TÂY TẠNG GIỌT HOA TRONG NẮNG
6. Phép giải thoát trên thi hài người chết
Văn Cầm Hải
Ngày xưa, khi Phật còn tại thế. Có nàng Krisha Gotami rất đau đớn lúc đứa con mình bị chết. Nàng bồng xác con lang thang khắp nơi tìm thầy cứu chữa cho con nàng được sống lại nhưng tất cả đều bó tay. Cuối cùng Gotami gặp được Phật. Nghe chuyện buồn của Gotami, Phật dịu dàng nói:
- Chỉ có một cách duy nhất hàn gắn nỗi đau buồn
của con. Con hãy xuống phố, xin về cho ta hạt cải từ một nhà nào chưa hề có người
chết!
Gotami vui mừng xuống phố nhưng nàng không thể kiếm được một hạt cải nào cả bởi trong thành phố không có ngôi nhà nào là không có người chết! Bồng xác con trên tay, Gotami chợt hiểu ra lời của Phật. Nàng không buồn đau nữa và trở lại xin Phật dạy cho chân lý về cái chết, cái gì ở đằng sau và bên kia sự chết, và có cái gì trong nàng không chết hay không!
Tôi bây giờ
Một đêm Shigatse
Đêm Tây Tạng rất mỏng.
Như nàng Gotami đứng trước Phật muốn hỏi
về cái chết. Cô đơn, tôi đành bồng xác thân mình vậy.
Dưới xa miền bình nguyên, bùn đất và
nước mặn dìm chết nắng qua ngày nên đêm rất dày bóng tối còn trên xứ trời này,
khi mặt trời ra đi lại có một loài ánh sáng khác, được dự trữ từ trong đất đá
toả lên màn đêm dịu dàng cho tôi thấy những hạt không khí như muôn vàn hạt xá lị
từ Himalaya theo gió bay về bám đầy thân thể mỏng hơn đêm Shigatse.
Linh hồn tôi rất nhạt
trong thân xác. Ngày bước qua đêm mỏi chân đến. Linh hồn dần bỏ thân xác mà đi
lang thang như nàng Gotami. Thà đi lang thang còn hơn ẩn cư trong căn lều máu
xương rệu rã. Đôi chân khô cảm giác. Đôi tay không nhặt nổi hơi thở. Mọi huyệt
đạo phập phồng cơn đau buốt luồn lách ác liệt vào từng múi nơ ron.
Người đồng hành, sợ chết
đột ngột, đã cẩn thận viết lời di chúc đặt sẵn dưới gối. Khuôn mặt ông tím đen.
Tóc trên đầu khô cứng. Đôi mắt phồng căng. Cả thân hình tàn tạ mọi cử chỉ. Là
người biết võ công nhưng ngay cả một nhát dao nhỏ xẻ dưa hấu ông cũng đành
buông tay.
Bởi ai sinh ra mà không
sợ chết!
Cái chết trở thành một
đối trọng dữ dội nhất trong cuộc đời con người.
Tôi tin rằng, tiếng nói
đầu tiên mà loài người nghe thấy từ Thượng Đế là tiếng nói của cái chết - một lời
báo hiệu về trật tự hữu hạn. Từ chỗ báo hiệu, Thượng Đế muốn răn dạy và đưa ra
hình phạt tuyệt đối, thể hiện uy quyền của Ngài đối với những sinh linh do Ngài
tạo ra! Với ý nghĩa đó, tất cả mọi nền văn hoá trên thế giới đều có quan niệm
nhuốm màu kinh nghiệm hãi hùng về cái chết. Nhân loại đi qua bao nền văn minh
nhưng cái chết vẫn được cảm thụ như là nỗi kinh hoàng, biểu thị bằng hình tượng
khiếp đảm về một thế giới dữ tợn, vô cảm, không biết đến tình yêu thương.
Một ngọn lá héo tàn. Chết!
Một tiếng bom rơi. Chết! Chết nhẹ như ngọn gió lùa, chết nặng như nỗi buồn gánh
núi.
Ai rồi không một lần
sinh một lần tử. Đức Phật hay Đức Chúa, rồi cũng chết đi mà thành tựu. Nhưng,
con kiến già Rigpaba của tôi, có mấy ai biết được chết là gì, hay nói đúng hơn
thế giới chết sẽ sống như thế nào đây?
Không ai từ cõi chết trở
về kể cho tôi nghe cả!
Vậy, dù cái chết là
cánh cửa của sự sống mới, chết là một sự giải thoát khỏi phiền muộn, giúp con
người chuyển sang đời sống siêu nhiên thì cái chết vẫn là một điều bất khả tri,
đe doạ từ mọi nơi, từ mọi phương, từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất!
Đứng trước ngõ cụt này, cánh mũi tôi
kiên quyết không thở nhờ khí ô xy bán trên đường phố Shigatse. Tôi chỉ sống nhờ
vào linh ảnh chính bản thân tôi, một đứa trẻ vượt qua cái chết hơn 20 năm trước!
Mùa hè năm 1982, gia đình tôi nhờ người
tìm cuộc đất, ván gỗ đã chuẩn bị đặt lên cưa xẻ để mang hình hài tôi cùng cơn
co giật uốn ván vùi sâu xuống mộ. Người ta đã khuyên cha đưa tôi về nhà để chết
nhưng cha chối từ. Bằng niềm tin còn nước còn tát đến giọt cuối cùng, cha đưa
tôi lên thuyền xuôi dòng Nhật Lệ về bệnh viện Cu Ba Đồng Hới. Trên dòng sông ấy,
cũng vào một tinh mơ hơn 30 năm trước, người chị đầu của tôi - chị Sanh Si ra
đi trong lòng tay mẹ lúc chị vừa mấy tháng tuổi. Mẹ kể, trước khi chị tắt thở,
cái linh hồn nhỏ ấy biết mình không thể lớn dậy thành hình hài thiếu nữ nên nước
mắt bổng tràn ra ướt đẫm bầu má thơm mùi sữa làm ông ngoại tôi, vốn là một thị
trưởng cảnh sát không thể ngăn nổi tiếng khóc lá non!
Đêm hôm ấy, cuối tháng 3 đầy sao. Qua
mái thuyền chồng chềnh, tôi nghe thấy tiếng khóc oa oa của chị vọng về giữa
sông nước. Tiếng khóc ấy bơi theo tôi cho đến lúc mặt trời hồng lên cửa bể Nhật
Lệ.
Căn bệnh uốn ván rất kỳ lạ, trước và
sau khi co giật, bệnh nhân rất tỉnh táo. Vài giây trước khi lên cơn, tôi có thể
bình tĩnh nhận ra từng đợt bão tố chết chóc tràn lên từ dưới chân, dần dần phủ
kín toàn thân rồi đột ngột bùng lên cơn co giật khủng khiếp. Sau mỗi lần qua
cơn, tôi lại nhìn thấy cha tôi khóc. Ông khóc vì thương con, ông khóc vì mừng
con đã thoát chết, ông khóc vì con lại tiếp tục chờ đợi một cái chết tiếp tục
tràn đến triền miên hơn 3 tháng cho đến lúc nghe người bác sỹ Cu Ba tuyên bố
chính thức rằng con mình có khả năng sống! Cha tôi quỳ xuống nền đá trong căn
phòng nhỏ bé trên tầng năm cảm tạ trời đất, cảm tạ linh hồn của bà cô - cũng từng
ra đi theo cơn lũ trên dòng sông Nhật Lệ vào lúc mới lên sáu bảy tuổi hiện về
phù trợ cho tôi được sống! Hoá ra khi trùm chăn ngồi trong phòng đợi bệnh viện
lúc mới đưa tôi vào nhập viện, giữa lúc mê buồn ấy, cha tôi đã thấy hình bóng
bà cô của mình hiện ra và nói đứa con trai út của ông nhất định sống!
Cha tôi cũng không hay
biết, mỗi lần cơn đau tràn tới, tôi lại nghe tiếng khóc oa oa của chị tôi nâng
tôi dậy. Tiếng khóc non nớt đã cưu mang thân xác đứa em nát tan bạo bệnh.
Hơn ba tháng trắng đêm, cha con tôi bấu
víu vào lời tiên tri của bà cô, bấu víu vào tiếng khóc của chị để vượt qua cái
chết! Phải chăng, cha và tôi đã có một cái nhìn sâu sắc về những linh ảnh mà
mình đã nhìn thấy! Bây giờ mỗi khi về làng, sang núi thăm mộ tổ tiên, bao giờ
tôi cũng thấy giữa rừng núi xanh kia có một ngôi mộ vùi chôn tôi 20 năm về trước. Dân làng bảo, tôi chỉ làm con
cha mẹ từ khi sinh ra cho đến ngày tôi bị bệnh, còn lại 20 năm kể từ lúc được cứu
sống trở về sau, tôi là đứa con sinh ra từ một thế giới khác! Tôi không biết thế
giới đó là nơi đâu nhưng từ khi khỏi bệnh, cùng với tính khí đổi thay, tôi trở
thành một con người lễ độ với thế giới siêu hình!
Đây chính là lý do, hôm nay bất chấp mạng
sống của mình, tôi đã có mặt trên vùng đất Himalaya, nơi có miền Tây Tạng huyền
bí trong từng âm tiết siêu hình.
Màn đêm dịu sáng
Shigatse, hình bóng đứa bé 10 tuổi và linh ảnh tiếng khóc thơ dại tự tin vượt
qua những cơn co thắt giật đứt cuống tim lại hiện ra trong sáng như đoá hoa hồng
dưới sân khách san Namsel ở Lhasa. Đoá hoa hồng màu trắng, từng cánh xoè rộng,
kết thành linh phù mandala vươn lên từ đất. Cánh hoa ngát to và dày hơn một li
tràn trề sương đêm, đoá hoa hồng chào tôi buổi sáng!
Tôi có thể bỏ cơm, mỗi
sáng dậy dè sẻn lưng cháo trắng nhưng không thể nào khi bước chân đi khi bước
chân về, tôi lại ném ánh mắt của mình ra ngoài đoá hồng ấy.
Ký ức độc tố nhưng hào hoa ấy tươi tỉnh
những ngày tôi sống Tây Tạng. Chính niềm tin, sự trải nghiệm một lần trở về từ
cõi chết đã trở thành mảnh đất cho linh hồn náu thân chứ không phải bình khí ô
xy người ta bày bán cho du khách trên đường phố Lhasa hay Shigatse!
Không phải chỉ đêm nay Shigatse. Rất
nhiều lần chênh vênh phút giây chết chóc, tôi lại vịn vào quá khứ để đứng dậy.
Tôi luôn ý niệm rằng, đáng lẽ mình đã không còn nữa hơn 20 năm trước nên bây giờ
một ngày trôi qua là thêm một tuổi trời cho nên mình phải sống trọn với lòng
thành công ơn ấy. Nếu có ra đi thì cũng chẳng hề hối hận. Sợ gì nào khi tôi
lòng thành như vậy! Linh hồn lại thong dong với gương mặt dịu ấm của Cha, có
nét buồn bản lĩnh của Mẹ đã nuôi tôi lớn dậy tháng ngày. Tôi bình yên như con
cá nằm trong tuyết triệu năm nay trên dãy Himalaya sau trận đại hồng thuỷ!
Tôi không viết di chúc!
Tôi không thể chết vì trong tôi những gương mặt kia đang mỉm cười che chở!
Và tôi kiên nhẫn chờ qua đêm, mặc kệ
giấc ngủ tàn dưới chân, đứng bồng xác mình chờ Phật trả lời. Rằng bao giờ tôi
chết. Và nếu như vậy, ngài có thể dạy cho tôi cách chết nào hay nhất! Nhưng có
lẽ, quá bận bịu công việc ở đâu đó nên Ngài không về Shigatse mà giải đáp cho
linh hồn bé bỏng này!
Ngài không về thì tôi đến
nơi chỗ Ngài chơi.
Và, với cái ý niệm
giang hồ ấy, tôi lên đường đến thăm tu viện Tashilhunpo - nơi ở của những Phật
tái sinh mà người Tạng cung kính gọi là Panchen Lama - hiện thân của Phật
Adiđà!
Tu viện Tashilhunpo tuy
không cao như cung Potala nhưng cũng đủ thử thách sức khoẻ và tinh thần của những
ai đến chiêm ngưỡng.
Từng bước chân hứng khởi
vượt qua mấy dãy nhà nằm chênh vênh sườn núi, tôi bước vào viếng điện thờ Phật
Tương Lai.
tu viện Tashilhunpo
Ngài ở đây, rất gần khách sạn, sao đêm
qua lại bỏ mặc tôi! Chưa kịp buông lời thì tôi đành ngậm kín lời thưa chào! Nếu
trời đất và cha mẹ cho tôi được nếm trải bao nhiêu cảm giác trong đời thì trong
giây phút đứng trước bức tượng Phật Tương Lai, bao nhiêu cảm giác ấy chợt thoát
bay theo ngàn vạn lổ chân lông để lại thân xác tôi tràn ngập niềm bâng khuâng
thiêng kính.
Không choáng ngợp chiều cao vĩ đại 27m
của khối tượng đúc vàng đồng quấn mình trong những tấm khăn choàng huyền ảo,
tôi choáng động toàn thân vì khuôn mặt của ngài. Khuôn mặt ẩn chứa một nụ cười
bi mẫn, động viên dương gian thống khổ, trong đó có tôi, một đứa trẻ sinh vào
những năm cuối cùng của thế kỷ 20 nóng bỏng lửa đạn. Ngoài cánh mũi thẳng sườn
núi, khuôn miệng chực nở nụ cười, đôi mắt xanh ngọc khác thường, trên trán ngài
còn có con mắt thứ ba chạm bằng đá quý chọi lọi ánh nắng. Khuôn mặt Ngài muốn
nói, tất cả những ai bước vào đây, lý lịch kiếp trước khiếp sau ra sao, ngài đều
thấu suốt!
Đi một vòng, từ phải sang trái đảnh lễ
Phật Tương Lai, lần theo tiếng âm thanh cầu nguyện, tôi bước đến trước mặt ba
ông lão hành khất đang lẫm bẩm đọc kinh bên bát nước nước vàng nhạt. Hong thả
xuống trước mặt họ tờ 5 tệ. Một trong ba người nghiêng bình rót nước ra bát trà
nhỏ. Mắt nhấm, miệng lầm rầm nhưng cánh tay đưa bát rất chuẩn xác, gọn gàng
không một giọt nước trào. Hong lắc đầu từ chối.
- Còn anh, anh có uống không? - Một
trong ba cửa miệng dừng lời cầu nguyện khẻ khàng hướng vào tôi.
- .... - Tôi ngước nhìn Hong. Hong lại lắc
đầu. Nhưng dưới đáy sâu của bát gỗ, đôi mắt của Phật Tương Lai hiện ra xanh rờn
sau làn nước vàng xỉn. Tôi đưa hai tay đón bát nước.
- Anh ta đúng là người Trung Quốc! - Người
mời nước lạnh lùng phán.
- Tôi là người Việt. Việt Nam! - Tôi cười.
- Vì có niềm tin, anh đã uống nước thiêng này
- Nước thiêng! - Tôi có nghe nhầm không
đây hỡi người hành khất dưới tượng Phật Tương Lai! Ai đã cất lên tiếng nói kia
trong bộ áo quần nhàu nát đường may vá! Nếm nước thiêng là một trong 5 phương
pháp đạt giác ngộ mà không cần thiền là thấy một vật thiêng liêng, mặc những đồ
hình Mật tông, nhớ sự di chuyển tâm thức vào lúc chết và nghe giáo lý sâu xa. Cầu
mong cho nước thiêng này được nguyện chú bởi một vị thầy nào đó sẽ giúp tôi
thoát khỏi cơn đau thể xác.
- Anh chàng Trung Quốc kia là một cái
túi thịt chứa đầy nghi ngờ. Anh ta sợ chết nhưng ở Tây Tạng, chúng ta đâu có
cái chết mà hắn sợ! - Người hành khất già cầm trên tay cuốn sách vàng ố chữ -
Còn anh, anh là con chó con trước Đức Ngài! Anh còn phải học mới bước đến con
đường Bardo Thodol đang nằm trên tay ta - Người khất thực chỉ tay ra cửa điện -
Người ta sẽ cho anh biết điều ta nói là cái gì.
Tôi nhìn ra cửa. Không biết từ bao giờ,
một khuôn mặt hiền hoà vị sư già đã ở bên cửa lắng nghe cuộc đối thoại ngẫu hứng
của chúng tôi.
Tôi nhớ lại lúc ban đầu
bước vào cổng tu viện, được ông lão Tây Tạng hướng dẫn cho cách quay chuông và
đọc câu thần chú, tôi đã bắt gặp khuôn mặt vị sư đứng dưới gốc cây liễu xanh.
Hoá ra ông ta đã theo tôi từng cử chỉ, từng hành động từ lúc tôi xuất hiện cho
đến khi vào đảnh lễ Phật Tương Lai. Có lẽ, ông ta đã nhìn thấy cảm giác bâng
khuâng của tôi khi đứng trước bước tượng vĩ đại này.
Và...! Thôi chết rồi! Hải ơi! Tôi lạnh
sống lưng! Lần này thì mi không thể vịn lấy cái lý do ưa lang bạt, kỳ hồ tò mò
để trốn chạy! Chắc chắn ông ta thấy tôi đưa máy ảnh chụp lén bảo tháp lưu giữ mấy
trăm năm di hài sống của vị Panchen Lama thứ 5 trong điện thờ mất rồi!
Kệ, tôi là con chó con
trước Phật Tương Lai thì hà cớ gì lại bị trừng phạt bởi hành động cấm kỵ này. Vả
lại, cũng không biết chết sống ra sao đây nữa nên tôi, bước từng bước ra cửa bằng
tinh thần của một con chó con.
-
Bức ảnh ấy không bao giờ có được! (1) - Vị sư già làm tôi rúng động -
Nhưng ta không nói chuyện về việc ấy. Ta nói cho con biết điều mà người kia vừa
nói bởi trong con, cái chết đã xuất hiện! Do vậy điều mà con đang nghĩ đến thì
hãy hướng đến nó thật tận tâm, hướng đến với cái nhìn sâu sắc nhất, cái chết sẽ
rời bỏ con! Đó là lời dạy của Bardo Thodol!
Cái chết đang đến với
tôi! Cái niềm sợ hãi sâu xa nhất, Rainer Maria Rilke miêu tả, như con rồng lưu
giữ cái kho tàng sâu kín nhất hút chặt tôi vào con đường tối tăm bi phẫn!
Tôi quay lại cầu cứu Đức
Phật. Con mắt thứ ba của ngài vẫn rực sáng ánh nắng. Người kiến trúc sư nào dựng
ngôi điện này thật tài ba bởi dù mặt trời có di chuyển nhưng xuyên qua lỗ nhỏ
trên trần điện, ánh nắng trên trán ngài không tắt!
Vị sư già dứt lời cũng
là lúc cánh cửa sau lưng mở ra đón ông vào trong gian điện thờ. Cánh cửa khép lại
bí ẩn như trang sách mà người hành khất kia đang cầm trên tay. Những lời nói của
vị sư già như nhát cuốc năm nào mẹ cắm vào đất rừng chôn kín từng bước chân tôi
lưng núi tu viện Tashilhunpo.
Thành phố Shigatse với những mái nhà đất
phẳng hiện ra dưới đồi hoa chantai hoà tan nắng biếc. Không biết cánh hoa mong
manh hay màu nắng xanh da trời nên nhìn nắng trên hoa chantai tôi cảm thấy nắng
rất mềm mại, không rát bỏng mắt môi.
Lẽ nào tôi lại chết ở
nơi đây!
Con hãy nhìn bằng cái
nhìn sâu sắc về cái con hướng đến!
Shigatse đêm thì mỏng,
ngày trước mắt tôi càng mong manh hơn trong nắng xanh phất phơ dây cờ phướn
giăng mờ trên đỉnh núi. Tôi nhìn thấy gì đây ngoài những mảnh vụn ký ức rong ruổi,
ngoài những bông hoa chantai lấm tấm nắng chân đồi! Vừa khi cơn đau lại buốt
lên đầu. Hình như có một ngọn gió độc nào đó trong không gian xốc thẳng vào
xương cốt. Tôi cắn răng đứng lên. Tôi lại vang vọng lời khích lệ của bà cô Cha
tôi năm nào bay về! Tôi lại nghe tiếng khóc oa oa chao động trên cánh hoa theo
những cơn đau cồn cào cuộn lên tim óc cho đến khi nằm im lặng trong màu xanh của
ánh mắt Phật Tương Lai. Ôi quá khứ đớn đau và huy hoàng của tôi đang lấp lánh
màu xanh của đôi mắt Phật Tương Lai!
Thôi, chỉ có cách hớn hở với ảo ảnh
tuyệt đẹp ấy để đi xuống núi còn hơn là chết bên thềm tu viện.
Một ngôi miếu nhỏ nằm
giữa ngã ba đường làm bước chân tôi dừng lại.
Kiến trúc ngôi miếu rất kỳ lạ giống cỗ
linh xa chứa quan tài người chết. Thân miếu dài kê đầu về lò hương ám khói.
Trên nóc miếu có cột vải vàng. Bên hiên miếu là hàng chuông đồng. Ngôi miếu xây
bằng đá nhưng rất nhẹ nhàng nhờ khung cửa gỗ có riềm vải mềm trắng rủ che xung
quanh. Một vị sư già chừng hơn trăm tuổi chống gậy dẫn theo vị sư trẻ bước
quanh ngôi miếu. Bước chân run run nhưng thân thể vẫn vững chải, vị sư già cùng
người sư trẻ xoay chuông cầu nguyện. Mũ hồng tía. Quần áo hồng tía. Dày hồng
tía. Hai người tựa như hai khối hồng tía biết nói với ngôi miếu. Có một ai đó
đang nằm lắng nghe trong miếu! Tôi rùng mình! Không lẽ ...
-
Một
linh hồn vừa rời bỏ thân xác được 5 ngày - Vị sư già có khuôn mặt dịu dàng bỗng
xuất hiện, rành rọt nó i- Lama kia đang truyền dạy cho đệ tử cách thức hướng dẫn
linh hồn kia giải thoát ra khỏi trạng thái trung gian sau khi rời bỏ thân xác bởi
tính nghe vĩ đại. Đó chính là Bardo Thodol!
Tôi nép mình vào người vị sư già. Lần
này đích thị tôi là một con chó con run rẫy trước tiếng gầm sư tử!
-
Đừng
sợ hãi. Rồi ta và con, một ngày nào đó cũng sẽ đi vào trạng thái trung gian
này. Đừng nhìn nó với con mắt kinh hãi hoặc huyền bí. Nó rất đơn giản như hàng
ngàn năm nay xứ Tạng đã thấy, đã biết và đã làm. Bất kỳ người bình thường nào
cũng có thể làm được thông qua Bardo Thodol. Cái điều con đang hướng đến, có thể
nhỏ như bông hoa chantai nhưng con hướng đến bằng tình yêu thương, con sẽ thấy
bông hoa nhỏ đó vĩ đại không gì sánh được!
Cô Vang tôi, sau nhiều năm vật vã với
bệnh khớp, đã đến giờ phải chia tay cuộc đời vào một buổi sớm mùa thu chưa kịp
vàng lên hàng rào hoa dâm bụt trước ngõ nhà. Việc cô tôi ra đi là điều mà mọi
người trong làng và gia đình đã tiên liệu từ lâu nhưng không ai có thể hay rằng,
ngay trước lúc nhắm mắt, từ cái thân thể vôi hóa các khớp xương ấy hồng hào hẵn
dậy lời thỉnh cầu:
-
Hãy
gọi cháu tôi vào đây! Đứa con út của em! - Bà đột nhiên nhìn vào đôi mắt đẫm lệ
của Cha tôi.
Đứa cháu ấy là tôi, một
đứa trẻ mới bước qua tuổi 13 đang run rẩy trùm kín nỗi sợ hãi cái chết. Người
ta kéo tôi khỏi giường, mang tôi ra khỏi nhà, đến trước mặt người sắp chết. Cô
tôi nằm đó, tóc bạc trắng, khuôn mặt bà ửng hồng bông hoa mẫu đơn đỏ hơi sương
tỏa ra như ngọn đèn đầu giường.
-
Cháu
đừng sợ! Hãy nhìn thẳng vào mặt cô! - Cô tôi tỉnh táo từng lời nói - Khi đưa
tang, cháu là người cô muốn đi sau linh xa của cô....
Lời cô tôi chưa tàn, cả nhà đã thắp
lên những nghẹn ngào tiếng khóc. Không ai ngờ, trước khi chết, cô tôi lại nhớ đến
điều buồn thương nhất của đời mình. Theo tục lệ quê tôi, trong đám tang, hai
người con trai hoặc con cả hay cháu đích tôn phải đi sau linh cữu và cỗ kiệu
linh xa dẫn linh hồn người chết về bên kia thế giới. Nhưng cô tôi chỉ có một
người con trai độc nhất! Và cô không muốn đám tang mình chênh vênh, thiếu vắng
người dẫn đường cho linh hồn mình nên đã chọn tôi thay cho đứa con trai thứ hai
không bao giờ cô có!
-
Cháu
hứa với cô đi! Cháu đi linh xa cho cô nghe! - Cô đưa ánh mắt mờ dịu sang cha
tôi - Em để cháu đi linh xa... Em có nhiều con trai.... Em nhường cho chị một đứa!
- Cô tôi lại tiếp lời với tôi - Cháu hứa đi! Hứa đi!
-
Dạ...!
- Tôi nấc lên. Ngay lập tức, cô tôi cười rạng rỡ. Đó là lần đầu tiên sau bao
ngày đau ốm, cô tôi cười. Đó cũng là lần cuối cùng cô tôi cười với dương gian.
Khuôn mặt cô phai dần nhưng nụ cười vẫn vương đọng. Tôi chợt nhìn thấy, trong
hình hài già nua ấy, linh hồn rất xanh của đứa hài nhi ra đời hơn 60 năm về trước,
một lần nữa lại tái sinh bay lên không gian mong manh buổi sáng sớm.
Ngày đưa tang, tôi vịn cỗ kiệu linh
xa, đi giật lùi từng bước, qua sông sang núi, đưa cô tôi về với tổ tiên nhưng
không hiểu sao trong ngày hôm ấy và nhiều năm sau lớn dậy, tôi vẫn nghĩ, linh hồn
của cô tôi không vùi dưới đất sâu, nó như bông hoa mẫu đơn đỏ vẫn mọc lên đâu
đó trong làng quê.
Bông hoa mẫu đơn đỏ. Lời
hứa của tôi. Tình yêu thương cô đã đón nhận nên ra đi thật bình an.
Có bình an không cô?
Tôi chưa nhận câu trả lời từ bên kia thế giới, vị sư già đã kéo tôi đến trước cổng
một bức tường thành chạy dài trước mặt tu viện Tashilhunpo.
Cánh cổng mở ra.
Tiếng tù và vang lên trầm hùng. Trên
sân rộng ánh sáng. Các vị lama đang say sưa trong điệu vũ “khiêu thần”.
Đó là lần đầu tiên
trong đời, tôi được chiêm ngưỡng những vũ điệu do các nhà sư trình diễn!
- Âm nhạc cũng là một cách thức cho họ
thực hành sự giải thoát bằng tính nghe vĩ đại! Tính nghe không ràng buộc vào một
thể thức nào, tất cả là tuỳ tâm lĩnh hội. Con nhớ điều ta nói. Hãy hướng đến những
gì con nghĩ bằng một cái nhìn sâu sắc của tính nghe. Con sẽ không có cái chết!
- Trong tiếng tù và nôn nao, vị sư già giải thích trước khi quay lưng trở lại
tu viên Tashilhunpo.
Tôi chưa kịp nghe điều
gì đã nghe Hong gọi tên mình. Bên Hong là một nhà sư trạc chừng 30 tuổi. Tiếng
Anh rất mượt hỏi tôi.
- Các anh về Lhasa? Có thể cho tôi đi
cùng được không?
- Tôi không biết bởi tôi chỉ là một du
khách trên xe.
- Thế à? Vậy anh có biết người vừa nói
chuyện với anh là ai không?
- Không !
- Người bảo vệ của các Panchen Lama ở tu
viện Tashilhuno!
- Người bảo vệ?
- Phải rồi! Chúc cho anh được phúc lạc
trong lời của người đó.
- Tôi là một kẻ bình thường. Tôi không
hiểu tại sao, thực sự là tôi không hiểu lý do nào tôi lại được ông ta chia sẽ...
- Mục đích của chúng tôi - Vị sư trẻ
dang rộng đôi tay - là học và thực hành giáo lý không phải để trở thành thành
thần thánh mà để nhận biết cái sống cái chết như hai vị Lama đang dạy người học
trò ở ngôi miếu kia.
Tôi muốn tiếp tục cuộc
đối thoại nhưng Hong đã kéo tay. Vị sư trẻ cười tươi chào tôi. Cánh tay trần
đưa lên trong nắng sáng như cây tích trượng vươn ra từ tấm áo hồng tía Mật
tông.
Bardo Thodol là gì? Một cuốn sách về
người chết như của người Ai Cập? Tôi thật tiếc là không được ngồi cùng xe về lại
Lhasa với vị sư trẻ để thoả mãn trí tò mò. Mãi khi trở lại Lhasa, gặp Rigpaba,
tôi mới được sáng tỏ. Bardo Thodol, mà người phương Tây gọi là Sách Tây Tạng Về
Người Chết, là một bộ kinh thư cổ xưa của người Tây Tạng do đại sư
Padmasambhava viết ra vào thế kỷ thứ 8, được Karmalingpa tìm thấy trên núi
Gampodar vào thế kỷ thứ 14.
Bên đồi hoa tu viện Tashilhunpo
Riêng việc tìm thấy bộ kinh này,
Karmalingpa đã được gọi là Terton, người phát hiện kho tàng cao quý theo nghĩa
Bardo Thodol là germa texte - kho tàng văn hoá, văn bản quý báu bậc nhất nhân
loại, có thể so sánh với Kinh Thánh hay Đạo Đức Kinh!
Bardo Thodol được thế
giới biết đến qua bản dịch của Lama Kazi
Dawa Samdup và sự biên tập của tiến sỹ
Evans Wentz với tựa đề Sách Tây Tạng Về Người Chết. Thực ra chữ “chết” không hề
có trong Bardo Thodol vì Bardo Thodol là giải thoát khỏi trạng thái trung gian
bằng tính nghe! Bardo - trạng thái trung gian này người Việt gọi là Cõi Trung ấm.
Dòng hiện hữu của con người đi qua 6 bardo: sống, chiêm mộng, thiền định, cái
chết, chân lý tự nó, cái trở thành hay tái sinh.
Cái chết không đến tức
thì. Một chiếc lá rơi. Một quả bom dội. Chết! Vì quá nhanh nên chúng ta thường
nghĩ cái chết xảy ra lập tức nhưng giữa lúc sống và chết đó, còn có trạng thái
trung gian chuyển tiếp.
Hơn ai hết, liệu người chủ động chết,
có lĩnh hội trạng thái trung gian chuyển tiếp này rất rõ ràng hay không?!
Dân làng tôi cũng đã đi
qua bao ngày tháng u ám với những vong linh, phẫn uất và tự kết liễu cuộc đời.
Đôi khi trong vài ba ngày, thôn trên xóm dưới đều xôn xao người tự tử.
Giận chồng. Tự tử
Buồn con. Tự tử
Ngoại tình. Tự tử.
Hạnh phúc. Tự tử.
Giận không ra giận. Buồn
không ra buồn. Ngoại tình không ra ngoại tình. Hạnh phúc không ra hạnh phúc. Tự
tử.
Cùng với những kinh nghiệm về cái chết
của bản thân, tôi thường thâm nhập vào thế giới của những kẻ tự tử. Tôi muốn biết,
tâm trạng và cuộc sống của những con người tự quyết về cái chết của mình sẽ
khác gì so với những người chết thụ động. Cho mãi đến bây giờ, tôi vẫn ám ảnh
gương mặt của Dung, người con gái hàng xóm tự tử đến hơn ba lần mới thành!
Cha quở trách. Dung nhảy
giếng. Túng quẩn cơm gạo với chồng con. Dung uống thuốc. Cả hai lần đều được cứu.
Lần cuối cùng, chỉ vì quả cà nhỏ chưa bằng nắm tay đứa con hái trộm nhà nội bị
người em dâu la mắng. Dung đã tự tử! Một cuộc tử tử kinh hoàng nhất nhân thế!
Dung bình thản ngồi đun nồi nước sôi. Đợi nước chín nóng. Dung ngã cổ uống! Nước
bỏng làm Dung gục xuống nền nhà. Ngay lúc ấy Dung cầm lấy chiếc liềm cắt cỏ.
Từng nhát. Từng nhát.
Như từng hớp trà bơ. Dung cứa vào cổ!
Nếu hôm nay, biết tôi đang viết những
dòng này thì cũng xin linh hồn Dung lượng thứ, đừng giận mà tự tử thêm lần nữa!
Thông thường trong cơn quẩn trí tột
cùng, người ta mới tự tử còn Dung có thời gian lượm củi, nhen lửa, thổi bếp,
múc nước vào nồi, chầm chậm chờ nước sôi, chầm chậm đưa mình vào cái chết!
Trong quá trình đó, chắc Dung nhận dạng được trạng thái trung gian sống chết ra
sao. Khi có ai tự tử, tôi thường lân la hỏi chuyện và nhận thấy hầu hết họ đều
có một tuổi thơ cô độc, thiếu tình thương chăm sóc của gia đình. Họ hoàn toàn
bàng quang trước cái chết, xem nó như một sự kết thúc tuyệt đối lúc già nua.
Không thể chờ đợi lâu như vậy, họ đã tự xử bản thân với mong ước sớm được giải
thoát khổ đau.
Đó là sai lầm lớn nhất
của người tự tử. Người tự tử thực ra không phải chủ động mà họ chính là người
thụ động chết! Cái chết đối với người tự tử là sự bất lực, là kết cục một chuỗi
xung đột ngoại cảnh, là sự khởi đầu một bại vong nội tâm. Padmasambhava cho rằng
con người có hai loại chết, chết phi thời và chết do mạng thọ chấm dứt. Chết
phi thời nghĩa là chết bất đắc kỳ, có thể tránh được do con người biết trước
thông qua nhiều dấu hiệu như chiêm mộng, hoặc quan sát bóng mình lúc bình minh
hay đêm trăng non! Chết thọ mạng tựa hồ ngọn đèn đến lúc cạn dầu đã vào lúc con
người phải ra đi. Tuy nhiên, nhờ công đức tu luyện hay với một tinh thần tuyệt
đỉnh anh minh, người chết thọ mạng có thể an bình lựa chọn ngày giờ để chết hay
kéo dài thêm sự sống của mình.
Tôi nhớ đến cái chết của ông Mai, người
trưởng họ Nguyễn Mậu hiền từ, hơn 3 tháng trời đội hương trên đầu đứng cầu nguyện
tổ tiên trước bàn thờ cứu vớt tuổi thơ tôi qua cơn bạo bệnh. Đêm hôm ấy mùa hạ
tháng 6, qua những ngày im lìm trên giường, ông tỉnh dậy bảo con cháu ông sẽ ra
đi vào rạng sáng, lúc 12 giờ 30 phút ngày hôm sau. Quả nhiên vào thời khắc ấy,
ông Mai bình an trút hơi thở cuối cùng. Mấy năm sau, đêm mùa đông lạnh giá, ông
Ngoại tôi, vị trưởng tộc Nguyễn Đức cũng báo trước cho Mẹ và các cậu tôi thời
điểm ông từ biệt cuộc đời sau khi ghi âm xong lời trăng trối. Không có tấm lòng
của hai người này, tôi không có tuổi thơ. Không có cuộc đời của hai người này,
làng tôi khó lòng tìm ra người đáng kính!
Họ mới là người an
nhiên chấp nhận sinh tử, chủ động đón nhận cái chết như một thứ tự do tất yếu.
Đối với người Tạng, cái
chết định trước không có gì lạ. Thầy của ngài Dilgo Khyentse Rinpoche thiền định
3 ngày, nín thở đến ngày thứ ba mới chết khi nghe đệ tự báo đó là ngày tốt!
Nhưng cái chết nào đâu chỉ là hiện tượng
chỉ xảy ra một lần duy nhất trong cuộc đời. Bởi con người hay bất cứ loài tự
nhiên nào đều tồn tại cái chết và sự sống trong mọi cấp độ sinh tồn.
Vấn đề là làm sao con người có thể
thoát khỏi những cấp độ sinh tồn hàm chứa cái chết và sự sống ấy. Bài toán nan
giải và bí hiểm này được người Tây Tạng trả lời qua Bardo Thodol!
Hành trình của cái chết trải qua các
giai đoạn chủ yếu bắt đầu từ chổ thân xác, cảm giác bên trong lẫn bên ngoài và
tư tưởng lụi tàn cho cái bản chất cái tâm - ánh sáng cơ bản xuất hiện; tiếp đến
ánh sáng bản tâm ấy sẽ phóng chiếu ra nhiều dạng âm thanh, màu sắc khác nhau;
cuối cùng là tâm thức người chết tỉnh dậy đi vào hay thoát ra cõi tái sinh.
Bậc thượng thừa tu luyện thành công
giáo lý Dzogchen chết nhẹ “như một hài nhi mới sinh, kẻ tu hành sơ đẳng chết
không vương vấn giống “hành khất trên đường”. Đối với người bình thường cần có
phép di chuyển tâm nhờ sự độ trì của Đức Phật Adidà, Tạng ngữ gọi là phowa, mới
giải thoát thấu đáo.
Ngay khi hấp hối, người
chết bắt đầu được chuyển di tâm thức theo lời thơ của Padmasambhava vang lên
trên môi vị Lama hướng dẫn mình chết.
Bây giờ, khi giai đoạn
trung ấm chết bắt đầu xuất hiện cho tôi
Tôi sẽ từ bỏ mọi bám
víu, khát khao và quyến luyến
Thể nhập không tán loạn
vào ý thức sáng suốt về giáo lý
Và chiếu tâm thức tôi
vào khoảng không gian cử tự tính vô sanh
Khi tôi từ bỏ hợp thể
máu thịt này
Tôi biết nó chỉ là một ảo
ảnh phù du!
Con người cảm nhận trọng
lượng cơ thể của mình nặng hơn bình thường, môi và miệng khô, nhiệt lượng sống
rời bỏ thân thể, tâm trí tối sầm cho đến lúc bất tỉnh đó cũng là lúc cái chết đến
gần.
Cái chết không phải là một lưỡi dao cắt
đứt tức thì cuộc sống mà nó diễn ra chậm rãi trôi qua những trạng thái trung
gian khác nhau. Khi lực sống lìa tan thân xác, tâm trí người chết sẽ đi vào
vùng ánh sáng mờ trắng, ánh sáng mờ ảo này chuyển sang màu phớt đỏ, tâm trí bao
bọc trong cõi tăm tối và con người bất tỉnh.
Bardo Thodol gọi trạng
thái tâm thức ấy là “lúc hơi thở bên ngoài đã ngừng nhưng hơi thở bên trong
chưa chấm dứt”. Đi qua trạng thái bất tỉnh, tâm trí sẽ rơi vào vùng ánh sáng
nguyên thuỷ rực rỡ như bầu trời trong suốt trên dãy Himalaya. Nếu ai nhận biết
ánh sáng này sẽ được giải thoát, còn không sẽ tồn tại trong trạng thái trung
gian. Đứng ở đầu giường người bệnh hay người hấp hối, vị Lama bắt đầu đọc Bardo
Thodol liên tục trong 7 ngày hoặc nhanh hơn thế để giúp người chết thăng tiến đến
cõi trung gian giải thoát. Phương pháp ấy gọi là giải thoát khỏi trạng thái
trung gian bằng tính Nghe!
“Hỡi người con cao quý- Vị lama đọc
tên người chết ngay khi sự hô hấp gần chấm dứt về mặt sinh học - giờ đây hơi thở
anh sắp ngừng, đây chính là lúc anh phải tìm một con đường vì ánh sáng cơ bản của
trạng thái trung gian đầu tiên sắp xuất hiện. Vị Lama của anh đã chỉ cho anh
ánh sáng ấy, đó là Chân Lý tự nó trống rỗng và trần trụi như Hư không vô biên
và không có tâm điểm, trong sáng. Đó là trí tuệ tinh nguyên không tỳ vết. Đây
là lúc phải nhận biết nó. Vậy anh hãy ở trong đó. Tôi cũng sẽ giúp anh phát hiện
nó!
Người chết, trong giây
phút ấy, phải nhớ lại những việc làm tốt đẹp của đời mình để có thể đón nhận
cái chết một cách thanh thản nhẹ nhàng với nụ cười dịu nở trên môi. Do đó khi
trong nhà có người chết, thân nhân nên rời khỏi phòng để nhường lại sự tĩnh lặng
cho người chết chuyển tiếp sang thế giới bên kia được thuận lợi.
Một cái chết an bài là
khi nhiệt độ giảm dần từ chân lên, đọng lại ở vùng ngực.
Ngược lại, người chết
vô cùng đau khổ, chồm lên hoặc ngã ra là do nhiệt độ mất dần từ phần đầu toả xuống
ngực!
Quan sát trạng thái chết
như vậy, vị Lama sẽ biết được mình phải hướng dẫn người chết giải thoát theo
con đường nào!
Chờ cho sự hô hấp ngừng hẳn, người ta
lật người chết nằm nghiêng về phía tay phải trong tư thế một con sư tử nhằm
ngăn cản hơi thở của đời sống đi vào đường kinh mạch, gây rối loạn tâm trí. Bị
nén chặt hai động mạch cho đến lúc nó ngừng đập và người chết sẽ xuất hiện
trong trạng thái như ngủ. Khi hơi thở đời sống đi vào hai đường kinh trung tâm
màu phơn phớt đỏ ở trong và nhờ trắng ở ngoài chạy dọc từ vị trí phần dưới cách
rốn ba ngón tay lên tới đỉnh sọ và không thể quay lại hai đường kinh ở hai bên,
lúc ấy nó phải đi qua cửa Brahma - huyệt đạo đỉnh sọ - cửa tới cõi giải thoát.
Đó là lúc vị Lama kề miệng sát người
chết hướng dẫn cho người chết biết giai đoạn trung gian thứ nhất xuất hiện gọi
là sự chiếu sáng chân lý tự nó, sự nhận biết Thân Hư Không xuất hiện tinh anh
trong tâm trí của người chết. Giai đoạn hô hấp bên ngoài chấm dứt đến sự hô hấp
bên trong chấm dứt, hơi thở đời sống đi vào đường kinh trung tâm, đó là lúc vía
hay ý thức người chết bay đi!
“Hỡi người con cao quý, hãy nghe đây!
Giờ nguồn sáng, ánh sáng thanh khiết của chân lý tự nó, hoàn toàn thanh tịnh sẽ
xuất hiện cho anh. Anh phải nhận biết nó. Hỡi người con cao quý, sự nhận biết
hiện tại của anh về tinh hoa của nó chính là cái Hư không - (sự mở rộng hoàn
toàn tâm trí - TG) chói sáng ấy. Nó không có đặc trưng nào để làm điểm tựa. Nó
hoàn toàn Hư không, thuần khiết. đây chính là chân lý tự nó, đây là khía cảnh nữ
(âm) của Đức Phật nguyên thủy Samantabhadhri. Tâm trí anh không chỉ là rỗng
không, nó còn là sự hiểu biết vô hạn, rực rỡ, sáng chói. Và sự hiểu biết ấy là
khía cạnh nam (dương)của Đức Phật nguyên thủy
Samantabhadra. Tâm trí anh không chứa
đựng một cái gì, vậy một mặt nó là cái rỗng không và mặt khác do nó biết tất cả,
chính nó là sự hiểu biết. Sự hợp nhất của cái rỗng không với sự sáng suốt chính
là Thân Hư Không, là Pháp Thân của các Đức Phật!”
Giai đoạn này sẽ kéo dài với những người
có trình độ tâm linh cao. Người thấp kém, khoảnh khắc tuyệt vời kia chỉ diễn ra
chưa bằng thời gian một sợi tóc rụng dưới lưỡi kéo! Các mật chú dạy rằng, người
ta thường chìm vào cơn mê trong khoảng ba ngày nên cần phải hướng dẫn người chết
nhận biết được ánh sáng thuần khiết của tâm trí.
Nếu không nhận biết ánh sáng cơ bản ấy,
người chết sẽ rơi vào trạng thái thứ hai gọi là thân nhuyễn thanh tịnh, tâm trí
phân vân không biết mình chết hay sống. Khi nhận được lời chỉ dạy, người chết sẽ
được giải thoát trong khi những ảo tưởng về nghiệp chưa kịp xuất hiện. Trong
trường hợp thất bại, trạng thái trung gian khác sẽ đến với sự xuất hiện của
Chân lý tự nó gắn liền với những ảo ảnh do nghiệp sinh ra.
Hỡi người con cao quý, giờ đây anh sắp
trải qua ba trạng thái trung gian của cái chết, của Chân lý tự nói và của cái
trở thành. Cho đến ngày hôm qua anh vẫn còn ở trong Bardo của cái chết và mặc
dù nguồn sáng của chân lý tự nó đã xuất hiện mà anh đã không nhận biết. Vì vậy
anh phải lang thang nơi đây. Nhưng bây giờ anh sắp trải qua trạng thái trung
gian của Chân lý tự nó và của cái trở thành. Đứng phân tán tư tưởng, hãy nhận
biết tất cả những gì tôi chỉ cho anh. Hỡi người con cao quý, cái được gọi là
cái chết đã đến với anh. Anh phải đi khỏi thế giới này. Nhưng điều này không chỉ
đến với riêng anh. Đó là số phận của tất cả. Đừng bám víu vào cuộc sống này. Thậm
chí nếu anh muốn bám víu anh cũng không có khả năng để ở lại đây.
Vì không có khả năng ở lại đây, nơi mặt
đất đã sinh ra và mòn vẹt bóng đời nên từ thời nguyên thuỷ, khi có ai chết, người
Trung Quốc đục thủng mái nhà cho linh hồn thoát ra khi chết và cho đến hôm nay,
trong những ngôi làng châu Âu, ở các nước có nền kinh tế và khoa học kỷ thuật
phát triển như Pháp, Đức, Anh, người ta còn tục mở cửa sổ cho linh hồn ra đi.
Dù không có khả năng ở lại nhưng linh
hồn có thể trở về thăm lại xác xưa của mình. Bởi vậy, người Iroquai từ xa xưa
đã đục cái lỗ trên xác chết và ngày nay người ta vẫn đục lỗ trên quan tài cho
linh hồn buồn bã ghé thăm. Người Algonquin ở Bắc Mỹ cũng giống như dân tộc Katu
trên dãy Trường Sơn, cho rằng linh hồn như con dế, khi chết hay ngủ bay lang
thang khắp nơi gom nhặt những câu chuyện mang về kể lại cho xác thân nghe!
Trong những đêm giá lạnh Bussum Zuid, từ căn phòng khách sạn Bastion, qua cửa sổ
tôi nhìn thấy đèn nến mờ sáng mưa tuyết trước nhiều ngôi mộ nằm bên kia vườn
nghĩa địa. Có ánh sáng ấy soi đường soi tên tuổi, linh hồn người chết, dù có
lưu lạc khuya khoắt cũng được trở về bình yên!
Như núi đồi chăm nom hướng chảy dòng
sông, như người mẹ lìa đời vẫn dõi theo chân con, Tây Tạng không bỏ mặc linh hồn
ra đi cô quạnh, đôi khi lại sa ngã trên bước đường lang thang nên người sống phải
có bổn phận hướng dẫn cho linh hồn đi đến nơi về đến chốn bằng phương pháp thiền
định. Theo Bardo Thodol, tâm linh người chết nhạy cảm gấp bảy lần người sống
nên vị Lama không chỉ bày cách cho người chết tham thiền mà còn nhập vào cuộc
thiền định, liên lạc với linh hồn người chết qua việc đọc cho người chết nghe
những lời giáo huấn.
Đây là lúc người chết
được nghe dạy về “cái nhìn sâu sắc vĩ đại trong trạng thái trung gian của Chân
lý tự nó”. Người chết ra đi trong tiếng khóc than của người thân với bao nhiêu
nỗi lo sợ nên vị lama phải dẫn dắt họ gặp 7 linh ảnh các vị thần yên tĩnh, đầu
tiên là linh ảnh của Vairocana.
“Hỡi người con cao quý, đã ba ngày rưỡi
anh ở trong trạng thái vô thức. Giờ đây nhả ra khỏi trạng thái ấy là những suy
nghĩ của anh: Cái gì đã xảy ra với tôi?. Vì vậy anh phải nhận biết rằng, anh
đang ở trong trạng thái trung gian. Lúc ấy vòng luân hồi bị đảo ngược và mọi vật
xuất hiện dưới dạng ánh sáng và thân của các thần linh. Đối với anh các bầu trời
đều có màu lam nhạt. Linh ảnh của Vairocana, vị Phật Tối cao, giờ đây xuất hiện
trước anh. ở cõi trời trung tâm gọi là nơi phân bố các hạt ánh sáng. Người ngự
trên ngai sư tử, màu trắng, tay cầm bánh xe và ôm Phật mẫu Akasadhatesvari - nữ
chúa tể cõi trời. Miệng họ gắn liền nhau. Từ tim của Đức Vairocana và Phật mẫu
phát ra ánh sáng, ánh sáng ấy đập vào anh một cách đột ngột khiến mắt anh không
thể chịu đựng sự chói lọi của nó. Đi với ánh sáng này là một ánh sáng của thế
giới các vị thần, trắng mờ đập vào anh... Đừng đi theo ánh sáng mờ của thế giới
các vị thần mầu trắng đục, đừng ham muốn nó, đừng bám víu lấy nó! Nếu anh bám
víu lấy nó, anh sẽ lang thang trong những trạng thái thần linh, xoay vòng trong
6 cõi !
Toàn cảnh tu viện Tashilhunpo
Sau Vairocana, người chết được vị Lama dẫn gặp linh ảnh của
Vajrasava Aksobhya,
Ratnasambhava, Đức Amitabha (A-di-đà),
Đức Amoghasiddhi, năm gia đình của chư
Phật, các vị thần trí tuệ. Họ những vị thần hiền hòa có thể mang lại sự giải
thoát tức khắc cho người chết trong ánh sáng trí tuệ và linh ảnh về niềm tin
tình thương.
Hỡi người con cao quý, hãy chú ý lắng
nghe! - Vị Lama đọc tiếp lời dẫn khi các linh ảnh thần hiền hòa chấm dứt mà người
chết vẫn chưa được giải thoát - Vừa qua anh đã không đạt được cái nhìn sâu sắc
trong khi xuất hiện trạng thái trung gian của những vị thần yên tĩnh và anh phải
lang thang. Giờ đây là ngày thứ tám, sẽ xuất hiện những đoàn thần linh uống máu
như Phật Heruka, Vajra-Heruka, Ratna-Heruka, Padma-Heruka, Karma-Hekura và linh
ảnh 8 vị mamo cùng các nữ thần khác. Các vị thần giận dữ được miêu tả vô cùng
khủng khiếp còn hơn cả tranh siêu thực Dali!. “Hỡi người con cao quý! Đức Phật
Heruka vinh quang sẽ xuất hiện trước anh, thân mầu nâu sẫm, có ba đầu, sáu tay
và bốn chân. Gương mặt của bên phải màu trắng, bên trái màu đỏ và ở giữa màu
nâu sẫm. Thân ngài được trang sức bằng những con rắn quấn quanh và những cái đầu
lâu mới bị chặt lìa cổ. Phật mẫu Krodhesvari ôm lấy thân ngài, bàn tay phải của
bà ôm vòng sau gáy ngài, bàn tay trái dâng lên miệng ngài chiếc sọ người đựng đầy
máu!"
Do lo lắng và sợ hãi, người chết còn
phải lang thang trong các linh ảnh nên vị Lama sẽ tiếp tục đọc giáo huấn thêm
10 ngày nữa đối với những ai chưa đạt đến cái nhìn sâu sắc chân lý. “Hỡi người
con cao quý, hãy chú ý lắng nghe và ghi nhớ điều này! Những thân của các sinh
linh trong địa ngục, của các vị thần và tất cả chúng sinh trong trạng thái trung
gian đều phát sinh tự nhiên. Hơn nữa, vì anh không nhận biết trong trạng thái
trung gian của chân lý tự nó bản chất thật của các linh ảnh khủng khiếp, nên đã
24 ngày rưỡi trôi qua mà anh vẫn sợ hãi và ngất đi”. Trong giai đoạn trung gian
của cái trở thành này, người chết được hướng dẫn nhập linh hồn mình vào những
thế giới cao quý bằng con mắt thanh tịnh thiêng liêng
Đã đi qua các trạng thái trung gian mà
vẫn không được giải thoát, người chết hãy bình tâm bởi các vị Lama không bỏ mặc
họ. Người chết vẫn được giải thích cặn kẻ về cách thiền định ánh sáng theo linh
ảnh các vị thần để giải thoát ra khỏi kiếp luân hồi.
Linh hồn người chết sẽ
được giải thoát hay không tuỳ thuộc vào nghiệp của họ khi còn tại thế! Thậm chí
nếu chưa đến lúc phải chết, linh hồn người chết sẽ nhập xác trở về dương thế
nói theo kinh nghiệm cận tử của người thoát chết.
Ánh sáng. Sương mù. Cây cầu. Dòng
sông. Bóng người bay liệng . Gặp gỡ người thân. Thấy địa ngục vật vờ tuyệt vọng.
Đắm mình trong thanh tịnh trong suốt. Đó là những cảnh vật mà người có kinh
nghiệm cận tử - thoát khỏi cái chết trở về cuộc sống kể lại. Tôi không hiểu
sao, nội dung chuyện kể của người thoát chết ở cái làng nghèo xa xôi của tôi lại
giống người phương Tây kể trong tác phẩm Trở về cõi chết đến vậy. Phải chăng, kinh
nghiệm cận tử qua những câu chuyện kể hư ảo chính là những hình ảnh về “một cõi
sống thật” Padmasambhava trình thuật trong Bardo Thodol!
Nghiệp sáng tạo như một nghệ sỹ. Nghiệp
tạo hình như một vũ sư! Nhưng dù ác hay thiện, hãy yên tâm, lúc thực sự không
thể trở về cõi dương, các vị Lama sẽ đóng cánh cửa tái sinh lại để tiếp dẫn dắt
linh hồn họ đến tận cõi sáng niết bàn.
Khi đã làm hết mình nhưng do người chết
là đẳng cấp quá thấp hèn, vị lama, một lần nữa không bỏ mặc mà kiên nhẫn hướng
dẫn tâm trí người chết chọn lựa cửa sinh để đầu thai”. Hỡi người con cao quý, nếu
nghiệp quả của anh bắt buộc anh phải đi vào bụng me, ta sẽ cho anh một hướng dẫn
khác để chọn cửa đầu thai. Hãy nghe đây! Dù anh thấy xuất hiện bất kỳ cửa đầu
thai nào, cũng đừng vào. Do anh có được một quyền năng sáng suốt nào đó, anh sẽ
lần lượt nhận biết tất cả những nơi tái sinh. Vậy anh hãy lựa chọn cẩn thận nơi
anh sẽ đến... Vì lý do nghiệp quả của anh, anh có thể nhầm lẫn, khi thấy một bụng
mẹ thanh tịnh, anh lại cho là bất tịnh và ngược lại. Vậy do có nguy cơ nhầm lẫn
nên lúc ấy có một lời khuyên rất quan trọng. Hãy hành động theo cách sau đây!
Ngay khi anh thấy mở ra một cánh cửa đầu thai thanh tịnh, đừng cảm nhận một sự
gắn bó nào, và khi thấy một cửa đầu thai bất tịnh cũng đừng cảm nhận chán ghét,
anh phải ở trong trạng thái của tâm Đại bình đẵng”!
Ôi! Mạnh Tử! Khi còn sống ngài từng đọc
Bardo Thodol nên mới hay nhân nghĩa lễ trí tín, phi do ngoại thược ngã dã, ngã
cố hữu chi giả! Những gốc của tính thiện ấy quả không phải từ bên ngoài hun đúc
cho ta, ta vốn đã có rồi vậy nhờ trước khi đi vào lòng mẹ, linh hồn đã nghe lời
giáo huấn kia!
Giai đoạn trung gian
tái sinh vô cùng phức tạp. Đến đây là ngã rẽ giữa Phật và hữu tình. Trong một
giây, phân cách, trong một giây, toàn giác. Chỉ một giây phân cách nhưng người
ta có thể phải giúp đỡ người chết tái sinh trong vòng 49 ngày, thậm chí là 100
năm sau khi chết! Bardo Thodol đã chỉ ra 4 cửa sinh ra con người. Noãn
sinh-sinh bằng trứng. Thai sinh-sinh bằng bào thai. Hoá sinh-sinh bằng phép lạ.
Thấp sinh-sinh ở nơi ẩm thấp tối tăm.
Bốn cửa sinh ra loài
người trong Bardo Thodol có khác gì “lịch sử tiến hoá của bào thai người trong
bụng mẹ là sự lặp lại bằng thu ngắn lịch sử hàng triệu năm tiến hoá vật chất của
các tổ tiên động vật chúng ta, bắt đầu bằng côn trùng”.
Không dừng lại ở đó,
Engel còn nói tiếp “con vật có xương sống mà trong nó cõi tự nhiên đi đến chỗ ý
thức được mình”.
Khi linh hồn bước vào cõi giao hợp của
mẹ cha và đi ra cuộc đời theo một trong bốn cửa sinh dưới dạng hình tướng con
người hoặc các loài thú. Nếu là người nam sẽ cảm nhận sự thù hận đối với người
cha và một sự hấp dẫn mang tính ghen tuông với người mẹ. Nếu là người nữ sẽ có
một sự cuốn hút ham muốn đối với người cha và xuất hiện tình cảm ghen thù với
người mẹ.
Trong quán trà bơ của Rigpaba, không
chỉ có tôi mà hình như còn có một linh hồn phương Tây cũng đang lắng nghe lời
giảng huyền học của Rigpaba. Người đó chính là nhà Phân tâm học Sigmund Freud.
Bởi, hoá ra lý thuyết tình dục gắn liền với mặc cảm Oedipe làm chấn động dư luận,
được xem là một phát hiện vĩ đại của các nhà Phân tâm học trong thế kỷ 20 đã sống
trong tư duy xứ Tạng hàng ngàn năm qua dưới dạng một en-sof, một thứ tư duy
không quan niệm được do đại sư Padmasambhava thu gom vào trong văn bản quý báu
Bardo Thodol.
Sách dạy về cái chết lại nghe như dạy
người sống. Tôi cảm thấy giữa cuốn sách của Tây Tạng và của người Ai cập khác
nhau hoàn toàn. Sách về người chết của Ai cập là ghi chép những lời khấn thiêng
được chôn theo người chết trong mộ để bào chữa cho kẻ chết vào ngày phán xử và
cầu xin các thần linh giúp họ vượt qua địa ngục, đến được cõi ánh sáng của Mặt
trời vĩnh hằng: Lời khấn để đi ra ánh sáng.
Cả hai đều hướng dẫn
con người đi ra ánh sáng nhưng...
Tôi chợt giật mình như người học trò
trong Nghi lễ huyền bí của Hy lạp, sau khi được dẫn qua hành lang tối tăm hơn
mê cung được bao vây giữa những âm thanh khủng khiếp bước vào căn phòng tế lễ,
mắt chợt bùng lên ánh sáng cùng với lời kêu gọi của người thầy giáo sĩ “Hãy
nhìn ánh sáng, con ta! Nó chính là bản tính và đời sống của con!”
Epoteria! Tôi đã nhận
ra một sự sáng rõ bất thình lình từ những lời mật điển Bardo Thodol!
Bằng ánh mắt thanh tịnh,
xin hãy trở lại con đường mà các vị Lama hướng dẫn người chết sau khi tắt thở,
bạn sẽ thấy đây là những dòng giáo huấn siêu việt về cuộc sống và sự tu luyện
thiền định bởi tính Nghe!
Cái nhìn sâu sắc chính
là sự nhận biết không qua một trạng thái trung gian nào cả, nó là cảm nhận trực
giác ánh sáng tâm trí. Có hai phương pháp để đạt đến điều đó là khi ánh sáng được
cảm nhận như là đức Phật A di đà và ánh sáng được sống với tư cách là thần Yi
dam.
Cái quan trọng của
Dzogchen là sự hiểu. Hiểu còn quan trọng hơn thiền định. Nếu không thấy cái hiểu
không thanh tịnh và đúng thì thiền định hay hạnh cũng không công. Nên là một
hành giả, ngay từ đầu phải dùng thời gian khảo sát cái thấy hiểu của mình, hiểu
cho được cái thấy hiểu theo kinh nghiệm trực tiếp. Chính vì vậy Thân Hư Không -
theo lời giáo huấn trong trạng thái trung gian ban đầu chính là tâm trí - nguồn
ánh sáng cơ bản mà nếu ai lĩnh hội được sẽ giải thoát. “ Hãy nhận biết tinh hoa
của trí tuệ, cái tinh hoa thanh khiết như Đức Phật. Anh phải nhìn tâm trí của
mình như vậy”. Sự nhận biết ánh sáng cơ bản ấy chính là ánh sáng của tâm bản
nhiên gọi là tính giác Rigpa trong bản thân chúng ta. Rigpa là “tự tính vô vi
hiện diện suốt trong quá trình sinh tử và Niết bàn” nhưng con người không nhận
ra như Padmasambhava khẳng định”. Tất cả hữu tình đã sống và chết vô số lần.
Chúng đã nhiều lần kinh nghiệm ánh sáng khôn tả này. Nhưng vì bị bóng tối vô
minh làm mờ mịt, chúng vẫn lang thang bất tận trong sinh tử”. Giây phút đốn ngộ
ánh sáng cơ bản đó khác gì Blake “thấy vũ trụ trong một hạt cát, thấy thiên đường
trong một đoá hoa, nắm vô biên trong lòng tay bạn, và vĩnh cửu rút lại trong một
giờ”!
Đối với những kẻ tâm
linh chưa thấu đạt chân lý do trí tuệ mang lại, nhất định sẽ rơi vào chốn mê lầm
thiện ác được biểu hiện qua các linh ảnh những vị thần hiền hòa và giận dữ. Thiện
ác là hai mặt đối lập một thể thống nhất, là bản chất của đời sống, không có
cái xấu thì thế giới này không thể tốt đẹp vì vậy đây là chân lý tự nó vốn có
trong cõi ta bà khách quan, nó ngụ cư trong đời sống của mỗi cá nhân.
Vũ điệu của các Lama ở tu viện Tashilhunpo
Không giải thoát vào thế giới Stongpanyid
- Hư không ở giai đoạn trung gian đầu tiên, người chết phải đi từ sự yên tĩnh dịu
dàng, vượt qua những hiểm nguy, niềm kinh hãi hoảng loạn tâm trí bằng cái nhìn
sâu sắc mà Tạng ngữ gọi là “ngosporod” - “mặt đối mặt” nhận biết linh ảnh các vị
thần hiền hoà và giận giữ ấy chính là quá trình người chết “nhìn tận mặt” bản
thể của mình được biểu hiện qua hình tượng thần Yidam có hình dạng hung dữ
nhưng trong lòng ẩn chứa từ bi bao trùm giống bản chất hai mặt thiện ác trong một
con người! “Hỡi người con cao quý, hãy thiền định về Yidam của anh, với một
khát vọng mạnh mẽ, hãy hoàn toàn tin tưởng vào Yidam của mình. Vị này xuất hiện
nhưng không có một tính chất riêng biệt nào. Hãy nhìn nhận rằng vị thần này
hoàn toàn không có tính vật chất”.
“Hỡi người con cao quý, vậy chớ nên sợ
hãi những vị thần cao lớn Yên tĩnh và Giận dữ, dù cho họ có to lớn như bầu trời.
Đừng sợ hãi chút nào những vị thần trung bình to như núi Merou, đừng sợ các vị
thần nhỏ cao hơn anh 18 lần. Tất cả những hiện tượng và những khả năng biểu lộ
đều xuất hiện trước anh dưới dạng thân các vị thần và của ánh sáng. Hãy nhận biết
họ như là sự phóng chiếu của anh đều hòa nhập thành Cái Một”
Trước khi giả biệt cuộc đời, thánh thi
Tây Tạng là Milarepa cũng để lại lời di chúc cho đệ tử, rằng hiện tại, quá khứ
và tương lai, tất cả chỉ là Cái Một.
Ý thức nhất nguyên này là sự thấu suốt
cơ bản nguồn gốc và sự vận động phát triển của thế giới, trong âm có dương
trong dương có âm, thế giới ra đời theo con đường lưỡng nghi sinh tứ tượng tứ
tượng sinh bát quái như Dịch dạy.
Sự hợp nhất này sẽ giúp cho người tu
hành và kẻ ngoại đạo nhìn rõ bản lai diện mục, nắm bắt hình bóng tha nhân của
mình để nhìn hiện hữu một cách tự do và khoa học.
“Hỡi người con cao quý, hãy nhận biết
rằng tất cả những hiện tượng mà anh cảm nhận, tất cả những dáng vẽ khủng khiếp,
đều là sự phóng chiếu của chính anh. Hãy nhận biết rằng, ánh sáng trong trẻo là
sự hiểu biết của anh, là sự tỏa sáng của chính anh” con người sẽ đi lại không
ngần ngại “qua núi Merou, qua những ngôi nhà, những cánh đồng, những mõm đá, những
núi đồi mà không hề bị cản trở”. Đi lại không ngần ngại vượt qua những bến bờ
thực ảo, phải trái, ác thiện, sinh tử, kể cả niết bàn cũng là hạt bụi trống rỗng.
Sự vượt qua này đồng
nghĩa với sự giải thoát triệt để.
Đóng lại cánh cửa đầu thai. Chặn đứng
ý thức luân hồi. Chặt đứt mọi cám dỗ. Phá tan mọi u mê lầm lạc. Đạp đổ những biểu
tượng.
Con người chỉ thực sự được giải phóng
khi đặt bước chân mình vào con đường dẫn đến những lâu đài bằng đá quý và những
vườn địa đàng của trí tuệ bằng cách nhận thức đúng đắn và gạt bỏ “nỗi sợ hãi
trong trạng thái trung gian, những lời nói cơ bản đối với trạng thái trung
gian, giải thoát khỏi con đường hiểm trở của trạng thái trung gian, giải thoát
bằng cách áp dụng những Mật chú trên Thi hài, giải thoát khỏi ngũ uẩn và nghi
thức để giải thoát khỏi những xu hướng vô ý thức”.
Những lời lẽ này cuối cùng của Bardo
Thodol không những mang lại bản sắc riêng biệt của dòng Mật giáo mà nó còn mở
ra một chân trời mới lạ trong thế giới Phật giáo và triết học cách đây hơn 12
thế kỷ và cho đến hôm nay, nhân loại vẫn hằng tận tụy vươn đến.
Bardo Thodol không chôn
theo người chết mà đọc cho người chết nghe. Vậy khi đọc lên như vậy, chắc rằng
bản thân người sống cũng phải lĩnh hội những bí ẩn mật khải sâu xa trong cuốn
sách ấy. Bardo Thodol thực sự không đơn thuần là cuốn sách dạy chết hay dành
cho người chết mà nó là sự trình diễn các phương pháp, giúp cho con người, có đạo
hay không có đạo biết lựa chọn phương cách sống trong các giai đoạn của đời người,
trong từng satna dịch biến trôi qua. Bởi các thời chuyển tiếp khác nhau, các trạng
thái chuyển tiếp kia có khác gì tâm trạng khác nhau trong cuộc sống, lúc thức tỉnh,
khi chiêm bao, lúc nhập sâu vào thiền định, khi mang kinh nghiệm về cái chết,
nhìn vào kinh nghiệm bản thân thực tại cuộc sống. Đó phải chăng là sự bí mật của
đời sống được miêu tả dưới khuôn mặt cái chết trong Bardo Thodol.
Khi Bardo đời này xuất
hiện
Tôi sẽ từ bỏ lười biếng
vì cuộc đời ngăn ngủi
Đi vào con đường thấy-nghe-nghĩ-quán
tưởng không xao lãng
Lấy tâm và nhận thức
làm con đường, để thực hiện ba thân: Tâm giác ngộ
Bây giờ một khi tôi đã
được thân người
Không có thì giờ cho
tâm lang thang trên đường
Padmasambhava! Tâm tôi
chỉ là miếng dưa cải ngái mùi mỡ trâu. Làm sao đây cho tiếng khóc oa oa hồn
nhiên của chị tôi và thân xác đớn đau này hòa tan làm một cho tôi không có thì
giờ cho tâm lang thang trên đường rải đầy chiêm mộng và hiện thực sinh tử!
Ngoài tôi ra, còn không
biết bao nhiêu người cùng kêu lên với Ngài.
Thấu hiểu, Padmasambhava dành một phần
cho những ai không biết thiền định, dạy họ cách giải thoát bằng ý nghĩ đến Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát và Thiền định về Tình Thương!
Tôi không là người Tây
Tạng dành từng satna cầm lấy tràng hạt và niệm chú bằng cách quán tưởng vị Bồ
Tát đầy quyền năng. Tôi chỉ thiền định về tình thương.
Tình thương là một thực tại sống động.
Người chết nghe, cũng bình an ra đi. Người sống nghe lấy đó mà tu tập! Chết
không còn là điều tuyệt vọng. Sống không còn là giới hạn. Trí tuệ và Tình yêu
thương là con đường giải thoát tối thượng, đồng nghĩa với sự bất tử. Có giáo lý
nào, có cuốn sách nào vừa hữu ích cho người chết lẫn người sống như vậy không.
Chỉ một cuốn sách, Tây
Tạng vượt qua rào cản của ý thức, đi vào những vết thẳm tâm linh bằng phương
pháp tâm lý tinh tế mà ngày nay nhân loại quen gọi là “tâm lý học chiều sâu”.
Vậy thì hỡi người con cao quý! Dù bạn đang ngồi trước ngọn lửa hong tóc khô hay nằm nghe nắng tàn phai mái nhà, nhìn lá vàng bay qua trời bom đạn, buồn thăm dưới vực thẳm, vinh quang trên đỉnh hạnh phúc, bạn hãy đọc tên mình và đồng loại trong tình yêu thương!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét