Ở đây không có những cái gọi là “danh lam thắng cảnh” mà du khách thường gặp nhan nhản khắp thế giới; tất cả đều hiện ra trong một không khí tĩnh lặng như vô ngôn, và một thứ ánh sáng trong veo làm bằng ánh sáng từ mặt trời chiếu hắt lên màu tuyết ngàn năm của dãy Hi Mã. Tây Tạng không phải là một quang cảnh, mà là một cảnh giới sắc không khiến con người như đang từ bỏ cõi trần gian này để đến một cõi khác.
Toàn bộ thế giới ấy đã hiện ra như hình ảnh nhất quán của một nền văn hóa khác biệt: “Văn hóa ánh sáng. Giá trị ánh sáng được khẳng định trong mọi gam màu cuộc sống, từ lời kinh rơi đầu lưỡi cho đến ngọn địa y hát xanh núi tuyết! Ánh sáng trở thành ngôn ngữ triết học đối thoại vô tiền khoáng hậu trên miền đất Tây Tạng”.
TÂY TẠNG GIỌT HOA TRONG NẮNG
5. Bí ẩn trong đôi mắt thiên định ánh sáng
Văn Cầm Hải
Như con ếch nỗ lực gom
nhặt những mảnh xác thân hoang tàn, cố dựng lại hình hài cho linh hồn nương náu
nhưng dường như tất cả đã biến thể trong nguồn năng lượng vô hình toả ra từ tấm
vải kinh vàng.
Tôi không còn biết chiều
kích, không còn nhận ra dạng thức tồn tại của mình. Tôi bây giờ, là cõi nhìn
trong đôi mắt Phật.
Ngài ngồi đó, đôi mắt
huyền ảo sông núi và bầu trời thơm tho hoa quả chứa trong những chiếc vỏ ốc trắng.
Đôi mắt không giống ánh chiều rét ngọt mà tôi từng gặp. Ngài tượng ẩn trong ngôi vườn xinh tươi hoa cỏ làng Marken có hơn 1.000 năm tuổi Thiên Chúa bên bờ biển Amsterdam. Đôi mắt cũng không cồn lên cơn cuồng phong lòng dạ bằng nhịp màu cào dữ dội tuôn trào từ đôi mắt Van Gogh tự hoạ, không trầm hùng tiếng hát Zarathustra vang động hố thẳm đôi mắt Nietszche giữa ngôi làng Rosken xanh màu củ cải rong rã tia nhìn của tôi bên kia miền Đông nước Đức xa ngái.
Đôi mắt Phật trên tấm vải
kinh vàng, chỉ vài nét bút xạ chấm phá nhưng sao lại dội vào hồn tôi tiếng sấm
âm thầm lớn dậy. Tiếng sấm dịu dàng. Tiếng sấm ngọt ngào. Tiếng sấm hiền minh.
Bùng nổ rồi cũng tràn đầy bao dung lên tôi.
Ngày xưa huyền thoại 72 phép thần
thông, con khỉ Ngộ Không chẳng thoát khỏi 5 ngón tay Phật còn lúc này dẫu có
siêu việt cả ngàn phép lạ, tôi cũng không thể nào vượt ra đôi mắt của Phật. Này
Hải, mi có bay lên chín tầng thiên đường, mi có lặn xuống 18 cửa địa ngục, nơi
nào mi đặt chân đến nơi ấy mi gặp ánh mắt ta, nơi nào mi hiện hữu nơi đó vốn là
cái nhìn của ta mà có. Quá khứ, hiện tại, tương lai và cả tiểu sử không gian
xung quanh mi nữa, tất cả do ta nuôi dưỡng, tất cả do ta sinh thành, tất cả do
ta huỷ diệt nếu muốn.
Phải rồi! Tôi đã nhìn thấy, đã nghe thấy
tiếng nói huyền bí kia vang lên hơn 1.000 năm nay của Đức Văn Thù trong ngôi
chùa cùng tên ở Thành Đô, kinh đô của nước Thục, Lưu Bị Khổng Minh dựng lên thời
Tam quốc nay là tỉnh Tứ Xuyên!
Bởi niềm tin đất
thiêng, Chu Ân Lai đã chở che cho chùa Văn Thù không bị hồng vệ binh tàn phá
trong cuộc cách mạng văn hoá. Kiến trúc mái đao vút cong của những góc điện thờ
làm tôi nhớ mái đao Tây Đằng, Chu Quyến trên đất Sơn Tây Việt Nam. Dưới mái đao
cuối cùng, sâu kín tượng Văn Thù to lớn trắng ngà toạ lạc giữa khói hương muôn
phương cúng viếng.
Đôi mắt bí ẩn của Đức Phật Tương Lai ở Tu viện Palkhor
Đôi mắt bí ẩn của Đức Phật Tương Lai ở Tu viện Tashilhunpo, Tháp thờ Phật Di Lặc
Cái làm cho tôi rùng mình là ánh mắt
của Văn Thù.
Không vòm cung hai mí khuôn mắt người
thường. Không hoàn toàn hai mí song song khép xuống cái nhìn từ bi giống bao mắt
Phật quen thấy. Đôi mắt Văn Thù vẫn như mở nhưng đặc biệt là ở giữa đường chạy
của mí trên lại lõm xuống che kín hơn một phần ba giác mạc và đôi con ngươi.
Chính phần lõm này đã căng kéo toàn bộ
phần da dưới đôi lông mày giống một bức rèm buông hờ khung cửa, tạo cho con người
ta cảm giác ánh mắt Văn Thù ban xuống cõi luân hồi cái nhìn bí ẩn nhưng minh
triết, tự tin, hài ước và trầm thiêng đến cao nhã!
Mặc dù đã tìm đủ mọi góc máy, sau cùng
tôi vẫn không thể có tấm ảnh của Văn Thù. Nhập vào trong điện thờ thì không được
phép. Lùi bước ra thềm sân thì khung cửa vừa vặn che kín ngang mí mắt dưới của
đôi mắt. Ngoài việc đặt tượng Văn Thù sâu kín trong ngôi điện cuối cùng phía
sau điện thờ 500 vị La Hán, có phải người xưa muốn bảo vệ đôi mắt kỳ lạ của Văn
Thù bằng đường nét kiến trúc!
Tưởng rằng chỉ có Thành Đô mới có đôi
mắt Phật độc nhất vô nhị Văn Thù nhưng rời Thành Đô, bước lên Tây Tạng bằng đường
bay mây gió Himalaya, giờ đây tôi lại gặp ánh mắt kỳ bí này trên tấm kinh vàng
của Lama chùa Đại Chiêu trao tặng. Và trong những ngày lang thang núi tuyết,
tôi đều bị hút hồn trong cái nhìn sâu sắc quét ra từ đôi mắt Phật khác thường
xuất hiện khắp nơi trên xứ Tạng. Tôi hiểu, đây là mới là quê hương của đôi mắt
Văn Thù!
Đối diện với đôi mắt ấy như đối diện với
cánh cung hướng thẳng vào trái tim con người. Hai bờ mi uốn cong cánh cung trên
đà giương nỏ. Đôi con ngươi láy đen hình đồng tâm nằm giữa giác mạc xanh buốt
óc là điểm đầu mũi tên. Ai đã giương cung tên bắn vào trái tim tôi. Nội lực
hàng triệu năm hay chỉ dồn sức trong chớp mắt. Là người hay thiên thần mới có
đôi cung tên bí ẩn, không làm cho tôi đau đớn gục chết, ngược lại khi nhận mũi
tên này, tôi được tiếp thêm nguồn sống mãnh liệt để bước những bước chân tuyết
nắng trên mái nhà thế giới!
Chỉ một đường nét giản
đơn của đôi mắt, Tây Tạng đã làm nên một sự khác biệt vĩ đại với thế giới.
Người nhạc sỹ có thể
tìm thấy trong đôi mắt tinh lực của khí nhạc không lời.
Người hoạ sỹ có thể
phong phú màu sắc đời mình với gam màu và hoạ tiết mỹ thuật rất ấn tượng trong
đôi mắt.
Người Phật tử, kể cả
triết gia hay nhà huyền học, đương nhiên sẽ cảm khái bao lời nguyện cầu dâng
lên đôi mắt.
Còn tôi, tôi đã thấy gì trong nguồn sức
mạnh ấy. Tôi chỉ là kẻ tầm thường ưa rày đây mai đó. Ngắm chùa Tây Tạng nhớ
chùa Huế. Bên dòng sông Hương lại sóng vọng sông Seine. Trong lều con gái Digan
vẫn không chịu phôi pha căn buồng bạn gái Afghanistan.
Chăm sóc con mình mà
khôn nguôi day dứt với tuổi thơ nghèo khó.
Cuối cùng, tôi rồi cũng hạt bụi nhỏ có
thể tan biến lúc nào không hay trong cái ngáp tình cờ của vũ trụ! Tôi biết tìm
gì đây trong mảnh vải kinh vàng chưa đủ to để lượm trọn vẹn hình hài một con ếch
nổ tung sau lưng vị Lama chùa Đại Chiêu.
Bảo tháp chứa di hài Dalai Lam thứ 5
Sức mạnh Tây Tạng biểu hiện qua đôi mắt Phật!
Ai là vị chủ nhân của nguồn sức mạnh thiêng liêng ấy. Và thế giới nuôi dưỡng những vị chủ nhân ấy nơi đâu. Phải chăng, đó là người samapatti sống ở cõi Shambhala hiện hữu trong lòng Tây Tạng thân thể được bảo lưu bất động như đá, linh hồn có thể dạo chơi hàng triệu năm hay trăm năm tuỳ ý, khi nào muốn có thể trở về qua “sợi chỉ bạc” liên lạc giữa shambhala và cõi sống tế vi tồn tại dưới hình thái năng lượng dạng sóng nằm ngoài thời gian và không gian của trái đất. Những người samapatti, tạo lập và có bổn phận cao quý là lưu giữ quỹ gen nhân loại trong cõi Shambhala như kết quả nghiên cứu của bác sỹ nhãn khoa người Nga Muldachev sau những cuộc thám hiểm ở Hyamalaya.
Họ chính là giống người Lêmuri hậu kỳ
hình thành sau giai đoạn người giống thiên thần và ma, thân thể đã cô đặc cao
10 mét có hai tay và ba con mắt biết sử dụng năng lượng theo quy luật của thế
giới vi tế. Họ còn là giống người Atlan sinh ra sau khi văn minh Lêmuri tiêu
vong, dù không thông minh siêu việt như người anh Lêmuri nhưng họ cũng được
truyền thụ và thông thạo sử dụng mọi thứ năng lượng siêu nhiên của thế giới tế
vi. Trong quá trình bị tiêu vong do dục vọng của chính họ gây ra, người Lêmuri
và Atlan đã đi vào hang động ẩn mình trong trạng thái Samapatti-Định, lập nên
cõi Shambhala để lưu giữ quỹ gen cho dòng giống mình và cho văn minh nhân loại
mai sau!
Lêmuri đã huyền thoại
còn Atlantide, tuy bị nhấn chìm dưới đáy đại dương nhưng Atlantide vẫn nổi trôi
đâu đó trong trí nhớ của loài người. Cư dân Atlantide là con cái của thần biển
Poséidon và một người phụ nữ trần gian.
Những cư dân nơi đây đã đạt được sự
giàu sang thừa thãi của cải như có thể trước đấy không một dòng họ vương giả
nào có được và sau cùng cũng chẳng ai dễ có được như thế. Mỗi năm hai lần họ
thu hoạch những sản phẩm của đất: mùa đông, họ sử dụng nước trời; mùa hè, họ
dùng nước mà đất cung cấp dẫn vào các kênh mương Dẫu cho đấy là ký ức về một giấc
mộng cổ nhưng Platon vẫn không ngừng thao thức mơ ước qua những trang sách
Critias - Khi màn đêm rủ xuống và lửa các lễ hiến sinh đã nguội lạnh, tất cả mọi
người đều mặc quần áo đẹp màu lam sẫm và ngồi xuống đất, giữa những đóng tro
tàn còn lại sau lễ hiến tế thần thánh. Khi ấy, trong đêm, sau khi đã tắt hết
ánh sáng xung quanh giáo đường, họ xét xử và chịu sự xét xử, nếu có ai buộc tội
người khác về một sự vi phạm nào đó. Khi công lý đã được phục hồi, ngày hôm sau
họ khắc những bản án lên tấm biển bằng vàng.
Khi yếu tố thánh thần đã suy giảm
trong họ và chất người đã thống ngự, họ đã bị Zeus trừng phạt bằng trận đại hồng
thuỷ xảy ra cách đây 850.000 năm! Dãy Hyamalaya, Tây Tạng và sa mạc Gôbi là nơi
một số người Lêmuri và Atlan lánh nạn, sinh cơ lập nghiệp với hậu duệ của mình
là người Aryen. Xuất hiện từ trong lòng văn minh Atlantich, người Aryen đấu
tranh với người Atlan để tạo lập cuộc sống của mình nhưng rồi cũng bị thoái hoá
theo thời gian. Nhưng cõi Shambhala quyết định để người Aryen gánh vác sứ mệnh
tiên tri, dựng xây con đường phát triển văn minh nhân loại.
Đó là lý do 18.013 năm trước, trên
vùng đất Tây Tạng xuất hiện bậc tiên tri mới có tên gọi là Manu hay là Rama hoặc
Phật Bonpo. Ngài tuyển chọn những nam nữ Aryen tốt nhất để nhân giống ra loài
người hôm nay của chúng ta. Những đôi nam nữ này chính là chủng tộc Tây Tạng,
nói theo lý thuyết “đôi mắt thống kê trung bình” bằng phương pháp ứng dụng hình
học nhãn khoa của bác sỹ Muldachev, họ là tổ tiên loài người chúng ta! Từ Tây Tạng,
con người bắt đầu toả ra khắp trái đất theo 4 lộ trình di cư, trong đó có lộ
trình đi sang Thailand, Indonesia, nam Trung Quốc, Việt Nam, Australia tạo nên
chủng tộc Nam á. Khi sang Nam Ninh, trên chuyến tàu chợ hay dạo trên phố, nếu
không nghe tiếng nói khác lời ngôn ngữ, thật sự tôi khó phân biệt đâu là
Choang, đâu là Việt bởi hai dân tộc có những nét rất giống nhau.
- Anh không phải là khách lạ chốn này !
Tôi nhớ lại lời của vị tu sỹ trên hốc
tường cung điện Potala. Chẳng lẽ, tôi đã có một tiền kiếp trước từng sống ở Tây
Tạng! Ai đã mách bảo cho tôi điều ấy nếu không phải là lòng thành của một đứa
con hoang không lúc nào ngơi nghĩ về miền quê tâm linh tồn tại đâu đó trong vũ
trụ như có lần tôi đọc được câu nói của Goethe trên bức tường một lâu đài cổ ở
ngoại ô Waimar “Giữa trời và đất hẳn phải có cái gì khác nữa”. Tôi tin, không
chỉ có Goethe mà người hàng xóm nằm bên kia cánh đồng Halle, Nietzsche cũng
đang tìm kiếm trong thiên thu!
Và nếu vậy thì thật là
hạnh phúc khi được trở về Tây Tạng, không phải là chuyến du ngoạn mà là sự trở
về như đứa con hoang về với Mẹ.
Nhưng đôi mắt nam nữ tổ tiên Aryen được
lựa chọn truyền giống, đôi mắt tôi và nhiều chủng tộc anh em khác trên thế giới
không giống như đôi mắt Phật ngự trị Tây Tạng.
- Vậy nó là của ai?
Tây Tạng trả lời:
- Đôi mắt huyền bí kia chính là đôi mắt
của vị Phật Bonpo
- Vị Phật đầu tiên, đứa con trác việt của
nền văn minh Lêmuri cổ xưa!
Bởi đôi mắt ấy chỉ có ở người Lêmuri sống
nửa trên cạn nửa dưới nước. Nhờ mí trên có cấu tạo đặc biệt ở đoạn cong buông
xuống nên giác mạc đôi mắt của họ mới không bị tổn thương khi hoạt động dưới nước.
Ngoài đôi mắt, toàn thân Phật cũng giống người Lêmuri hậu kỳ vì hai chân giống
chân nhái, hai tay có màng, lồng ngực nở nang, da mịn vàng, chiều cao to lớn,
ngón tay dài có màng giống màng chân vịt. Trên trán Phật, giữa hai đỉnh lông
mày có nốt chấm, đó là biểu hiện của con mắt thứ ba, con mắt siêu cảm thức của
người Lêmuri hậu kỳ!
Vị Phật Bonpo này là cư dân của thế giới
Shambhala bởi trận đại hồng thuỷ xảy ra gần 1 triệu năm trong điều kiện trục
trái đất dịch chuyển làm cho bầu trời tuyền màu đỏ ối nhưng khi ngài đến thuyết
giảng giáo lý ở Olmo Lung Ring thì mới cách đây gần 20.000 năm lúc bầu trời đã
chuyển qua màu xanh! Do vậy Ngài chỉ có cách xuất hiện từ thế giới shambhala, sống
trong trạng thái samapatti hàng ngàn năm tuổi. Còn Đức Phật cuối cùng, người được
mệnh danh là Thích Ca Mâu Ni chính là người Atlan đến với loài người cách đây
hơn 2.500 năm!
Có phải mang trong mình mệnh hệ siêu
việt của lịch sử văn minh tâm linh nhân loại như vậy nên từ trong đôi mắt Phật
trên các đền chùa Tây Tạng đã tạo nên sức mạnh vô hình có thể điều khiển mọi hoạt
động tâm năng của người đối diện.
Nhưng Shambhala là thế giới được bảo mật
tối thượng không phải ai cũng được bước vào. Cùng với năng lượng vô hình canh
giữ, họ còn được người dân sống heo hút trong các bản làng heo hút trên cao
nguyên tuyết trắng canh giữ. Nếu không thì Trung Quốc, một dân tộc từng huy động
cả nước tiêu diệt toàn bộ chim sẻ đã chiếm giữ!
Có hay không cõi Shambhala. Có hay
không quỹ gen loài người với những con người Lêmiru và Atlan có khả năng bất tử
hàng triệu năm nay?! Tôi đã tìm câu trả lời trong một cổ thư Tây Tạng và qua những
hình ảnh sống động trong cung Potala!
Tượng Phật Maitriya- Bồ tát Di Lặc, nghệ thuật Tây Tạng, thế kỷ 18
Họ là người đang trong
trạng thái thiền định bậc cao theo giáo lý
Dzogchen-Đại Toàn Thiện truyền dạy từ
thời đại Triwer Sergyi Jyanruchan, vua xứ Zhangzhung sống cách ngày tôi có mặt
trên Tây Tạng hơn ba ngàn sáu trăm năm!
Câu chuyện giữa bác sỹ nhãn khoa người
Nga Muldachev với một vị Lama dòng Bonpo ở Nepal cho hay, nơi Đức Phật đầu tiên
xuất hiện và rao giảng giáo lý rằng cái chết thể chất của Ngài không có ý nghĩa
gì, chỉ có sự bất tử của hồn Ngài là tại Olmo Lung Ring, xứ Shambhala vùng Tây
Tạng.
Vị bác sỹ nhãn khoa người Nga này, có
lẽ vì quên hoặc không quan tâm nên đã bỏ qua một việc quan trọng, vị Phật Bonpo
đầu tiên âý chính là thầy Shenrab Miwoche và giáo lý Thầy dạy là bộ kinh thư có
tên Dzogchen - giáo pháp tinh tuý nhất của phái Nyingma do đại sư Padmasambhava
sáng lập.
Từ Olmo Lung ring miền
Tazig rồi sau đó giáo lý Dzogchen đến
Zhang Zhung miền tây
Tây Tạng. Và sau đó đến thời vua Tùng Tán
Cương Bố đã mời một hành giả đạo Bon
tên là Gyerpung Nangzher Lodpo đến dạy Dzogchen đầu tiên trên cho Tây Tạng. Đến
thế kỷ thứ 8 đại đạo sư - niềm tự hào bất tử của tâm linh Tây Tạng là
Padmasambhava diễn bày mười bảy Tantra bí mật tối thượng của Dzogchen cho công
chúa Tây Tạng dòng Kharchen và Yes Tsogyalvũ công trên không gian!
Theo truyền thống Nyingma, đại sư
Garab Dorje, người xứ Uddiyana là vị thầy con người đầu tiên của giáo pháp
Dzogchen vì trước đó nó vốn được dạy cho cư dân của những nền văn minh kỳ diệu
khác mà theo tôi là nền văn minh của người Lêmuri và Atlan chăng! Và người dạy
họ chính là vị thầy sớm nhất xuất hiện trước cả thầy Shenrab Miwoche trong số
12 vị thầy theo giáo lý Dzogchen!
Garab Dorje thụ giáo trực
tiếp từ Vajrasattava - đệ tử của Phật nguyên thuỷ Samantabhadra sau đó Garab
Dorje truyền lại cho học giả Manjushrimitra. Vị này tiếp tục truyền thụ cho
Shrihimsa và Shrihimsa trao truyền cho Jnanasutra, Vimlamitra, Padmasambhava và
nhà dịch giả Tây Tạng Vairochana. Tiến trình truyền thụ này biểu hiện dưới ba
hình thức trao truyền trực tiếp, biểu trưng và truyền miệng.
Giáo pháp Dzogchen có
ba bộ. Bộ Tâm-Semde. Bộ Hư Không-
Longde. Bộ giáo huấn bí
mật-Upadesha. Những giáo lý trong bộ thứ 3
được biết đến với cái tên Nying-thig tức là sự tinh tuý của tâm. Và
chính Padmasambhava và Vimalamitra truyền vào Tây Tạng, hình thành cổ phái
Nyingma!
Cổ thư Tây Tạng thường được viết rất
ngắn gọn, thậm chí không thể nắm bắt qua hình tượng ngôn ngữ thông thường mà phải
cần đến nhiều cấp độ suy nghiệm siêu việt của tâm linh mới giải mã được những ẩn
ngữ. Chỉ một dòng kinh, thậm chí là vài âm ngữ nhưng theo sau nó là hàng trăm
pho sách thuyết giảng, hàng ngàn cuộc tranh luận kéo dài từ thế kỷ này sang thế
kỷ khác chưa nguôi. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân tại sao trong
tôn giáo hay bất cứ triết thuyết nào cũng nảy sinh ra nhiều trường phái, nhiều
quan niệm khác nhau.
Có một bản văn Dzogchen cổ nhất mà
hàng ngàn năm qua Tây Tạng ngưỡng vọng chỉ vỏn vẹn có 6 dòng ngắn ngủi với cái
đầu đề rất đồng dao: Chim Cu Cu của tính Giác - Rigpaõi Khubyug. Chim cu cu là
chim thiêng Tây Tạng vì cu cu là vua của các loài chim, từ giọng hót của chim,
mùa nắng vàng sẽ đến như một sự thúc đẩy đất trời cỏ cây và con người sanh trưởng
cuộc sống!
Cổng lớn vào tòa bạch cung Potala
Cổng lớn ở tiền sảnh Bạch Cung trang trí gỗ mun đỏ thắm buộc vải ngũ sắc, phía trên cánh cổng khổng lồ là phù điêu 7 con sư tử trắng với dòng chữ: Cánh cổng dẫn đến sự phồn vinh
Dòng một: Dù bản tính của
sự khác biệt là bất nhị.
Dòng hai: Về tính cá thể
của bản thân những sự vật, chúng thoát khỏi bất kỳ tạo tác ý niệm nào.
Dòng ba: Dù không có tư
tưởng hay ý niệm nào về cái được gọi là trạng thái hiện thể đúng như nó là.
Dòng ba: Những hình tướng xuất hiện
khác nhau này sẽ được tạo ra chỉ là những biểu lộ của Samantabhadra - Trạng
thái bổn nguyên.
Dòng năm: Bởi vì mọi sự thì trọn vẹn trong chính nó, người ta đến chỗ từ bỏ căn bệnh nỗ lực.
Dòng sáu: Và như thế người ta tương tục tự nhiên trong trạng thái an nhiên của tham thiền.
Sáu dòng trên đây là
hành trình từ cái semde-nền tảng-cái thấy hiểu đến longde-con đường-thiền định
và cuối cùng là upadesha- quảhạnh.
Hãy bình tâm cùng tôi, bạn sẽ thấy sự ảo
diệu của của những dòng mật truyền kia. Hiểu và ứng dụng thành công những lời dạy
đó, con người sẽ được giải thoát - một thứ giải thoát đại toàn thiện vượt khỏi
mọi tạp niệm luân hồi, kể cả cõi niết bàn! Sáu dòng giáo huấn sáu câu kệ kim
cương của Chim Cu Cu Tính Giác, dịch ra Tạng ngữ là rDzogs-pa chen-po sa
grig-pa “Địa Độc Nhất của Đại toàn thiện”. Trạng thái tham thiền (rig-pa) là địa
độc nhất của Đại Toàn Thiện ( rDzogs-pa chen-po), tiêu biểu cho con đường đốn
ngộ, không qua bất kỳ một trạng thái trung gian nào. Tư tưởng khởi phát từ bên
trong và hình tướng lộ diện bên ngoài đều nằm trong năng lực sáng tạo của tính
giác. Tiếng hát của loài chim cu cu hay giáo lý Dzogchen luôn luôn đánh thức
tính giác Rigpa vốn sẵn có trong tâm thức của con người bằng các phương pháp mà
Garab Dorje để lại cho hậu thế là người thiền phải đưa trực tiếp vào bản tánh của
chính mình, quyến định dứt khoát ở trong trạng thái đơn độc và liên tục trực tiếp
tin vào giải thoát.
Đây chính là chìa khoá
vàng cho tôi mở cánh cửa bước vào thế giới
Samapatti trong cõi Shambhala, cái cõi
không ít người cho Shambhala tương đồng với Samsara. Tôi nghĩ, nếu người Lêmuri
và Atlan lập nên cõi Shambhala để tàng trữ “bộ luật luân hồi”samsara - chu
trình sinh tử của con người thì quá ư là bình thường, không đến mức phải làm
nhà bác học như Muldachev phải hao hơi tìm kiếm làm gì. Và nhất là các chính trị
gia, tiêu biểu là Hitler, trước khi khởi phát cuộc chiến thế giới thứ II,
Hitler quan hệ rất mật thiết với một vị Lama - “người đeo găng tay xanh” để có
tìm cho được thế giới siêu nhiên ấy!
Trên cơ sở giáo pháp Dzogchen, đạo sư
Padmasambhava biên soạn Phương pháp biết tâm và thấy sự thật để tự giải thoát,
theo “giáo lý sâu xa về tự giải thoát bằng thiền quán các vị thần hiền hoà và
phẫn nộ” do. Luận thư dạy rằng, chỉ cần nhìn vào nội tâm của mình để tìm chân
lý. Từ cái Tâm độc nhất này, các tâm tiểu vũ trụ được phóng chiếu ra khắp đại
vũ trụ. Vạn vật trong vũ trụ là hình ảnh của tư tưởng, ý nghĩa và do đó là sản
phẩm của Tâm.
Hình ảnh các vị thần hiền hoà và giận
dữ có nguồn gốc từ giáo lý quan trọng nhất trong bộ kinh sách Kanjur do các đạo
sư dòng Panchen Lama truyền lại: Giáo lý Kalachakra - Vòng thời gian, giới thiệu
Phật nguyên thuỷ, giống như tín ngưỡng Shiva và thần trí huệ Ganesha. Kalachkra
đề cập đến các lực lượng bí ẩn trong thiên nhiên, tạo lập vũ trụ rồi giải tán
chúng, làm cho con người sống và chết không chỉ được nhân cách hoá qua hai hình
ảnh Shakta - tinh lực nam và Shakti - tinh lực nữ mà còn thể hiện ở hai chức
năng bảo tồn và huỷ diệt. Lực lượng huỷ diệt được giới thiệu như những vị thần
giận dữ và lượng lượng bảo tồn là các vị thần hiền hoà trong Mật giáo!
Nơi sinh ra giáo lý
Kalachakra chính là xứ sở huyền bí Shambhala.
Đó là một vùng đất,
theo học giả Sarat Chandra Das, nằm bên sông
Oxus miền Trung á của vua Bậc Thượng
Thủ Tập Hội Các Điểm Đạo Đồ Huyền Bí Tây Tạng sẽ cai trị loài người khi thời
hoàng kim xuất hiện và trí tuệ thiêng liêng lên ngôi! Vậy thì, xin hỏi
Padmasambhava, phải
chăng những vị thần hiền hoà và giận dữ, những con người nắm quyền bảo tồn và
huỷ diệt mà Ngài nói, là giống người Lêmuri-Atlan đang tồn tại trong lòng Tây Tạng!
Tại hang động Pháp
Vương nằm giữa hai toà Hồng Cung và Bạch.
Cung, phía sau lưng tượng
Tùng Tán Cương Bố, Văn Thành Công Chúa, Xích Tôn Công Chúa và Lộc Đông Tán,
trên vách đá hiện ra hàng trăm hang động nhỏ, trong mỗi hang động là một thân
người đang ngồi trong trạng thái tham thiền nhập định! Chúng ta nên nhớ, bộ
Upadesha trong giáo lý Dzogchen do Padmasambhava truyền vào Tây Tạng dạy rằng,
nhờ tính giác Rigpa, con người được biết cách tham thiền nhập định để đạt đến mức
độ giải thoát cao nhất.
Hình ảnh con người thiền
định trên vách động là một bằng chứng sống động về việc thực hành giáo lý
Dzogchen.
Tây Tạng và Himalaya, những ngày lang
thang núi không có rừng, tôi có cảm giác từ trong các hạng động trên vách đá đều
có một đôi mắt nào đó dõi theo bước chân mình! Cùng với màu sắc của dây cờ phướn
và mạch nước tự nhiên hằn in lên núi, những hang động đã làm cho cao nguyên Tây
Tạng không cô quạnh. Bằng tinh thần chiến sỹ tâm linh, người sống trong hang động
sẵn sàng vượt qua giá rét khắc nghiệt để miệt mài tu tập. Thậm chí, người dân
bình thường cũng có thể làm cho ta kinh hãi trước sức chịu đựng của họ.
Hôm từ Shigatse về Lhasa, dọc con sông
Yarlung Tsangpo quyện đặc bùn đất, phải xoè tay đếm đủ năm ngón tôi mới tôi tin
vào mắt mình khi nhìn thấy, bên vũng nước xanh trong hiếm hoi, có hai thân thể
người Tạng khoả thân nằm phơi mình mặc làn gió tuyết lạnh giá. Da thịt hồng đỏ
nguồn nhiệt lượng ánh sáng mặt trời. Họ nằm dưới vực sông xa nhưng nhờ không
gian trong sáng, vành mông, tấm lưng, cánh tay của họ vẫn cuồn cuộn da thịt
ngay trước mắt. Tôi muốn nhìn cận cảnh hình ảnh tự do hồng hoang nhưng kính xe
vừa hé mở, tôi phải đóng ngay lập tức vì không chịu nổi giá lạnh và nguồn sáng
chói chang đột ngột ùa vào thân thể bọc kín len dạ của mình!
Nếu không tu luyện, chỉ với kiểu cách
tắm nắng như thế, hai người Tạng khoả thân bên dòng Yarlung Tsangpo đáng được
tôi bái phục tận gót chân đỉnh đầu! Hai thân thể ấy khác gì hình hài bản nguyên
vũ trụ hiện hữu. Trong tấm thân họ, những vì sao sẽ nảy nở, những cơn gió sẽ ào
ạt trú ngụ với bầu trời chia sẻ bao nhiêu đường bay ánh sáng và bóng tối. Sự ức
chế về kiếp người đã vỡ tan hoang khi người và trời đất cùng lớn dậy! Tôi muốn
bay xuống vực sông Yarlung Tsangpo, biến thành hạt máu chảy trong da thịt trần
nắng tuyết để cùng chuyển lưu nhịp sống nguyên thuỷ tươi đẹp mặc kệ trái đất
này còn hay mất lịch sử!
Lịch sử chỉ cho tôi nhận dạng không gian mình nhưng lịch sử không thể cho tôi nhận dạng vũ trụ! Hệ thống hang động trên vách đá sau lưng tượng Tùng Tán Cương Bố chắc chắn không phải là sản phẩm của một trí tưởng tượng đơn thuần. Nến mờ, khói hương toả, động nhỏ nhưng mỗi thân tượng đều hiện ra rất sống, ánh mắt, thế ngồi, đôi tay, cặp chân đều được chạm khắc từ hàng trăm nguyên mẫu nào đó ngoài đời. Là một đất nước có đời sống nuôi dưỡng trong những biểu tượng, thì việc di chuyển hình ảnh hang động tự nhiên vào lòng cung Potala phải có lý do hay kinh nghiệm tâm linh nằm ngoài lịch sử!
Cakrasamvara mandala |
Linh phù Mandala của Chakra Samvara
Khó khăn lắm tôi mới chen chân vào động
Pháp Vương nồng nực mùi mồ hôi, hương nến và cả mùi da khắp nơi thế giới vào
đây chiêm bái gia đình Tùng Tán Cương Bố. Mở sẵn cuốn sổ tay có hình vẽ đôi mắt
Phật, tôi hỏi vị tu sỹ ngồi canh nến trước tượng vua:
- Thưa ngài...
- Anh đọc bảng chỉ dẫn, đây là đức
vua....
- Không! Tôi đã biết họ là ai. Tôi muốn
ngài giải thích thế giới hang động trên vách đá sau lưng đức vua và hoàng hậu.
- Đó là những hang động trong đất, trên
núi !
- Trong cõi Shambhala! - Tôi tiếp lời
Người tu sỹ thong thả
nghiêng bát mỡ trâu rót vào nến. Ngọn nến phực sáng đốt cháy lời tôi. Tu sỹ im
lặng. Không nhìn tôi và nói với ngọn nến.
- Làm sao ngọn nến này được sáng mà
không cần mỡ trâu?
- Chỉ có cách lưu giữ ngọn nến trong tâm
hồn ngài để ngài lại thắp lên trong tâm hồn người khác.
- Tâm hồn có như mỡ trâu, làm sao thắp
được !
- Vật chất hoá mọi ý niệm, phi vật chất
hoá thân xác ngài và tôi sẽ...
- Samapatti! - Âm thanh vị tu sỹ bùng
sáng ngọn nến.
- Samantabhadra !
- Shambhala !
- Shambhala!? - Tôi không tin vào tai
mình.
- Một đời người chỉ có được một lần nghe
thôi !
Nghe thôi đã khó huống hồ thấy! Một lần
trong đời tôi mới chỉ thấy với gương mặt cương nghị, đôi mắt mở to không trạng
thái lừng chừng thức ngủ như mắt Phật, lông mày xanh, trên đầu đội khăn xếp có
tượng Phật nhỏ như kiếp trước của Ngài, Tùng Tán Cương Bố không phải là người
đang trong trạng thái samapatti!
Đúng hơn, ông là người bảo vệ tối cao
cho thế giới hang động huyền bí với hơn 1000 bảo tháp chứa đựng thánh tích và
di hài của các Lama nằm trong lòng cung điện Potala. Bảo tháp vĩ đại nhất trên
cung Potala là bảo tháp của vị Dalai Lama thứ 5 là to lớn nhất. Đế và thân tháp
được nạm bằng 110.000 lượng vàng
ròng, 1.500 hạt ngọc trai quí báu, xứng
danh là Trác lâm hiền gia - nơi trang nghiêm nhất thế giới. Tại sao lại là nơi
trang nghiêm nhất thế giới khi mà trên cao tầng thượng Potala còn có điện Thù
Thắng Tam Giới thờ Đức Quán Âm 11 mặt
đúc bằng bạc cực kỳ quý hiếm? Phải chăng, trong ngôi bảo tháp vàng ngọc choàng
kín áo vải này, vị Lama thứ 5 đang còn sống trong trạng thái samapatti!
Tất cả các bảo tháp và
tượng Phật ở Tây Tạng đều được choàng khăn hata và quấn vải, gợi cho tôi cảm
giác, bảo tháp là nơi nuôi dưỡng những mầm sống - biju được biểu trưng bằng
thánh tích sẵn sàng tái sinh khi có cơ duyên hơn là chôn dấu một nhục thể!
Đối diện trước bảo tháp vĩ đại trong
cung Potala hay ở tu viện Tashilhunpo, du khách bất giác phải cúi mặt vì vẻ đẹp
thâm nghiêm sống động của nó. Đối với người Tây Tạng, hàng ngàn năm nay, việc mỗi
năm, đến giờ lành ngày tốt tháng hợp, vị Lama cao cấp nhất sẽ mở cửa tháp để cắt
tóc và móng tay cho những di thể là chuyện đương nhiên không ai bàn cãi!
So với nghệ thuật ướp
xác của Ai Cập, Tây Tạng cao siêu hơn nhiều. Những xác ướp Ai cập tôi từng thấy
vẫn chỉ là xác chết bất động! Thân người bọc cứng trong lớp vàng vô cảm trong cổ
quan tài hay trên chiếc thuyền chở linh hồn qua sông. Xác chết ở Mycênes miền
Nam Hy Lạp lại càng vô cảm hơn khi trên gương mặt người chết có mặt nạ vàng phủ
kín.
Đứng trước một xác ướp Tây Tạng, tôi cảm
thấy thi thể con người đó vẫn nguyên tươi 21 nhiễm sắc thể vì vậy nếu không mở
miệng chào họ, tôi như có lỗi!
Khi một người chết, người ta dầm vào
bình đựng đầy muối để rút hết các chất lỏng ra khỏi thân xác rồi trút vào đó một
dòng thủy ngân rửa sạch lục phủ ngũ tạng và các loại thuốc đặc biệt để giữ cho
thân hình người chết ngồi tự nhiên như lúc sống. Người chết để khô trong tư thế
thiền định cho đến lúc được quấn vải sau khi được nhồi vào lòng những hương liệu
tẩm trong lụa rồi được đặt trên sàn phủ lớp bột dày trong phòng sấy có nhiều lỗ
thông hơi điều hoà nhiệt độ quanh bốn bức tường. Sau bảy ngày hiu lửa, đợi cho
nhiệt độ trong phòng hạ xuống, người ta mới đưa xác chết ra ngoài, cạo sạch lớp
vải và bột bám quanh , cuối cùng xác chết được phủ lên lớp nhuyễn vàng cuối
cùng. Tượng táng ấy không hề phân hủy, chịu đựng mọi trạng thái thời tiết và gần
như trường cữu.
Để hoàn thành một tượng
táng, phải có nhiều bộ phận nhân sự thực hiện theo từng quy trình rất chuyên
nghiệp. Họ làm với tất cả lòng sùng kính và cẩn trọng bởi đối tượng được ướp chủ
yếu là các vị Dalai Lama hay Panchen Lama. Hơn nữa, là thi thể sống thực sự,
không phải gỗ đá nên mỗi hành động phải thực hiện cực kỳ chu đáo và bí truyền.
Jokhang Square hay Bát Giác nhai - con đường chính dẫn đến Đại Chiêu. |
6 .H 06
Cung Potala và cung điện
Hoàng hậu Văn Thành Công chúa ở thế kỷ thứ 7
Trong các tu viện và
hang động ở Tây Tạng, không biết bao nhiêu tượng táng “đang sống” như vậy chứ
không phải chỉ có hai tượng như ở chùa Đậu Việt Nam!
Không gian huyền bí trong cung Potala
là một không gian sống thân thuộc của người Tạng nên họ rất tự nhiên, kẻ dọn
cơm ngay giữa sảnh đường ngồi ăn bên cổ quan tài vàng, người bế con đi châm mỡ
trâu vào bát nến đặt quanh bảo tháp. Khác với chùa Việt ít bóng dáng phụ nữ, đền
chùa Tây Tạng không vắng bàn tay phụ nữ quét dọn, châm nến. Nằm trên lưng những
người đàn bà, đôi mắt ngây thơ của con cái cũng bắt đầu nhuốm màu hương khói
tâm linh. Một tâm hồn khi nằm trong bào thai đã nghe lời kinh nguyện của Mẹ
Cha, vừa ra đời cũng sống trong không khí linh thiêng thì khi lớn lên làm sao
không trở thành những chiến sỹ tâm linh!
Nhưng câu chuyện bí mật nhất không nằm
trên hai toà hồng cung và bạch cung mà nó lại nằm sâu dưới đáy sâu cung điện
này.
Theo lời kể tận tâm của
Lama Lobsang Rampa, khi còn ở Tây Tạng, ông đã được vị Lama Trưởng lão dắt xuống
đáy cung Potala nơi có những dòng nước mênh mông như biển cả tuôn chảy ra dòng
sông Yarlung Tsangpo, để gặp gỡ ba pho tượng người, hai nam khổng lồ nằm trong
mật thất đục trong đá! Nguồn năng lượng tâm thần phóng ra từ ba bức tượng, quật
ngã Rampa vào cơn bất tỉnh ba ngày ba đêm. Trong trạng thái dữ dội hoả hầu đó,
Rampa được các vị thần dẫn dắt trở lại quá khứ xa xưa của tổ tiên loài người và
chứng kiến cuộc va đập dữ dội sao chổi vào trái đất 40 triệu năm trước, tạo nên
cơn hồng thuỷ, sinh ra Himalaya và xứ Tạng hôm nay.
40 triệu năm, Tây Tạng vẫn mặn nồng lời cảm ơn với
biển.
Nếu khi nhận tấm giấy
thông hành trong màn sương khói Chengdu, người ta bịt mắt tôi đưa lên máy bay rồi
thả xuống bất kỳ một thung lũng cát trắng nào, tôi sẽ nói rằng mình đang đứng
dưới đáy biển! Những hồ nước mặn hay vài ba bãi cát trắng phơi tràn trong mấy
thung lũng dọc theo sông Yarlung Tsangpo đã nhắc cho tôi hay Tây Tạng và dãy
núi Himalaya vốn xưa là biển cả.
Xin cảm ơn cơn giận dữ của biển, không
có cuộc chấn động va đạp giữa hai lục địa Á - Ấn vào kỷ thứ 3 Tertiary trong sự
hình thành của đá, đáy biển đã không dựng lên thành Himalaya như hôm nay. Từ
đáy đại dương sóng nước, Himalaya và Tây Tạng trở thành đáy biển ánh sáng trong
mắt tôi. Liệu cơn chấn động ấy đã sinh ra từ cú va chạm giữa sao chổi vào trái
đất hay như bào thai trở dạ, trái đất có lúc thức lên cơn giận hờn của mình cho
nhân loại biết thế nào là sức mạnh của thiên nhiên. Ngày hôm nay, tôi chan hoà
ánh sáng mặt trời nhưng gió lạnh vần rườn rượt da thịt như thể làn sóng biển
trào lên dội xuống trong khoảnh khắc khủng khiếp đất đá dựng lên 40 triệu năm trước !
Tôi không có cơ hội nào
để thám hiểm dưới sâu cung Potala. Nếu được, có lẽ tôi không mang nổi xác mình
ra khỏi động đá!
Ám ảnh ba bức tượng khổng
lồ của Lama Lobsang Rampa đã làm cho đôi chân tôi, từng bước rất nhẹ trên nền
đá ẩm ướt mùi mỡ trâu trong cung Potala.
Ba bức tượng khổng lồ
phủ nhuyễn vàng và hình ảnh những con người trong hang động Pháp Vương có phải
là người Lêmuri, Atlan và Aryen sống trong cõi Shambhala huyền diệu nhờ thực
hành giáo pháp Dzogchen để gìn giữ quỹ gen nhân loại và nền văn minh kỹ thuật
gen dưới lòng đất mà vị bác sỹ nhãn khoa Muldachev đề cập trong chuyến khảo cứu
Tây Tạng.
Có phải không, chính họ
là những người quyết định dứt khoát trong tráng thái độc nhất và liên tục trực
tiếp tin vào giải thoát trên con đường phát triển Sơ thiền, đạt được đạo lý sâu
sắc chuyển qua Đại Định - samapatti, hồn lìa khỏi xác chuyển sang trạng thái bất
động, rắn như đá và vươn đến Bát nhã, lĩnh hội được sự anh minh chân chính
trong ý thức về sự sống vũ trụ trong cái gọi là nền tảng phổ quát tối hậu của sự
hợp nhất ba thân, pháp thân, báo thân và hoá thân trong lời kinh
Dohakosa-nama-caryagiti:
Bị gió thổi và kích động
Dù nước mềm mại trở
thành cứng như đá
Bị kích động bởi những tư tưởng, những
hình tướng không hiện hữu, như nhuyễn mộng.
Trở thành rất cứng đặc
và kiên cố!
Cứng như đá trong trạng thái samapatti
ở môi trường +4 độ C, những con người siêu việt đó có khả năng phi vật chất hoá
và vật chất hoá thân thể linh hồn có thể nhẹ bay rong chơi ba cõi khi vui thì
đi khi mệt thì về trú ngụ trong thân xác bằng con đường “sợi chỉ bạc” - sợi chỉ
dẫn dắt linh hồn bằng nguồn năng lượng dạng sóng vi tế! Cõi sống của samapatti,
trong giáo huấn Dzogchen gọi là Vô sắc giới, nằm trên những cõi Phạm thiên và Sắc
giới, bao gồm 4 xứ Akashanatya - Không vô biên xứ, Vijnananatya -Thức vô biên xứ
và Naivasanjnanasaja - phi tưởng phi xứ. Nhưng thế giới Vô sắc giới kia vẫn là
cõi vô thường, không vĩnh hằng vì các Samapatti chỉ là những trạng thái bị quy
định bởi thức, nó chưa phải là tính giác Rigpa - sự giải thoát tức thời từ bổn
nguyên.
Điều này giống với sự miêu tả cuộc sống
của người Lêmuri và Atlan, một cuộc sống có thể kéo dài bằng cách trường định
theo giáo pháp Dzogchen do Đức Phật Bonp truyền dạy, nhưng không phải là sự
vĩnh cửu. Khả năng vĩnh cửu, có thể ở chỗ họ biết cách thức tái sinh thông qua
quỹ gen.
Vậy Shambhala có thể chỉ là một địa
danh, một môi trường sống của người Samapatti. Shambhala không phải là cảnh giới
giải thoát đại toàn thiện! Và bản thân người Samapatti cũng phải không ngừng nỗ
lực tu tập để vươn đến sự giải thoát từ vô thuỷ, giải thoát một cách bổn nguyên
bằng tính giác Rigpa.
Tôi nhớ lại người tu sỹ
trong động Pháp Vương. Shambhala chứ không phải là Samantabhadra! Nhưng lúc
này, khi chưa biết Shambhala ở đâu thì làm sao tôi có thể mơ đến Samantabhadra!
Shambhala đang tồn tại nơi đâu?
Cung Potala là một hang động lớn còn
thế giới Shambhala phải rộng lớn hơn nhiều. Shambhala chỉ là huyền thoại hay nó
là hiện thực như sự khẳng định của người tu sỹ! Tôi chăm chú vào ba đồ hình
Mandala Guhya Samaja, Mandala Chakra Samvara, Mandala Yamantaka do vị Dalai
Lama thứ 7 thiết kế và đồ hình Mandala của Kala Chakra làm bằng bạc được Desi
Sangye Gyatso mang đến từ Puntsockling năm 1680. Ngoài 734 bức tượng chạy vòng
quanh cùng với hằng ha sa số tượng người dân Tây Tạng vây quanh tượng Phật, tôi
chẳng thấy gì cả! Mandala vẫn là biểu tượng thâu tóm không gian và thời gian,
thể hiện và thực tại hóa sức mạnh thánh thần, hình ảnh tâm pháp. Mandala hướng
dẫn tâm linh quán tưởng giác ngộ trong những hình vòng tròn, hình vuông, hình
bông sen được bao quanh nhiều cửa tương ứng với từng giai đoạn tinh tấn của
tinh thần hướng về trung tâm Phật trong trạng thái bất phân định. Mandala nhất
định không phải là biểu tượng của Shambala!
Hơn 1000 bảo tháp im lặng chỉ có một
người trả lời tôi. Đó là vị Dalai Lama thứ 13.
Tôi không còn nhớ làm
thế nào mà tôi đến được Căn Phòng ánh Sáng Phương Đông trong tình trạng sức khỏe
bị hao mòn giữa mùi hương khói.
Căn phòng này được vị
Dalai Lama thứ 13 nâng cấp thành một phòng học tập cho con cháu dòng dõi các vị
giáo chủ, đây cũng là phòng làm việc đặc biệt của các vị chức sắc cao cấp Mật
giáo.
Chẳng đáng nói nếu trên
bức tường, phía tay trái không hiện ra một bức tranh rất lạ mắt. Bức tranh
không lấy làm dễ hiểu như bức tranh phía bên phải vẽ 5 ngọn núi Trung Hoa nổi
tiếng.
Cảnh trí huyền ảo chưa
bao giờ thấy trong bức tranh lạ mắt kia Đôi mắt tôi như mỡ trâu Yak rịn cháy
lên tường!
Bức tranh càng nhiệm
màu hơn trong ánh mắt sâu thẳm của vị Dalai Lama và Phật Varjapani.
Thời gian nhảy múa trên
từng nét vẽ, màu sắc hư thực ánh nến làm tôi quên mình là một trần gian.
Rồi trần gian trở lại,
đông đặc từng hạt chữ chỉ dẫn: Shambhala!
Tôi khản cứng đôi môi
sau mấy lần đọc mới biết là mình đang đứng trước bức tranh miêu tả nguồn gốc miền
đất Shambhala!
Các Phật tử cúng Phật
Vậy là sau cùng, tôi
cũng đã thấy thế giới Shambala hiện ra trong Cung Potala - trung tâm Phật giáo
Tây Tạng, trong căn phòng có cái tên rất ý nghĩa: Căn Phòng ánh Sáng Phương
Đông!
Ánh Sáng Phương Đông! Ánh Sáng Cuộc Sống!
Tôi nhớ lời vị Lama chùa Đại Chiêu. Hóa ra lúc ấy Ngài đã chỉ cho tôi đến nơi
này sẽ gặp Shambala!
Ánh Sáng Phương Đông ra
đời từ đây: Tây Tạng! Người Lêmuri chọn Tây Tạng, Himalaya để thiết lập thế giới
Shambhala mà không phải vùng đất nào khác trên thế giới bởi địa lý tự nhiên của
nơi này rất thích hợp cho việc tham thiền nhập định.
Khi đã vượt qua những
trạng thái thời tiết điên đảo, đứng duới một lùm mây che núi tuyết thì toàn
thân tái xám âm duới độ O nhưng thò tay ra nắng thì máu cảm sôi dương mấy chục
độ, thử hỏi làm sao thân xác không tôi luyện thành đá!
6 .H 08
Toàn cảnh
Lỡ có chết trong động
tuyết, hay không rơi xuống vực, nếu không làm mồi cho chim ưng, tôi nghĩ mình vẫn
được im lìm trạng thái cứng như đá trong môi trường cực lạnh nhưng không ẩm ướt
mà cực khô đến cháy da thịt bản xứ!
Tây Tạng có nhiều địa danh làm các nhà
địa chất khí tượng thành đứa trẻ ngu ngơ trước nhịp chuyển bất khả tri của vũ
trụ. Ví như hồ nước nóng có chu vi 7000 km Dương Bát Tịnh ở huyện Dương Hùng
phía Tây Bắc thành Lhasa. Cả một biển hồ nước khói bốc nghi ngút có nhiệt độ
trung bình 47 độ C là sự tập hợp của nhiều dòng nước sôi sùng sục, nước ấm hẩm
thịt da, nước nóng ran người, lúc phun lên ào ạt khi nằm im hiền hoà. Toàn thể
vùng nước nóng mênh mông ấy lại nằm giữa rặng núi lạnh băng tuyết Đường Cổ La.
Thành thử trên cao xanh, đàn chim bay qua hồ Dương Bát Tịnh như thể bay qua nắng
nóng sa mạc Sahara rồi lại rơi vào cảm giác Bắc Cực ngay tức thì khi hạ cánh
trên núi Đường Cổ La.
Chim chóc còn không rã cánh, nghĩa là
một người thường tầm vóc như tôi khó lòng thối rữa huống hồ những người, dù
không phải là bậc du già hành giả, nếu chú tâm tu tập e chăng cũng có thể đạt đến
cảnh giới samapatti!
Cũng từ chuyến thăm Dương Bát Tịnh,
lúc trên đường trở về Lhasa tôi đã gặp một người nông phu, có thể như vậy qua
cách trang phục, đang ngồi trong lòng một đụn lúa tsampa chụm lại hình bảo tháp
giữa cánh đồng tsampa đang vào mùa gặt.
Tôi định lùi bước tế nhị thì đôi chân
khựng đứng. Trước mắt tôi, người nông phu không ngủ! Ông đang thiền định trên
đôi chân khoanh bình thường. Xem ra đôi chân của người nông phu chẳng có hình
tướng nhất thể giữa cái chết và sự sống, ác và thiện, âm và dương như thế ngồi
hoa sen. Nhưng lưng thẳng đứng. Đầu vững vàng. Mắt nhìn xuống đống rạ. Miệng lầm
rầm niệm chú.
Người nông phu thanh thản một bụi lúa
tsampa mọc lên giữa trời chiều. Có lẽ, sắc vàng lúa chín, sắc xanh thẩm núi, sắc
trắng nhành mây, sắc đỏ ráng chiều, sắc lam không khí cùng nhau tạo nguồn cảm hứng,
lạc hỉ, uý phục, thanh tịnh như một dòng năng lượng ân sủng của tự nhiên hoà
quyện vào lời cầu nguyện giúp cho người nông phu giải thoát qua một trong 4
cách thức giải thoát, giải thoát qua chú ý thuần tuý - gcer-grol, giải thoát
ngay khi nó sanh khởi shar-grol, tự giải thoát - rang-grol, giải thoát bổn
nguyên - ye-grol! Tôi biết ơn người nông phu, nhờ niềm thanh tịnh lan toả từ
ông, tôi mới nhận ra những sắc màu diệu vợi của tự nhiên đang thấm dần vào tư
tưởng của tôi.
Cầu chúc cho người nông
phu dịu dàng, khiêm nhẫn phá tan mọi kinh nghiệm, như dòng sông liên tục hợp
lưu tịnh mẹ và con, nền tảng bao la và cá thể, chuyển thức qua những trạng thái
trung gian trước khi giải thoát ra khỏi sinh tử, giải thoát luôn ra ngoài cõi
Niết bàn để trở thành một tự nhiên sống động Rigpa!
Tôi yêu trạng thái tự
nhiên sống động trong đôi mắt Phật.
Nó tịnh màu sắc con người
hành động và con người yên tĩnh, nó nói cho ta biêt rằng đôi mắt ấy sinh ra
cùng thời với ánh sáng, xem số phận mình như số phận ánh sáng, sinh ra để nuôi
dưỡng mối quan hệ về bản thể giữa thượng giới và trần gian.
Để nuôi dưỡng mối quan
hệ siêu linh ấy, cần phải có một sự nhận biết tinh hoa của tâm trí, thấu suốt
nhu cầu của mọi chúng sinh bằng đôi mắt Chenrezig hàm chứa bao nhiêu lời cảnh
báo khốc liệt về đời sống, phương thức giải phóng con người thoát khỏi mê lầm bằng
tình yêu và cái đẹp thiện tâm đại hoàn thiện.
Chenrezig là vị Phật của lòng từ bi được
tạo nên bằng phương pháp Thiền quán đôi mắt, tập trung toàn thể nguồn lực của
chen-con mắt, của re-khoé mắt và của zig - là nhìn vào sự bi mẫn cho đến lúc
toàn thể cặp mắt trở thành một cái nhìn sâu sắc trí tuệ tràn đầy năng lực phân
tích và quan sát, hiểu biết thấm nhuần ý nghĩa tối cao của chân lý là hư không
như người Tạng nói ces -rab gyi phar rol tou Phyiu Pa!
Bức tranh hổ ở cổng tu viện Tashilhunpo
Bảo tháp ở một ngôi làng vùng hồ Dương bát tịnh
Đó chính là sức mạnh bí
ẩn trong đôi mắt Phật trên các đền chùa Tây Tạng!
Đôi mắt của Phật Bonpo
không nhìn hiện hữu mà ngược lại đó là hiện hữu thấu suốt đời sống. Trong cái
mênh mông hiện hữu ấy, tôi đã thấy một bầu trời vô nhiễm không xác chết hữu
hình và vô hình vương đọng. Đó là đôi mắt Samapatti bừng tỉnh vầng dương tính
giác Rigpa!
Những đôi mắt Thiền định
ánh sáng!
Đứng trước đôi mắt Thiền định ánh
sáng, không nên sợ hãi trốn chạy mà hãy xem nó là đối tượng để cảm nhận hết
tinh hoa như giọt nước rơi vào giọt nước!
Cho đến ngày hôm nay, đêm thức giấc bên
bờ biển Đông, tôi vẫn xanh trong suốt bầu trời Tây Tạng. Chúng tôi chẳng có gì
cách biệt, chúng tôi là một cõi quê chung bởi màu xanh ngọc trong đôi mắt khác
thường của Phật và những chiếc vỏ sò, biểu tượng liên hệ mật thiết với biển và
âm nhạc, được trang trí khắp nơi trong mỹ thuật Mật giáo Tây Tạng, thậm chí còn
được vẽ cho người chết xem hoặc được dân chúng gom nhặt trên dãy Himalaya đem
bày bán trên phố Bát Giác đã nói lên một điều: Tây Tạng quả thực 40 triệu năm
trước là đáy biển. Cư dân của vùng đất ấy không ai khác chính là Lêmuri và
Atlan! Họ đã dạy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Jesus và Mohamet, thay mặt mình hướng
dẫn tâm linh nhân loại trong suốt mấy ngàn năm qua!
6 .H 10
Nữ thần Tarâ dâng vỏ sò chứa nước thơm
Đôi mắt, chiếc vỏ sò,
những kỷ vật của biển là ngôn ngữ trong bức thông điệp của những nền văn minh
siêu việt gửi đến và nhắn nhũ với loài người rằng, hãy hướng đến cõi thiện, đừng
vượt qua uy quyền của Chúa Trời, con người sẽ được giải thoát!
Một người có thể nói dối
Một triều đại có thể nói
dối
Nhưng một nền văn minh
thì không thể nói dối Mà Tây Tạng là một nền văn minh.
Dẫu tôi biết
Không có sự minh chứng khoa học cụ thể,
con người sẽ mất lòng tin.
Nhưng không có trí tưởng tượng, con người sẽ chết!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét