Thứ Sáu, 16 tháng 4, 2021

Hoan lạc (1)

 


Hoan lạc (1)

Mạc Ngôn

Người dịch : Trần Trung Hỷ

Phần 1.

Một tác phẩm viết về những niềm hoan lạc điên cuồng vào những năm 1987, viết về con đường rời khỏi gia đình không trở lại của một thanh niên. Trong khu rừng rậm rịt, vòng vo, mơ hồ hỗn độn của từ ngữ này, bất cứ lúc nào cũng có thể nghe thấy tiếng gõ cửa số phận con người....

1.

Rời khỏi căn nhà tồi tàn, mốc thếch vẩn bụi, giống như người vừa thoát khỏi cơn mộng du, anh rảo bước trên con đường hai bên là tường của những ngôi nhà mái ngói màu đỏ đầy bụi bặm. Bước chân anh xiêu vẹo vượt qua những đống cỏ lưu cữ mùi mục nát từ năm này sang năm khác; trèo lên con đê lở lói với dòng nước xanh, đi thẳng vài trăm mét nữa, anh đã đến với cánh đồng mùa thu xanh tươi và rậm rạp. Hoa màu đang vào mùa đua nhau khoe sắc khiến anh có cảm giác mình như một con nhạn lạc bầy đang đập cánh một cách mệt mỏi trên trời cao, tâm tình đang kêu gào trong tuyệt vọng, thê lương. Anh biết, tất cả thế là đã hết, đã muộn. Màu xanh rợn ngợp của cánh đồng như những ánh chớp lóa mắt chiếu vào tâm hồn, biến tâm hồn anh trở nên hoang vắng. Hình như miệng anh đang ngoạm đầy cỏ vì anh cảm thấy cổ họng mình đầy vị cỏ dại đắng chát. Và anh, như loài bò, ngựa, lừa, dê... bắt đầu nhai cỏ, những nhúm cỏ khô khốc; tiếng nhai trệu trạo vang lên đều đặn, quai hàm liên tục hoạt động, tiếng răng nghiến ken két vào nhau, hai dòng nước dãi xanh lè từ từ trào ra ở hai bên khóe miệng. Từ dạ dày, những tiếng kêu quái dị như tiếng kêu của loài quạ đen cũng bắt đầu vang lên. Đúng lúc ấy anh quay người và nhìn khúc uốn cong của dòng sông đang được mặt trời chiều mùa thu dịu nhẹ chiếu rọi biến thành màu cam. Nước ở đây rất êm đềm phẳng lặng, trông như mặt gương được mạ một lớp đồng nhạt. Ảnh ngược của anh nằm yên trên những loài thủy tảo đang uốn éo và những con cá nhỏ màu đen dưới dòng nước. Anh không muốn gặp mọi người nữa. Anh đã từng nhiều lần tưởng tượng ra mình là một hình tượng phong lưu đầy khí thế ngồi trong giảng đường đại học : mặt như đánh phấn, môi tựa thoa son, mái tóc sắc như dao, lông mày như một nét mực, trong chiếc túi của bộ đồng phục giặt đến độ trắng toát luôn luôn giắt một chiếc bút máy Kim Tinh, một chiếc bút chì hình tam giác. Chiếc bóng dưới dòng sông vô tình làm cho hình bóng đẹp đẽ trong tâm trí anh vỡ òa. Hình như một ngày nào đó của năm ngoái thì phải, anh Cả đã giáng một bạt tai thật mạnh vào gương mặt gầy gò của anh. Anh đã nhìn thấy khuôn mặt dài như mặt lạc đà của mình, hai hàng lông mày thô thiển như hai trái đậu, rậm và đen sì, môi vểnh lên trời như môi của loài sơn dương đực đang trong lúc động tình, để lộ đôi hàm răng đen xỉn rất đặc trưng của cư dân vùng Đông Bắc. Phía trên vành môi đang vểnh lên ấy có vài sợi râu thưa thớt đen vàng hỗn tạp. Một con cóc màu đen to tướng phóng vụt qua trên đầu chiếc bóng của anh làm những con sóng gợn lên lăn tăn. Anh đang nghĩ đến lời thầy giáo sinh vật râu hùm hàm én nói : Thời Thần Nông có một loại cóc có râu rất dài, thường gọi là "quái vật có sừng". Trong lòng anh đột nhiên dâng lên một thứ cảm giác không lương thiện, vừa lạnh lẽo vừa chán chường. Anh cảm thấy không thoải mái. Mười năm trước, khi đứng bên bờ ao ngắm cảnh, có một con cóc ba chân bơi ngang qua chiếc bóng của anh dưới nước. Rất gian nan và kiên cường, con cóc bò lên mép nước rồi trốn vào trong mảng cỏ cây rậm rạp. Trông thấy cảnh ấy, không hiểu vì ghê sợ hay vì thương cảm mà nước mắt anh chảy ràn rụa trên má, nhưng cũng từ đó, hình ảnh con cóc bò một cách xiêu vẹo để lại dấu ấn vô cùng sâu đậm trong tâm trí anh. Lúc ấy anh chỉ mười bốn tuổi, bây giờ hai bốn, anh vẫn nhớ như in vẻ cô độc vẻ phẫn nộ trên mặt con cóc và những giọt nước đái vàng khè của nó dính trên lá cỏ xanh. Con sơn dương đang động tình, con quái vật có râu dài, con cóc có ba chân...

Anh chán ghét và buồn phiền quay đầu lại, bước thẳng một mạch theo hướng nam. Như một bàn cờ loang lổ, bình nguyên mênh mông của vùng Đông Bắc trải dài tít tắp đến hết tầm mắt. Anh đã rõ tất cả. Mùa hè năm ngoái, trong cơn giận dữ điên cuồng, anh đã cao giọng gào lên :

- Tôi không bao giờ ca ngợi đất đai! Ai ca tụng đất đai, kẻ ấy sẽ trở thành kẻ thù không đội trời chung với tôi. Tôi căm thù màu xanh. Ai ca tụng màu xanh, kẻ ấy chính là kẻ côn đồ giết người không lưu huyết tích!

Đúng lúc ấy, anh có cảm giác trái tim mình - giống như một con bê đang bú mẹ - thúc mạnh vào lồng ngực, những đoạn ruột non như những con rắn quấn lấy dạ dày của anh. Lúc này, cánh đồng mênh mông đang xanh ngát, những mảng màu xanh có thứ bậc không hoàn toàn trùng nhau. Màu xanh ấy cũng giống như một loại tình cảm có thứ bậc và một nhu cầu tình cảm có thứ bậc, chẳng khác nào mười mấy khuôn mặt khác nhau của một kẻ ngụy quân tử. Đôi mắt vừa tiếp xúc với màu xanh, trái tim anh như một đôi chân mang ủng đi ngựa thúc thẳng vào dạ dày, anh cảm thấy mình như một con đỉa phải vôi co tròn người lại, như một con ốc sên bị nước sôi tưới vào cuộn lại thành hình chữ "a" và giương hai chiếc sừng nhỏ xíu chống đỡ một cách tuyệt vọng hãi hùng. Đỉa còn có tên là mã hoàng, thuộc loại động vật xoang tràng thích ăn loài rận nước, bỏ chúng vào nồi đất sao khô rồi nghiền nát sẽ là một loại thuốc chuyên trị bệnh kiết lỵ. Anh cảm thấy cái màu xanh được người ta tán dương và ca tụng ấy vô cùng bẩn thỉu. Màu xanh là nơi ẩn tàng của bao nhiêu là thứ uế tạp, là chiếc thùng tàng trữ tinh dịch của trạm cung cấp giống ở trại lợn huyện. Cô gái làm ở đó có mái tóc dài chấm vai, đeo đôi găng tay bằng cao su đặc biệt đến độ có cảm giác chúng không tồn tại, cầm cái dụng cụ giao phối chứa đầy tinh dịch đi đến phía sau mông của con lợn nái non chọc vào - giống như đứa trẻ nghịch ngợm đang đùa với khẩu súng phun nước làm bằng ống tre - con lợn nái rên ư ử đầy khoái lạc, cô gái làm công việc phối giống ho lên một tiếng thật nghiêm trang. Thầy giáo sinh vật râu hùm hàm én có vẻ bị kích động, nói :

- Các em... loài tạp chủng đang chiếm ưu thế... Các em... Năm một chín năm tám, có một số thầy giáo trường chúng ta đã lấy được tinh dịch của sơn dương để phối cho thỏ nhà. Họ đã phạm phải sai lầm gì? Họ còn lấy giống lúa nước để cấy trên thân lau sậy, họ đã phạm phải sai lầm gì?

Hình như có hai tổ ong bị phá quấy đang đeo hai bên tai anh, tiếng trả lời của các bạn trong lớp đều biến thành tiếng đập cánh của những con ong ngựa. Ánh nắng mặt trời gay gắt rọi xuống cây cỏ trong trạm phối giống lợn. Trong cái màu vàng rực ấy, anh trông thấy cô chuyên gia phối giống mặc chiếc áo choàng trắng đang mím chặt đôi môi hồng hào đầy sức sống, ngúng nguẩy cặp mông đầy đặn trong chiếc áo choàng nhầy nhụa tinh dịch đi về phía một con lợn Trường Bạch. Anh không thể quên được khuôn mặt mím môi nghiến răng trông có vẻ rất giận dữ của cô ta. Anh ngửi thấy mùi tanh nồng nồng của cái chất dịch nhầy nhầy dinh dính và trơn tuột như cá chạch tỏa ra từ trong ống thụ tinh trong suốt trên tay của cô chuyên gia. Sau này, khi làm bài thi môn sinh vật, anh cũng ngửi thấy mùi tanh nóng hôi hổi từ nước bốc lên tại chỗ cong của dòng sông bị ánh mặt trời mùa thu thiêu đốt suốt một ngày, là do những con cá chạch đã vùi đầu dưới đáy dòng sông, trong bùn bẩn phát tiết ra.

Anh không muốn ngoái đầu lại nữa, cho dù cái mùi tanh tanh nồng ấm kia đang hấp dẫn anh, cho dù toàn thân anh như một cây nến mềm oặt đang ngã về phía sức nóng ở bên phải. Anh rất sợ, anh biết cái mùi cá chạch ngâm mình dưới bùn đã phá hỏng kỳ thi năm ngoái của anh. Anh đã từng nảy sinh ý nghĩ dùng nước sôi tiêu diệt toàn bộ cá chạch trong thế giới này. Không thể được, và anh vẫn biết đó là một chứng bệnh về tinh thần, không cần phải nhọc tâm vọng tưởng nữa. Cuối cùng, ý chí bạc nhược của anh không thể ngăn cản được sự mê hoặc đến từ phía bên phải. Đôi mắt anh nhìn về phía trước, trong chớp mắt tất cả các mảng mầu xanh đều biến thành những mảng bùn đặc sệt, và trong đó có muôn vàn con cá chạch đang kêu chin chít, trườn qua trườn lại, rồi trườn vào những chiếc lỗ nhỏ sâu hun hút. Anh nghiêng đầu quay về hướng tây. Dòng nước trong vắt ở khúc quanh của dòng sông phản chiếu đôi mắt trắng xám, chiếu rọi luôn cả những dục vọng thầm kín đáng xấu hổ ẩn tàng trong chiếc đầu của anh. Để trốn chạy khỏi cái hình ảnh đáng ghét của chính mình trong làn nước, một cách không cảm giác, anh vứt chiếc kính cận ra thật xa. Nó rơi vào đám cỏ hương bồ màu xanh điểm những nét úa vàng. Trong một cảm giác mơ hồ, anh trông thấy những cành lá hương bồ đang lấp lánh màu cà phê nhạt, rất ấm nhưng cũng rất cô độc. Lúc ấy, tất cả màu sắc và cảnh vật đều chất chứa vẻ thê lương và sầu muộn trong mắt anh. Năm con vịt và bốn con ngỗng trắng đang chạy ra khỏi những đám rau bên cạnh khúc quanh của dòng sông và dang rộng cánh chạy ào xuống mặt nước, phía sau chúng là một lão già trông như con yêu quái mặt xanh trong truyền thuyết, đang đuổi theo một con vịt bị thương, tay lão giơ cao một chiếc roi da trâu đánh mạnh vào nó. Mỗi ngọn roi bổ xuống, con vịt lại lăn một vòng, giãy giụa rồi đứng dậy, chiếc cổ như lò xo rướn lên thụp xuống, cái mồm rộng ngoác ra kêu lên những tiếng cạc cạc rè rè. Lão già lùi lại hai bước, chiếc roi lại được đưa lên cao như một con rồng uốn lượn rồi thẳng đuột ra, vút xuống - lần này thì ngay vào cổ con vịt. Chiếc cổ đang đu đưa đứt lìa, như thể người ta dùng một con dao thật sắc chém vào thân cây cao lương, một vài chiếc lông bé xíu bay lên. Anh nghe rõ tiếng rít rợn người của đường roi, trái tim anh như bị xẻ ra làm đôi trong tiếng rít ấy. Đứng bên kia dòng sông, cách anh một dòng nước cong mang mùi vị tanh nồng của những con cá chạch, lão già mặt xanh gào lên :

- Là vịt của mày à? Là vịt của mày, ta cũng chẳng ngán. Mày hãy chống mắt lên mà xem đây, nó ăn rau của ta, ta phải giết nó. Kẻ nào dám ăn rau của ta, ta đánh chết kẻ ấy!

Anh sợ hãi, lúng túng buông đôi tay đang che ngang đôi lông mày xuống, đứng như trời trồng bên này sông, trân trối nhìn lão già đang múa may quay cuồng như một con vượn ở phía bên kia. Toàn thân anh tê dại như một cây gỗ mục. Lão già nhặt con vịt chết lên, túm ngay vào chỗ chiếc cổ đã bị chặt đứt, huơ huơ mấy vòng rồi dùng sức ném sang. Con vịt lộn nhào trên không như chiếc máy bay bị đạn phòng không trong chiến tranh rồi rơi xuống dòng làm nước sông màu xanh lục bắn lên trông như một đóa hoa cúc đen đang nở trước mắt anh.

- Mày không phục à ? - Lão già hỏi. - Không phục thì lên thôn mà kiện. Có lý đi khắp thiên hạ, vô lý một tấc khó dời! Hảo hán gây chuyện hảo hán chịu trách nhiệm, tên ta là Vương Thiên Tứ, ngoại hiệu là ông Trời. Mày cứ đi kiện đi!

Anh cảm thấy đầu mình đau nhức, mơ mơ hồ hồ đứng yên nhìn lão. Đột nhiên anh nhìn thấy lão già tự xưng là ông Trời ấy câm bặt tiếng gào thét, tiếng chửi bới, một cánh tay đưa lên cao và một chân giơ lên, như một diễn viên múa quay một vòng rồi chúi đầu xuống đất, chẳng khác nào một con vịt đang cúi xuống ăn rau. Trên dòng sông, vịt và ngỗng đang giao phối hỗn loạn, con vịt chết thì đang nổi phập phù, đít vổng lên trời. Lão già đang bò trên đám rau phía bên kia bờ sông, lên cơn co giật. Giống như một tên sát nhân, anh kinh hoàng co giò bỏ chạy. Mùi vị nồng ấm nơi khúc sông cong dường như trở nên lạnh lẽo. Anh cảm thấy bắt đầu sợ hãi kế hoạch của chính mình. Anh chạy, chiếc bình nặng trình trịch đập vào xương hông đau nhói. Anh nhắm mắt chạy về phía trước, chạy trốn cái chết, chạy trốn nỗi sợ hãi, suýt chút nữa thì đâm sầm vào thiếc sừng cong nhọn hoắt của một con bò đi trên đường. May mà con bò rất nhân từ khẽ lắc đầu để tránh thân hình anh đổ ập vào sừng nó. Nó đang kéo một chiếc xe vừa to vừa cũ nát, trên đó chất mười mấy bó lúa chín, những bông lúa vươn ra ngoài thùng xe trông như đuôi của loài chuột hoang. Ngồi trên xe là một người đàn ông và một người đàn bà, xét về mặt tuổi tác thì là hai mẹ con, nhưng xét về mặt biểu hiện tình cảm thì là vợ chồng. Anh lại vừa thoáng ngửi thấy mùi cá chạch, nhưng nó lại lẫn lộn với mùi tanh của giống ba ba. Anh cảm thấy chán ghét, một nỗi chán ghét màu xanh lục như đang muốn trào ra khỏi cổ họng.

- Đui rồi à? - Gã đàn ông trẻ ngồi trên xe nhe răng như răng lợn chửi.

Anh hoang mang mơ hồ nhìn gã. Gã lại cất tiếng :

- Vĩnh Lạc!

Gã gọi tên cúng cơm của anh. Anh cảm thấy một nỗi sỉ nhục đầy ắp trong lòng.

- Vĩnh Lạc à, mày học quá nhiều thành ra điên tàng rồi đó. Thi đại học à? Đâu có dễ thế. Mộ của bố mày đâu có phải chôn nơi phong thủy tốt lành, thi đến bạc đầu mày cũng không đỗ nổi đâu. Mau về dời mộ cho bố đi thì may ra!

Người đàn bà cười lên khanh khách, điệu cười khiến lông tóc anh muốn dựng đứng cả lên, tiếng cười như của quỷ dữ giữa thanh thiên bạch nhật. Người đàn bà khoảng năm mươi tuổi ấy đưa ngón tay dí dí vào trán của gã đàn ông, mắng yêu :

- Con trai ơi! Nói năng chi mà vô tình thế!

Gã đàn ông cười nhăn nhở, dùng chiếc roi dài chọc vào người anh mấy cái, quát lớn :

- Tránh đường! Chó khôn không đứng giữa đường!

Như một cái máy, anh tránh sang một bên để cho con bò và những bó lúa trên chiếc xe bò vượt qua sát trước ngực mình. Gã đàn ông gục đầu vào lòng người đàn bà, bà ta đang vuốt ve gương mặt gã. Bỗng nhiên anh nhớ lại những gì vừa trông thấy, người đàn bà có hàm răng còn đen hơn cả cứt chó, mái tóc thưa thớt bóng mượt như bị chó liếm. Chiếc xe xiêu xiêu vẹo vẹo đi đã khá xa, anh chửi thầm trong bụng :

- Lão Kiến Thương! Tao ỉa vào mặt mụ mẹ vợ già của lão!

Lời chửi vừa nghĩ ra, ngay lập tức anh thấy hối hận vì nhận ra những lời lẽ rất bẩn thỉu ấy chẳng phù hợp tí nào với thân phận của anh. Mụ đàn bà có cái tên mà anh gọi là "mụ mẹ vợ già" ấy vốn là mẹ vợ của Kiến Thương; con gái đi theo người khác, mụ ta bèn thế vào vị trí của con mình. Mấy năm trước mụ ta tác oai tác quái nên có biệt hiệu là Tam Tiên Cô. Thầy giáo La trẻ người non dạ vứt giáo án xuống bàn, miệng thầy há to đến tận mang tai, dưới chiếc mũi chỉ còn lại chiếc cằm láng bóng :

- Tam Tiên Cô chỉ mới bốn lăm tuổi, vẫn cứ còn trẻ, vì sao không thể mang giày thêu hoa, mặc váy ngắn? Tại sao không thể đánh phấn son, không đeo đồ nữ trang? Trưởng khu có thể phê bình bà ta can thiệp vào tự do hôn nhân của Tiểu Cần, không nên phê bình bà ta trang điểm lòe loẹt. Người Trung Quốc rất chóng già nhưng chỉ mới bốn lăm đã gọi là già thưa? Tuổi ấy không thể yêu đương, không thể kết hôn được sao? Từ góc độ ấy mà xét, tôi cho rằng Tam Tiên Cô là người phụ nữ ít chịu ràng buộc bởi tư tưởng phong kiến nhất trong khu giải phóng...

Anh và bạn học đang chăm chú nhìn cái miệng mở ra ngậm lại trên khuôn mặt thầy giáo La. Tất cả đều không biết trong miệng thầy đang chảy ra một chất dịch của ong chúa hay là thuốc trừ sâu. Dịch ong chúa cũng được, thuốc trừ sâu cũng xong, tất cả đều được nuốt trôi vào bụng không sót giọt nào. Anh và tất cả các bạn đều cười ầm lên, cười một cách điên cuồng, có phần dâm tà và ác độc. Từng tràng cười liên tiếp, tràng nọ nối tràng kia, chấn động không khí, đến nỗi những tấm cửa kính cũng rung rinh; học sinh lớp mười, lớp mười một ở những phòng học kế bên đang trong giờ toán với một mớ công thức hư vô lúc ẩn lúc hiện và giờ lịch sử Ai Cập mù mờ như mây khói đứng bật cả dậy, ùa ra cửa sổ cửa lớn, mặt trắng bệch thất thần. Một cô giáo mặt đầy nốt ruồi dùng cây thước đẩy đẩy vào cánh cửa sổ - đầu cây thước có gắn một chiếc ốc vít kim loại sáng lấp lánh, cánh cửa kính phát ra những tiếng kêu đau đớn - tức giận nhìn cái mồm đang ngoác đến tận mang tai của thầy La rồi gắng hết sức ho lên mấy tiếng. Giọng thầy La kiên định và trang trọng như của thầy bí thư Đảng ủy, nói :

- Phải sửa sai cho Tam Tiên Cô! Các em đồng ý hay không?

Anh dùng toàn bộ sức lực gào lên : Đồng ý! Anh đã gào bằng một giọng thật trầm để phun hết những gì chất chứa trong lòng sau mười năm bị kềm nén, ngói trên mái chấn động. Anh biết, trong tổng số tám mươi học sinh ở cái lớp gọi là "lớp ôn tập" ấy, giọng nói của anh chỉ thuộc hạng vừa, thậm chí không bằng con bé có biệt danh Donia trong lớp. Từ cái miệng thật nhỏ trên cái đầu nhỏ và tất nhiên là bộ óc cũng nhỏ xíu như óc gà của nó, tại sao lại có thể phát xuất ra một âm thanh vừa cao vừa sắc nhọn như thế, đúng là một kỳ tích! Gương mặt cô giáo dạy sử như nở phềnh ra, vô số nốt ruồi sáng rực lên như những vì sao lấp lánh. Đêm nay sao sáng đầy trời, anh nghĩ đến chuyện cô giáo dạy sử vì thấy trong bữa ăn của học sinh quá ít thịt mà chửi nhau với lão Dương mặt rỗ. Cô chửi mặt lão Dương giống hệt "củ cải bị gà mổ"; lão Dương chỉ nói : "Còn cô thì quá đẹp, thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, "đêm nay sao sáng đầy trời". Cô giáo dạy sử ôm mặt bỏ chạy, còn lão Dương mặt rỗ thì gõ vào mâm và hát một đoạn ca kịch. Sau đó, nghe đâu là cô giáo dạy sử đã nhờ người đến tận Thiên Tân mua về cả một rương kem tẩy nốt ruồi, lại còn đến phòng thí nghiệm hóa học xin một lọ axit sunfuric để sẵn, trong tình huống dùng kem không có công hiệu thì sẽ dùng loại axit này chấm vào nốt ruồi để đốt cháy nó. Thầy giáo hóa học nói : "Đêm nay sao sáng đầy trời" và "củ cải bị gà mổ", cái nào đẹp hơn? Nghe đâu là cô giáo dạy sử đứng lặng hồi lâu rồi đặt lọ axit xuống, bỏ ra khỏi phòng. Lúc này, cô giáo dạy sử đang điên tiết lôi mạnh cửa sổ, gào khản cổ để dọa học sinh. Bí thư Đảng ủy - người đáng kính trong trường - cũng chạy ra khỏi phòng làm việc, chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, đứng ngơ ngác ở giữa sân trường rồi như thằng mù sờ voi đi đến bên cạnh dãy phòng học, dùng một chất giọng thật trang nghiêm, bên trong nhu hòa nhưng bên ngoài rất cứng cỏi, quát lớn : Không cho phép cao giọng làm ồn! Quát xong thì thầy bỏ đi, dáng xiêu vẹo, quýnh quáng như một con chó bị lạc nhà, như con cá bị mắc lưới. Anh nghĩ : Không cho phép cao giọng làm ồn, lẽ nào lại có chuyện thấp giọng làm ồn sao? Khi anh lật cuốn từ điển ra thì chuông hết giờ reo vang.

Lúc này anh mới cảm nhận được một cách rõ ràng âm thanh lạo xạo vang lên từ chiếc bánh xe cao su mòn vẹt nghiến xuống đường làm vỡ tan những mảnh đất bùn khô cong từ dạo hè. Chen lẫn trong tiếng vỡ lạo xạo của những mảng bùn là tiếng kêu rin rít của bánh xe cao su bơm hơi quá căng. Loại âm thanh này có tính co giãn, giống như âm thanh bật lên từ dây đàn. Những bông lúa mập mạp, nặng trịch thòng xuống khỏi thùng xe đùa cợt với những chiếc nan hoa trên bánh xe. Không biết những chiếc nan hoa này có ngứa hay không nhưng anh thì cảm thấy lông trên toàn thân thể mình dựng lên, ngứa ngáy vô cùng. Chiếc xe bò xiêu xiêu vẹo vẹo, giống như một đám mây màu vàng ấm, như một giấc mơ nồng, như một bát đậu tương lên men đặc quánh... đang dần dần rời xa anh, xa lắm. Trên con đường đất chứng nhân cho khoảng cách giữa anh và chiếc xe bò, một làn mây mù năm màu từ từ xông lên. Như người hết nhiên đại ngộ, anh nghe thấy một tiếng ca xa xăm, thê lương. Lúc ấy, anh vẫn chưa sinh ra đời, khắp nơi đều là gai góc và hoa tươi, bụi rậm và đầm lầy, khủng long và hổ phách. Ánh mặt trời chiếu gay gắt đến độ trái đất đổ mồ hôi đầm đìa. Trong những khu rừng nguyên sinh rậm rạp, mùi nhựa tùng thơm ngát không gian. Một con ruồi đẹp rực rỡ đang dùng những chiếc chân vô cùng lanh lẹ nhúng nhựa tùng bôi lên đôi cánh của mình; một con nhện tám chân đang dùng một vạn lần nhẫn nại để chế ngự một nghìn lần lo lắng, từ từ di chuyển đến chỗ con ruồi... Rừng rậm nguyên thủy vẫn cứ ngào ngạt mùi nhựa tùng... Anh trăn trở bất an, toàn thân nhầy nhụa... Trong cái chớp mắt ấy, một giọt nhựa nặng đã rơi xuống, cố định kẻ làm nhục và kẻ bị làm nhục ở một vị trí đồng đẳng và thê lương như nhau. Nước biển dâng lên chậm chạp, thương hải tang điền, một đứa bé chân trần đang đi trên bờ biển, cảm thấy gót chân mình đạp phải một vật cộm. Nó cúi người nhặt lên một giọt nước mắt từ thời xa xưa đưa cho bố xem. Bố nó dùng vạt áo lau cát bụi bám trên giọt nước mắt, đưa lên cao hướng về mặt trời - mặt trời xưa cũ, nói : Con trai, đây là hổ phách. Hãy giữ gìn cẩn thận đem về đưa cho mẹ bán lấy tiền mua thuốc Khi anh học đến bài "hổ phách", có lẽ tuổi của anh cũng bằng thằng bé chân trần kia. Chẳng bao lâu sau, một cô gái có khuôn mặt to bè như chiếc quạt nhặt được một viên kim cương, được thưởng ba nghìn đồng, đồng thời được gọi vào xưởng để làm công nhân. Ngày đêm anh mơ tưởng mình sẽ nhặt được một viên kim cương, mỗi lần cuốc đất trồng đậu, lưỡi cuốc va vào vật gì cứng cứng kêu lên khô khốc là tim anh đập rộn lên, ôm ấp một hy vọng tràn trề, anh cúi xuống và nhặt lên những viên đá hình trứng vịt màu hồng phấn.

Chiếc xe bò chở lúa, chở Kiến Thương có hàm răng đen như cứt chó và "mụ vợ già" có hàm răng còn đen siêu cứt chó đang ngả nghiêng, quay ngoắt sang con đường đi vào làng. Cội nguồn của sự ấm áp biến mất, những sắc màu rực rỡ của cầu vồng và mùi nhựa tùng hình như chưa bao giờ xuất hiện. Trải dài trước mắt anh lúc này là con đường đất thẳng tắp trắng nhờ phía đông con đường là những mảng màu xanh bẩn thỉu, phía tây con đường là khúc sông cong tanh tưởi đang lạnh lẽo thấu nhập vào tâm can anh. Phía bắc của khúc cong, dưới tán của hai cây huệ quỳ, một chiếc vó đang được giăng ra, một ông già mập mạp trắng trẻo đang cất vó. Khi chiếc vó được kéo lên mặt nước, các mắt lưới đều giăng kín một màng hồng mạc. Màng hồng mạc tí tách vỡ, nước xanh hội tụ ở đỉnh mút của lưới và như một chuỗi ngọc trai tí tách rơi xuống. Cá lớn cá bé giãy giụa tuyệt vọng trong vó. Ông già mập mạp đưa một tay nắm lấy mép lưới, một tay cầm chiếc gáo được nối dài bởi một đoạn tre thẳng đập đập lên lưới, tất cả cá đều tự động chui vào trong gáo, những chiếc vảy bạc lấp lóa. Anh tính toán một cách đại khái rằng, một trăm mười tiếng đồng hồ trước, anh không nói không rằng ngồi giữa hai tán lá của hai cây huệ quỳ ông già mập trắng ở bên phải, anh chăm chú nhìn ông ta cần mẫn cất vó.

- Năm nay thế nào, hoàng đế Vĩnh Lạc? Thi đã năm lần, lần nào cũng rơi tự do. Đừng nóng vội, cứ thi nữa đi. Sách "Tam tự kinh" ghi, Lương Hạo tám mươi tuổi còn thi đỗ trạng nguyên. Cậu bao nhiêu tuổi?

Anh lạnh lùng nhìn gương mặt trắng trẻo của nguyên phó bí thư Đảng ủy công xã đã nghỉ hưu mà nghĩ đến những chiếc bánh bao hấp chưa kịp chín ở nhà ăn trong trường. Trong "Nho lâm ngoại sử", Phạm Tiến thi đỗ thì hét toáng lên : Đỗ rồi! Đồ rồi! Tôi đỗ rồi! Và lão ta vất con gà đang ôm trong bụng chuẩn bị đi bán, cứ thế chạy trên dường, đầu va chân quẹt, lao cả xuống bùn nhơ... Hôm nay có bài khảo sát, thầy giáo Chương gầy chắc như một con chó sói khom chiếc lưng gù, cổ lệch sang một bên, vai bên phải như cái bướu lạc đà cao ngất, vừa giảng vừa đi đi lại lại trên chiếc bục xếp bằng gạch bóc dưới mộ lên. Đôi mắt thầy cứ nhìn xuống bục giảng dưới chân mình, hình như thầy đánh rơi mấy đồng xu và chúng đã chui tọt xuống dưới các kẽ hở. Dưới giếng Trân Phi có hàng vạn đồng tiền kẽm... Ôi! Người đàn bà này... - Tề Văn Đống!... Trong ánh sáng mờ mờ của những đồng bạc kẽm dưới nước, anh nghe thấy thầy giáo dạy ngữ văn dùng thanh âm của loài diều hâu gọi tên mình. Một cách vô thức, anh đứng dậy, trước mắt là những đồng kẽm một xu, hai xu, năm xu... đang chuyển động. Tác giả của "Nho lâm ngoại sử" là ai? Thầy giáo ngữ văn giống như Từ Hy thái hậu dang truy hỏi. Bỗng nhiên nước mắt anh chảy dài, lắp bắp : Trân Phi... Thầy giáo ngữ văn như một con gà trống đang rụt cổ rụt chân đi trên tuyết trong những ngày đông tháng chạp thình lình bị nước đọng lâu ngày trên mái đổ ào xuống người. Điệu bộ con gà trống lúc ấy thế nào thì điệu bộ của thầy giáo ngữ văn lúc này giống hệt như thế. Cái bướu lạc đà trên vai thầy vểnh lên lắc lư như đầu con gà trống, bụng dính liền với đầu, hai cánh hình như đã bị trọng thương. Trước mắt anh, những đồng xu kẽm đã biến mất, những tia nắng xuyên qua kẽ lá của cây bạch dương, xuyên qua khung kính cửa sổ cũ nát và chiếu lên bàn học của anh thành những đồng xu hình tròn. Tất cả học sinh đồng loạt cười lên một cách thô thiển và ngớ ngẩn, không khí lớp học đặc sánh, đen ngòm và chết chóc. Những con dơi chao cánh làm cho bụi đọng lâu ngày trên xà gỗ lả tả rơi xuống trên cổ của Mã Bạch Tĩnh đang ngồi trước mặt anh. Trên cổ con bé có một cái bớt đen, lớn hơn hạt đậu, lâu nay anh cứ cho rằng đó là vua của loài chấy rận. Bên ngoài cửa sổ, lá cây bỗng nhiên lao xao, những chiếc bóng nắng ngả nghiêng hoan lạc. Học sinh lớp trên đang học thể dục ở sân vận động; ngoài đồng nông dân đang quát tháo trâu bò : Y liệt! Rẽ sang phải; Y la! Rẽ sang trái! Tiếng roi vun vút vang đến tận tai anh. Anh đang thể nghiệm một cảm giác mà từ xưa đến nay chưa hề biết đến : Vì bị áp bức và sợ hãi quá độ mà sản sinh một loại khoái cảm tội lỗi rất mạnh mẽ. Thầy giáo nói : Ngồi xuống đi! Tề Văn Đống tiên sinh! Trước khi ngồi xuống, anh lắp bắp chuộc tội : Ngô Kính Tử... là Ngô Kính Tử...

Ông già to béo nguyên là phó bí thư đảng ủy công xã đứng dậy, những tảng thịt trên thân thể ông ta như chùng xuống, phần nhiều đều đùn lại phía trên chiếc thắt lưng bằng da trâu được đệm lót bằng ba mươi hai sợi bông Thanh Đảo, nung núc rung rinh. Ông ta nắm chắc sợi dây thừng to tướng, dùng sức kéo lưới. Chiếc lưới nổi lên mặt nước, trống không, chẳng có con cá nào, trên mép lưới chỉ dính vài cọng rong rêu. Ông ta làu bàu trong miệng rồi thả lưới chìm xuống nước. Trên đầu một nhánh cây huệ quỳ, một con ong ngựa có chiếc bụng màu hồng phấn đang bò cô độc. Ông già lấy một điếu thuốc ra kẹp giữa hai ngón tay thô như những chiếc lạp xưởng, dùng một chiếc bật lửa ga đốt thuốc. Một đốm lửa xanh nhờ nhờ trên đầu chiếc bật lửa. Ông ta nói :

- Đây là chiếc bật lửa của con nuôi ta mua tặng đấy. Cậu có biết con nuôi ta không? Tên nó là Kim Tinh.

Anh nhớ ra gã thiếu niên đắc chí cùng học một lớp tên Kim Tinh. Cậu ta đã tốt nghiệp đại học, còn anh thì vẫn đang nghiến ngấu những kiến thức của bậc phổ thông. Bố nuôi Kim Tinh ho ra một bãi đờm vương màu khói thuốc lá và phun mạnh xuống dòng sông. Một con cá phóng vút lên đớp lấy.

- Con nuôi ta đã được phân công vào Quốc vụ viện làm thư ký. Quốc vụ viện! Cậu nghe qua bao giờ chưa? Nó đeo huy hiệu của Quốc vụ viện to bằng miệng chén uống trà! Bây giờ không có chức vụ nào ta muốn xin cho ai đó mà không được. Bố vợ của nó lại là một cán bộ cao cấp trong quân đội, có một cái nhà xây theo kiểu Tây to đùng, toàn bộ được thiết kế bằng kính màu, nghe đâu phải hết gần hai nghìn mét vuông kính.

Trong lời tụng ca của ông ta về đứa con nuôi, anh cảm thấy một nỗi nhục nhã xen lẫn giận dữ không thể gọi tên dâng lên trong lòng. Người trong thôn truyền nhau rằng, mẹ của Kim Tinh già nhân ngãi non vợ chồng với phó bí thư. Ông ta lại tiếp tục kéo vó, vẫn trống không, chỉ có nước trong chảy xuống ròng ròng, ngay một chiếc vảy cá cũng không có, mấy cọng rong rêu vẫn nằm nguyên vị trí cũ, xanh đến nhức mắt. Nét mặt cựu phó bí thư có vẻ giận dữ, ông ta văng tục :

- Mẹ kiếp! Bồ tát đánh rắm! Cá đi đâu hết rồi kìa?

Qua ánh mắt liếc nhìn một cách hằn học của ông ta, anh biết là mình nên rời khỏi chỗ này. Anh cảm thấy ở nông thôn những năm trước mà có những tay cường hào ác bá mới tự tay kéo vó để kiếm cá như thế này là một hồng phúc của người nông dân, cho dù ông ta ngày ngày kéo lưới kiếm tiền nhưng cứ đến tháng là nhà nước phải trả cho ông ta hàng trăm đồng tiền lương. Anh đau đớn vì sự bất công của cuộc đời. Trong quá khứ anh đã từng nghĩ như vậy nên quyết tâm vào đại học. Nghĩ đến đại học, anh chợt rùng mình. Vừa lúc ấy, bí thư chi bộ thôn đi đến. Mắt ông ta đỏ quạch vì rượu, đầu lưỡi thì đã cứng lại :

- Lão lợn trắng! Được bao nhiêu cá?

- Ngay cả một cái vảy cũng không có! - Phó bí thư mập nói.

- Trong làng đang họp bàn về sinh đẻ có kế hoạch, đang chờ cá của ông bỏ vào nồi đấy!

- Lão Vu mồm to có đến không? Cá của ta đây đem cho mèo ăn còn hơn cho lão. Đồ trứng thối mà bắt con gái nhà khuê các nuôi làm sao được!

- Lão lợn trắng! Xương ông không cứng mà sao miệng lại cứng thế! Ông cũng đã từng làm phó bí thư công xã rồi cơ mà. Vứt bộ lông đi thì phượng hoàng cũng như gà mái, hổ lạc xuống đồng bằng thì bị chó khinh khi!

- Khi lão đây đang làm phó bí thư công xã, tay họ Vu này ngày nào cũng rót nước pha trà cho lão, còn ông chỉ là một thằng nhóc tạp chủng vẫn còn ăn cứt gà!

- Tôi đã gia nhập Đảng từ năm bảy tư đấy nhé! - Bí thư thôn nói.

- Ai mà chẳng biết mẹ ông cởi quần để đổi lấy tấm thẻ Đảng cho ông? - Phó bí thư mập nói. - Khi lão đây gia nhập Đảng, lão đã đem đầu mình giắt trên thắt lưng, vào sinh ra tử. Tấm thẻ Đảng của lão là đem tính mạng ra mà đổi, còn thẻ Đảng của ông là do mẹ ông cởi dây lưng quần mà đổi lấy!

Vừa nói, ông ta vừa kéo chiếc vó lên. Trong lưới có một con cóc đen đang trừng đôi mắt lấp lánh nhìn mọi người. Chiếc dây thừng được thả ra vội vàng, tấm lưới chìm xuống dòng nước.

- Xúi quẩy! Xúi quẩy! Xúi quẩy! Nói xong, ông ta nhổ một bãi nước bọt.

Khúc sông ở chỗ hai cây hòe này thường rất nhiều cá, và lúc ấy cá cũng đang bơi lội dày đặc, lấp loáng dưới nước, phía trên chiếc lưới. Nhưng vó của phó bí thư lại chẳưng cất được con nào, có lẽ sự xúi quẩy của ông ta đúng là do anh mang đến. Ông ta phải cắm đầu xuống nước mà chết cho rồi! Nhưng ngay lập tức, sự tức giận của anh lắng dịu vì những hồi ức về của Kiến Thương và "mụ vợ già" của lão ta cầm chiếc roi ngựa cùng với những bó lúa choán lấy tâm trí. Anh quay người đi thẳng về phía nam, nhưng chỉ đi được ba bước là anh lại chìm vào cơn mộng du.

Lúc này thì bóng đêm đã bắt đầu bao phủ, sương đêm màu tím nhạt mờ mịt như vươn tay là có thể sờ thấy. Qua khe hở thưa thớt của những cây đay, anh nhìn thấy vầng thái dương méo mó thoi thóp chút hơi tàn đổ ụp xuống một đám mây xanh có hình đỉnh núi. Bởi ngồi trên nấm mồ cô đơn của một cô gái - nấm mồ hình bầu vú căng mọng - anh mới có thể trông thấy vầng thái dương méo mó, nhàu nát. Tiếng côn trùng mùa thu đang ca những khúc ca buồn thảm trong ánh hoàng hôn với đủ loại tạp âm. Có moi hết ruột gan khô khốc của anh ra, anh cũng không thể nào mô phỏng được tiếng ca của chúng để ghi thành những từ tượng thanh. Đầu óc anh đang choáng, một trạng thái choáng rất nhẹ nhàng, trong đó có pha lẫn cảm giác hạnh phúc. Rừng đay thẳng tắp và diễm lệ bao quanh phần mộ, cũng có nghĩa là bao quanh anh. Trên những cành cây màu vàng sẫm thanh khiết là tầng tầng lớp lớp những tán lá màu xanh hình chân vịt đâm thẳng lên trời, những bông hoa mỏng màu trắng sữa năm cánh với nhụy hoa màu đỏ phân bố đều đặn trên tất cả các cành nhỏ, mỗi cành khoảng bốn năm đóa. Khi gió thổi qua, thân cây xao động, vô số cánh hoa rời cành, chấp chới trong không gian. Chung quanh anh, bướm phấn bay chập chờn, dịu dàng và lạnh như hoa tuyết. Bướm phấn vây lấy anh, cũng là vây lấy ngôi mộ mọc đầy cỏ vàng hoa lam. Anh nhớ một cách rõ ràng hình dáng của cô ấy người nằm yên dưới phần mộ này : đôi mắt màu xam xám vừa to vừa buồn bã, ngay trên đỉnh đầu có một nhúm tóc trắng như tuyết có lẽ phải đến bốn năm mươi sợi. Ngoài nhúm tóc trắng trên, còn lại tất cả đều đen, đen đến độ bóng mượt. Thanh niên trong làng đặt cho cô cái tên rất dài : Con bò cái đầu hoa. Khi anh đang nghĩ về cô, đích xác là anh đang cảm nhận được rằng, cô đúng là một con bò cái bé nhỏ thiện lương. Trong đôi mắt màu xám của cô luôn phát ra một tia nhìn sao mà đáng thương. Kỳ nghỉ hè năm ngoái, trong một buổi chiều tà buồn, anh từ ruộng bông quay về - anh đi cắt những cành bệnh cho cây bông, tay xách chiếc kéo cắt cành to tướng hiệu Ngũ Liên Sơn đã mất hẳn sức đàn hồi, gỉ sắt loang lổ. Ngay tại khúc sông cong này, anh đã gặp cô. Cô xách nước từ dưới sông lên đổ vào bình phun thuốc. Cô đang phun thuốc cho bông. Anh nhớ rất rõ nụ cười buồn trên mặt cô, cô hỏi :

- Anh sinh viên ơi! Đang làm gì vậy?

Mặt anh đỏ rần lên, nói :

- Chị chớ trêu chọc tôi. Tôi vẫn chưa đỗ. Nghỉ hè, tôi tranh thủ về giúp đỡ gia đình. Tôi nhất định sẽ thi đỗ.

- Xin lỗi! - Cô ấy nói. - Tôi không biết, cứ nghĩ là bạn đã đỗ năm nay rồi.

Rồi cô cúi đầu, thân hình nhấp nhô lên xuống để bơm khí vào bình thuốc. Anh nghe tiếng nước réo ừng ục ở trong bình.

Sáng sớm hôm sau, anh nghe thấy chị dâu kinh hoàng thất sắc nói :

- Thúy man uống thuốc độc tự tử rồi!

Lúc ấy anh đang đứng dưới tán cây ngô đồng khô quắt, tay cầm cuốn giáo trình tiếng Anh, mắt nhắm nghiền, miệng nhai đi nhai lại mấy từ đơn tiếng Anh. Đúng là bọn Thổ Phiên đang đánh rắm ra toàn mùi nho! Đây là lời nhiếc móc của chị dâu dành cho anh từ phía bên kia bờ tường. Anh rất muốn làm một động tác này : Thả tay, nửa thật nửa giả để cuốn giáo trình tiếng Anh trượt từ trên đùi xuống ống chân rồi rơi xuống đất. Nhưng anh không làm thế, bởi ngoài chuyện tim anh ngừng đập trong giây lát, anh chẳng còn nỗi thống khổ nào nữa cả. Tinh thần anh rất tỉnh táo nên mới nhận ra bà chị dâu có thân hình mập mạp và đồ sộ như một con tinh tinh cái kia, nửa như hoảng sợ, nửa như rất phấn khởi, vui mừng trước tai họa của người khác thể hiện rất rõ trên khuôn mặt trét phấn chỗ xanh chỗ xám. Gương mặt chị dâu lúc này chẳng khác gì một đĩa rau muối chua quá rục, bốc mùi thối nực mũi. Anh căm ghét cái khuôn mặt to bè như cái mông đít có hai con mắt đục ngầu nằm sát bên sống mũi lúc nào cũng dầy ghèn xanh ở hai khóe, căm ghét cái mồm có đôi vành môi mỏng dính như hai sống dao che không hết hàm răng nhỏ như răng chuột của chị dâu.

- Đáng tiếc quá, oan ức quá! Một cô gái thanh tân trinh bạch! - Bà chị dâu nhìn anh nói, đầy ẩn ý sâu xa.

Chị dâu đang chăm chú nhìn anh bằng con mắt đục ngầu, hình như muốn bắt chuyện. Anh biết, chị dâu chưa bao giờ quên những nỗi thù hận khắc cốt ghi tâm đối với anh, mà chỉ muốn tìm ở anh một nơi để nôn hết những sự đồng tình ô uế và sự thương cảm dòi bọ chất chứa trong lòng.

Mẹ đi từ trong nhà ra, mái tóc bạc phất phơ. Khuôn mặt mẹ đen như đít nồi, trong miệng chỉ còn một chiếc răng cô độc, những luồng không khí nhè nhẹ tuôn ra từ miệng bà khi nói.

- Ai? Ai đã uống thuốc?

Mẹ bị nặng tai nên mỗi lần mở miệng là nói rất to. Mẹ hy vọng rằng để cho người ta nói to với mình, trước tiên mình phải nói thật to với người ta, trao đổi ngang giá, có đi có lại mới toại lòng nhau.

- Tiểu Thúy! - Chị dâu nói.

- Ai? - Mẹ bước lên một bước, dùng sức ngẩng mặt lên, như hoa quỳ hướng về phía mặt trời, nhìn chị dâu.

Tay mẹ đang cầm chiếc que cời lửa đen thui, một làn khói lượn lờ trên đầu que, trông nó rất giống một bó đuốc đã tắt lại cũng giống với bó đuốc đang cháy. Lần đầu tiên anh thấy bà chị dâu biểu hiện tâm tình một cách khá nhã nhặn, lần đầu tiên không hề chửi mẹ là "đồ điếc già" mà cao giọng nói :

- Tiểu Thúy! Con gái nhà Ngư Sinh Tài uống thuốc chết rồi! Con bé quả là hồ đồ, chết nhẹ nhàng sao bằng sống mòn mỏi kia chứ!

Mẹ kêu "Ôi!" một tiếng, thân hình lảo đảo quay vòng như một con quay, chiếc que cời lửa quơ tròn trên không trung - Một đứa con gái tốt! - Mẹ nói như gào - Con bé sao mà cạn nghĩ thế! Trưa hôm qua vẫn còn gánh giúp cho tao một gánh nước, tao hái cho nó một quả dưa chuột, nó nói không ăn, cười rồi bỏ đi.

Đôi mắt của bà chị dâu quắc lên, gào to phẫn nộ :

- A! Dưa chuột! Bà hái dưa chuột ở đâu?

Ngay lập tức thân hình của mẹ ngừng quay, người mẹ như thu nhỏ lại, hai tay giơ lên cao như sẵn sàng đầu hàng, lại vừa như chuẩn bị chiến đấu. Chị đâu chạy vào vườn của mình - ở đấy có trồng ba giàn dưa chuột - rồi chạy như bay trở lại tiếng chửi sao mà cao và thanh, từ ngữ sao mà phong phú điêu luyện :

- Đồ lông trắng, đồ ăn trộm, đồ điếc kia! Thảo nào ngày nào tôi cũng thấy hoa vàng nở đầy trên giàn mà không bao giờ trông thấy quả. Té ra là có quân trộm đạo. Bà ăn dưa chuột của tôi, bụng bà sẽ mọc đầy nhọt độc. Nhọt độc sẽ giết chết cái loại tạp chủng như bà!

Mẹ hạ giọng van nài :

- Mẹ con Na Ni à, đừng chửi nữa, hàng xóm láng giềng nghe được, người ta cười cho!

- Ái chà chà! Sạch sẽ gớm nhỉ? Bà mà còn sợ người ta cười sao? Hảo hán làm sai hảo hán chịu, đã ăn trộm dưa chuột thì đừng sợ người ta cười!

- Tao không ăn, tao hái cho Tiểu Thúy ăn. - Mẹ nói. - Con người ta giúp tao gánh nước, trong lòng tao áy náy quá nên hái của mày một quả dưa. Tao già rồi, gánh nước không nổi, mà mày với bố con Na Ni chẳng bao giờ gánh giúp tao đôi nước nào đâu?

- Tôi bỏ tiền bỏ gạo ra nuôi lão tổ tông, tiểu tổ tông nhà bà chưa đủ sao? Thi bốn năm rồi, hoang phí không biết bao nhiêu là tiền của! - Chị dâu nhìn anh bằng cặp mắt thù hận. - Ngay cả một chiếc lông thừa của trường đại học cũng không lượm nổi! Thằng con của đứa cháu nhà mẹ tôi, chỉ cần thi một lần đã đỗ vào trường kỹ thuật gốm sứ, chuyên học kỹ thuật làm ấm trà, tách trà. Hy vọng gì ở việc thỏ sinh ra lạc đà? Một năm không thể thành trâu cày, e rằng đến già cũng chỉ là một con bê thôi...

Cuốn giáo trình tiếng Anh tuột từ đùi xuống bắp chân anh rồi rơi xuống đất rất nhẹ nhàng. Cây ngô đồng được mẹ chờ mong sẽ là một tài sản của gia đình ngày nào cũng bị mẹ dùng nước tiểu tưới cho đến độ sống dở chết dở, những chiếc lá héo úa tuyệt vọng rụng xuống gốc cây. Thân hình anh lảo đảo, nhất thiết phải dựa vào một cái gì đó, không phải do lý trí yêu cầu mà là thân xác ham muốn. Anh tựa lưng vào gốc cây ngô đồng. Vỏ cây xù xì nhọn sắc cứa vào da thịt anh. Trong chớp mắt, tất cả ý thức của anh như một chùm ánh sáng tối tăm mờ mịt, dính chặt ở nơi giao tiếp giữa da thịt và vỏ cây. Ở nơi ấy có một thứ âm thanh suồng sã dâm loạn vang lên. Anh cắn chặt môi, đầu lắc thật mạnh. Trông anh lúc này giống hệt một con chó nhảy xuống nước lắc đầu thật mạnh để cho những bùn nhơ dính trên đầu văng di. Chính xác là anh cũng lắc đầu thật mạnh để những âm thanh nhớp nhúa đang kêu ong ong trong tai bắn ra ngoài. Giống như nước mũi xanh, chúng văng tứ tung và dính trên bức tường đất màu vàng mọc đầy rêu xanh rồi từ từ nhểu xuống đặc sệt trên nền đất đen ướt át bởi sương lạnh. Ruồi chưa kịp bay đến nhưng anh đã nghe thấy tiếng đập cánh vù vù của chúng. Lại một loạt lá ngô đồng héo úa nhẹ nhàng uyển chuyển rơi xuống. Lá vàng rơi xuống, ý thức xam xám bay lên. Vài tia nắng sớm rực rỡ chiếu trên cành lá ngô đồng khô khốc khiến chúng như được giát vàng nhũ bạc, chẳng khác nào kim chi ngọc diệp trong cung cấm ngày xưa. Mũi anh vừa ngứa vừa cay cay, anh muốn khóc. Lại có những lá ngô đồng khô vàng hơn như những lông vũ màu vàng, nghiêng nghiêng chao lượn và nhẹ nhàng rơi xuống không một tiếng động như muốn ôn tồn an ủi anh. Anh chờ đợi chúng sẽ đáp xuống chiếc trán bần cùng lạc hậu của mình. Quả là trời cao linh hiển! Một chùm lá đáp xuống và che lấp trán anh, che trùm luôn cả đôi mắt chẳng khác gì loài động vật thời tiền sử của anh. Trước mắt anh là một mảng màu tối sầm. Anh nghe thấy tiếng chảy của máu trong huyết quản mình, những cảm nghĩ hắc ám rơi xuống, niềm hoan lạc bay lên cao. Anh lại nghe tiếng rơi rất nhẹ của những chiếc lá ngô đồng... Đồ ăn trộm vặt! Tiếng chửi của bà chị dâu. Tiểu Thúy! Ngư Thúy Thúy! Mặt trời sáng tinh mơ chiếu những tia sáng diễm lệ như lông vũ của loài chim phỉ thúy nhuộm bừng cả không gian. Mẹ vẫn cầm que cời lửa, gục đầu khom lưng đi vào căn nhà đen ngòm như một hang động, bà chị dâu vẫn không thôi những lời chửi mắng, còn anh thì âm thầm khóc, xiêu vẹo quay người một vòng, gục chiếc đầu hoang sơ cằn cỗi vào lớp vỏ xù xì sắc nhọn của cây ngô đồng. Mẹ lại từ trong hang chui ra, tay cầm nửa quả dưa chuột tong teo, tay kia vẫn cầm chiếc que cời lửa.

- Vẫn còn nửa quả, mẹ con Na Ni à, trả cho mày đây! - Mẹ nói.

Chị dâu giật phắt nửa quả dưa, nước mắt lưng tròng :

- Vẫn còn dầy lông tơ, đang lớn mà đã bị bà hái mất rồi!

- Nửa quả kia tao không ăn, là tao cho Na Ni ăn. Tao không còn răng nữa, có muốn ăn cũng đành chịu. - Mẹ nói.

Chị dâu tàn nhẫn phun một bãi nước bọt xuống đất rồi lại dùng đôi chân mang giày nhựa xéo qua xéo lại, cầm lấy nửa quả dưa, lầm bầm chửi câu gì đó nữa rồi bỏ đi.

- Vĩnh Lạc! - Mẹ đi đến bên anh, dùng chiếc que cời lửa chọc chọc vào lưng anh, nói. - Đừng buồn nữa. Hãy giữ vững chí khí. Năm nay không đỗ, sang năm thi nữa. Có công mài sắt có ngày nên kim! Chị dâu có chửi mẹ vài câu thì mặc nó, ưa chửi thì chửi, mẹ điếc, mẹ có nghe đâu. Nó có sức thì nó cứ chửi, chẳng dám đánh mẹ đâu. Đừng giận anh con, nó sợ vợ. Nông dân nghèo cưới được vợ là chuyện không hề dễ dàng, có đàn bà trong nhà rất quan trọng, ai không sợ là không ra hồn ra xác gì đâu. Sợ vợ thì được cưỡi la! Tiều Thúy quá hồ đồ sao lại nghĩ không tới thế nhỉ? Có con người thì có thế giới, không có con sông nào mà con người không vượt qua, chỉ có thể không được hưởng phúc đến tận cùng thôi, chứ không có nỗi khổ nào mà chịu không nổi. Chân con nhanh, cầm hai hào này mua ít giấy chạy đến nhà con bé một tí, chẳng uổng một thời gần gũi quen biết.

Sau đó, đúng là anh đã vượt qua dòng nước cạn ngắt quãng từng khúc, bò lên bờ đê dầy gai góc và bụi rậm, chạy đến cửa hàng cung tiêu mua một xấp giấy. Đây là loại giấy mà phụ nữ nông thôn khi đẻ con thường dùng, là loại giấy mà những hạng người trung cao cấp dùng để chùi đít nhưng cũng có thể biến thành vàng mã để đốt cho người chết. Loại giấy này có hai màu đỏ và trắng. Anh vốn muốn mua một xấp màu trắng nhưng cô nhân viên bán hàng cương quyết không chịu bán giấy trắng cho anh. Không thể không mua giấy màu, anh đành phải lấy giấy màu đỏ. Trong khi đi mua giấy và đến nhà Thúy Thúy, đầu anh cứ vẩn vơ câu nói thờ ơ của mẹ : Cầm hai hào này mua ít giấy chạy đến nhà con bé một tí, chẳng uổng một thời gần gũi quen biết... Anh nghĩ, có lẽ nào mình và cô ấy đã có một thời gần gũi" sao? Với cô ấy, Ngư Thúy Thúy, trên đầu có một nhúm tóc bạc, Ngư Thúy Thúy, cô gái lớn hơn mình bảy tuổi, gần gũi được sao? Có lẽ nào chỉ vài câu chào hỏi thì được xem là "gần gũi" sao? Khi bước chân vào cổng nhà cô lòng anh vẫn hoang mang bất ổn, cảm giác như đang mang giấy vàng mã tới nhà người chết để tạ tội. Mẹ Ngư Thúy Thúy chết sớm, bố cô đang ngồi trên một đống ngói vỡ trong một góc sân, khuôn mặt chẳng có biểu hiện gì là của người đang sống, cúc áo tuột cả để hở khoảng ngực và chiếc bụng đen như than hầm, trên bụng có một vết sẹo đỏ hồng hình con rết. Hai người anh gầy đen như hai cây khô, một người đứng hút thuốc lá phì phèo, người kia ngồi cũng phì phèo thuốc lá. Anh đi vào sân, để bước chân khỏi luống cuống ngập ngừng, anh cố ý ôm xấp giấy thật cao trước ngực, miệng chào ông, chào hai chú. Anh nói :

- Mẹ bảo cháu đến viếng cô Thúy...

Lúc này nước mắt của người bố mới chảy xuống thành hai dòng song song. Một ông già khô quắt như vậy mà nước mắt lại nhiều đến như thế sao? Cảm nhận này khiến anh vô cùng kinh ngạc :

- Thúy ơi! Thúy ơi! Thà là con giết bố đi còn hơn...

Tiếng khóc của người già khiến quỷ thần cũng phải rùng mình ớn lạnh. Nước mắt ông lão chảy dài thành hàng, thành chuỗi rơi thánh thót xuống vết thương trên bụng. Người anh đang ngồi ném mạnh tàn thuốc xuống đất, gầm lên:

- Đồ ngu ngốc! Đồ trứng thối! Đồ tạp chủng!

Người anh đang đứng lại ngồi bệt xuống, vòng hai tay ôm lấy cái đầu bạc phơ, không thốt lên lời nào. Anh đặt xấp giấy lên bệ cửa sổ; xuyên qua những chấn song cửa sổ rộng hoác, anh nhìn thấy xác Tiểu Thúy đang trương phềnh lên, gương mặt xanh tím chẳng khác nào một lá thuốc bị sương phủ lâu ngày, nhúm tóc trắng trên đỉnh đầu lấp lóa như nhũ bạc. Đột nhiên những vọng niệm trong lòng anh hóa thành tro bụi, sống va chết té ra chỉ cách nhau có một lớp giấy mỏng dán cửa; phấn đấu và thành công, không phấn đấu và không thành công suy cho cùng cũng đều có kết cục giống như nhau, ngoái đầu nhìn lại cũng chỉ là một xác chết khô thẳng đuột. Cho dù anh là con người thông minh trác việt hay ngu như bò, trước cái chết sẽ khiến cho ai ai cũng bình tâm tĩnh khí trở lại. Nhưng anh vẫn cảm thấy một nỗi sợ hãi tê buốt. Hổ chết giống như dê chết, nhưng người chết thì lại như hổ.

Anh rời khỏi ngôi nhà cũ nát của Thúy Thúy, chạy như bay trên đường. Một bầy trẻ con trần như nhộng đang chơi trò "đánh thuốc nổ". Chúng dùng lá cây gai túm đất buộc lại, gọi nó là "bao thuốc nổ". "Bao thuốc nổ" được đặt trên đầu một đứa bé trai, một đứa khác dùng que nhọn chọc mạnh cho lá rách toác, đất cát chảy dài xuống mặt mũi thằng bé. Thằng bé lắc lắc đầu chẳng quan tâm nhớp bẩn, đuổi theo bọn nhỏ còn lại. Anh đi vòng sang mép đường để tránh cuộc chiến tranh khốc liệt trên đường. Thằng bé tuy đã "bị thương" nhưng vẫn anh dũng chiến đấu, quát tháo luôn mồm, anh không đoán được nó mấy tuổi nhưng xem ra nó tràn trề nhựa sống. Giữa tháng Chạp giá rét thế này mà bọn chúng đều trần truồng, vì ngại tắm trong mùa đông nên da đứa nào cũng đóng vảy cá dày cộp, lấy đá cuội mà cọ e rằng sẽ phát ra âm thanh ken két. Anh biết thằng bé này rồi sẽ leo rất cao, ngoại trừ việc lên mặt trăng, còn bất kể chỗ nào nó cũng sẽ vươn tới. Nó là kẻ đầu têu của dám trẻ con này, đứa nào cũng có vẻ sợ nó ra mặt. Anh đã từng tận mắt chứng kiến bố thằng bé thể hiện sự giận dữ một cách bất lực như thế nào đối với nó trước mặt rất nhiều trẻ con. Sau khi bị bố đánh đòn, thằng bé vơ một nắm đất nhét vội vào mồm và nuốt, cứ thế nuốt đến mười mấy nắm đất, mắt trợn tráo chỉ thấy màu trắng xanh. Bố nó nói : Cậu tổ tông! Mày làm gì thì làm, tao không quản nổi mày nữa dâu.

Trong cái mùa hè dài dằng dặc ấy, anh hoàn toàn rơi vào trạng thái đau khổ vì bàng hoàng và do dự. Anh đang đi giữa hai thái cực của cuộc sống : Ngư Thúy Thúy u ám thê lương và thằng bé ăn đất sáng rực nóng hổi trên con đường quanh co khúc khuỷu đầy cạm bẫy. Mùa hè ấy mưa nhiều nhưng cũng rất nóng, mưa làm khắp nơi dậy bùn. Từ những đám mây dày thi thoảng mặt trời mới hé ra, và như để lấy lại vốn liếng, mặt trời ra sức tỏa nhiệt lượng, đất đai giống như hũ tương lên men chua loét; tiếng kêu trầm đục của loài cóc và tiếng kêu trong trẻo của loài ếch ngày đêm vang lên tạo thành một bản giao hưởng triền miên. Anh ngủ trên chiếc giường nóng như lò lửa, cảm thấy sống trong ao đầm, sự ẩm thấp khiến xương cốt anh trở nên han rỉ. Bông, đay, cao lương lớn lên trong sự điên cuồng. Các loài thực vật sinh trưởng trong kiểu khí hậu bất bình thường thế này hầu như đều mắc phải chứng điên, triệu chứng biểu hiện rất dễ thấy : lớn lên, lớn lên, không quan tâm đến bất cứ điều gì, chỉ có lớn lên! Cây bông đã cao hơn đầu người lại muốn tiếp tục cao lên nữa, cành non mơn mởn như rau cần, lại vừa giống một cây bạch lạp; bất kỳ nụ hoa nào đều nghĩ là mình sẽ trở thành một trái bông to tướng! Đay bắt đầu nở hoa vào năm ấy. Hoa đay biểu thị sự thoái hóa cùng cực của sự tạp chủng. Trước thời gian ấy, người ta vẫn nhất mực cho rằng, đay không bao giờ nở hoa. Hoa đay rực rỡ nở khắp cánh đồng giống như một điềm báo bất thường, giống như tảng đá nặng đè lên những người nông dân nhu nhược và ngu muội. Lại còn cao lương nữa. Anh không thể quên được chuyện trên thân cây cao lương lại sinh đầy những sợi râu màu đỏ sậm, rất mềm, nghe đâu là có thể xào ăn nhưng chẳng ai dám thử. Ngày ấy tình cảm của anh dành cho màu xanh vẫn còn đậm đà lắm, sau này anh mới phát hiện màu xanh là bẩn thỉu, nhớp nhúa và vô sỉ. Sự phản cảm của anh dối với màu xanh không chỉ thuần là nguyên nhân tâm lý mà còn có cả nguyên nhân sinh lý; vả lại, anh cũng biết rằng, không ai có thể làm cho anh thay đổi sự căm ghét đến đau khổ của anh đối với màu xanh.

Bên ngoài khung cửa sổ, tiếng mưa đã yếu dần. Buổi trưa ẩm ướt, mẹ ngồi bó gối ngủ gật như một con gà mái già trên đống rơm lúa mạch trong góc tường. Từ trong mồm bà, những luồng hơi lạnh khò khè tuôn ra, tiết tấu rất đều đặn. Rất nhiều bọ chó mập ú như những hạt vừng đen rang chín kết thành đàn bò khắp người bà. Trên tường ruồi nhặng bám đầy bức tường loang loang lổ lổ trông như được khảm những mảnh men sứ màu đen. Anh ngáp dài, trong đầu bỗng lóe lên một ý nghĩ rất nhanh : Cần phải làm một cái gì đó? Đúng! Một âm cảnh mơ hồ thôi thúc anh. Ánh mắt anh cuối cùng cũng dừng lại ở chiếc cặp sách căng phồng. Chính trong cái buổi trưa không ngủ kéo dài cho đến buổi chiều ấy, anh đã viết được một đoạn nhật ký có lẽ là xuất sắc nhất trong cuộc đời mình, nhưng lúc ấy anh đâu có biết là mình đang làm gì. Sau đó nhiều năm, có người phát hiện ra nhật ký của anh. Sự phát hiện này kể ra cũng chẳng khác gì so với việc thằng bé lượm được miếng hổ phách trên bãi cát trắng.

Ngày 12 tháng 8 năm 1984

Thứ...?

Mưa!

Tôi phiền muộn. Tôi uất ức. Tôi đau khổ. Tôi đố kỵ. Toàn thân tôi ngứa ngáy, trên cánh tay, trên da bụng tôi đầy những chấm đỏ li ti vì bị bọ chó cắn .

Anh gãi sồn sột lên cánh tay và bụng, đùi và mông. Một con bọ chó đang bò lổm ngổm trên mu bàn tay anh. Khi anh thè lưỡi ra định liếm, nó lại búng vọt lên và rơi xuống cuốn sổ được anh cất giữ từ lâu lắm rồi với những tờ giấy trắng tinh quý giá đang mở ra. Anh đưa ngón tay lên miệng thấm nước bọt muốn đè nó xuống tờ giấy, nhưng lần nữa nó lại búng lên thật cao. Rõ ràng tư duy của anh chậm một bước so với động tác của con bọ chó.

Con bọ chó như một viên đạn bắn qua bắn lại trong bóng tối nhờ nhờ, trong góc tường là những đôi mắt lấp lánh như ma trơi của chuột. Bọn chuột này đã gặm nhấm toàn bộ những vật dụng trong nhà, tất nhiên là trừ đồ gốm và đồ thiếc. Một con chuột to tướng bò ngang qua bụng mẹ, mẹ vẫn cứ ngủ rất ngon, hình như con chuột chẳng có tác động gì đến bà. Tôi hoang mang cảm nhận rằng, mẹ đã biến thành một xác ướp không còn sinh mệnh, không còn cảm giác, không còn chút nước nào trong người nữa.

Bên ngoài, mưa vẫn rất dày, những cây hướng dương trong sân lúc thì ngã đằng đông lúc nghiêng đằng tây, tiếng ếch nhái ngoài đồng như sóng biển lúc nhặt lúc khoan, lúc ồn ào lúc lặng yên. Trong tiếng ếch nhái và tiếng mưa hợp thành những làn sóng ấy, tôi buồn ngủ. Trong không khí ẩm ướt ấy, mùi vị tanh tao hỗn tạp giữa cóc nhái và mùi bùn xông thẳng vào trong nhà. Đầu óc tôi nóng bừng nhưng thân thể tôi run rẩy, thân thể của bọ chét thì nóng hổi nhưng đầu óc thì lạnh lùng. Thân thể nóng hổi của chúng giãn nở rất to trong cái thời tiết nóng lạnh bất thường này. Vừng đen - Đậu vàng - Hạt táo. Khi giãn nở bằng hạt táo thì chúng bắt đầu định hình, nhảy nhót lại còn kêu lên chí chóe, tiếng kêu sao mà nhọn sắc, khô khốc chẳng khác nào tiếng sáo liễu và sáo lau trong miệng trẻ con vào những ngày dương xuân tháng Ba. Tôi cảm thấy mình sắp điên, bởi những con bọ chó quá lạnh lùng. Chúng đang nhảy nhót, đang kêu réo. Chúng nhảy qua người mẹ một cách nhẹ nhàng thoải mái. Có lúc con chuột đứng yên trên bụng mẹ, chiếc đuôi quẫy nhè nhẹ một cách thư thả, rất nhiều bọ chó từ trong đuôi nó văng ra. Những con bọ chó bị văng ra ấy hình như rất lưu luyến với chiếc đuôi chuột nên cố sống cố chết bám trở lại, hình như bọn bọ chó này đang hành động theo một câu cách ngôn của loài người : Bị ngã ở nơi nào thì hãy đứng dậy từ nơi ấy! Với bọn bọ chó, bộ lông của con chuột chẳng khác nào một cánh rừng rậm, còn chúng là những con chim trú ngụ trong cánh rừng ấy. Như những viên đạn, bọ chó bắn qua bắn lại, rơi xuống thân thể con chuột, rơi xuống dưới con chuột, rơi xuống trước con chuột, rơi xuống sau con chuột, rơi xuống bên phải con chuột, rơi xuống bên trái con chuột. Bọ chó bò lúc nhúc trên làn da bụng xám xịt của mẹ, bò lổn nhổn nơi cái rốn rất nhiều ghét bẩn của mẹ, bò chen chúc trên khuôn ngực như hai quả bóng đã xẹp hơi của mẹ, bò len lỏi trên những chiếc xương sườn hình cánh cung của mẹ, bò rậm rịt trên chiếc cổ gầy nhẳng của mẹ, bò trên miệng, trên mũi, trên trán... chỗ nào trên người mẹ cũng có bọ chó. Không phải tôi muốn làm ô uế sự thần thánh của danh từ "mẹ" , nhưng tất cả là do bọn bọ chó đang bò khắp người của mẹ, không những bò bên ngoài mà còn bò tận bên trong, không chỉ trên những đám lông nơi chỗ kín, thậm chí chúng còn chui vào âm đạo của mẹ nữa. Đó là nơi mà tôi dùng đầu chui qua sớm nhất, là con đường bằng phẳng nhất, trơn tru nhất; là sự đau đớn nhất, nhưng cũng hoan lạc nhất; là con đường dài nhất nhưng cũng ngắn nhất. Không phải tôi khinh nhờn mẹ! Không phải tôi muốn làm ô uế mẹ! Không phải tôi sỉ nhục mẹ! Là chúng mày! Lũ bọ chó chúng mày đang làm nhục mẹ và cũng làm nhục luôn cả tao! Tao căm thù chúng mày!

Viết đến đây, toàn thân anh run rẩy chẳng khác nào những chiếc lá khô trong cơn gió lạnh. Tim anh đập loạn xạ, đầu chiếc bút ngoáy liên tục, trên tờ giấy xuất hiện những nét bút kỳ dị cục giống với quỹ tích vận động tâm linh của anh. Sau cơn run rẩy, anh cảm thấy toàn thân mỏi mệt, bụng đói cồn, trong miệng như có mùi sắt gỉ. Anh cầm lấy cây bút.

Tôi nghe thấy những tiếng gào réo của dòng nước sông Mặc Thủy đang dâng cao chẳng khác nào tiếng gầm của sư tử. Tôi ngửi thấy mùi vị của rắn nước và chim yến, còn thấy cả của những loài động vật ngoài đồng : thỏ đồng, chuột đồng, chồn... đang lo lắng.

Viết đến đây, anh bị một tiếng động trầm đục làm cho giật mình. Anh cầm chặt cây bút, trầm tư trong giây lát và cảm thấy tâm hồn mình đã trở lại trạng thái tình cảm ban đầu. Anh cúi người xuống thấp, lập tức anh nghĩ đến chuyện khi người ta thả thiếc quan tài Ngư Thúy Thúy đúc bằng xi măng xuống huyệt, đất bốn phía huyệt mộ đổ sụp xuống phát ra những âm thanh trầm đục giống hệt âm thanh vừa rồi.

Ngày đưa linh cữu Ngư Thúy Thúy đi, anh bị điều động khiêng quan tài, lúc này anh mới sực nhớ mình là một thanh niên đã hai mươi hai tuổi. Quan tài của Ngư Thúy Thúy bằng xi măng, nghe đâu rằng đó là chiếc quan tài dành cho người già, người già đây chính là bố cô. Theo ý kiến của anh Cả Ngư và anh Hai Ngư, đứa con gái phá gia này đã làm gia đình tốn kém quá nhiều, chẳng cần phải cho vào quan tài, chỉ cần cuốn tấm thiếu rách trên giường xuống bó xác lại và đào hố lấp quách là xong. Chắc chắn là người bố rất kiên quyết nên xác cô mới được cho vào chiếc quan tài xi măng này.

Khi tôi bị lão Hai Ngư kéo vào sân, tôi đã ngửi thấy mùi thối xông lên nồng nặc. Thảo nào người ta bắt tôi phải khiêng quan tài, bởi ai cũng sợ vướng phải tà khí nên chẳng ai chịu đến. Từ trong thâm tâm, tôi cũng đã nghĩ là mình phải khiêng quan tài của cô ấy. Không phải là mẹ tôi đã nói rồi sao : giữa tôi và cô ấy đã có "một thời gần gũi" ! Có lẽ tôi cũng đã có "một thời gần gũi" với cô ấy thì phải, nếu không thì cứ cho là như vậy đi.

Năm ấy tôi mười bốn tuổi, vừa tốt nghiệp sơ trung. Đó là một ngày hè. Ngay lập tức, tôi quay về với thời kỳ niên thiếu, biến thành một thằng bé vừa đen vừa gầy. Năm ấy Ngư Thúy Thúy hai mốt tuổi. Cô mặc một chiếc áo ngoài bằng loại vải mỏng, giá một hào ba một mét, vừa chật vừa ngắn. Chất lượng vải rất kém, mỏng tang, có in một vài bông hoa màu đỏ. Đội trưởng phân công tôi làm trợ thủ cho cô để giúp người trong thôn uống "tì hàn dược" , một loại thuốc phòng ngừa bệnh sốt rét. Tôi cầm ấm trà và tách trà, cô cầm hai bình thuốc : một bình chứa những viên thuốc nhỏ màu đỏ, một bình chứa những viên thuốc nhỏ màu trắng. Lúc ấy tôi nghĩ cô rất cao, sau này cô dần dần thấp xuống. Người trong thôn sợ loại thuốc này còn hơn sợ hổ, từ chối không uống. Đội trưởng nói với chúng tôi : Nhất định ai cũng phải uống, không cho phép hai đứa vất thuốc. Nhiệm vụ của chúng tôi sao mà khó khăn và bận rộn, nhất là khi mọi người tập hợp chung quanh đội trưởng và chiếc kẻng để nghe phân công lao động trong ngày, kế đến là tập trung ghi công điểm mỗi buổi tối. Một buổi sáng, chúng tôi đến nhà một bà già để cho bà ta uống thuốc. Bà già đang gặm bánh ngô bằng hàm răng rụng đã gần hết. Bà ta ngồi trên một chiếc ghế gỗ dưới bóng cây, trên mặt đất trải một tấm da chó màu đen, trên tấm da chó ấy là một đứa bé trai gầy gò vàng vọt, bên phải tấm da chó là một cái đĩa mầu lam, bên trong có mấy viên kẹo màu hồng. Bác gái ơi, uống thuốc phòng chống sốt rét đi! Ngư Thúy Thúy nói. Bà già sợ đến nỗi mặt mày xám ngoét, xua tay liên tục, nói một thôi : Tiểu Thúy à, bác gái không bệnh không tật gì cả, uống thuốc phòng sốt rét làm gì. Cả đời bác chưa hề biết qua sốt rét là như thế nào đâu! Tiểu Thúy nói : Chưa hề sốt rét mới uống thuốc phòng chống rốt rét, đã bị rồi thì không cần uống nữa. Bà già lại nói : Bác bị rồi, bị sốt rét rồi, mỗi năm phát một lần! Xem ra bà già này có chết cũng chẳng uống rồi. Tôi nhìn Ngư Thúy Thúy, Ngư Thúy Thúy nhìn bà già cố chấp. Bà ta lại móm mém nói : Tiểu Thúy này, không biết cháu lớn lúc nào mà nhanh thế, mới đó mà đã trở thành cô gái xinh đẹp thế này rồi cơ à. Có mấy ngày trước đây chứ mấy, cháu vẫn là đứa con gái thò lò hai dòng mũi xanh như hai sợi miến cơ mà. Ngư Thúy Thúy có vẻ ngượng ngùng đứng dậy, nói: Bác gái à, có ai hỏi thì bác cứ nói là đã uống thuốc rồi nhé! Bà già nói : Yên tâm đi. Ngư Thúy Thúy nói : Vĩnh Lạc, chúng ta đi thôi! Bà già chửi con gà : Đồ đĩ! Chạy biến đi đâu thế, không về nhà mà đẻ trứng hả?

Tôi và Ngư Thúy Thúy rẽ ngoặt vào một ngõ nhỏ. Con ngõ này được gọi là "ngõ tuyệt hộ" , sau khi có mấy nhà họ Ngũ bỗng dưng chết sạch, không ai dám tới con ngõ này làm nhà nữa. Trên những nền nhà trơ trọi người ta trồng cây gai. Lá gai to bằng lá sen, có thể dùng để che nắng. Ngư Thúy Thúy nói : Vào trong ấy nghỉ tí đã. Tôi rảo bước theo sau cô đi vào trong đám gai, trông thấy một khoảng trống được dọn dẹp sạch sẽ được phủ một lớp lá gai dày cộp. Ngư Thúy Thúy ngồi xuống đó, còn tôi thì cầm ấm trà và tách trà đứng bên cạnh. Cô ấy nói : Bỏ tất cả xuống đất, ngồi xuống đi! Những đóa hoa gai màu vàng bắt đầu nở bên ngoài đám gai, ve kêu râm ran trên những cây quỳ. Nóng ghê gớm! Ngư Thúy Thúy nói : Cậu không nóng à ? Tôi lắc đầu. Cô ấy bảo : Ngồi xuống đi! Tôi ngồi đối điện với Ngư Thúy Thúy, cô ấy hỏi : Tôi có đẹp thật không? Tôi ngước đầu nhìn gương mặt đỏ ửng và đôi mắt xam xám trước mặt, đột nhiên một cảm giác thật lạnh chạy trong thân thể tôi, răng tôi đánh lập cập, nói : Đẹp... cô Thúy rất... đẹp... Cô ấy hỏi : Cậu làm sao thế? Bị phát sốt rét rồi à? Tự nhiên tôi mạnh bạo hẳn lên : Vú... vú của cô... Mặt cô ấy đỏ như gấc, vòng hai cánh tay che lấy bộ ngực, nhưng vừa rồi tôi đã liếc nhìn thấy qua kẽ hở giữa hai chiếc cúc áo trước ngực cô ấy nửa bầu vú trắng nõn. Ngư Thúy Thúy nói : Thế mà tôi vẫn cứ nghĩ cậu là một thằng bé con chưa biết gì cả, kiểu này chẳng dám nằm ngủ chung với cậu nữa rồi. Tôi xấu hổ cúi đầu, nhưng bầu vú ấy, màu trắng, phập phồng... hấp dẫn một cách tội ác khiến tôi muốn nhìn nó, muốn sờ nắn nó. Rất muốn. Tôi nói : Cô Thúy, cô Thúy cho tôi xem... cho tôi xem một tí đi... Cô ấy nói : Ai là cô của nhà cậu... Thế thì... tôi cho cậu xem vậy... Đừng nói cho ai biết, không được nói với bất kỳ ai nghe không!... Cô ấy mở cúc áo để lộ đôi bầu vú như hai chiếc bánh bao. Tôi nhìn một thoáng, một cảm giác tội lỗi đột nhiên xuất hiện, một đám mây hắc ám khó lòng trốn tránh bao phủ lấy tôi. Tôi phóng ra khỏi chòm cây gai. Kể từ đó trở về sau, mỗi khi nhìn thấy bóng cô ấy là tôi luôn cảm thấy ngượng ngập, trong bụng như có bọc một con cóc, chẳng dễ chịu tí nào...

Ráng chiều đã dần tắt. Hoa đay treo trên cành như những con bướm màu đang nghỉ ngơi. Trời đất yên bình, trang nghiêm một cách thần thánh. Lúc này anh đang nghĩ về chuyện kỳ ngộ ở đám cây gai mười năm trước. Cảm giác tội lỗi đã biến mất, anh cảm thấy một nỗi luyến tiếc rối rắm như mạng nhện, một nỗi buồn ấm áp ngọt ngào. Hai năm trước, tâm tình của anh khi đang trốn trong nhà viết nhật ký với lúc này hoàn toàn khác nhau. Ngày ấy, cứ mỗi lần nghĩ đến cặp vú của Ngư Thúy Thúy là anh liền nhớ đến cái chết của cô, anh đau khổ, anh tiếc nuối, anh áy náy chẳng khác nào anh là một trợ thủ trong việc Ngư Thúy Thúy tự hại mình. Bây giờ, hình ảnh hai bầu vú mà anh chỉ vừa liếc thoáng qua ấy đang ẩn ẩn hiện hiện một cách ấm áp ở đâu đó. Anh muốn nắm bắt lấy chúng như nắm bắt niềm hy vọng cuối cùng trong cuộc sống thế gian này. Nhưng anh không thể nắm bắt được chúng, chúng trơn lắm, trơn như một quả cầu pha lê được bôi thêm một lớp mỡ. Anh đang ngồi trước phần mộ của chủ nhân chúng, cũng là ngồi trên thân thể của cô ấy. Sức mạnh nào đã dẫn anh đến đây? Anh hoảng hốt nhớ ra rằng, buổi chiều nay anh chạy một cách vô mục đích ra ngoài đồng, anh chỉ muốn được yên lặng một lát, cũng e rằng sau khi uống thuốc độc, những chất uế tạp trong bụng sẽ nôn ra làm bẩn nhà của mẹ. Nhưng khi anh ngồi xuống, trong một chớp mắt của trạng thái yên tĩnh, anh phát hiện ra là mình đang đứng trước phần mộ của Ngư Thúy Thúy hai năm trước đã uống thuốc độc tự tử.

Cô ấy uống thuốc độc hiệu 1059 mà chết!

Trong túi quần anh lúc này cũng có chai thuốc kịch độc hiệu 1059.

Từ đó anh mới hiểu ra rằng, tất cả đều do sự sắp đặt của số mệnh. Mười năm trước, cô ấy cởi cúc áo để lộ bảo bối của mình cho anh xem đã quyết định những gì của ngày hôm nay. Anh đã gia nhập vào liên minh của cô ấy - anh nghĩ khi suy nghĩ rất nhiều, anh so sánh rất lâu, thừa nhận rằng Ngư Thúy Thúy là người duy nhất, chân chính nhất đã đem cho anh một chút ấm áp. Anh nghĩ mình nên để lại một bức di thư yêu cầu những người còn sống hãy đem thi hài mình chôn cùng huyệt mộ của Ngư Thúy Thúy. Liệu Ngư Thúy Thúy có đồng ý không? Nếu cô đã có người yêu rồi thì sao? Nhất định là cô đã có người yêu. Khoảng trống được trải lá gai ấy chính là chiếc ổ hoan lạc của cô và người tình. Đối với anh, chuyện cô mở cúc áo cho anh xem vú là một chuyện kinh thiên động địa, anh lăn lộn mười năm rồi mà nó vẫn cứ như mới, thế còn cô ấy thì sao? Có lẽ cô đã quên phắt chuyện này từ rất lâu rồi. Anh buông một tiếng thở dài định đứng dậy, nhưng anh đứng dậy không được nữa. Những dây tử đằng bò trên phần mộ của Ngư Thúy Thúy rất nhanh chóng quấn lấy đôi chân anh, tia sáng cuối cùng ảm đạm một màu máu đang chiếu xuống rừng đay, hoa đay màu vàng biến thành những cánh bướm màu máu. Anh lấy chai thuốc độc hiệu 1059 trong túi quần ra, nó rất nặng khiến tay anh phải xụi xuống. Khi mở nắp chai thuốc. anh vô cùng bình tĩnh, tay anh cũng rất mạnh mẽ và chuẩn xác, chẳng có một chút run rẩy. Một mùi trái cây thối rữa từ trong bình tỏa ra, nước mắt lập tức tràn đầy hốc mắt anh.

Nhờ vào chút ánh sáng cuối cùng của ráng chiều, anh nhìn thấy hơi hoa quả thối rữa màu vàng nhạt đang bốc ra khỏi miệng chai và bay lên cao, cách đầu anh khoảng hai tấc ngưng tụ lại thành một chiếc ô hoa nho nhỏ. Những con muỗi to tướng đến từ châu Âu rơi xuống đất chết tươi. Độc tính của loại thuốc này ghê gớm quá! Tay anh bỗng nhiên run rẩy, những ngón tay đang nắm chặt chai thuốc chợt bỏng rát và đau nhói. Anh đưa chai thuốc lên, cánh tay anh tê dại, hình như anh đang cầm một tảng đá nghìn cân. Đầu anh choáng váng, mê muội. Khi môi anh kề vào miệng chai thuốc, đầu anh như có một lưỡi dao thật sắc bổ đôi ra và một luồng gió mát rượi len lỏi vào trong. "Mây trắng dập dìu trên đỉnh núi. Không khổ nào bằng nhớ người xưa". Trong mùi hôi nồng của thuốc độc, hình như anh ngửi thấy mùi dầu thơm Vạn Kim mà cô bé có biệt danh Donia thường xức trên trán. Donia là người duy nhất đọc được những dòng nhật ký dài lê thê của anh trong những ngày năm trước. Phần đầu cuốn nhật ký viết về quá trình gặp gỡ của anh với Ngư Thúy Thúy trong vòm cây gai, phần sau cuốn nhật ký giống như bài văn trần thuật của học sinh trung học kể về quá trình anh tham gia an táng Ngư Thúy Thúy và những trăn trở phát sinh chung quanh thi thể cô ta.

Để giảm bớt mùi thối từ thi thể Ngư Thúy Thúy phát ra, chúng tôi dùng những chiếc khăn được phun rượu buộc lên miệng lên mũi. Mùi rượu cay nồng và chua chua khiến lỗ mũi tôi ngứa ngáy vô cùng, nước mắt chảy thành đòng. Tôi cũng trông thấy những người khiêng quan tài đều khóc. Tôi biết nước mắt tôi chảy không phải vì đau khổ. Quan tài của Ngư Thúy Thúy được khiêng ra ngoài khoảnh sân bùn nước lầy lội; bố của Ngư Thúy Thúy đang cúi gập người đi trên sân, những thớ thịt trên mặt ông hình như đã chết, chẳng biểu lộ trạng thái tình cảm nào. Hai anh em nhà họ Ngư không dùng khăn bịt mồm, cũng chẳng khóc. Thấy mọi người đã tề tựu đông đủ, Cả Ngư đứng ở giữa sân, cao giọng nói :

- Quý bà con cô bác anh em! Họ Ngư không có phúc mới sinh ra một đứa con hại nhà hại cửa thế này. Nhờ bà con mỗi người một tay đem chôn nó, hai anh em Ngư tôi ghi nhớ công ơn quý vị cả đời!

Lúc này hai dòng nước mắt ông ta mới chảy xuống nhưng nhất định đây không phải là nước mắt thương xót đối với cô em gái của mình. Mọi người nói, nhanh lên một tí, đài báo sau buổi trưa sẽ có tuyết rơi. Dây thừng và đòn khiêng đều đã để sẵn trong góc sân. Người ta cuống cuồng luồn dây, thắt chặt lại xỏ đòn khiêng vào. Lão Ba Vương hô :

- Đứng vào vị trí đi, mỗi đầu một người!

Tổng cộng có tám người, bốn chiếc đòn khiêng. Thân thể cao to Ngô Nguyên Nghĩa nói với tôi :

- Cậu sinh viên à, về phía đầu đi. Tôi cho cậu phụ trách một đòn khiêng!

Mọi ngời đều đã đứng vào vị trí. Lão Ba Vương hô :

- Lên!

Tôi dùng sức rướn thật mạnh, đứng lên.

Lão Ba Vương hô :

- Đi!

Chân tôi loạng choạng, thân thể xiêu vẹo. Lão Ba Vương bước đến kề vai vào giúp tôi, chân tôi mới thẳng lên được. Tiểu Thúy nặng ghê nhỉ! Chị đè tôi đến độ xương cốt tôi kêu lên rôm rốp. Ra đến đường, bùn lội đến ống chân, một chiếc giày của tôi tuột mất nhưng tôi không dám kêu lên, cắn chặt môi thẳng người bước tới. Có mấy bà đứng bên tường, ở cổng ngõ, ở những nơi không có bùn, quan sát đội đưa tang một cách lặng lẽ. Mới đi được chừng nửa đường, cả đội đã thở hồng hộc. Bùn dưới chân ngày càng dày, đường đi ngày càng hẹp, chỉ cần một chút bất cẩn là có thể nhào xuống sình lầy như chơi. Cỏ mọc xanh tốt ở chỗ cong của dòng sông, mặt nước nổi đầy tạp vật trông như những bãi phân trâu. Lão Ba Vương hô :

- Nghỉ!

Tôi không thể chờ đợi mệnh lệnh được nữa, muốn vứt ngay chiếc đòn trên vai. Lão Ba Vương nói:

- Từ từ đặt xuống, kê quan tài lên khúc gỗ!

Hai anh em nhà họ Ngư vác đến hai khúc gỗ to đặt trước và sau quan tài. Chiếc quan tài được đặt xuống, cả nhóm cùng nhau ôm ngực thở dốc. Mặt trời chen ra khỏi đám mây dày, chiếu sáng rực cả một khúc sông, viền bạc xung quanh những đám mây đen rồi nhanh chóng trốn vào mây, những ánh chớp lóe đỏ một màu máu, tiếng sét rầm rì từ nơi xa xăm vẳng lại. Tôi cảm thấy sợ hãi, nhưng sợ cái gì thì tôi không biết. Lão Ba Vương nói :

- Đi thôi! Nghỉ nhiều càng mất sức!

Mọi người chọn thế đứng vững vàng nhất, khom người cầm đòn khiêng, nín thở chờ mệnh lệnh. Lão Ba Vương vừa hô lên một tiếng thì chúng tôi nghe một tiếng rắc nhỏ. Đưa mắt nhìn quan tài, thì ra nó đã nứt một đường đúng vào giữa quan tài, mùi thối theo kẽ nứt xông ra. Mọi người đưa mắt nhìn nhau, sau đó tập trung nhìn vào lão Ba Vương. Dùng vạt áo bịt mồm, lão Ba Vương cúi người quan sát giây lát rồi ngước lên nói :

- Không khiêng được nữa rồi! Chiếc quan tài này khi đúc không có thép cây mà chỉ dùng một ít đoạn sắt gỉ. Không khiêng lên được nữa, khiêng lên là sẽ đứt làm đôi thôi!

Cả Ngư lo lắng, van nài khẩn thiết :

- Chú Ba! Chú hãy nghĩ ra cách gì đi. Lẽ nào lại bỏ nó nằm giữa đường thế này ?

Ba Vương nói :

- Chỉ còn cách kiếm một chiếc quan tài khác!

- Chú Ba! Kiếm ở đâu ra? Một chiếc quan tài bằng xi măng cũng phải hết mấy trăm đồng!

Hai Ngư ngắt lời anh :

- Bàn cãi làm gì cho mệt xác, cứ đem nó vứt xuống sông là xong!

Gương mặt Ba Vương bỗng dài ra, không nhìn Hai Ngư mà nhìn Cả Ngư, thở phì phò có vẻ bực bội, nói :

- Anh Cả Ngư! Có đúng là vứt xuống sông không?

Cả Ngư giận dữ nhìn Hai Ngư chửi mấy t iếng, nói :

- Chú Vương! Chú đừng nghĩ nông cạn như nó. Phải lấp xuống đất mới yên tâm, nhưng không nhất thiết phải phí phạm đến hai chiếc quan tài. Vứt xuống sông sẽ làm thối nước sông. Thôi thì xấu tốt gì chúng ta cũng gắng vùi nó xuống đất đi.

Ba Vương hừ lên một tiếng, nói :

- Thế mà tôi cứ nghĩ là vứt quách xuống sông cho xong chuyện. - Lão liếc nhìn Hai Ngư một cách tức tối, nói tiếp - Người nhà chạy về kiếm hai thanh gỗ đến đây, dài một tí, thẳng một tí, kẹp chặt dưới đáy quan tài, dùng dây thừng buộc lại cho thật chặt, may ra mới khiêng được đến nơi.

Hai anh em họ Ngư chạy vọt đi. Để tránh mùi thối, mọi người đều thả đòn khiêng chạy về phía trước gió, mỗi người một câu bàn tán râm ran. Những lời của họ rất khó nghe, rất hạ lưu, tôi không cần thiết phải ghi lại ở đây. Trong chốc lát, anh em họ Ngư đã quay lại, mỗi người ôm một thanh gỗ dài, dáng chạy xiêu xiêu vẹo vẹo. Buộc chặt hai thanh gỗ vào xong, lại khiêng quan tài lên vai. Quá nặng và quá vất vả, chiếc giày còn lại cũng đã tuột mất, đôi chân trần của tôi dẫm lên bùn nhão nhoét, té ra cảm thấy dễ chịu hơn là có giày. Những người đào huyệt đang chờ, vội vàng chạy lên đường giúp đỡ chúng tôi. Vu Hữu Khánh ghé vai vào đòn khiêng thay cho tôi, tôi cảm kích nhìn đôi vai rộng của anh ta, dùng tay lau mồ hôi trên mặt và theo sau quan tài. Huyệt mộ được đào giữa một đám đậu vàng, là mảnh đất thuộc quyền sử dụng của gia đình họ Ngư. Cả Ngư cầu khẩn mọi người :

- Các vị cẩn thận cho một tí kẻo xéo nát cả đám đậu...

Đám người khiêng quan tài đang vất vả nên nào có ai để ý đến lời cầu khẩn của Cả Ngư. Mưa liên tục đã làm đất ruộng nhão nhoét, trên vai lại nặng nên chân mọi người bị bùn lún đến đầu gối không thể đi được nữa. Họ đặt quan tài xuống đất và hè nhau kéo về phía trước. Âm thanh phì phò ở trên, tiếng soàn soạt ở phía dưới hòa lẫn vào nhau. Huyệt được đào xong và lúc này nước đã ngập lên đến giữa huyệt. Mọi người đặt quan tài trên đất, đứng xa xa chung quanh mà ngắm lỗ huyệt, dường như ai cũng sợ là mình sẽ rơi xuống đó. Ba Vương nhìn Cả Ngư, Cả Ngư nhìn lại Ba Vương, câm lặng. Giây lâu, Cả Ngư thở dài nói :

- Chú Ba, đây có lẽ cũng là do số mệnh an bài, chẳng còn cách nào khác!

Ba Vương cũng buông một tiếng thở dài nói :

- Cũng đành thế thôi. Mọi người tập trung lại đi!

Những chiếc đòn được rút ra, mọi người cầm lấy mấy sợi thừng khiêng quan tài lên, cẩn thận dò dẫm từng bước tiến về sát lỗ huyệt. Từng dòng bùn nhão đang chảy ào ào xuống lỗ huyệt, hình như nó bé hẳn đi, mặt nước ngầu đục đã dâng lên đến mép đất, chiếc quan tài của Ngư Thúy Thúy bị thả mạnh trên mặt nước, nước bắn lên tung tóe. Mọi người nhảy vội về phía sau để tránh, khi tập trung trở lại thì chiếc quan tài tròng trành giây lát rồi từ từ chìm xuống, bong bóng nước nối đuôi nhau thành luồng nổi lên mặt nước. Tôi ngước đầu quan sát gương mặt mọi người, phát hiện ai ai cũng biểu lộ một vẻ thoải mái, tâm trạng tôi cũng theo đó mà thư thái lên. Ngư Thúy Thúy - chị đã cho tôi ngắm nhìn món bảo vật trên thân thể chị, chị từ nước mà lên cuối cùng chị cũng trở về với nước, dù cho có bao nhiêu tâm tình, sẽ tỏ cùng ai! Ngư Thúy Thúy! Yên nghỉ nhé! Cuối cùng thì bờ huyệt cũng đổ sụp, tiếng nước ào ào, nước từ dưới huyệt dâng lên ngập bàn chân người. Mọi người vùng chạy để tránh nước. Những người đàn ông đào huyệt chẳng quan tâm đến nước bẩn, dùng xẻng hất bùn nhão xuống huyệt. Bởi bùn trơn tuột nên không thể đắp thành một phần mộ đàng hoàng cho Ngư Thúy Thúy được. Ba Vương tuyên bố công việc đã xong, những việc còn lại đành phải chờ đến khi trời nắng đất khô, hai anh em nhà họ Ngư tiếp tục hoàn thành. Trên đường về, mưa to như trút nước, làn mưa như những hàng rào di động, như những tâm lưới dày đặc quấn lấy người tôi. Tất cả mọi người đều co đầu rụt cổ, im lặng chịu đựng những giọt mưa lạnh và nặng táp xối xả xuống đầu xuống vai.

Sau đó lại có một chuyện nữa xảy ra : Sau khi an táng Ngư Thúy Thúy được ba ngày, thôn bên cạnh có một thanh niên họ Đỗ cũng uống hết nửa chai Furantan, chết trước khi kịp đi tới bệnh viện. Kiểm tra những di vật thì phát hiện hai phong thư Ngư Thúy Thúy viết cho anh ta. Nhà họ Đỗ thương con, nhờ người mai mối đến nhà họ Ngư đánh tiếng xin kết thông gia cho hai con dưới âm phủ. Chú Cả Ngư hét giá một nghìn đồng, lời qua tiếng lại, Cả Ngư bèn im lặng không nói lấy một lời nào nữa. Nhà họ Đỗ chẳng giàu có gì nên chỉ xin bỏ ra năm sáu chục gì đó để quật mồ Ngư Thúy Thúy lấy xác hợp táng với con trai, hoàn thành ước nguyện cho con, khỏi uổng danh một đời làm cha làm mẹ. Ai ngờ chú Cả Ngư lòng dạ lại thâm độc như vậy, sự nhiệt tình của nhà họ Đỗ cũng nguội lạnh luôn. Huống hồ, trong thời kỳ không khí ẩm thấp này, xác con trai họ để ba ngày thì đã trương lên như cái trống, bụng sẵn sàng nổ tung bất kỳ lúc nào, do vậy mà phải vội vàng tẩm liệm và đem chôn. Một chuyện tốt đẹp như vậy cuối cùng cũng không được gì. Trời vẫn đang mưa, có lẽ xác của Ngư Thúy Thúy đã biến thành bùn rồi cũng nên.

Trước khi anh đặt chân đến mảnh ruộng trồng đay, chân anh đã bước qua khoảng đất trồng ớt. Lúc ấy, ánh mặt trời vẫn còn chiếu sáng, những quả ớt ẩn dưới những cành lá rậm rịt xanh rì như những giọt nước mắt máu ngưng tự lại, lại vừa giống những lời than vãn kết nối lại với nhau. Nước mắt máu từng chuỗi và lời than vãn thành xâu rải khắp một phần hai đất đai của huyện. Chiếc xe chở khách của hộ cá thể được trường thuê chở đầy học sinh đi thi với những tâm trạng khác nhau đang chạy bon bon trên con đường liên huyện, những khoảnh ruộng trồng ớt hai bên dường liên tục lùi lại phía sau, đồng thời cũng liên tục chạy đến. Lúc ấy, hoa ớt trắng li ti đang nở rộ trên cành, phía dưới treo tòng teng những quả ớt nho nhỏ có hình dáng giống bộ phận sinh dục của một con chó đực nhỏ. Người trong làng gọi đây là loại "ớt c. chó" để phân biệt với loại ớt chuyên để xay thành bột màu và những loại ớt khác. Đất trồng ớt dường như không có biên giới, mênh mông vô tận. Mấy người đàn bà đang khom lưng làm cỏ cho ớt ngẩng đầu lên nhìn theo chiếc xe. Anh không dám để cho trí tưởng tượng của mình quá bay bổng vì đây là lần đi thi thứ tư, thành bại chỉ một lần này nữa quyết định, được làm vua, thua làm giặc!

Anh ngồi ở chiếc ghế sau cùng của chiếc xe khách, bên cạnh anh là bốn đứa con trai nữa trông có vẻ đần độn dang chen chúc bên nhau. Những đứa con gái thì thế nào nhỉ? Anh không muốn nghĩ ngợi nhiều nữa. Anh tự buộc mình phải tập trung tinh thần, kềm chế những thay đổi thất thường trong tâm hồn. Chiếc xe khách bẩn thỉu vô cùng, lại tròng trành dữ dội. Để tiết kiệm, trường đã cố tình thuê chiếc xe tư nhân rách nát này, loại xe đã bị các hãng xe quốc doanh thanh lý và rơi vào tay cá thể. Tiếng xe kêu ầm ĩ, lắc lư như người ta đang sàng gạo. Anh có cảm giác bụng dưới của mình đã sa xuống tận hậu môn và buồn đại tiện. Thực ra là chẳng có cảm giác buồn đại tiện nào cả mà anh biết đó là triệu chứng của "bệnh đi thi tổng hợp", chữa khỏi bệnh này chỉ còn một cách duy nhất là bỏ thi cử. Xe lưu thông trên đường rất đông, tiếng còi hơi kêu inh ỏi. Cửa kính của xe đã vỡ nát, cửa sắt thì hoen gỉ, không thể đóng lại được khói xe đen ngòm và bụi vàng đặc quánh từ cửa sổ tuôn vào trong xe. Mái túc bôi keo của cô bé ngồi trước mặt anh phủ một lớp bụi vàng, trông bẩn không chịu được, lại thêm mùi keo đã hấp dẫn bọn ruồi bay đến, con nào đậu vào là bị dính chặt, đập cánh giãy giụa nhưng không thể bay thoát dược.

Cần đến huyện ly, mương nước thải hai bên đường bị nước từ xưởng thuộc da và xưởng đồ hộp đổ ra đầy ứ một màu đen và thối inh, tất cả mọi người đều bịt mũi. Người cao cấp một tí thì dùng khăn tay trắng, thấp hơn thì dùng ống tay áo, tất nhiên anh nằm trong loại cấp thấp này. Anh vùi mặt vào ống tay áo như thể tránh né những trận gió lạnh mùa đông. Lại tắc đường! Ban đầu lái xe còn bóp còi inh ỏi và run rẩy chen, run rẩy nhích dần từng bước chậm chạp, cuối cùng thì dừng hẳn. Trước sau phải trái, còi xe hòa thành một khối âm thanh hỗn tạp, học sinh trên xe lo lắng kêu lên the thé, những đứa ngồi cạnh cửa sổ đều thò dầu ra khỏi khung cửa kính vỡ như những con gà vươn đầu ra khỏi lồng mà ngó ngược ngó xuôi hòng kiếm cái có thể ăn. Lái xe kéo mạnh cần hãm làm cho động cơ máy cà tàng thở dốc dở sống dở chết. Anh ta mở cửa nhảy xuống đất, hai chiếc bao tay lấm lem dầu mỡ từ dưới đất bay lên buồng lái. Hầu hết học sinh đều nhao nhao đứng dậy, chỉ còn một ít người có máu lạnh là điềm nhiên ngồi im, nhắm mắt, chỉ có cái miệng là chóp chép, hình như đang tranh thủ nhẩm bài, cũng có thể là đang nhai kẹo. Vương Cường đập mạnh vào mông Lưu Trường An, lo lắng hỏi : Chuyện gì thế? Lưu Trường An thụt đầu vào, đáp : Tắc đường! Thầy Phương, ngươi hướng dẫn đoàn, cong người đứng lên, nói : Yên lặng nào các em, bình tĩnh. Chiều nay ba giờ mới bắt đầu thi, thời gian vẫn còn đủ, các em hãy tranh thủ nghĩ về những kiến thức dã học. Lái xe leo lên buồng lái, mồm lẩm bẩm chửi, không biết anh ta chửi ai và chửi cái gì. Học sinh thấy anh ta lên xe, yên trí là xe đã có thể chạy nên vỗ tay định mở miệng hoan hô, nhưng tiếng hoan hô chưa kịp thoát khỏi cuống họng thì đã thấy lái xe tắt máy. Thầy Phương bước lên, hỏi : Bác tài, chuyện gì thế? Lái xe đưa tay dụi mũi, sống mũi anh ta biến thành màu đen, nói : Đằng trước đang sửa đường. Ai mà biết được là do sửa đường mà gây ách tắc hay là mấy thằng giao thông chết tiệt đang làm trạm để chặn xe lại bắt mua phí cầu đường mà gây ách tắc! Thầy Phương vén ống tay áo xem đồng hồ, lo lắng nói : Bác tài, bác biết rồi đấy, chúng tôi không thể muộn được! Lái xe trợn tròn đôi mắt nói : Tôi còn có cách nào khác đây, phải chờ thôi! Anh ta đốt thuốc, khói thuốc trắng xanh lởn vởn trên chiếc sống mũi đen sì của anh ta.

Xe trên đường mỗi lúc một dày đặc, những chiếc xe cọc cạch gầm lên từng tràng âm thanh đinh tai nhức óc. Anh cùng tất cả mọi người từ từ chìm trong mê muội, mơ hồ; khuôn mặt nào cũng như bị bao phủ một lớp mây mỏng màu tro. Thầy Phương xem đồng hồ liên tục, những giọt mồ hôi lạnh đọng trên má thầy trông như những giọt sương trong suốt rồi lăn tròn xuống phía dưới. Thầy ơi, không đi được là không kịp nữa rồi! Thầy ơi, chúng ta chạy bộ đi, em biết đường! Ồn ào, náo động như một bầy ong vỡ tổ. Anh ngồi yên lặng; không phải yên lặng để mà bột phát mà là yên lặng để mà diệt vong. Thầy Phương lau mồ hôi trên mặt bằng chiếc khăn tay trắng nõn, lắp bắp thật đáng thương hỏi lái xe : Bác tài, lúc nào thì xe có thể chạy được đây? Lái xe nói : Chờ đi! Trước tết dương lịch phải mua bảo hiểm rồi! Thầy Phương lẩm nhẩm tính toán rất căng thẳng rồi kêu lên : Thế này không được. Nay mới là ngày 9 tháng 7, đến tết dương lịch vẫn còn hơn bốn tháng! Thầy ơi, chờ đến tết dương lịch thì sinh viên đã đến kỳ nghỉ đông! Dưa chuột bắt đầu lạnh, mà nào phải chỉ lạnh, e rằng đã đóng thành băng! Thầy Phương, chúng em yêu cầu thầy cho phép chạy bộ về huyện, trễ buổi thi chiều nay thầy phải chịu trách nhiệm. Mà thầy chịu không nổi trách nhiệm này đâu! Lái xe ấn công tắc, chiếc xe ngật ngưỡng vọt lên trước, học sinh nháo nhào chen nhau xuống xe. Các em! Chú ý an toàn! Chú ý an toàn! Thầy Phương gào lên. Anh bị cuốn theo dòng người lăn xuống xe, không điều khiển nổi chính mình, chỉ cuốn theo dòng người co giò chạy về phía trước. Xe kéo rơ móc, xe khách, xe con với những người đàn ông béo trùng trục trên xe, xe ngựa, xe lừa, xe cọc cạch, xe tải, xe Jeep Bắc Kinh, xe đẩy, xe đạp, xe Mercedes hình chiếc bánh bao... Chiếc xe bánh bao này có phải là được mua từ những khoản tiền phạt trong chương trình sinh đẻ có kế hoạch không? Trước mắt anh là những tấm thép đủ màu sắc lấp lóa, nhập nhoạng, là những bánh xe to nhỏ trắng đen trùi trũi... Tai anh lùng bùng mớ âm thanh hỗn tạp của đủ loại động cơ, đủ loại còi xe, tiếng bò rống, tiếng ngựa hí, tiếng người văng tục chửi bới. Mũi anh đầy nghẹt mùi thối của cống rãnh, mùi khét của xăng dầu bị đốt cháy, mùi của đủ loại mồ hôi, mùi của đủ loại rắm, mùi đàn bà đẹp thơm ngát, mùi mồ hôi chua loét lợm giọng của nông dân. Rắm của người sang giàu thơm ngát, rắm của kẻ nghèo hèn thối inh (Rắm của người giàu sao thơm lạ, âm thanh réo rắt tựa oanh ca. Ngựa gầy đầu gục bờm xơ xác, Tiếng nói dân nghèo chẳng thiết tha). Mồ hôi thối mồ hôi thơm, rắm thối rắm thơm... hỗn tạp tạo thành một thứ mùi lạ lùng, phong phú nhiều sắc thái bảng lảng bao trùm đằng trước đằng sau trên đầu dưới chân anh.

Anh biết tất cả đều đã bị hủy hoại, đều đã kết thúc; đây là lần phấn đấu cuối cùng nhưng chuyện tắc đường nghiêm trọng trước mắt lại là vận hạn của tất cả học sinh trung học tham dự đợt thi tại huyện này, hơi thở anh đứt đoạn, ngực co thắt dữ dội, đầu choáng mắt hoa, trong cổ họng như có một con giun đũa đang bò làm anh có cảm giác buồn nôn. Chúa ơi! Tay tín đồ đạo Gia Tô Lưu Thánh Anh đang lê một chân què vừa chạy vừa cầu Chúa : Chúa Gia Tô cha ở trên trời, có nhiều pháp thuật, xua đuổi yêu nghiệt, Amen! Trong lòng anh cũng thì thầm : Thượng Đế của con, Amen! Thượng Đế bảo ngày thứ ba có ánh sáng là có ánh sáng, Thượng Đế bảo có sự cố giao thông là có sự cố giao thông. Thượng Đế cũng chính là anh! Những suy nghĩ rối rắm ẩn hiện trong đầu anh. Lũ học sinh đang kề vai sát cánh bên anh trông như một bầy thỏ hoang hoảng loạn, lại vừa như một bầy chim non chưa đủ lông cánh len lỏi chạy ở những khoảng trống trên đường. Mấy đống vôi nằm rải rác hai bên vệ đường bị những bàn chân vội vã hất tung lên, bụi vôi mù mịt che lấp tầm nhìn, xộc vào mũi, không nhận ra người dối diện. Ống khói xe cọc cạch phun những hạt lửa đỏ lòm bằng hạt đậu. Một học sinh ngã úp mặt xuống một đống khoai tây ven đường, đây đúng là minh chứng cho thất bại của sự nhảy vọt vượt cấp nóng vội. Cậu ta lăn một vòng và lóp ngóp bò dậy giữa đống khoai tây, không kịp xác định phương hướng đã co giò chạy tiếp, đâm sầm vào người anh. Ngực của cậu ta bị va đập mạnh, còn mũi anh thì cay xè lên. Như hai con gà chọi, anh và cậu ta đứng gườm gườm nhìn nhau đến mấy giây. Đ. mẹ! Anh buột miệng chửi, nhưng không phải là chửi cậu ta, nhưng cậu ta lại cực kỳ thô lỗ và giận dữ chửi anh : Đ. mẹ mày! Anh bị hàm oan lắc lắc đầu, đi vòng qua những củ khoai tây lăn đầy trên mặt đất, tiếp tục cuộc hành trình chạy về phía trước. Thùng của chiếc xe kéo 55 mã lực bị vỡ do va chạm, những củ khoai tây chen nhau đổ xuống mặt đường. Anh chạy vòng qua một chiếc xe máy, người ngồi trên xe đội mũ bảo hiểm to đùng trông giống như người ngoài hành tinh đang ngô nghê lắc đầu. Một con bò kéo xe đang đứng giữa càng xe cong đuôi đái, nước đái văng đến tận đầu gối của người ngồi trên xe máy nhưng anh ta vẫn không hề hay biết. Một chiếc xe con trang hoàng rực rỡ đang chúi xuống mương thoát nước, mũi xe may mắn là húc thẳng vào một gốc cây nằm sát mép bờ mương. Anh trông thấy chữ "song hỷ" to tướng màu đỏ dán ở phía đuôi xe. Anh cắn chặt môi chửi thầm trong bụng : Đúng là cái gốc cây chết tiệt! Nhất định đây là một cậu ấm cưới vợ hoặc một tiểu thư con nhà hiển đạt nào đó lấy chồng. Cô dâu mặc chiếc áo khoác lụa hồng đẹp đến nhức mắt, đầu giắt không biết bao nhiêu là ngọc ngà châu báu nhưng trên mặt thì lấm lem khói bụi.

Anh và mọi người chạy, chen lấn, xô đẩy, chẳng khác nào những làn khói, những đám bụi, những thứ mùi hỗn tạp. Dùng năm mươi phút để thoát khỏi trận đồ xe cộ dài đến ba nghìn mét, anh và mọi người, giống như những con giun đũa vừa chui ra khỏi sự cản trở của ruột già, tất cả đều vàng vọt, xám ngoét, chẳng còn một chút huyết sắc nào trên mặt. Mọi người tựa lưng vào những gốc dương liễu bên vệ đường thở dốc; một học sinh có đồng hồ đưa lên nhìn, nói : Đừng vội, mới có mười hai giờ, hãy còn ba tiếng nữa. Trường đã đặt phòng, đặt cơm ở nhà trọ, chúng ta chờ thầy Phương đã! Một số học sinh không đồng ý chờ, một số lại kiên quyết chờ, hai nhóm bắt đầu cãi nhau. Anh ôm chặt lấy gốc dương liễu, như một con cá mắc cạn, thở gấp một cách khó khăn, tim anh nhảy như quả bóng bàn đang đập lung tung trong lồng ngực, mồ hôi xuyên qua áo sơ mi, mỏi mệt, miệng khô đắng. Lần thứ hai anh nghĩ đến chuyện này : Tất cả thế là hết rồi! Lần thứ tư đi thi này tám phần mười là tiêu rồi! Vừa nghĩ đến chuyện thất bại, một nỗi lo sợ ập đến, anh cảm thấy cơ vòng ở hậu môn mình đang rung động, một vật âm ấm đùn ra. A! Bệnh tả lại hoành hành rồi. Anh bị trĩ vòng đã lâu lắm rồi. Bốn phía trống hoác, không có chỗ nào có thề che chắn, nhà vệ sinh tất nhiên lại càng không, chẳng còn cách nào khác anh dùng lực khép chặt đôi mông, chẳng dám nhìn ai, làm như tất cả học sinh đang săm soi vào bí mật của anh. Một con kiến màu đỏ đang cố gắng lôi một con sâu màu xanh lớn hơn nó mấy chục lần trên cành cây. Thi thể con sâu bị dính chặt vào vỏ cây, con kiến lôi mãi mà chẳng thể nào xê dịch được, cuối cùng nó luyến tiếc từ bỏ con mồi, vừa bỏ đi vừa ngoái đầu nhìn lại, chiếc râu rung rung như muốn nói : Thằng oắt con! Mày hãy chờ đấy, tao về nhà gọi bố đến xử lý mày!

Thầy Phương len lỏi chạy ra từ đống xe cộ, cái trán trắng xanh không biết đã va vào thùng chiếc xe nào mới sơn chưa kịp khô nên lưu lại một vết sơn mầu xanh lục, trông vừa buồn cười vừa đáng sợ. Thầy đứng thở dốc, móc túi lấy danh sách và gào to điểm danh từng đứa. Lại một đoàn xe un ùn chạy đến nối vào đuôi của đoàn xe cũ. Tiếng động cơ rú, tiếng còi xe lấn át tiếng gào của thầy Phương. Không thể biết là thiếu ai, nhưng đương nhiên là không thể thừa. Chạy thôi! Chạy thôi! Một học sinh dẫn đầu và toàn nhóm chen chúc chạy theo sau, xuyên qua kẽ hở giữa những chiếc xe khiến nhiều tay lái xe kinh sợ đến độ mặt mày nhăn nhúm lại, vội vàng hãm phanh. Như những cái trứng kiến đen lùi lũi, đoàn học sinh chạy, bò, lăn. nhắm về phía huyện ly. Chân anh rã rời, tinh thần anh hoang mang, nhưng vẫn cắn răng đuổi theo, lòng ruột anh như bị ai bóp mạnh, đau đớn không thể tả.

Đột nhiên anh phát hiện ra rằng, trong bộ não của tất cả các học sinh lúc này đều có chung một suy nghĩ là, trong cuộc thi chạy việt dã này, ai là người về đích đầu tiên, người ấy sẽ đạt số điểm cao nhất trong kỳ thi này, ai là người đặt bước chân đầu tiên ở địa điểm thi, người ấy sẽ là người đầu tiên bước chân vào cổng trường đại học. Vì thế tất cả chẳng khác nào viên đạn bắn ra khỏi nòng, như mũi tên bật khỏi dây cung, như sao băng, liều chết chạy như một bầy thỏ hoang. Lần thứ ba anh biết tất cả thế là hết rồi, không hết mới là chuyện lạ. Anh ruột chị dâu chửi mắng nhục mạ tôi, mẹ hận tôi không có chí khí, kẻ giàu thì khinh khi, người bần hàn thì đố kỵ, bệnh trĩ hành hạ tôi, bụng đau đầu choáng, mồ hôi tôi chảy, chân tôi yếu, cổ họng ngứa ngáy muốn ho, muốn nôn... Trong hàng trăm mũi tên cùng bắn ra kia, riêng tôi thân mang trăm bệnh, không chấm hết mới là chuyện kỳ quái! Anh cúi đầu, tay ôm lấy bụng chạy xéo qua một bên đường, cong người nôn thốc nôn tháo, hai con giun đũa đang uốn éo quẫy đạp trong đống tạp vật xú uế do anh nôn ra. Một cảm giác chán ngán chưa từng có ập đến. Anh nhắm mắt, há mồm thật to và cảm nhận được từng con giun đũa kéo thành đàn như những sợi miến loằng ngoằng chui ra từ cuống họng anh. Trong chán ngán anh cảm thấy có một chút hạnh phúc, một chút thư thái, một chút vui sướng, một chút hoan lạc như vừa thoát khỏi một cơn bệnh trầm kha. Nôn xong, anh mở mắt nhìn, vẫn chỉ là hai con giun cũ đang uốn éo trong đống tạp vật. Ngay lập tức, anh thấy mình chịu đựng hết nổi nữa rồi. Hình như anh đã nhìn xuyên thấu dạ dày, ruột non ruột già của mình, trong đó có hàng nghìn hàng vạn con giun đũa đang chen chúc nhau, quấn chặt lấy nhau và cản trở sự lưu thông của các chất trong ruột, chẳng khác nào hàng trăm chiếc xe đang tắc nghẽn trên con đường ở phía sau lưng. Anh ngồi bệt xuống nền đường, trừng trừng nhìn hai con giun đũa, phát hiện trên làn da nhờn nhờn của nó đang phản chiếu ánh sáng lấp lánh như vàng.

Thượng Đế! Amen! Tề Văn Đống tiên sinh! Ngồi ở đây làm gì? Bị làm sao vậy? Anh quay đầu lại, đôi mắt tuyệt vọng nhìn người đang hỏi mình. Lư Lập Chí, mười bảy tuổi, học lớp mười một, thành tích học tập ưa tú được đặc cách tham gia thi đại học. Anh biết, học sinh lớp mười một bây giờ phần nhiều đều đã học hết chương trình mười hai, nên khi bước chân vào mười hai là chúng chỉ dành thời gian cho việc ôn luyện, thầy trò đoàn kết nhất trí cùng nhau đối phó với kỳ thi đại học. Lư Lập Chí rất to cao, tướng mạo vô cùng anh tuấn, là con cưng của trường. Anh đã từng nghe người ta nói Lư Lập Chí hễ mở miệng ra thì toàn là những lời cuồng ngạo, đại khái như : Lư Lập Chí này mà thi không đậu đại học thì toàn huyện này chẳng có ai đậu cả! Nhất định cậu ta sẽ đậu, nhất định anh không thể đậu, hai chuyện này giống nhau ở chỗ mang tính tất nhiên! Bố mẹ cho cậu ta một cái đầu quá tốt, nhanh nhạy như một phản ứng hóa học, thiên biến vạn hóa. Còn anh, bố mẹ cho anh một cái đầu ngu độn, trí óc anh cứng như một khối đá hoa cương, vĩnh viễn chằng bao giờ thấm nhuần được bất cứ cái gì. Lư Lập Chí không vào đại học thì ai vào? Cậu ta tiến lên một bước, nói : Anh ốm rồi à? Rồi cúi đầu quan sát đống uế tạp mà anh đã nôn ra, nhảy dựng lên và né sang một bên, miệng lắp bắp : Anh đã nôn ra hai... hai con giun đất à? Lại một cô bé nhỏ nhắn duyên dáng trờ đến, dùng bàn tay nhỏ nhắn bụm lấy mũi, nói : Cái cậu này đúng là đồ mọt sách! Đây là giun đũa, có vẽ trong sách sinh vật đó thôi! Anh phờ phạc nhìn đôi mắt có hàng lông mi đen dài của cô bé, nhất thời nghĩ không ra tên của cô ta. Cô bé này cũng là học sinh mười một, thành tích xuất sắc nên được đặc cách tham gia thi đại học. Chỉ có học sinh xuất sắc mới có thể là đối tượng của sinh viên xuất sắc. Anh rất mẫn cảm nhận ra rằng, khi nói những lời trên với Lư Lập Chí, giọng nói của cô gái như có pha một chút mật ong và từ trong sâu thầm của tâm hồn, anh thầm chúc phúc cho hai cô cậu. Lư Lập Chí cùng cô bé có đôi lông mày đen dài đứng hai bên anh và xốc nách anh đứng đậy. Đột nhiên anh cảm thấy uất ức vô cùng, đôi hàng nước mắt lăn dài trên má. Từ ánh mắt nhìn nhau của hai cô cậu này, anh nhận ra có một sự thương hại; sự giúp đỡ này chính là biểu hiện lòng thương hại của kẻ bề trên đối với kẻ dưới. Anh tủi hổ, anh căm hờn nhưng anh chẳng có sức để mà giãy giụa nữa. Anh ngoan ngoãn treo người trên vai của Lư Lập Chí nhỏ hơn anh bảy tuổi và cô gái có hàng lông mi dài, thấp hơn anh năm phân, chẳng biết phải nói câu gì là hợp nhất trong hoàn cảnh này. Lư Lập Chí nói : Chạy làm quái gì? Chạy nhanh là thi tốt sao? Thi đại học đâu có phải là thi điền kinh! Mới có mười hai giờ năm mươi, thời gian vẫn dư dả kia mà, đi chậm thôi! Cô bạn lông mi dài nói : Đúng thế, đi từ từ thôi! Anh cùng đi với họ, cười cười nói nói, bình thản tự tại vô cùng. Lư Lập Chí nói : Tề Văn Đống, năm nay anh nhất định sẽ đỗ thôi! Anh giật mình lắc đầu thật mạnh - Kỳ thực anh học rất giỏi, nắm chắc những kiến thức cơ sở, những điều trọng yếu nhất là trong phòng thi anh phải phát huy như thế nào, không được căng thẳng, đảm bảo anh sẽ đỗ? Đúng thế không? Nam Ni! Đúng thế, đừng có căng thẳng! Nam Ni trả lời. Bây giờ anh mới nhớ ra tên của cô bé. Tên của cô rất gần với Na Ni, con của chị dâu anh. Anh chợt nghĩ đến Na Ni, con bé da trắng mắt lé. Nó là cháu gái của anh sao? Anh đâm ra hoài nghi. Anh trai gầy như khỉ cưới bà chị dâu béo tròn như tinh tinh là nguyên nhân cơ bản cho mọi chuyện ồn ào náo loạn trong gia đình. Bà chị dâu quá ghê gớm, chỉ cần anh nghĩ đến đầu lưỡi nhọn hoắt và đỏ chót, cái mặt nung núc của bà ta là chân anh đã mềm oặt đi. Anh đã từng chứng kiến một người đàn bà trong làng có lợi trên dài một cách kỳ lạ, vẩu ra khỏi môi trên, chửi nhau với chị dâu anh. Anh không hiểu vì nguyên nhân nào mà quê mình lại tập trung nhiều người đàn bà tính cách thất thường, tướng mạo xấu xí, chỉ cần nhìn liếc qua một lần là cả đời khó quên đến như thế. Do vậy mà anh thêm phần ghét bỏ mảnh đất này. Anh đã từng nghĩ rằng trời đất đã cố ý chọn mảnh đất quê anh để tiến hành cải cách, tạp giao nhân chủng chăng? Khi nhìn vào gương, anh cũng phát hiện ra mình chính là một minh chứng cho suy nghĩ của chính mình. Mụ đàn bà vẩu răng giống hệt một con lừa cái đang trong thời kỳ động tình, không biết trong mồm nhai cái gì mà bọt trắng đùn ra hai bên mép, chửi chị dâu : Tao thừa biết con Na Ni nhà mày là giống của lão Đỗ. Toàn thế giới ai cũng biết mày mượn giống người khác để gieo xuống ruộng mình! Chị dâu nhảy dựng lên, hai tay vươn ra nhảy bổ về phía mụ ta, hai người đàn bà như hai con chó cái quấn chặt lấy nhau lăn qua lăn lại...

Nam Ni nói :

- Tề Văn Đống, anh đoán thử đề văn năm nay sẽ rơi vào phần nào?

Anh lắc đầu, nói :

- Đoán không ra, e rằng cũng lại là xem tranh viết luận, đại loại như chết khát mới đào giếng, gà qué rồng rắn gì đó thôi!

Nam Ni cười nói :

- Anh cũng có khiếu hài hước đấy nhỉ!

- Hài hước tối tăm, có loại hài hước nào trong sáng không? - Anh hỏi.

Nam Ni nói :

- Thầy La chuyên cung cấp cho lớp ôn tập của các anh những kiến thức lổn nhổn, loạn xị bát nháo. Cô Nhiệm ở lớp tôi không như thế, những gì có lợi cho kỳ thi thì cô ấy dạy, không có lợi thì cho qua. Bộ óc của học sinh chỉ có chút xíu, nhét những kiến thức chính thống vào đã đầy.

Lư Lập Chí nói :

- Có lợi tức là có hại. Bất kỳ sự vật nào cũng có mâu thuẫn. Thầy La dạy cực kỳ sinh động...

Khi đi qua những đám ớt, anh nhớ lại hai người bạn nhỏ tốt bụng. Lư Lập Chí và Nam Ni đều đã thi đỗ, lúc này có lẽ họ đang hoan hỷ sắp xếp hành trang, chuẩn bị đến trường đại học nhập học. Anh thầm chúc phúc cho cả hai. Ngày ấy, nếu không có hai người bạn nhỏ ấy, nhất định anh đã ngồi như ngây như dại trước hai con giun đũa, ngay huyện ly cũng không đến được chứ đừng nói là tham dự kỳ thi. Với sự giúp đỡ của họ, anh đã đến được huyện ly đúng vào hai giờ chiều. Vẫn còn một tiếng đồng hồ nữa. Anh chạy vào nhà vệ sinh, khi đi ra da mặt anh còn trắng bệch hơn trước. Thầy Phương lo lắng nhìn anh, hỏi anh có thể cố gắng được không, anh nói được. Thầy Phương dẫn anh đi ăn cơm, mỗi người một đĩa bánh mì chiên. Tất cả học sinh ăn xong thì chạy ào về nhà trọ nghỉ ngơi. Lư Lập Chí và Nam Ni, mỗi người cầm một chiếc bánh ga tô, đứng dưới bóng râm cây ngô đồng gốc Pháp vừa ăn vừa trao đổi điều gì đó rất say sưa. Anh cắn một miếng bánh mì chiên, vừa nuốt trôi xuống khỏi cổ họng là đã thấy bụng mình bắt đầu nhộn nhạo cả lên, hàng trăm hàng nghìn con giun đũa đang kêu réo om sòm, cắn nhau, giết nhau để tranh đoạt miếng bánh mì. Anh buồn nôn nhưng cố không nôn vì anh đã lập tức dùng hai ngón tay ấn mạnh vào làn da chỗ cuống họng mình. Thầy Phương dùng cái bát đen sì múc một miếng nước đưa cho anh, ý bảo anh uống nhưng anh lắc đầu xua tay không uống. Thầy Phương dùng bông thấm cồn lau tay, lầm bầm : Quá mất vệ sinh! Quá mất vệ sinh! Đúng là quá mất vệ sinh! Anh khom người đứng dậy, thầy Phương đỡ anh đi vào phòng nghỉ. Hai giờ ba mươi phút. Tất cả học sinh đều bò dậy chạy vội ra vòi nước công cộng rửa mặt. Khi đứng sắp hàng chờ rửa mặt, một vài đứa vẫn lẩm nhẩm đọc gì đó. Lâm trận mài thương, không sắc cũng sáng! Hai đứa ăn mặc bảnh bao đang ăn nhân sâm tẩm mật ong chúa, ba đứa đang mở hộp Não linh đan bỏ vội vào miệng, một đứa - nhất định là tín đồ đạo Thiên Chúa - đang làm dấu thánh giá, làm xong thánh giá lại đọc một câu Nam mô A Di Đà Phật, sao mà lộn tùng phèo! Không ai còn có khả năng cười lấy một tiếng, dường như từ xưa tới nay chẳng ai biết cười là gì. Đây là cuộc đấu tranh sinh tử! Đỗ thì thành người trên người, đi ra có xe, ăn có cá, gạo hiềm không ngon, thịt hiềm không thái nhỏ, trong sách tất có cái nhà vàng, học mà lo lắng tất làm quan! Không đỗ ắt sẽ rơi vào "địa ngục trần gian" , bán mặt cho đất bán lưng cho trời, tìm được một người đàn bà răng vẩu làm vợ e rằng còn khó hơn đường vào xứ Thục, khó hơn chuyện lên trời. Cậu học sinh đem Thiên Chúa giáo và Phật giáo hỗn hợp làm một thể đã khiến những gương mặt lo lắng đến thất thần nhếch lên được một nét cười khắc khổ nhưng lập tức tan biến. Những học sinh sắp hàng rửa mặt xong lại tiếp tục sắp hàng để vào nhà vệ sinh. Anh biết, vào nhà vệ sinh lúc này là do nhu cầu tâm lý nhiều hơn là nhu cầu sinh lý. Anh cũng biết trong mười học sinh đã từ nhà vệ sinh trở ra kia có đến chín đứa không tiểu được giọt nước nào, một đứa có tiểu được cũng chưa phải là đến lúc cần phải tiểu. Qua một hồi bận rộn, anh bám theo đội ngũ đi vào trường thi.

Hai giờ năm mươi phút, vào phòng thi, theo số báo danh ngồi đúng vị trí, chờ đợi, lo lắng, mỗi phút dài như một năm. Mắt của cán bộ coi thi trừng trừng như mắt hổ, hai tay chống nạnh khuỳnh ra như đang chuẩn bị sẵn sàng rút súng. Cô gái ngồi phía trước chếch về bên phải bỗng nhiên kêu lên một tiếng hệt tiếng kêu của loài hải âu, đầu gục mạnh xuống mặt bàn vang lên một tiếng kêu khô khốc. Khi mọi người đỡ cô ta dậy thì gương mặt đã trắng bệch, xem ra đã hôn mê bất tỉnh. Tay và chân anh túa mồ hôi dầm dề, những con giun đũa trong bụng như đang kêu réo, tiếng kêu sao mà giống với tiếng chim ríu rít vui tai. Anh nắm chặt lấy cây bút máy to thô, bỗng nhiên cảm thấy những chỗ liền với thịt của móng tay trông giống như vỏ đậu phụ phơi khô cuốn lại. Ba giờ chiều ngày chín tháng bảy năm một ngàn chín trăm tám mươi sáu sau Công nguyên, lão phụ trách báo giờ không nhấn chuông điện mà lắc lắc cái chuông đồng màu vàng. Cái chuông màu vàng sáng rực lấp lóa dưới ánh nắng mặt trời màu trắng, anh và tất cả bạn bè của anh có để ý cũng chẳng thể thấy được hình dạng của nó. Trong mơ mơ hồ hồ, anh nhận ra có một tờ giấy thi màu trắng tinh khiết giống như một bông hoa tuyết cực lớn rất uyển chuyển, mềm mại rơi xuống mặt bàn trước mặt anh...

- Vĩnh Lạc! - Anh Cả đang đứng ở bức tường phía tây nghiêm giọng nói. - Đi theo tao bơm thuốc! Thi cũng đã thi xong, trốn ở nhà làm gì? Đừng có mà như thiếu gia công tử thế! Chờ đến lúc giấy báo nhập học bay về, mày có muốn ra đồng tao cũng chẳng cho phép đâu!

Khi anh Cả nói, anh đang nhai hành và ăn bánh. Rau hành nồng và cay, anh nuốt không xuống. Anh cho rằng mùi cay nồng của lá và củ hành đã khiến cho nước mắt anh trào ra. Mẹ nhắm mắt hạ giọng nói với anh :

- Con trai, đừng có đau lòng. Chỉ trách bố con mất sớm. Ăn đi! Ăn xong miếng bánh này rồi đi theo anh Cả ra đồng. Anh con cũng chẳng còn cách nào hơn...

Anh đứng dậy đi ra sân. Cách bức tường đất cao khoảng nửa người, anh trông thấy mái tóc hoa râm của anh Cả. Bức tường này là do chị dâu, anh Cả cùng với anh đắp lên khi chia nhà. Năm gian nhà lá thấp tè, anh và mẹ được nhận hai gian, anh Cả và chị dâu ba gian. Anh Cả đang khom người cho lợn ăn, mùi chua loét của cám lợn xông lên. Hai con lợn đen Khắc Lang đập đập cái mõm dài như ống đồng vào cổng chuồng. Na Ni ngồi ngoài sân khóc, đứa con thứ hai Lan Ni đang khóc trong nhà. Đứa con thứ ba của anh Cả sinh đã được mười ngày đang nằm khóc trên giường. Ba đứa con, hai đứa sau là do vỡ kế hoạch, không biết là phải chịu phạt bao nhiêu tiền đây? Chị dâu thắt một vuông vải lam trên đầu, gương mặt phù thủng, tay xách thiếc thùng rỗng đứng ở giếng nước chuẩn bị bơm nước lên. Anh Cả cho lợn ăn xong, quay người lại quắc mắt nhíu mày nói với anh :

- Mày còn đứng như trời trồng ở đó làm gì? Mau đi sửa soạn đồ đạc bơm thuốc, đến nhà ông Tứ mượn bao thuốc 666. Đậu nhà ta bị loại sâu cuốn lá phá nát, không bơm ngay e rằng chỉ còn lại nhánh mà không có lá!

Chị dâu lảo đảo đến bên anh, mặt mày có vẻ thân thiện, ôn tồn lắm :

- Em à, giúp anh Cả tí nhé. Năm nay em thi rất tốt, đúng không? Chị nghe cậu Tam nhà Lỗ Liên Sơn nói là em làm bài tốt lắm, nếu không đậu đại học thì chắc chắn là sẽ đậu vào trung cấp chuyên nghiệp thôi. Đi học rồi, sau này kiếm được nhiều tiền, chớ quên rằng anh chị Cả đang sống khổ sống sở ở quê nhà nhé!

Anh tự hỏi : Có phải là tôi thi rất tốt không? Nhờ trời phù hộ tôi! Anh không cảm thấy phật lòng vì thái độ hung dữ của ông anh nữa, thái độ mềm mỏng đến bất ngờ của chị dâu khiến lòng anh cảm thấy ấm áp. Anh rời khỏi cổng, đến nhà ông Tứ mượn thuốc 666. Mẹ kiếp! Mẹ kiếp! Mẹ kiếp! Khi anh vác bao thuốc 666 năm mươi cân trên lưng vừa bước chân vào ngõ xóm thì nghe tay bộ đội phục viên Cao Đại Đồng đang gào lên trong sân nhà anh ta :

- Mẹ kiếp! Chết mẹ đi tho rồi! Một thằng thanh niên, không có vợ, một mình ở trong ngôi nhà ngói bốn gian, cô đơn đến chết thôi! Nếu có tiền thì mua chiếc tivi, máy thu thanh, máy cát xét, mở rầm trời lên có phải là đỡ chán không? Nhất định là đỡ chán rồi! Nhưng tất cả đều không có, vào nhà chỉ có một mình, ra khỏi nhà cũng chỉ có một mình. Một mình no, một mình đói, ngay cả người nói với mình một câu cũng không có. Đem cái đầu trên cổ này mà đá văng đi cho rồi! Chán quá! Cái thằng sửa máy tạp chủng ấy hứa là sẽ sửa cái máy thu thanh cho mình, nhưng nó có thèm sửa đâu, hay xách về đi tìm chỗ khác mà sửa? Chồn sóc đến chúc sức khỏe gà đầu năm! Đồ tạp chủng này!

Ban đầu, anh cho rằng tay bộ đội phục viên kiêm đảng viên cộng sản này đang giãi bày tâm sự với ai đó, nhưng chờ mãi vẫn không nghe thấy tiếng ai đối đáp với anh ta cả. Trong lòng anh cảm thấy buồn, bèn vất bao thuốc 666 xuống đất, do dự ngập ngừng bước về phía cổng nhà anh ta. Từ khe hở của cánh cổng nhìn vào, anh mới phát hiện anh ta đang cúi người, khuỳnh chân, mắt tròn xoe đối diện với khoảng không mà nói chuyện. Tay anh ta múa, chân anh ta hoa, cách biểu hiện tình cảm vô cùng phong phú, chằng khác nào một diễn viên chuyên nghiệp.

- Xem cái gì? Mẹ kiếp! - Anh ta giận dữ chửi anh.

Anh sợ hãi đến nỗi chân muốn khuỵu xuống, đang vội vã tìm lời để giải thích thì gã bộ đội phục viên Cao Đại Đồng to cao ôm mặt khóc rống lên :

- Ai mắc bệnh tâm thần? Đ. mẹ, mày mới là thằng tâm thần. Ông đây nam chinh bắc chiến, rừng tên mưa đạn đều đã nếm qua, không có công trạng gì thì cũng đã trải qua ít nhiều lao khổ, không có lao khổ thì cũng có được chút mỏi mệt và chán nản. Các người không đối xử với ông đây như con người, các người đều nhìn ông đây bằng cặp mắt băng phiến, các người đều chê cười ông đây không có vợ. Ông đây đã từng có vợ, nó ngủ với người ta bị ông đây bắt tại trận, dùng dây thừng trói chặt nó lại, dùng gậy đánh, dùng kềm lửa kẹp thịt nó, dùng bàn là để đốt da nó, nhúng đầu nó vào trong thùng tương ớt... Ông đây đã sử dụng bốn mươi tám hình phạt kiểu Mỹ, bốn mươi tám hình phạt kiểu Nhật nhưng nó thà chết chứ vẫn không chịu khuất phục! Nó mới là một đảng viên cộng sản chân chính! Các người còn dám cười ông đây không có vợ à? Thế thì các người đem con gái gả cho ông đây, ông đây thành ra kẻ có vợ thôi! Các người sợ rồi à, đi rồi à? Vừa nghe nói ông đây muốn cưới con gái mình, các người đã như con rùa rụt đầu vào trong mai rồi! Cút đi! Tất cả cút hết đi! Về nhà ôm vợ của các người mà làm tình đi! Các người tự sinh ra rồi tự tiêu diệt mình đi! Các người đều là một lũ mặt người dạ thú cả thôi! Các người đều là một lũ lừa dối "miệng nói ba hoa, đái chảy sè sè" ! Các người đều là loại cóc nhái, là loài thỏ, là đồ tạp chủng giao phối với nhau mà sinh ra, là đồ sâu bọ hại người! Các người đều là những thái tử đầu lừa, là những đầu trâu mặt ngựa do con lừa cái đốm đẻ ra! Các người không phải đang có quyền lực đấy sao? Ông đây còn có cái sẹo to bằng miệng chén trên đầu, ba mươi năm nay vẫn cứ là một trang hảo hán, ngay cả trời cũng không sợ lại đi sợ quyền lực của các người sao? Ha ha ha! Mày sợ ông! Ha ha! Mày sợ ông! Tay mày đang run lên kia kìa! (Lão ta đưa một ngón tay lên làm thành hình chiếc súng ngắn nhắm vào một kẻ địch vô hình nào đó). Chân mày đã phát run, môi mày đã cứng đờ, mắt mày nhìn như ngây dại, mồ hôi đã chảy, đã tè cả ra quần rồi. Thế mà mày còn bảo là không sợ ông sao? Ha ha ha ha...! Bây giờ ông đây đã biết dùng cách nào để đối phó với những con ba ba khốn kiếp như mày chuyên dùng quyền thế để chiếm đoạt vợ người khác rồi! Chúng mày chỉ là những con khỉ mặc áo quần mới, đội mũ mới mà thôi. Chúng mày là thứ chằng bằng loài lợn chó! Mày là thằng nào? Mày đừng có trốn tránh nữa, quần áo lượt là không đủ để che cái lương tâm chó má của mày! Bụng mày chứa toàn những âm mưu. Chính mày đã quyến rũ vợ ông, mày cho vợ ông đây mười đồng. Mày muốn chạy ư? Liệu mày có thể chạy đến đâu. Mày có chui xuống hang chuột thì ông đây cũng xách xẻng đứng trên miệng hang để chờ mày. Mày có chui vào lỗ tai lợn thì ông đây cũng lấy sáp ong nhét lại... Ha ha ha ha...! Con mẹ mày! (Lão ta ngẩng đầu lên, đôi mắt đầy ứ nước đùng đục, cười lên điên dại và dùng sức đánh thật mạnh vào mông mình).

Tay anh bíu chặt vào cánh cổng cũ nát, nước mắt túa ra như suối nhưng anh không biết mình khóc vì ai, vì cái gì...

- A! Nước mắt độc ác của loài rắn rết! Đồ chó chết các người! Kẻ mềm yếu thì sợ kẻ cứng cỏi, kẻ cứng cỏi thì sợ kẻ lỗ mãng, kẻ lỗ mãng chẳng sợ gì hết, ngay cả cái chết. Ông đây, Cao Đại Đồng, ngay cả chết cũng chẳng sợ, lẽ nào sợ đồ lợn chó như các người? Các người dùng chó săn, dùng dao của lính nhảy dù, dùng lựu đạn, dùng súng phun lửa, dùng lựu đạn cay, dùng mìn màu đỏ, dùng thuốc trừ sâu DDVP, dùng kẹo Bảo Tháp trừ giun, dùng máy nghe vô tuyến, dùng máy điện báo, dùng thủ đoạn lừa phỉnh để gian dâm, dùng thủ thuật buộc ga-rô, dùng thuật thôi miên, dùng cách đe dọa, dùng gà quay bơ xốp giòn, dùng bia Nghi Mông Sơn, dùng kính mắt gọng nạm vàng, dùng những bà vợ già mang bệnh tương tư, dùng những ông bố hư hỏng chuyên vào kỹ viện để dạng chân khoe của quý, dùng thuốc mê cực mạnh, dùng cách tra khám và cảnh sát dùng roi điện và còng số tám, dùng âm mưu và quỷ kế, dùng lời lẽ mỹ miều, hứa hẹn và thề thốt, dụ dỗ và lôi kéo, kỹ nữ và sắc đẹp, hải sâm và yến sào, lạc đà và tay gấu... cũng khó lòng làm ý chí ông đây dao động! Quân tử báo cừu mười năm chưa muộn! Ông đây lai vô ảnh khứ vô hình! Giết được một thằng là huề vốn, giết hai thằng là lời được một thằng! Mày còn nói là không sợ ư? Nhìn kìa, nước đái mày đã chảy ra rồi kìa! Loại hồ ly chuyên môn bắt gà trộm chó như mày xem mạng chó của mình nặng như Thái Sơn, ông Cao Đại Đồng đây vốn thô lỗ nên xem tính mệnh như hồng mao. Gió đông thổi trống trận vang, thế giới này cuối cùng thì ai sợ ai? Mày đừng có mà vờ vịt làm ra bề con cháu nữa! (Lão tiến lên trước một bước, nhắm thằng kẻ thù tưởng tượng, dũng mãnh vung tay lên tát mạnh. Kẻ địch nhất định là đã ngã lăn quay bốn vó chổng lên trời, còn lão cũng lạng người một cái). Mày cút đi! Ông đây không thèm động đến mày nữa, nhặt những đồng tiền thối tha của mày lên, tiền của mày quá sức bẩn thỉu. Loài quỷ dữ hút máu các người chuyên hút máu đàn ông, hút máu đàn bà. Mày không phải là người, vậy mày là cái gì? Mày chính là con bọ hưng trong các động đĩ, mông đít của kỹ nữ còn sạch hơn so với mặt mày ...!

Tiếng chửi của lão ta đã bắt đầu khàn, toàn thân lão như có một luồng khí nóng hầm hập bốc lên. Một cánh tay anh bị một bàn tay to tướng giữ chặt, một khuôn mặt đỏ ửng đầy căm giận đối diện với mặt anh, trên khuôn mặt ấy có một đôi mắt hình quả ớt và cay nồng đang thăm thú nhìn vào mặt anh - Nhìn cái gì? Có gì đẹp đâu mà nhìn chứ? Anh hoảng kinh giãy giụa né sang một bên. Một ông già xô mạnh cánh cổng và lao vào sân, nhắm ngay mặt Cao Đại Đồng giáng một tát thật mạnh. Ai đánh ông? Ai dám đánh ông? Cao Đại Đồng lắc lắc cái cổ, tròng mắt trợn ngược bất động hỏi. Đồ tạp chủng! Mày đúng là đồ lộn giống! Ông già giận đến run người, chộp lấy bộ quần áo rách nát trên người Cao Đại Đồng xé toang ra. Mày chửi trời chửi đất gì vậy hả? Mày điên rồi, điên thật rồi. Mày đã đắc tội với tất cả mọi người! Cao Đại Đồng vung cánh tay thật mạnh, phản kháng. Buông tôi ra, buông ra! Mày là bố ông à? Ông không nhận loại người gan bé như chuột làm bố đâu. Đừng để cho nó chạy thoát! Mày đứng lại, đứng lại ngay. Tao thay mặt cho nhân dân hành quyết mày!

Cao Đại Đồng giơ một tay lên làm cây súng ngắn và động tác bắn súng, miệng bắt chước tiếng đạn thoát nòng : Pằng! Pằng! Pằng! Cửa sổ hậu của dãy nhà ngói phía đối diện đột nhiên mở toang ra, một chiếc đầu to tướng bù xù xuất hiện. Chiếc đầu ấy vừa nghiêm khắc vừa từ tốn nói :

- Ông Tư Cao, đưa nó vào bệnh viện tâm thần đi, nếu không, có chuyện gì xảy ra ông phải chịu trách nhiệm đấy!

Lão Tư Cao ghì chặt đứa con trai đang điên cuồng giãy giụa, cười nhẹ nói :

- Chú Hai, lại làm kinh động đến chú rồi! Chú là đại nhân chớ có chấp nhặt bọn tiểu nhân làm gì, đừng đặt mình ngang hàng với kẻ điên khùng này.

Cao Đại Đồng vùng mạnh một cái, thoát khỏi đôi tay của lão Tư Cao, rồi hình như mọc cánh nhe nanh múa vuốt bổ thẳng về phía chiếc cửa sổ :

- Kẻ mà ông muốn giết chính là mày! Ông cần phải giết chết mày!

Anh ta bám vào bậu cửa liên tục nhảy lên thụp xuống. Chiếc đầu vừa ló ra ấy kêu lên một tiếng như gặp phải quỷ, vội vàng rụt vào, cánh cửa đóng sập, nhưng chỉ kịp đóng có một cánh, còn một cánh đang lắc lư chuyển động gặp phải nắm đấm của Cao Đại Đồng lao tới, "rắc" , tiếng kính vỡ loảng xoảng rơi xuống. Lão Tư Cao vớ chiếc đòn gánh nhào tới, vung ngang quất thằng vào lưng con trai. Chiếc đòn gánh kêu vun vút xé gió lao đến, đứa con trai đứng giơ lưng như trời trồng. Rồi như một nét sổ thẳng đứng, chiếc đòn gánh rít lên một cách đau khổ bổ xuống đầu đứa con trai. Cao Đại Đồng nhảy dựng lên, cách mặt đất ít ra cũng hai mươi phân, sau đó, như một con gà rừng bị trúng đạn, từ từ ngã dài ra đất... Anh trông thấy từ trong lỗ tai Cao Đại Đồng, một dòng máu đen như mực từ từ chảy ra, còn từ trong mắt của lão Tư Cao, hai dòng nước vừa đỏ như máu vừa đen như mực cũng từ từ chảy xuống... Mặt trời chiếu sáng rực, những con chim én màu xanh da trời bay nhanh như điện xẹt trên không trung. Chút chít chút chít chút chút thút chít chít chít... chính là tiếng rên rỉ tàn khốc của bầy chim yến vừa bay vừa giao phối trên trời... Còn gì nữa nhỉ? Chẳng còn gì nữa cả! Người anh hùng cuối cùng cũng đã bị đánh cho mê man rồi. Anh nhìn thấy những tia sáng mặt trời nghiêng nghiêng, gấp khúc, đen đúa đang bay lượn hỗn loạn giữa đất trời, một cảm giác tuyệt vọng xâm chiếm toàn bộ cơ thể anh. Anh bước đi được vài mươi bước thì quay lộn trở lại, vác bao thuốc 666 lên vai và hướng về phía cổng nhà mình...

... Mùi táo rữa nát từ chai thuốc xông lên càng lúc càng nồng. Muỗi bay đến dày đặc và từng đàn từng đàn rơi rụng trong cái mùi táo rữa nát ấy. Anh đưa chai thuốc lên môi, trước mắt bỗng nhiên xuất hiện một vòng sáng màu vàng đục ngầu, và anh trông thấy rõ ràng gương mặt tiều tụy và mái tóc dài rối bời bời của Thượng Đế, sau lưng Thượng Đế là thần Chết với gương mặt của quỷ dữ, mắt trong răng sáng, tóc xanh môi đỏ, quần áo lượt là. Muỗi bay loạn xạ đập vào trán anh, vào vành tai mỏng như tờ giấy của anh. Trống ngực đập thình thình khi anh thè lưỡi liếm thử mùi vị của 1059. Đầu lưỡi anh đau buốt như bị dao cắt, anh trở nên do dự, hai tay anh buông xuôi, ánh sáng màu vàng trước mắt biến mất, bầu trời đầy sao lấp lánh, một vành trăng non bẽn lẽn ngắm nhìn anh qua những kẽ hở của rừng cây đay, giống một nét lông mày như chau mà không phải chau, giống một đôi mắt tình tứ như yêu mà không phải yêu, lệ ngọc rưng rưng, nũng nịu dỗi hờn. Anh nghĩ giữa đất trời có lẽ vẫn còn có sự ấm áp tha thiết, và khi anh đào bới tâm hồn để tìm kiếm sự ấm áp thì ánh sáng màu vàng biến mất, hoa đay màu trắng đục như những cánh bướm đêm ẩn hiện chập chờn trên những cành lá như ngầm báo với anh rằng, tuổi xuân khó lòng giữ mãi. Hoa đẹp chóng tàn, chuyện vui chẳng kéo dài lâu, phẩy tay bỏ mặc mới thấy thoải mái một đời hơn.

Giống như phối cảnh trên sân khấu, hoa đay bỗng nhiên thay đổi. Ánh sáng mặt trời rực rỡ bao trùm vũ trụ, tiếng chim yến líu lo, tiếng sóng tung trào trên sông. Những làn gió hiu hắt như dính chặt, như xoay vần quanh bao thuốc 666 trên lưng anh, mùi khói bụi nồng nặc như chui vào và dính chặt trong lỗ mũi anh. Anh hắt hơi liên tục, cái sau vang hơn cái trước. Khi anh hắt hơi, trước mắt anh vừa tối vừa sáng, như trong đêm đưa tay ra mà không thấy lòng bàn tay, hình như xoang mũi và lỗ mũi là dao đánh lửa và đá lửa, hắt hơi chính là đang đánh lửa, tiếng hắt hơi là đá lứa tóe ra sáng rực. Trong đầu anh thấp thoáng hình ảnh Cao Đại Đồng với lỗ tai đang rỉ máu đen kịt và lão Tư Cao với dòng nước mắt màu đỏ quạch. Những lời chửi ứa máu sang sảng, đầy lâm ly của Cao Đại Đồng như một dải lụa rực rỡ sắc màu cứ trườn qua trườn lại trong tâm trí anh, áp vào vết thương rất sâu trong tim anh; và từ trong lời chửi ấy, anh nhận ra một chút chân thành cuối cùng trong thế giới loài người này, một chút hào quang nhân tính cuối cùng trong thế giới ảm đạm vô thần này. Trong cái chợ náo nhiệt đầy ô uế này, ngay cả một chiếc bảo đao bằng kim cương cũng phải han rỉ thôi! Những chiếc loa phóng thanh công suất cực lớn mắc đây đó trong thôn sau khi phát xong chương trình thời sự đã chuyển sang phát những bài hát điếc tai. Tiếng nhạc có sức nẩy như lò xo cực mạnh, trong lời ca của cô gái tràn trề sự lừa lọc và đầy cạm bẫy. Buổi sáng, không khí như nở căng ra, chẳng khác nào một chiếc săm xe bơm đầy hơi.

Mày chạy đi đâu vậy? Có chạy đến phố huyện để mua thì cũng đã về đến nhà rồi! Anh Cả đang đứng ở giữa sân, giận dữ quát nạt anh. Anh không muốn giải thích, ngay cả sức lực và sự ham muốn nói một câu gì đó lúc này cũng hoàn toàn không có trong anh. Anh Cả còn dấm dẳng nói câu gì đó nữa nghe không rõ, bực bội xô mạnh cánh cổng rồi đẩy chiếc xe cút-kít ra ngoài, hai bình phun thuốc bột treo hai bên thùng xe. Anh bê bao thuốc 666 bỏ lên trên thùng xe. Đi thôi! Suy cho cùng cũng chỉ là "hận thiếc không thành được gang" nên giọng nói của anh Cả đã có phần mềm mỏng hơn. Anh khom người cầm lấy càng nhấc chiếc xe cút-kít lên, đẩy đi được bốn năm bước thì giáp mặt một đám đông dang ngáng đường chặn đứng chiếc xe lại. Anh nhận ra người dẫn đầu cao lớn chính là chủ nhiệm Hội nông dân thôn, bên cạnh ông ta là một mụ đàn bà vú to, là ủy viên phụ trách công tác sinh đẻ có kế hoạch trong chính quyền xã. Sau lưng họ là tám người nữa, toàn là một bọn chuyên đuổi gà rượt chó, lưu manh côn đồ chuyên đi gây sự. Bọn họ là lực lượng kiên trung nhất được xây dựng nên để duy trì uy quyền tuyệt đối của lãnh đạo thôn theo chỉ thị từ thượng cấp. Tám người này đều có quan hệ dây mơ rễ má với nhau, thôi thì anh em chú bác cô dì dâu rể loạn xị, chẳng biết phân biệt thế nào. Ai trong thôn gặp người nào trong số họ cũng sợ. Ai dám không sợ chứ, khi không chỉ là đống cỏ sau nhà tự nhiên bốc cháy mà con lợn béo ú trong chuồng tự nhiên trúng độc lăn đùng ra chết.

Vừa trông thấy đám đông này, toàn thân anh Cả bỗng nhiên run rẩy, sắc mặt trắng bệch, tay chân lóng ngóng vụng về. Chủ nhiệm thôn nói: Tề Văn Lương! Nghe nói vợ anh đã sinh đứa thứ ba? Anh Cả nói : Không... không có... - Chủ nhiệm phẩy tay : Vào trong mà xem! Anh Cả giang tay ra chắn ngang đường, nói : Sinh rồi... - Chủ nhiệm nói : Huyện đang tổ chức bắt những kẻ điển hình cho việc phá hoại kế hoạch sinh đẻ, anh làm điển hình vậy! Anh Cả nói : Sinh con thứ ba không phải chỉ có một mình tôi, dựa vào cái gì để bắt tôi trở thành điển hình? Chủ nhiệm nói : Đây cũng không phải là ý kiến của tôi mà là chỉ đạo của huyện! Mụ đàn bà vú to có vẻ bất mãn, liếc xéo chủ nhiệm thôn, nói : Chủ nhiệm, không cần phải nhiều lời vô ích. Sinh đẻ kế hoạch là quốc sách hàng đầu, đề xướng sinh một, hạn chế sinh hai, cấm tiệt sinh ba. Tỉnh đã thỉ thị là bằng trăm phương nghìn kế phải làm cho tỉ lệ tăng dân số giảm thiểu. Huyện cũng đã chỉ thị là, cái gì cũng có luật pháp, chỉ có sinh đẻ kế hoạch là không có luật, cho nên bằng cách nào cũng được, miễn là giảm được tỷ lệ tăng dân số thì đều là phương pháp tốt. Xã chỉ thị, sinh con thứ hai phạt hai nghìn đồng, sinh con thứ ba phạt ba nghìn đồng, đồng thời phải cưỡng chế phẫu thuật triệt sản. Trong đội sản xuất của ông còn có đề ra chính sách nào nữa hay không, tôi không biết! Chủ nhiệm thôn nói : Tề Văn Lương, anh đã nghe rõ cả thưa? Đây không phải là do tôi không nể tình làng nghĩa xóm, nhưng đây là chỉ thị của cấp trên, tôi đành bó tay. Anh có ba nghìn đồng để nộp không? Anh Cả khóc òa lên : Chủ nhiệm, ông xem hình hài tôi thảm hại thế này, vợ tôi lại đang mang bệnh, con lại đông, nuôi mẹ già, lại phải cung cấp cho em ăn học, kiếm được một đồng phải tiêu mất hai đồng, có đánh chết tôi cũng chẳng thể tìm đâu ra ba nghìn đồng được. Chủ nhiệm nói : Thế thì đành phải xiết những đồ dùng trong nhà của anh, mang về trụ sở thôn cất giữ. Anh tìm ra đủ ba nghìn thì nhận lại mang về! Anh Cả quỳ xuống đất, dập đầu van nài : Chủ nhiệm, ông không thể làm như vậy. Ông không thể tuyệt đường sống của cả gia đình tôi... - Chủ nhiệm thôn có vẻ đồng tình : Tề Văn Lương, anh làm gì vậy? Đứng dậy, đứng dậy đi! Ai không để cho anh sống nào? Anh cho rằng tôi tự nguyện đắc tội với mọi người sao? Đừng nói em trai anh trước mắt là một sinh viên, biết đâu rằng trong tương lai sẽ thành một cán bộ cao cấp, cho dù anh là một kẻ khốn cùng tôi cũng chẳng dám đắc tội với anh, gây thêm mối thù là tự tuyệt một con đường sống. Tôi cũng còn vợ còn con. Đứng dậy đi! Đại Đức Tử! Mày dẫn mọi người vào nhà đi! Mụ vú to nói : Trước tiên chưa vội xiết đồ đạc mà phải đưa ông ấy đi đến bệnh viện triệt sản đã! Đại Đức Tử bước lên lôi anh Cả đứng dậy, nói : Ông anh, đi thôi, đi mổ trứng! Anh Cả sợ đến độ sắc mặt vàng như đất sét, kêu khổ vang trời : Không... không... Tôi không đi... Tôi đang ốm... - Chủ nhiệm thôn nói : Anh đừng khóc, đàn ông hơn ba mươi tuổi, sao lại như một bà già kêu ca sướt mướt làm vậy. Nếu anh bị ốm thì xử lý vợ anh vậy! Mụ đàn bà vú to nói : Triệt sản đàn bà bảo đảm hơn triệt sản đàn ông nhiều! Anh Cả nói : Cô ấy cũng không được, nhất định không được. Cô ấy vừa mới sinh con, chưa hết ở cữ kia mà! Mụ đàn bà vú to quát lớn : Đừng ngăn cản chúng tôi thi hành nhiệm vụ nữa!

Cửa nhà bị xô đánh rầm, gà trong sân hoảng hốt bay toáng lên. Anh quay mặt lại nhìn, chị dâu đầu tóc rối bù như một con quỷ, tay cầm một chiếc ghế vuông chạy thẳng ra bức tường phía tây, định trèo tường chạy trốn. Chủ nhiệm thôn hô lớn : Đừng để cho nó chạy thoát! Như một đàn ong, tám người đàn ông cao lớn nhất tề xông đến, kẻ nắm thân, người chụp eo, lôi chị dâu từ trên đầu tường xuống. Chiếc ghế ngã chổng kềnh ra đất, đập vào chân tám kẻ sai dịch. Chị dâu vùng vẫy, chân đá tay cấu, miệng kêu gào tuyệt vọng. Na Ni thấy mẹ bị bắt, kêu thét lên. Tiếng kêu con bé chẳng khác nào tiếng sáo trúc cao vút, nhọn sắc phân biệt rất rõ ràng với tiếng la hét om sòm của đám người kia. Ở trong nhà, hai đứa nhỏ còn lại cũng khóc lên ằng ặc, ngoài sân loạn xị bát nháo. Đôi mắt anh Cả như đầy máu, khom lưng vươn đầu, cố nén một bầu uất khí trong lòng, nhưng trước khi nén bầu uất khí, anh gào lên thê thảm : Tôi không sống được nữa rồi! Rồi dùng đầu nhằm thẳng bụng chủ nhiệm thôn lao đến. Chủ nhiệm thôn chủ quan không đề phòng, bị húc ngay chính giữa bụng, thối lui một bước rồi ngã ngửa ra, mặt vểnh lên trời. Bốn trong số tám gã đàn ông kia xông lại, như bốn hổ chuẩn bị xé xác một dê, chụp lấy anh Cả giữ chặt lại, cả bốn đều thở hồng hộc, những dòng nước dãi chảy xuống ròng ròng. Chủ nhiệm thôn bò dậy, mặt lúc đỏ lúc xanh, lồng ngực lúc căng lúc xẹp, xem ra cơn giận đã lên tới cực điểm. Nhưng chỉ trong giây lát, sắc mặt đã trở lại màu vàng xỉn bình thường và một nụ cười khoan dung nở trên làn da mặt vàng xỉn ấy. Lão ta cười nói : Tề Văn Lương! Anh hồ đồ quá! Anh nghĩ rằng đây là chuyện chú anh đây muốn làm à? Đây là chuyện của đảng, là chuyện của nhà nước. Anh sinh ra trong một gia đình khác, một thân phận khác nên không thể ăn được một hạt cơm trong bát cơm nhà ta, cũng không thể nhổ được một cọng cỏ trên phần mộ tổ tiên nhà ta. Anh muốn dùng đầu để húc chết ta cũng không thể cản dược chuyện vợ anh phải triệt sản. Đảng cộng sản sợ tất cả, nhưng không sợ cứng. Anh có cứng hơn thép không? Dân tâm như thép nhưng quan pháp như lò. Oắt con! Chớ nằm trong đĩa mà không biết đĩa sâu hay cạn! Thả nó ra, để cho nó tự suy nghĩ! Chủ nhiệm thôn khoát tay ra hiệu cho bốn người kia, dáng vẻ khoan dung đại độ vô cùng. Anh Cả giống hệt một khúc gỗ, đứng sững, chỉ há miệng thở lấy thở để.

Mẹ lạch bạch như vịt bơi nước cạn chạy ra. Mẹ nặng tai nên nghiêng đầu hỏi anh Cả : Đồ tạp chủng, lại gây ra họa gì nữa rồi? Chúng mày đúng là đồ tạp chủng, đến bao giờ thì tao mới hết lo lắng cho chúng mày đây? Chị dâu trông thấy mẹ chẳng khác nào trông thấy cứu tinh, gào khóc : Mẹ ơi! Cứu con với mẹ ơi! Bọn cường đạo này muốn trói con đưa đến bệnh viện triệt sản. Mẹ ơi! Con vẫn chưa sinh được cho nhà này một đứa cháu đích tôn, bây giờ phải triệt sản tức là đã cắt đứt việc hương hỏa của nhà họ Tề rồi! Mẹ nghe rất rõ những lời chị dâu vừa kêu gào, lảo đảo xiêu vẹo đi đến trước mặt chủ nhiệm thôn, kêu tên cúng cơm của lão ta ra mà chửi : Chó ghẻ! Mày đúng là loài vô lương tâm, là loại lục thân không nhận. Mẹ mày chính là thím thúc bá của tao, tao với mày chính là chị em, con tao cũng chính là con mày, đúng không? Chủ nhiệm thôn nói : Chị à, đừng có giận dữ. Chính vì chúng ta là người thân họ hàng nên tôi càng phải chí công vô tư. Nếu tôi bao che cho người thân thích thì làm sao tôi quản lý được cả thôn này? Mẹ nói : Mày có nói những lời mật ngọt đến đâu cũng lừa không được tao đâu. Mày chỉ muốn nhà tao tuyệt tự thôi! Chủ nhiệm nói : Nói lý với mấy bà già này, nói cả ngày cũng chẳng thông đâu. Tề Văn Lương! Tất cả mọi chuyện đều đã bày ra trước mắt rồi đấy, rượu mời không uống chỉ đòi uống rượu phạt! Anh Cả ngồi bệt xuống đất, hai tay ôm đầu khóc hu hu. Mẹ nói : Đồ súc sinh tiệt trời hại lý như các người, muốn triệt sản thì cứ triệt tao đây, tao tự nguyện đi thay cho con dâu tao! Mụ vú to che miệng cười, nói : Ôi chao, bà già này, đúng là... đúng là... - Chủ nhiệm thôn lừ mắt nói với mấy gã đại hán : Không lôi thôi nữa! Làm đi! Cho dù chị dâu có liều chết giãy giụa, nhưng dưới tám chiếc gọng kềm của bốn tay đại hán nọ chỉ còn chút bản lĩnh cuối cùng là gào khóc mà thôi. Mẹ nhào tới liền bị Đại Đức Tử xô một cái. Như một cây gỗ mục, mẹ ngã lăn ra đất. Anh cũng nhào đến chụp lấy cổ tay Đại Đức Tử, nhưng ngay lập tức anh cảm thấy tay mình tê dại. Anh gào lên : Không được đánh mẹ tôi! Đại Đức Tử nheo nheo đôi mắt có hai con ngươi màu vàng, giọng khàn đục : Thằng nhóc, bỏ tay ra! Muốn động thủ à? Mày chẳng qua là dưa chuột muốn chọi với sừng trâu, nát bấy bây giờ. Muốn đem văn chương lý lẽ ra nói à, tao chẳng bằng mày đâu! Anh khiếp đảm thả tay ra, những ngón tay tê dại cong vẹo duỗi không thể thẳng ra được. Anh hỏi chủ nhiệm thôn, giọng anh như van xin một chút tình cảm : Các người không có lấy một chút tinh thần nhân đạo nào sao? Chủ nhiệm thôn nghi nghi hoặc hoặc nhìn anh trong khoảng thời gian ít nhất là năm phút mới thở ra một hơi dài, nói : Mày có mắc bệnh gì không đấy? Đây là nông thôn! Hiểu chưa? Lời chủ nhiệm thôn như một cú gậy giáng vào đầu khiến anh hoàn toàn trở nên tỉnh táo. Bốn gã đại hán đã lôi chị dâu đi rất xa rồi, còn lại bốn gã đang chờ chủ nhiệm thôn ra mệnh lệnh xiết đồ đạc trong nhà. Chủ nhiệm thôn nhìn anh, nói rất cương quyết : Tất cả do tôi chịu trách nhiệm, không xiết đồ đạc nữa. Tề Văn Lương! Ba nghìn đồng, anh cứ chuẩn bị đó rồi nộp sau. Bà chị già ơi, chị không cần phải khóc nữa đâu. Đây là xã hội, ai được ai mất dễ gì, vả lại, có ai được mãi đâu? Anh Cả đứng bật dậy, muôn phần cảm động, kêu lên một tiếng "Chú" rất thân thiết. Chủ nhiệm thôn nói : Tề Văn Lương! Đi theo họ mà săn sóc vợ, gắng mua con gà hầm cho vợ anh ăn. Dù to hay nhỏ gì cũng đều là phẫu thuật, vả lại, nó vẫn còn đang ở cữ, yếu lắm! Anh Cả dạ vâng liên tục. Chủ nhiệm thôn dẫn đầu, tiếp theo là bốn gã đại hán, cuối cùng là mụ đàn bà vú to sắp thành một hàng lắc la lắc lư bỏ đi. Mẹ lạch bạch đi vào nhà anh chị Cả để chăm sóc ba đứa nhỏ đang kêu khóc om sòm. Anh Cả co giò chạy theo chị dâu, vừa chạy vừa kêu gào, nhưng chỉ được khoảng vài chục bước thì quay đầu lại, hét to : Vĩnh Lạc, mày đi phun thuốc một mình đi! Phun nhiều thuốc cho đậu. Sâu cuốn lá mà không trị ngay là không được đâu...!

Anh phun thuốc bột lên đám đậu xanh xanh vàng vàng, nhớ lại nét mặt anh Cả khi quay lại nhìn anh. Anh nghĩ, tất cả đàn ông bị thắt ống dẫn tinh xong, ngồi dậy trên chiếc giường phẫu thuật, chắc chắn nét mặt ai cũng giống mặt anh Cả lúc ấy. Anh Cả không bị triệt sản, anh Cả chỉ chạy theo người vợ sắp bị triệt sản thôi nhưng lại có vẻ mặt của người sau khi bị triệt sản, như vậy tuy chưa bị triệt sản nhưng anh ấy cũng chẳng khác nào người đã bị triệt sản rồi... Tay anh vẫn đều dặn đưa qua đưa lại chiếc cần phun thuốc, nó đang kêu lên inh ỏi chẳng khác một chiếc còi báo động. Chiếc đai dính dâm dấp thuốc độc thắt chặt vào chiếc cổ gầy nhẳng khiến đầu anh chúi xuống. Trên đồng, ngoài anh ra còn có mấy người phun thuốc nữa, bình bơm của họ cũng kêu lên xè xè. Anh bắt chước những người nông dân đang bơm thuốc ấy, cởi phăng tất cả chỉ để lại một chiếc quần cộc cũn cỡn trên người nhằm tránh thuốc độc thấm vào quần áo. Chân trần, lưng trần, đầu trần... những đốt xương trên người anh hiện ra lồ lộ. Quai đeo của chiếc bình bơm hình tròn thít chặt lấy cố anh. Tay phải anh nắm chặt lấy cần phun có hai vòi phun dài ngoằng nâng cao lên, tay trái cầm cần bơm hơi nâng lên hạ xuống. Từ đầu hai vòi phun, tiếng kêu xè xè đáng sợ vang lên và thuốc bột khô khốc, nồng nặc tuôn ra như khói, như sương một cách giận dữ như bị kềm nén cả năm trong bình. Bằng tất cả sức lực của mình, anh đưa qua đưa lại cần phun một cách điên cuồng; cùng với sự điên cuồng của anh, thiếc bình bơm cũng lên cơn co giật rít lên inh ỏi như muốn xé nát không gian. Anh cảm thấy một niềm hoan lạc chưa từng xuất hiện trong anh. Hoan lạc! Hoan lạc! Hoan lạc! Chiếc cần phun trong tay anh vẫn không ngừng di động, một kiểu di động không bình thường, thuốc độc hiệu 666 ào ào tuôn ra từ những lỗ nhỏ trên đầu cần như chất chứa bao điều lo nghĩ, phiền muộn lẫn uất ức làm cho ruộng đậu đầy lá vàng xanh lốm đốm cũng rùng rùng chuyển động. Hoa đậu trắng tinh rơi lã chã xuống đất, những con sâu cuốn lá màu xanh biếc như lông chim phỉ thúy cong mình sùi nước dãi đau đớn rơi xuống đất. Sương sớm vẫn chưa tan, bột thuốc dính trên lá đậu bẩn thỉu làm thành một lớp mỏng màu hồng sậm, đẹp đến mê hồn. Anh xiêu xiêu vẹo vẹo bước đi, thân đậu đầy gai mềm chích nhẹ lên ống chân để trần của anh. Sau khi tiếp xúc với lá đậu, bột thuốc 666 lại bay bật trở lên. Bụi mù màu trắng hồng hình những chiếc nấm bao vây lấy anh. Anh đi trong màn khói độc do chính mình tạo ra, không dám thở, không dám mở mắt, chỉ quan tâm đến việc quơ qua quơ lại chiếc cần bơm, chỉ biết lảo đảo đi về phía trước, trong đầu thỉ có một nguyện vọng : Hủy diệt tất cả! Qua một hồi lâu, cánh tay anh trở nên tê dại, tần suất đưa cần bơm ngày càng chậm dần, đôi chân cũng không còn nhanh nhẹn nữa. Mồ hôi túa ra từ những lỗ chân lông ngay lập tức hấp thu bột thuốc, dính dấp, nhầy nhụa. Bột thuốc có tính ăn mòn cực mạnh thâm nhập vào da thịt anh, giết chết các tế bào thần kinh của anh. Tâm trạng anh tê dại, da thịt anh nhức nhối. Ma sát giữa bình thuốc và da lưng, giữa quai bình và da cổ, giữa lá đậu và cành đậu với da chân chính là những căn nguyên gây thêm sự đau đớn trong toàn thân anh. Hai lỗ mũi anh bị bột thuốc bít nghẹt, hơi thở anh thật nặng nề, anh há miệng thật to để thở, bột thuốc thừa cơ hội ấy đột nhập và cổ họng anh cũng bị nghẹt cứng. Nước trong hốc mắt anh hòa với bột thuốc biến thành một thứ thuốc đặc sệt như bùn hòng phá hoại tròng mắt của anh. Sinh ra trên đời này, anh vốn là một kẻ mày thưa mi ngắn! Trong sự đau đớn như có muôn ngàn mũi kim châm vào cơ thể, anh lại cảm nhận được một sự hoan lạc mỏi mòn. Hoan lạc! Hoan lạc! Hoan lạc! Không phải trong niềm hoan lạc sinh trưởng mà là trong niềm hoan lạc diệt vong!

Cuối cùng thì anh cũng bơm xong bình thuốc thứ nhất. Anh cởi bỏ thiếc bình bơm nhẹ tênh trên lưng, lảo đảo xiêu vẹo đi về phía con mương thủy lợi đầy ắp nước trong xanh, vừa đi vừa nghĩ mình rất giống một con ếch bị lột sạch da và được bọc lại bằng bột tẩm gia vị trong một chảo dầu đang sôi. Anh dùng sức khoát nước kỳ cọ thật mạnh lên mắt, cuối cùng thì một con mắt đã mở ra được. Rất khó khăn, anh nhận diện cái bóng của mình phản chiếu dưới mặt nước. Anh kêu lên thảng thốt rồi chân anh vổng lên trời, đầu anh chúi xuống dưới đâm thẳng xuống con mương ấm áp như dòng sữa ấy.... Anh đang chìm, chìm xuống một cách hoan lạc; toàn thân đau đớn như bị dao cắt. Nói gọn lại là chìm xuống một cách hoan lạc đầy đau đớn. Đầu anh đụng phải loài cỏ nước, đụng phải lớp bùn mềm như mỡ dưới đáy mương. Ngoi lên thôi! Trong lúc ngoi lên mặt nước, anh chợt nghĩ mình chẳng khác nào một con sâu cuốn lá khổng lồ, một con sâu cuốn lá khổng lồ trúng phải thuốc độc 666! Anh bơi thật nhẹ nhàng trên mặt nước, những giọt nước trong vắt nhảy nhót trên vai khi anh đứng thẳng dậy. Mấy con cá đang bơi trong lòng mương liều lĩnh đâm vào bụng, vào chân anh. Lại một cảm giác hoan lạc dâng lên. Anh khóc trong hạnh phúc, tiếng khóc rất to. Anh giấu đầu mình vào nước, cảm thấy dòng nước trong mát đang xông vào cổ họng anh để tẩy rửa hết những gì độc địa và ố tạp trong ấy, cảm thấy tiếng khóc của mình xông lên mặt nước biến thành những chuỗi bong bóng nước nổ lép bép... Sau đó, anh đứng bên bờ mương ngắm nhìn cánh đồng mênh mông bát ngát, màu xanh hình như đã nhạt, đã sạch hơn một tí. Không khí trong lành mát rượi bầu trời màu xanh lam, chim sẻ bay lượn vòng vèo tít trên cao và nhẹ nhàng réo gọi nhau. Ba người nông dân cùng phun thuốc sâu trên đồng không hề nghỉ tay, những thao tác của họ không vội vàng, cũng chẳng hề trì hoãn. Do một duyên cớ xa xăm nào đó mà bình bơm của họ không hề kêu lên như còi báo động mà lại giống như những nết nhạc êm dịu trầm bổng. Bụi thuốc bám dày một lớp trên thân thể để trần của họ, dưới ánh mặt trời chói chang, toàn thân họ như phát sáng. Trông họ chẳng có biểu hiện gì của sự hoan lạc hay thống khổ. Anh khâm phục vô hạn và say mê ngắm nghía tư thế lao động vô cùng ung dung của họ, trong lòng có một chút xấu hổ, cúi đầu buồn bã. Khi ngẩng đầu lên, anh phát hiện một quang cảnh vô cùng tráng lệ : Ba bình phun thuốc ấy vẫn cứ tỏa ra những làn khói độc nhưng sau lưng ba người nông dân là những đám mây hồng rực rỡ biến hóa liên tục, lúc thì như đồi núi, lúc thì như cao nguyên, lúc thì như thảm hoa mùa xuân, lúc thì nhu rừng cây mùa thu... và có lẽ sự biến hóa này còn kéo dài đến vô cùng vô tận.

Vọt ra khỏi vùng khói bụi dày đặc của thuốc độc 666, anh thở ra một hơi dài khoan khoái. Sương giá thấm ướt nhẹp đầu tóc anh, lúc này trong thôn chắc đã lên đèn. Cách khoảng ba dặm hướng chính bắc, một chiếc máy cũ rích bắt đầu kêu rống lên. Đó chính là chiếc máy xay của nhà bí thư chi bộ thôn tranh thủ thời cơ có điện hiếm hoi để xay ngô và lúa mạch cho bà con trong xóm. Vợ con của bí thư đều lao vào việc xay xát, người thì cân cân đong đong, người thì xốc bao bì. Tất cả đều lao động, tất cả đều kiếm tiễn. Đêm nay toàn thôn sáng quá, sáng đến độ khó ngờ. Mười năm mới có một năm nhuận tháng Chạp. Điện về nông thôn rất hiếm hoi, cái xóm của anh lại càng hi hữu. Anh nghe mọi người nói rằng, những ngày giáp Tết các bậc trưởng bối trong làng đem cả một xe thịt lợn thành phẩm đến Cục quản lý điện để xin điện trong những ngày Tết đã bị những cán bộ ở đấy quát cho một trận ra trò và đuổi về. Vị trưởng thôn ở thôn kế bên trình độ văn hóa rất cao, lại có cách ứng xử của người thành phố, đã dùng toàn bộ số tiền phạt thu được từ chính sách kế hoạch hóa gia đình mua hai bao tải tôm biển tươi rói to đùng, bỏ lên xe con đưa đến tận nơi nên đã được tiếp đãi rất long trọng. Chính vì vậy mà Cục quản lý điện không cấp điện cho thôn anh. Họ chỉ cho thôn tôm biển dùng mà không cho thôn thịt lợn dùng. Mọi nhà trong thôn anh đành phải dùng đèn dầu để soi sáng những bóng đèn, những dây điện phủ đầy cứt ruồi để mà ăn cơm. Hôm nào có điện về, ai ai cũng vui đến độ phát cuồng, chiếc bóng hai lăm oát được tôn vinh như vầng thái dương sáng soi vạn trượng, chiếu đến đâu thì ở đó sáng rực lên, chiếu đến độ tâm hồn con người cũng rực sáng. Nhưng rồi, một chiếc mồm gớm ghiếc chẳng còn chiếc răng nào đã thổi một luồng gió lạnh chẳng khác nào không khí từ dưới địa ngục xông lên thổi tắt những đốm sáng chỉ bằng hạt đậu ở những chiếc đèn dầu. Đèn điện cũng đi rồi! Không chỉ thổi tắt những chiếc đèn dầu mà luồng gió ấy còn thổi tắt cả đèn điện. Những đôi mắt đã quen với đèn điện không chịu việc nữa. Một màn đêm, tối đen đến độ chưa từng có, tất cả mọi người đều bị mù.

Còn tiếp Phần 2 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét