anh trưởng bến vốn biết rõ Ba Thắng cười hỏi có muốn gặp vợ chút không. Nhớ thương đứt ruột nhưng Ba Thắng bảo đâu dám. Bí mật con đường Biển Đông là thiêng liêng. Anh trưởng bến thương hại quá bèn im lặng làm một việc liều lĩnh: tìm gặp vợ Ba Thắng, yêu cầu chị đi cùng anh một chuyến công tác gấp, dẫn chị đi vòng tận Sài Gòn để đánh lạc hướng, rồi quay về bến Duyên Hải bấy giờ đóng trong rừng tràm. Vợ chồng gặp nhau như trong mơ, được sống cùng nhau hai ngày đêm hạnh phúc ngỡ trên trời rơi xuống. Anh trưởng bến lại dẫn chị vòng tận Sài Gòn, rồi mới trả về nhà. Đã gặp chồng ở đâu, chị không hề biết. Ba Thắng cũng không. Anh lại lên đường, lại tiếp tục hàng chục chuyến mạo hiểm vào các bến xa, không còn lần nào được trở lại Duyên Hải.

Còn chị trở về, lâng lâng hơn cả ngày mới cưới. Hạnh phúc bất ngờ tới không dám tin. Nhưng rồi tai họa bỗng ập xuống như sét đánh: kỳ kinh hằng tháng chờ mãi không đến. Một tháng. Hai tháng. Rồi ba…Giọt máu của chồng đã nở trong chị. Có ai nữa trên khắp thế gian này phải mang trong mình một hạnh phúc cùng lúc lại là tai họa ngày càng lớn đến vậy. Dù chỉ mơ hồ thôi, song chị biết bí mật của tất cả những gì liên quan đến việc chồng đang làm, đến cả sự còn tồn tại của anh, là thiêng liêng. Nhưng cái nụ mầm của chồng chị đang được mang cũng là thiêng liêng. Sau này chị sẽ nói với anh không giây phút nào chị thoáng nghĩ đến hủy bỏ nó. Chưa bao giờ thời gian lại trôi vừa quá nhanh lại vừa quá chậm khủng khiếp đến thế, tháng thứ ba rồi tháng thứ tư, mà chiến tranh thì vời vợi… Không còn giấu được nữa, chị quyết định: Liều! Ghê gớm nhất là cho đến bao giờ? Chỉ có ngày thắng lợi hoàn toàn mới giải được cho chị. Thôi thì cứ… Chị “thú nhận” với chi bộ, với cha mẹ chồng đi buôn lỡ ăn nằm với người lạ. Bị đuổi ra khỏi Đảng. Cha mẹ chồng đuổi đi. Cha mẹ ruột cắn răng muối mặt nhận về. Xóm giềng cười nhạo khinh miệt… Bao nhiêu? Mười năm. Ba Thắng không hề hay biết. Anh trưởng bến nghĩ mình đã làm được một việc quá hay, cũng đã biệt tăm. Có thể anh đã chuyển bến khác, cũng có thể anh đã hy sinh. Không chỉ trên biển lớn, cuộc chiến đấu ở các bến cũng ác liệt chẳng kém. Mà anh còn và anh biết, thì liệu anh làm được gì?

Mười năm, 1965-1975. Cho đến ngày người anh hùng Ba Thắng vinh quang trở về, ôm đứa con gái đẻ hoang của vợ, trịnh trọng tuyên bố: Đừng có nói bậy, đây là con tôi.

Ngày tôi về ngôi nhà bên mép sóng tận cuối Duyên Hải, Trà Vinh, người đàn bà ấy đã bị khối hạnh phúc hai ngày đêm bất ngờ của mình đè gãy gục lưng thành hình thước thợ…

Có vô số những số phận như vậy trên con đường mòn Biển Đông. Tôi đã biết gạt bớt những tên tuổi lẫy lừng đế nghĩ và viết về họ.

Nhưng văn chương không chỉ, thậm chí không phải là viết gì. Mà là viết thế nào. Còn gọi là lối viết. Là trò chơi ma thuật các từ. Mà từ thì chẳng hề vô tri. Năm 1997, theo gợi ý của anh Vương Trí Nhàn ở nhà xuất bản Hội Nhà văn, tôi có dịch cuốn sách của nhà lý luận văn học Pháp Roland Barthes Độ không của lối viết, mỏng dính mà vừa nổi tiếng hay vừa nổi tiếng khó, nhưng cực tinh, tôi đã đọc nguyên bản từ nhiều năm trước (sách được xuất bản năm 1953, tôi đọc được sau 1975). Đọc mà cứ tưởng như ông đang nói về chính tôi.

Đây là một đoạn ông nói về lối viết và từ: “… đúng lúc Lịch sử chung đề xuất – hay áp đặt – một cục diện mới của hành ngôn văn học, thì lối viết vẫn còn đầy ắp những ký ức về những cách dùng trước đây, vì hành ngôn không bao giờ vô tư: các từ có một trí nhớ thứ hai còn kéo dài một cách bí ẩn giữa những ý nghĩa mới. Lối viết đích thị là sự thỏa hiệp giữa một tự do và một ký ức ấy, nó là cái tự do có hồi ức đó, là tự do trong hành vi lựa chọn, nhưng đã không còn tự do nữa khi nó kéo dài ra. Ðương nhiên hôm nay tôi có thể chọn cho mình lối viết này hay lối viết khác, và qua hành vi đó khẳng định tự do của tôi, hướng tới một sự tươi mới hay một truyền thống; tôi đã không còn có thể phát triển lối viết tự do đó khi kéo dài ra mà không dần dần bị cầm tù trong những từ của người khác và thậm chí những từ của chính mình. Một sự tồn dư ngoan cố, lưu lại từ tất cả các lối viết của chính tôi, át mất giọng nói hiện tại của các từ tôi đang dùng. Mọi dấu vết của cái viết ra đổ dồn đến như một nguyên tố hóa học thoạt đầu còn trong suốt, vô tư và trung tính, rồi sự kéo dài ra dần dần làm hiện lên trong đó cả một quá khứ còn treo lửng, cả một mật mã càng lúc càng đậm đặc…”

Tôi đã cố tình gạt người anh hùng Ba Thắng ra, để chỉ viết về cái khối nặng hạnh phúc khủng khiếp anh trút lên thân phận chị suốt mười năm đằng đẵng. Tất nhiên phải viết “những từ cố làm mới”, nhưng chỉ được đâu năm bảy dòng, cái “tồn dư ngoan cố lưu lại từ tất cả các lối viết của chính tôi” – Barthes dùng chữ và chỉ ra thủ phạm mới giỏi làm sao! – bỗng đã bắt đầu ló dạng, “thoạt đầu còn trong suốt, vô tư và trung tính” rất dễ khiến tôi mất cảnh giác, để tới khi kéo dài ra thì chúng lén lút và xảo trá “dần dần làm hiện lên trong đó cả một quá khứ còn treo lửng” “át mất giọng nói hiện tại của tôi”. Tôi quá biết “cái quá khứ còn treo lửng”, cái “mật mã càng lúc càng đậm đặc” ấy của tôi rồi. Đó là những Đường chúng ta đi vang lừng, những rừng xà nu tít tắp chạy đến chân trời anh hùng ca của tôi từng gọi bao thế hệ cầm súng ra đi, hẳn có thể đã gọi cả chính Ba Thắng ở tận cái xóm sát mép sóng xa lắc xa lơ kia nữa.

Người cầm bút không có gì khác ngoài các từ, mà từ thì cực kỳ nguy hiểm. Làm mới văn chương, cho tình thế mới của xã hội và lịch sử là vật lộn để rứt ra cho được khỏi cái trí nhớ thứ hai bí hiểm và cực dai còn kéo dài một cách bí ẩn giữa những ý nghĩa mới ấy. Tất cả những điều tôi đã làm từ sau 1975, nhất là từ sau chuyến đi Nông Pênh và nhận ra Pôn Pốt, là những nỗ lực vùng vẫy cố rứt ra nhọc nhằn đến rớm máu đó…

Lên Tuyên Quang, tôi định làm việc rất chu đáo, tâm sự cùng anh em những điều tôi nhận được ở Kundera và ít nhiều nữa ở Barthes. Song kỳ thực còn một âm mưu: rồi bắt người ta trả công chứ, sẽ vừa đòi vừa xin các bạn ở Hội, có thể cả ở Ủy ban tỉnh, tổ chức cho một chuyến trở lên vùng cao Mèo Vạc – Đồng Văn.

Trở lên, trở về. Nơi hơn 30 năm trước tôi đã sa đà với người với núi, người thì là người Mèo, nay gọi là H’mông, dân tộc kỳ lạ nhất thế giới (rồi tôi sẽ nói, rất ly kỳ và khá dài đấy) cùng người Lô Lô ít hơn, núi thì toàn núi đá tai mèo trọc lóc, lởm chởm nhọn hoắt đen nhẻm, gần suốt hai năm chìm đắm say mê. Vừa đòi vừa xin, bởi giờ đâu có còn như trước, trẻ trung cuộc đời nhẹ tênh, lang thang bất chấp. Đến mức có lần đột ngột bỏ ra đi Hà Nội -Lạng Sơn đúng đêm 30 Tết bằng xe lửa, cả chuyến tàu mười mấy toa chỉ có mỗi mình là khách, anh trưởng tàu quá cô đơn tìm đến ngồi tâm sự suốt đêm hỏi liệu có gì thất chí chăng mà ra đi lạ lùng thế này… Nay phải tự biết đã già và nặng nề lắm rồi. Mà vẫn tha thiết muốn trở lên trở về trên ấy, đất và người bao năm thương nhớ.

Và tôi đã vừa đòi vừa xin được. Tôi đã định viết kể với các bạn về chuyến đi này, đã thử cầm bút mấy lần, nhưng rồi cứ loay hoay mãi, viết rồi lại bỏ, lại viết lại bỏ… sau cùng mới nhận ra là bởi vì về chuyến đi nhớ đời này tôi đã viết một lần rồi, vào cuối cái năm 1991 rất lắm chuyện của tôi ấy. Thôi thì chi bằng cứ xin in lại vào đây những dòng còn nóng hổi đủ thứ, cả hào hứng và bực tức vì những rắc rối chẳng đâu vào đâu. Hóa ra, tôi nhận ra đối với tôi cần có cả hai thứ ấy thì ngòi bút của tôi mới chảy được.

Bài viết của tôi ngày ấy có tên đơn giản thật thà là Trở lại Mèo Vạc, tuy cũng không thật thà đơn giản lắm đâu, ứa máu là khác, nguyên văn như sau:

TRỞ LẠI MÈO VẠC (xem ở đây)

 

THÀO MỸ, NGÀY GẶP LẠI...

CHÓA VÀNG, 40 NĂM SAU (2002)


http://vanviet.info/van/nam-1991-ky-2/

KỲ 2.♣

Ở trên tôi có nói từ vùng cao trở về tôi hôi hổi muốn ngồi ngay vào bàn và cầm bút, bao nhiêu ấn tượng còn sống động cựa quậy. Và quan trọng hơn nhiều: Cảm giác tôi có thể viết khác lần này, tôi đã có thể thật sự làm mới các từ của mình, rứt chúng ra khỏi cái ký ức tồn dư ngoan cố bám dính trong ấy cả một phần đời tôi…

Nhưng rồi không ngờ lại có chuyện rắc rối chẳng đâu vào đâu đang chờ, đến có cơ sẽ làm nhạt nhòa tất cả … Tất nhiên phải kể, cả hai, cái thúc giục và cái rắc rối.

Tôi có thói quen để bắt đầu cho viết thường lục tung tủ sách tìm thứ gì đó thường khi rất bất ngờ làm đà. Lần này tôi tìm được, cứ như trên trời rơi xuống, một cuốn sách không nhớ từ đâu tôi có được của ông linh mục kiêm nhà dân tộc học F. M. Savina Lịch sử người Miêu (Histoire des Miao) in năm 1930 ở Hồng Kông, khá ly kỳ.

Hãy nghe trước hết Savina định nghĩa người H’mông: “Chỉ cần hai từ để xác định người H’mông: một người rách rưới lang thang trên núi, lưng đeo gùi và thổi khèn”.

Ông dẫn tục ngữ H’mông:

“Mê ngiee lỏa dề, mờ nồng giang pêr, ndô, mê Hmông nhoà sau trông

Cá lội dưới nước, chim bay trên trời, người H’mông ở trên núi cao”

Và đây là chân dung họ:

“… đàn ông trung bình, đàn bà nhỏ thó hơn, ngực nở, vai rộng, bàn tay bàn chân nhỏ, đi dép quai mảnh, mũi thường tẹt, đôi khi thẳng, gò má hơi lồi, trai gái đều má phúng, miệng nhỏ, môi mỏng, mắt hơi xếch và cứ như muốn nhắm lại, tóc khi đen khi màu hạt dẻ hay râu ngô, da sáng hay trắng và râu thưa khiến những con người này thuộc một chủng tộc đặc biệt nằm giữa chủng da trắng và chủng da vàng”

Phụ nữ H' Mông

Tôi muốn bổ sung Savina: Phụ nữ H’mông ở nước ta là phụ nữ dân tộc thiểu số duy nhất mặc váy xếp li.

Họ từ đâu đến vậy, để tôi trở thành thân thiết và sẽ góp phần thay đổi cả ngòi bút của tôi như tôi sẽ muốn tâm sự, những con người nửa Âu nửa Á, nửa trắng nửa vàng tôi đã gặp và cũng từng ít nhiều nhúng tay can dự vào số phận của họ?

Theo Savina, nhìn trên một bản đồ dân tộc học có thể nhận ra rất nhiều chủng tộc từ khởi nguyên đều tụ ở một vùng đất, ông chỉ rõ, phía Đông là cao nguyên Pamir, Đông Nam là sông Indus, Tây Bắc là biển Oman, Tây Nam là vịnh Persique, chính Tây là các lưu vực sông Tigre và Euphrate, Đông Bắc là biển Caspienne, chính Bắc là hồ Aral.

Savina tin rằng người H’mông, vốn gốc Touranien, từng sống ở vùng thiết lập Tháp Ngôn ngữ (Babel), sau bị người Aryen và người Sémite đánh đuổi, thay vì chạy về vùng Trung Á như nhiều tộc người khác, xuất phát từ vùng nằm giữa Pamir, biển Caspienne và vịnh Persique mà họ gọi là “cao nguyên Tả Soa” rất thân thiết trong tâm khảm mỗi người H’mông cho đến tận ngày nay, họ lại mải miết đi về phương Bắc, vượt qua cả vĩ tuyến 60, lọt hẳn vào Vòng tròn Bắc cực – cho nên trong các truyện cổ tích Thào Mỹ kể cho tôi nghe những đêm cùng thức trắng ở Mèo Vạc có cả chuyện đêm dài sáu tháng ngày dài sáu tháng… Từ đây họ đổ xuống phương Nam, làm chủ vùng Trung Nguyên, mạn Bắc Kinh ngày nay, trước khi bị người Hán du mục từ Đông Bắc men theo sông Vị, sông Hoài và bờ Nam sông Hoàng Hà tràn xuống đánh đuổi. Cuộc thất bại lịch sử này của họ bắt đầu từ bao giờ? Theo Léon Weiger trong sách Trung Quốc qua các thời đại (La Chine à travers les ages, 1920), chậm nhất là khoảng năm 2500 trước Công Nguyên. Nghĩa là người H’mông đã đi suốt 5000 năm từ Nam lên Bắc, rồi lại đổ xuống đi xuyên lục địa Trung Hoa để đến biên giới Việt Nam. Và toàn đi trên các đỉnh cao bởi vì những vùng đồng bằng đã bị các dân tộc khác chiếm hết rồi. Họ vào Việt Nam ở mũi nhọn Lũng Cú…

Savina viết: “… Họ đã nán lại quá lâu trên núi cao, chẳng còn chỗ cho họ ở đồng bằng. Dân tộc lữ hành này, chưa bao giờ có tổ quốc cố định, chẳng hề quan tâm đến biên giới của các dân tộc khác, nhưng họ thành thạo tuyệt vời các con sông và các ngọn núi của châu Á, và đã đặt tên cho hầu hết các sông núi đó bằng ngôn ngữ của mình. Hẳn họ sẽ đoạt giải nhất về địa lý so với toàn bộ người phương Đông! [Cho tôi nói thêm nhé: Cho nên xuống thấp thì họ ngạt thở!]

Người H’mông chưa bao giờ có tổ quốc cố định, tuy nhiên lại cũng chưa bao giờ biết chịu nô lệ. Độc lập một cách dữ tợn là dấu hiệu khác biệt của người H’mông, suốt mọi thời đại…”

Nhân đây cho tôi kể một câu chuyện phiêu du kỳ lạ nữa xảy ra ở chính Mèo Vạc cách đây chưa đến mươi năm và đã được đăng trên báo Thanh Niên. Một hôm có người đàn ông tên là Vừ Già Pó đột ngột mất tích. Trên vùng biên cương xáo động và bí ẩn này chuyện ấy cũng không hoàn toàn lạ. Thỉnh thoảng vẫn có người bị bắt cóc bán sang Tàu, con gái thì làm vợ người ta hay bị ném vào các ổ điếm, đàn ông thì làm nô lệ. Vừ Già Pó biến mất. Người ta đi tìm… Rồi người ta quên… Cho đến một hôm bỗng có tin, trên báo chính thống hẳn hoi, Vừ Già Pó bị bắt tại… Kashmir, vùng đất tranh chấp khốc liệt giữa Ấn Độ và Pakistan. Hẳn Vừ Già Pó đã trốn thoát được cảnh nô lệ bên Tàu, tờ báo đoán thế. Nhưng tại sao anh lại lưu lạc tít tắp tận Kashmir? Tính ra từ cái thôn Lũng Lầu, xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc quê hương, bị bắt sang Tàu rồi thoát, Pó đã đi bộ 5800 km xuyên Bắc Lào, Bắc Thái Lan, Myanmar, vượt sườn Hymalaya, sang Bangladesh, Bhutan, Nepal, rồi Bắc Ấn Độ, đến Kashmir. Chỉ có thể đi như trong cơn mê.

CUỘC PHIÊU DU KỲ LẠ CỦA VỪ GIÀ PÓ

Khi bị bắt Vừ Già Pó đang còn đi, mải miết về hướng Tây. Mải miết về hướng Tây thì đến vùng đất cổ nằm giữa núi Pamir, biển Caspienne và vịnh Ba Tư, tức cao nguyên Tả Soa, thường xuyên được nhắc đến trong các truyền thuyết H’mông Thào Mỹ thuộc lạ lùng và kể cho tôi bao đêm cùng thức trắng: điểm xuất phát cuộc trường chinh 5000 năm của H’mông lên Bắc Cực, rồi quay xuống phương Nam, toàn đi trên các đỉnh cao và đặt tên cho chúng, cho đến cái thung lũng đá kỳ dị này và đặt cho nó cái tên cuối cùng: Mèo Vạc. Chưa bao giờ được biết ký ức lạ lùng đến thế của một dân tộc .

Lại cũng không thể không nói về cách người H’mông đến Mèo Vạc và trồng cây thuốc phiện.

Sau khi vào Việt Nam tại đỉnh nhọn Lũng Cú, họ tạt qua Đồng Văn, rồi đi tiếp về hướng tây, qua Xà Phình, Phó Cáo (nhưng không ra Yên Minh, thung lũng lúa nước của người Tày) mà hướng về Phó Bảng, men theo chân dãy Thập Vạn Đại Sơn, rồi đi tiếp sang Lào Kay, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, để tiếp tục cuộc trường chinh trên Tam Giác Vàng Bắc Lào -Thái, đến Myanmar…

Riêng một nhánh nhỏ đã có chọn lựa khác lạ. Từ Đồng Văn còn ít nhiều núi đất, họ tách ra, rẽ xế về Nam, leo lên Mã Pi Lèng hiểm trở, hay bị chính ngọn đèo kỳ quan này mê hoặc, đột ngột bỗng thấy mình đã đứng trên một ngọn cao chót vót, ngọn cao nhất, trước mặt, một cảnh tượng chưa từng thấy: tuyệt không có gì khác ngoài đá tai mèo trùng điêp.

THÀO MỸ, NGÀY GẶP LẠI...

Tổ tiên Thào Mỹ đi theo chính nhánh này. Nhánh mạo hiểm nhất.

Từ nay, với họ, là sống trên đá. Ngoảnh mặt hướng nào cũng là đỉnh cao và đá. Nương ư? Là trăm nghìn hốc đá mỗi hốc chỉ bằng một vụm tay. Đất ư? Phải tụt xuống tận bờ sông Nho Quế leo lẻo xanh nghìn mét dưới kia, hì hục xúc từng gùi đất, lại hì hục ngược lên nghìn mét dốc đá, tằn tiện đổ vào các hốc đá chỉ bằng vụm tay ấy. Và cắm xuống đấy một cây…

Cây gì?

Câu hỏi sống còn.

Trải mấy trăm hay mấy nghìn năm chọn lựa gian truân, họ tìm được loại cây duy nhất thích hợp với đất đá và nắng mưa sương gió nơi này, lại cho con người sống khá dư dả: cây thuốc phiện. Giống anh túc đẹp nhất, cũng dữ dội và hiểm nguy nhất trong toàn họ anh túc. Anh túc-Mỹ nhân. Hệt người đẹp trên đời, lúc còn bé cây thuốc phiện tầm thường và hiền lành chẳng phân biệt với cây cải cúc, có thể nấu canh như canh cải ăn với mèn mén. Nhưng chỉ chừng hai tháng tuổi nó bỗng dậy thì, không thèm ra hoa cải vàng mộc mạc, mà kỳ ảo như ma, chỉ một đêm sáng ra một thân cây lẳng lơ nở đến mấy loại hoa đủ màu khác nhau, đỏ, tím, hồng, lác đác xanh hay lốm đốm điểm hồng trên nền trắng cao quý và quyến rũ. Đã bắt đầu thấy đôi ba quả, rồi hối hả mỗi lúc một rộ lên những quả thoạt trông như quả vừng nhưng to và bọng, những chiếc vú ứ sữa khiêu khích. Ba tháng thì thu hoạch được. Rất công phu. Buổi chiều sẫm lên nương, dùng chiếc liềm nhỏ răng sắc và thật mịn, cứa nhẹ vào hai mặt của quả (chiều hôm sau lại cứa nốt hai mặt còn lại), sáng ra gạt lấy chỗ nhựa ứa từ vết thương do cứa hôm trước lên một lưỡi dao, cả nương mới được nửa lưỡi dao. Một sào Bắc bộ (360m²) cho ba lạng mủ. Mủ ấy phết lên một tấm giấy bản rồi đem hong khô thì thành “thuốc sống”. Lấy thuốc sống bóc bỏ giấy, đem dầm vào nước sôi, lọc sạch rồi đun cho đặc lại mới thành “thuốc chín”. Là dạng thuốc dùng hút ở Đông Dương vào đầu thế kỷ 20, gọi là nha phiến. Mười cân nha phiến tinh chế được một cân bạch phiến. Đắt hơn vàng…

Cây thuốc phiện, chọn lựa sống còn và bi kịch truyền đời của người H’mông để tồn tại trên những rẻo cao đá tai mèo.

♣

HOA VÀ QUẢ THUỐC PHIỆN

Trên bàn viết ở Hà Nội, một chiếc phong bì đang chờ khi tôi từ Mèo Vạc trở về. Công an văn hóa A 25 triệu tập. Triệu tập nhé, chứ không phải mời. Đến Trần Bình Trọng. Anh Phùng trưởng A 25 quen từ hồi tôi còn làm báo Văn nghệ khá lịch sự. Nhưng mấy cậu trẻ ngồi quanh thì xấc ra mặt. Họ tập trung hỏi về “cuộc họp ở nhà anh Trần Độ với Bùi Duy Tâm và Dương Thu Hương”. Kế hoạch họp thế nào, bàn bạc những gì… Tất nhiên tôi bảo chẳng có cuộc họp nào hết, với tôi và Phương Quỳnh hoàn toàn là tình cờ, anh Độ theo tôi cũng bất ngờ, cũng chẳng có kế hoạch bàn luận nào. Còn Hương với Bùi Duy Tâm thì các ông hỏi họ ấy. Hương bị bắt rồi, Bùi Duy Tâm cũng trong tay các ông, khó gì… Thật ra lúc này tôi biết chuyện bắt Dương Thu Hương đã gây rắc rối cho chính họ. Dù sao cô ấy cũng là nhà văn có tiếng, bắt ắt phải có ý kiến cấp trên nào đấy. Nghe bảo anh Quang Phòng Tổng Cục phó an ninh đã báo cáo Ban Bí thư Trung ương do ông Nguyễn Thanh Bình đứng đầu (tôi đã đối mặt với ông trong vụ Vua Lốp hồi làm báo Văn nghệ, nay lại có chuyện với nhau khi ông về làm Trưởng ban Bí thư, duyên nợ hai chúng tôi hóa ra cũng khá dài!). Được Quang Phòng báo cáo sau lưng Dương Thu Hương là một tổ chức phản động quan trọng, Bùi Duy Tâm là đầu mối, nghe có vẻ đúng quá, ông Bình đồng ý cho bắt. Hóa ra bắt xong, tìm mãi chẳng thấy gì. Mà Hương thì rất đáo để, vào tù cô chửi Quang Phòng chẳng chừa chút nào. Dư luận trong ngoài nước đã xôn xao, bà vợ Tổng thống Mitterrand đã lên tiếng… Tôi sang họp Thường trực Hội Nhà văn, biết Quang Phòng đã đánh tiếng với Hội rằng Dương Thu Hương rất phức tạp về mặt an ninh, bắt là đúng, tuy nhiên nếu Hội Nhà văn có ý kiến “thì chúng tôi cũng có thể cân nhắc thêm”, lại hẹn mời Hội sang họp để cùng xem xét. Thường trực bàn, biết thế là họ sai rồi và đang lúng túng, nhất trí Hội không xin xỏ gì hết và cử Hữu Mai sang họp khi họ mời. Đúng là họ rất bí, mà Dương Thu Hương bắt thì dễ, thả lại không dễ chút nào, chắc gì cô đã chịu ra, cứ ở đấy chửi cho sướng! Hôm Hữu Mai sang họp, Quang Phòng lại giở giọng “nếu Hội…”, Hữu Mai trả lời ngay: “Khi bắt các anh có hỏi gì chúng tôi đâu, bây giờ làm gì tùy các anh, Hội không có ý kiến gì ạ!”. Cuối cùng đành phải thả, cũng may Hương chịu ra, sau khi chửi dữ dội một trận nữa. Nghe nói Quang Phòng mất chức vì vụ này…

Riêng tôi, họ còn nhì nhằng với tôi mãi về vụ gặp ở nhà anh Trần Độ. Vừa rồi xem lại Trở lại Mèo Vạc thấy còn ghi Tháng 8 năm 1991, tức tôi đã bị mất đứt ba tháng chẳng đâu vào đâu. Cho đến hôm Tô Hoài a-lô khoe bốn tập hồi ký đang viết, dọa tôi về chuyện Thào Mỹ rồi gửi cho tôi cả bốn tập viết tay của anh. Thường vẫn vậy, đọc của người khác, nhất là trên bản viết tay, nghĩa là thứ còn rất “sống”, lại đánh thức được mình khỏi cơn lừ đừ suýt nữa đã khiến mọi chuyện thành nhạt nhòa nguội lạnh, có khi sẽ mất luôn mãi mãi, như một người vì một chuyện chẳng ra sao đã để nhỡ chuyến tàu định mệnh của mình. Cám ơn Tô Hoài thật nhiều, không cần đọc hết bốn tập của anh tôi đã hối hả ngồi vào bàn, hối hả cầm bút. Và tôi nhìn thấy hiện ra trên trang giấy là những từ run rẩy vẫn là của riêng tôi vừa đã hoàn toàn mới, khác, của hôm nay. Vậy đó, tôi đã tìm được cách viết của mình. Bài đăng hai kỳ trên báo Văn nghệ.

Hai tuần sau tôi vào Sài Gòn, đến thăm Nguyễn Khải, bị Khải mắng một trận: Mình đọc Mèo Vạc rồi, Khải bảo, lạnh cả người, bút lực thế mà bao nhiêu năm cậu không viết là rất có tội. Nhà văn kiểu gì lạ thế…

Phụ nữ H’Mông

Khải rất thích những cái tôi dịch của Kundera, anh có tiểu thuyết Thượng đế thì cười, là lấy từ một châm ngôn Do Thái “Con người suy nghĩ, còn Thượng đế thì cười” được Kundera dẫn lại trong tiểu luận Nghệ thuật tiểu thuyết. Tôi bảo Khải: Lâu nay tôi mải suy nghĩ, để ông Thượng đế (thì) cười cho. Bây giờ tôi biết cười với ông ấy rồi.

Tình bạn của chúng tôi là vậy, lo lắng nhất là cho cái viết của nhau. Khải hỏi tôi bao giờ thì trở lại với người H’mông. Tôi bảo không, tôi đã tìm được “lối viết” của tôi rồi, tôi sẽ mang nó về cho mảnh đất riêng của tôi chứ: Tây Nguyên.

Tháng 4 – 2021

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét