Mặt nạ kịch Noh - Những giấc mơ vĩnh hằng
Yugen và Noh
Như linh hồn và thể xác: không
có yugen, Noh không có linh hồn
và chỉ với Noh, yugen mới
thể hiện vẹn toàn ý nghĩa tinh túy nhất.
Yugen (幽玄) là
một khái niệm mỹ học được các nhà thơ waka và tác gia kịch No đề xướng từ thế kỷ
12 đến thế kỷ 15. Yugen mang một ý nghĩa rộng chỉ bầu không khí mang tính thần
bí, u ám, thâm sâu, ưu mỹ, tính nước đôi, tĩnh lặng, biến chuyển và buồn
thương. Theo bản nguyên, khái niệm này ở Trung Quốc để miêu tả những điều thâm
sâu mà con người không thể thấy và lý giải được. Từ này cũng được sử dụng nhiều
trong Phật Giáo, biểu thị chân lý tối hậu không thể nắm bắt bằng tri
tính (theo: Những khái niệm then chốt của mỹ học Nhật Bản)
Yugen có nghĩa
là u huyền: sự huyền bí có tính chất u tịch. "U huyền vốn là một
từ Hán Nhật dùng để chỉ những cảnh giới sâu xa, vi diệu và thần bí mà con người
không dễ dàng nắm bắt được, tuy nhiên trong thời kỳ trung đại, đây lại là từ để
chỉ một trạng thái lý tưởng mà ở đó vẻ đẹp tao nhã đóng vai trò chủ đạo khiến nảy
sinh những cảm xúc hay tâm trạng sâu xa nằm ngoài ngôn ngữ" (Mitsuyoshi
Numano: Văn học Nhật Bản - một số đặc trưng nổi bật). Chính tinh thần
Yugen đã làm cho Noh "vi diệu và thần bí" để đạt tới độ "vẻ
đẹp tao nhã đóng vai trò chủ đạo" này.
"Mục đích của Noh không
phải là việc kể một câu chuyện hay giảng dạy đạo đức, (Noh) đơn giản chỉ là sự
biểu hiện của vẻ đẹp"(1). Không có loại kịch nghệ nào duy mỹ và vị cái đẹp
đến vô cùng tận như Noh.
Do tương đồng với quan niệm
của thiền nên kịch Noh không quá lộng lẫy, phô trương, cũng không quá dân dã mà
giản dị, sâu lắng và mang đậm tính u huyền, bao gồm 3 nguyên tắc là Myoka (vẻ đẹp
mỹ miều như một bông hoa), Hie (vẻ đẹp cô quạnh, lạnh lẽo) và Mumon (vẻ đẹp nội
tâm mà không cần cất thành lời). (theo: Xuan Phong)
Mỗi vở kịch Noh là một câu
chuyện kể về những nhân vật ban đầu còn vướng mắc, hệ lụy, linh hồn
không siêu thoát… sau thức tỉnh. Noh không dựa vào thần thoại dù vẫn có bóng
dáng thần linh, ma quỷ. Noh thích kể về cuộc đời của những con người tài sắc,
những anh hùng… để qua đó thể hiện cái đẹp – cái đẹp linh thiêng của đời sống,
chứ Noh không diễn tả những cảm thức có kịch tính cao độ . Noh hướng đến sự cô
đọng, tập trung để đạt đến cái đẹp của thơ ca, tập trung vào cái đẹp tinh tế,
vào chiều sâu của Thiền. Do vậy một vở kịch Noh bao giờ cũng mang đậm tính Thiền
vị, mang tính khai ngộ, mở ra tri kiến. Noh luôn mở ra cho khán giả của mình những
cái Kiến (thấy) từ những cái Ảo (không gian ảo, thời gian ảo). (Theo: nguyenhuutinh)
Yugen và mặt nạ kịch Noh
Tính u huyền thể hiện trên mặt
nạ kịch Noh một cách đậm đặc và thuần khiết, những xúc cảm thông thường
như "hỷ, nộ, ái, ố" không bao giờ và không được phép hiện
diện trên mặt nạ. Mặt nạ kịch Noh mang vẻ huyền bí, liêu trai và dường như thuộc
về một cảnh giới khác cảnh giới của phàm trần.
Trước khi được sử dụng phổ
biến vào thời Muromachi (1392-1573), mặt nạ kịch Noh có tính chất thần bí
và mang ý nghĩa tôn giáo. Sau này ý nghĩa tôn giáo của mặt nạ bắt đầu suy
yếu và nó mang nhiều đặc tính người hơn. Để Noh đạt được khía cạnh u
huyền mạnh mẽ, người nghệ sỹ kịch Noh cho rằng khuôn mặt với những đặc trưng
riêng cùng xúc cảm cá nhân của mình phải được giấu đi để không làm phân tâm
khán giả, đây chính là nguyên nhân làm cho mặt nạ kịch Noh luôn hướng tới sự
huyền bí tối thượng như cách chúng ta đang thấy trong quá khứ và hiện tại.
|
Khi nói tới tính u huyền của
mặt nạ kịch Noh, hãy liên tưởng tới vẻ u tịch của một ngọn núi. Cũng cùng một
ngọn núi nhưng vẻ đẹp sẽ được cảm nhận khác nhau tùy lúc, tùy thời và đặc biệt
là sự ngắn ngủi, phù du nhưng đắt giá của cái đẹp trong từng thời khắc thoáng
qua đó. Người xem Noh phải đọc được sự tinh tế của chuyển động và hiệu ứng ánh
sáng lướt qua trên từng cái mặt nạ được thể hiện bởi những nghệ sĩ bậc thầy.
Những
biểu hiện cảm xúc theo góc chuyển động của mặt nạ Ko-omote. Về nguyên tắc, mặt
ngước lên thể hiện tâm trạng vui và mặt cúi xuống thể hiện tâm trạng buồn.
Nguồn: ko-omote (xem thêm: www.plosone.org và www.ncbi.nlm.nih.gov)
|
Một trong những điều làm cho
mặt nạ kich Noh mê hoặc là bởi vẻ đẹp trung tính (chukan hyoyo) của nó: một
sự biểu hiện mơ hồ xúc cảm không hẳn vui cũng chẳng hẳn buồn. Tính chất ngờ ngợ
và đa diện này là yếu tố cốt lõi của một mặt nạ, người nghệ sĩ giỏi phải
dùng những cử động vi tế để làm cho mặt nạ thể hiện cám xúc vui hay buồn.
Mỗi cái mặt nạ Noh là một bản sao hoàn hảo của mặt nạ chuẩn, người ta không chấp nhận bất kỳ một khác biệt hay "sáng tạo" nào khi làm mặt nạ kịch Noh. Giống hệt là tiêu chí hàng đầu, bản thân yếu tố phi thời gian này lại phủ lên mặt nạ Noh một trầm tích lịch sử, chất chứa sức nặng của những huyền tích âm u.
Những mặt nạ làm cho vở kịch Noh diễn ra như một giấc mơ với những biểu tượng đầy ảo giác. Người xem được sống với các câu chuyện về tình yêu, về lòng căm hờn, nỗi buồn, niềm hối tiếc, trong sự cường điệu dưới bầu không khí u mặc. Cảm xúc bị dồn nén nhưng cách thể hiện lại rất châm rãi và tỉ mẩn, cứ như thể ta đang nhìn thế giới của câu chuyện qua một bức vách không-thời gian huyễn hoặc.
Mặt nạ kịch Noh - phân loại
Mặt nạ kịch Noh được gọi
là omote (dịch nghĩa, "khuôn mặt") là đạo cụ rất quan
trọng để Noh được liệt vào dạng kịch mặt nạ. Các tài liệu còn sót lại từ thời kỳ Momoyama chỉ
ra khoảng 60 kiểu mặt nạ cho khoảng hơn 200 nhân vật trong chừng 250 vở kịch
được liệt kê, chúng là mẫu mực cho tất cả các kiểu mặt nạ được sử dụng ngày
nay. Nhiều phân loại liệt kê mặt nạ theo các tuyến nhận vật trong một vở kịch,
phổ biến nhất là phân thành 5 loại: thần, nam, nữ, cuồng (kỳ lạ) và quỷ.
Theo www.the-noh.com sự phân loại như sau:
Loại mặt nạ này chỉ được sử
dụng cho các hồi kịch gọi là "Okina", diễn để chào năm mới hoặc
cho những dịp đặc biệt. Đây là kịch nghi lễ bắt nguồn từ sarugaku, hình thức
cổ điển của Noh, được ra đời trong thời kỳ cuối triều đại Heian (thế
kỷ 12). Nó có trước bất kỳ loại mặt nạ kịch Noh nào.
Mặt nạ dành cho người cao tuổi
được gọi là Jo-men (mặt nạ Jo). Chúng có nhiều loại khác nhau, bao gồm Ko-jo,
Asakura-jo, Sanko-jo, và Warai-jo, được phân biệt bởi mái tóc và thường được
các diễn viên gạo cội dùng trong phần đầu của vở kịch, gọi
là waki-no (thần) hoặc shura-no (chiến binh), họ xuất hiện
trong vai những linh hồn.
Tùy thuộc vào vị trí xã hội
hoặc các tình huống trong vở kịch, diễn viên chọn mặt nạ từ các loại Otoko-men (mặt
nạ Otoko) khác nhau, bao gồm cả các nhân vật là lính, như Heida,
Chūjō, Jūroku, Hatachi-Amari, Doji, và Kasshiki.
Onna-men (mặt nạ Onna)
là loại phổ biến nhất trong tất cả mặt nạ Noh. Có một số biến thể bao gồm Ko-omote, rất
nổi tiếng, miêu tả một phụ nữ trẻ. Tùy thuộc vào độ tuổi hoặc tính chất các vai
diễn, mặt nạ được chia thành loại khác nhau, chẳng hạn như Waka-onna,
Shakumi, Uba, và Rojo.
Mặt nạ này được cho là đã xuất
hiện trong giai đoạn đầu của lịch sử kịch Noh, nó đại diện cho các vai siêu
nhiên. Cái mặt nạ này khác biệt rõ ràng bởi hình ảnh mạnh mẽ và hoang dã của
nó, về cơ bản mặt nạ kiểu này được phân thành hai loại: Vai Tobide là
quỷ man rợ, và Beshimi là yêu tinh như Tengu.
Đây là loại mặt nạ miêu tả
hóa thân của người chết. Chúng bao gồm những con ma nam như Ayakashi,
Yase-otoko và Kawazu, và những ma nữ
như Yamanba và Deigan. Tất cả họ hoặc là hối hận, hoặc là hận
thù thế giới. Hannya, một trong những loại mặt nạ nổi tiếng, cũng được
phân vào nhóm này.
Trong kịch Noh, một mặt nạ
có thể sử dụng cho nhiều vở kịch. Tùy theo nội dung của từng vở kịch mà các nghệ
sĩ chọn mặt nạ cho phù hợp với yêu cầu. Bất cứ nhân vật nào không phải là
đàn ông trung niên sống trong thời hiện tại, đều đeo mặt nạ. Do đó, tất cả các
nhân vật như phụ nữ, đàn ông, ông già cũng như bóng ma, các vị thần, quỷ sứ và
các sinh vật siêu phàm, đều đeo mặt nạ để diễn.
Mặt nạ đàn bà và những hồn ma trong vở kịch Aoi no ue
Mỗi vở kịch Noh là một câu
chuyện về sự chuyển hóa. Aoi no ue (Phu nhân Aoi) là câu chuyện về sự
ghen tuông chuyển thành lòng thù hận và niềm hối tiếc sau một quá trình khám
phá bản thân của nhân vật nữ chính Rokujō. Chuyện kể rằng, Aoi
no ue, con gái của gia đình Sadaijin (quan thượng thư), vợ chính của Hikaru
Genji bị ma ám và mắc bệnh nặng. Mặc dù gia đình đã cố gắng chữa trị nhưng
bà không thể hồi phục. Gia đình đã quyết định mời nữ tu Teruhi, bậc thầy của
nghệ thuật azusa, tới trị con ma này. Bị nữ tu giăng bẫy, bóng ma hiện
nguyên hình là một linh hồn đầy thù hận của nữ quý tộc có tên là Rokujō, vợ
của một thái tử đã chết và là một người tình của Genji. Nhìn
bà Aoi hạnh phúc, linh hồn của Rokujō khóc than cho sự đau
đớn đang ngày càng tăng của mình, cô bị giằng xé bởi lòng ghen tuông và quyết
ám hại Aoi để trục xuất linh hồn của cô ấy, giống như một người vợ
ghen ghét và cố đánh bại người tình trẻ của chồng.
Rokujio đeo
mặt nạ Deigan và linh hồn giận dữ của mình đeo mặt nạ Hannya
|
Gia
đình Sadaijin rất kinh ngạc bởi sự giận dữ của cô Rokujō và
vội vàng mời pháp sư Yokawa-no-kohijiri, là môn đệ giỏi của Shugen-do.
Khi pháp sư niệm Bát nhã tâm kinh (Hannya Shingyō), sự ghen tị
trong trái tim Rokujō hiện thân là một yêu nữ. Con yêu này không chỉ
tấn công bà Aoi mà cả pháp sư. Sau trận chiến kịch liệt giữa các vị
sư và oan hồn, Rokujō đã buông xả ác tâm và đạt Phật
tánh. (Theo: www.the-noh.com)
Mặt
nạ Deigan
|
Ở hồi đầu của vở kịch, Rokujio đeo
mặt nạ có tên là Deigan, tên Deigan xuất phát từ việc mặt nạ được
sơn nhũ vàng gọi là kindei xung quanh mắt. Nhũ vàng còn được sơn trên
răng nhằm biểu thị một thực thể ở bên ngoài thế tục. Đây là khuôn mặt của một
phụ nữ quyến rũ với cảm xúc oán giận bị kìm nén cùng một phức hợp cảm xúc ghen
tuông điên cuồng. "Mặt nạ Deigan là một thách thức thực sự
cho người chế tác, rất khó để tạo một mái tóc rối bời, một cái miệng khao khát
được nói và một đôi mắt có vẻ nhìn khinh thị nhưng tội nghiệp. Đây là mặt nạ của
vẻ đẹp quý phái với vầng hào quang ma mị chung quanh".(2)
Mặt
nạ Hannya
|
Ở hồi cuối của vở kịch, Rokujio hóa
thân thành một yêu nữ, xuất hiện trong mặt nạ có tên là Hannya (般若, âm
Hán Việt là "Ban Nhược" hoặc "Bát Nhã"). Hannya đại diện
cho khuôn mặt của phụ nữ bị tàn phá bởi sự điên cuồng và đố kị, đã biến
thành hồn ma để báo thù. Người Nhật xưa cho rằng trong người phụ nữ luôn có giấu
hai cái sừng, khi họ điên cuồng vì ghen tuông thì cái sừng sẵn có đó xuất hiện
và biến họ thành Hannya kinh dị. Cái mặt nạ Hannya nhìn
kinh dị thật: cặp mắt tròn long sòng sọc, hai gò má nhô lên nhọn hoắt, cái miệng
đỏ lòm cùng răng nanh sắc nhọn rộng tới mang tai, như muốn ăn tươi nuốt sống
người ta. Cái phần trán nhô ra đè sụp cả mí mắt cộng thêm hai cái sừng trên đầu,
tạo cảm giác hung hãn và sẵn sàng tấn công người đối diện. Đáng sợ hơn là khuôn
mặt quỷ cái này lại được nhân cách hóa thành người, khuôn mặt Hannya mang
ấn tượng hỗn hợp giữa sự hiểm độc của quỷ lẫn niềm đau khổ của linh hồn người
chưa siêu thoát.
Vai chính trong một vở kịch
Noh được gọi là shite. Shite bao gồm nhiều thể loại nhân vật
như: vị thần, ma chiến binh, ma nữ, đàn bà điên, đàn ông hay phụ nữ, hoặc là
các nhân vật huyền thoại như tengu (yêu tinh mũi dài) hay con rồng. Trong nửa đầu
của một Noh các shite được gọi là mae-shite, và trong nửa thứ
hai được gọi là nochi-shite. Vở Aoi no ue được phân vào
nhóm Mugen Noh; là các vở kịch có câu chuyên siêu thực liên quan tới ma quỷ, mae-shite ở
hồi đầu là linh hồn Rokujio đeo mặt nạ có tên
là Deigan và nochi-shite ở hồi sau cũng là linh hồn nhưng
linh hồn quỷ đeo mặt nạ Hannya, mặc dù hai nhân vật đeo mặt nạ
hoàn toàn khác nhau nhưng hầu như luôn luôn được cùng một nghệ sĩ biểu diễn.
Mặt
nạ Ko-omote
|
Vai phụ trong một vở kịch
Noh được gọi là waki. Giống như shite, waki cũng bao gồm
nhiều thể loại nhân vật như: thầy tu đi hành khất, kẻ thù của shite...
Trong Mugen Noh, waki phải luôn là một nhân vật trần thế, thường
gây ảnh hưởng lên shite và giúp giải thoát shite.
Nhóm Waki không bao giờ mang mặt nạ. Họ là người làm nền
cho Shite, có vai trò chất vấn nhân vật chính, và đây là chi tiết quan trọng
trong tiến trình phát triển câu chuyện. Cả shite và waki cũng
thường xuất hiện cặp đôi cùng với bạn diễn gọi là Tsure, tương ứng với shite có shite-tsure và waki có waki-tsure. Waki trong
vở kịch này là pháp sư Yokawa-no-kohijiri còn waki-tsure là
phụ tá của pháp sư này. Trong khi đó shite-tsure cho nhân vật chính Rokujio là
nữ tu đeo mặt nạ Ko-omote.
Ko-omote là dạng mặt nạ nữ (onna-men) rất phổ biến. Mặt nạ này đại diện cho thiếu nữ ở độ tuổi xuân thì. Không đơn giản chỉ mang vẻ đẹp ngây thơ, trong trắng, nó còn biểu cảm những cảm xúc nội tâm của giới tính trong giai đoạn tâm sinh lý đang định hình, nó hàm chứa cả sự ngây thơ nhưng không thiếu hiềm thù và đố kỵ. "Những đường cong mượt mà và duyên dáng tạo tính chất tổng thể cho gương mặt kiểu này. Cái phần trải dài từ mí mắt qua sống mũi không gợn một nếp nhăn và mịn màng một cách đặc biệt, buộc người nghệ nhân tạo tác chiếc mặt nạ này phải gạt bỏ những cảm xúc thuộc về trần thế trong suy nghĩ. Cái miệng đầy đặn quyến rũ dường như muốn dấu một nụ cười, những đuôi mắt là điểm đặc biệt nhất của Ko-omote, chúng tiết lộ sự sắc sảo trong tính cách có lẽ nhằm để giữ vẻ dịu dàng trinh nữ".(2)
https://youtu.be/1hI8edPXNS0
Ko-omote, Deigan hay Hannya là
những trạng thái cảm xúc: trong trắng, phẫn uất, điên cuồng. Vở kịch đưa người
xem vào phức cảm bi ai của sự hận thù và niềm hối tiếc:
"Nếu tôi đi trên chiếc xe tam bảo, chạy bởi lòng từ bi của Đức Phật,
nếu tôi đi theo con đường của Đức Phật,
tôi có thể thoát qua cửa thế gian khổ đau này?
Tôi, người đi trên một chiếc xe tồi tàn,
vỡ nát, sẽ có thể đi về đâu?
Ah, sự oán hờn của tôi không có thể đi đến
đâu cả
Cuộc đời chông chênh như một bánh
xe,
Cuộc đời khổ ải như một bánh xe,
Bánh
xe nghiệp chướng quay vòng vòng".
Phong vị Phật giáo thiền tông thấm đẫm lời ca trong nhịp điệu chậm và gợi nhiều liên tưởng. Cái đẹp của Noh vượt ra ngoài nội dung của câu chuyện mà nó chuyên chở: Noh không kể một câu chuyện, Noh nói về một triết lý.
Mặt nạ đàn ông, nam thần và yêu quái trong vở kịch Kokaji và Kuzu
Kokaji và Kuzu là
hai câu chuyện của những người đàn ông. Chúng có cốt truyện đơn giản nhưng lại
rất nổi bật về mặt vũ đạo. Vũ đạo của hai vở kịch này được coi như là chuẩn mực
trong trình diễn Noh. (xemvideo ở đây)
Kokaji (thợ rèn kiếm) kể
câu chuyện xảy ra trong thời Heian. Chuyện kể rằng thợ rèn kiếm nổi
danh Sanjō no Kokaji Munechika được hoàng đế Ichijo
(980-1011) đặt làm một thanh kiếm báu, ông rất lưỡng lự vì không có phụ tá
đáp ứng được yêu cầu. Khi phái viên triều đình giải thích rằng cách thức rèn kiếm
sẽ được cung cấp bởi những hướng dẫn xuất hiện trong giấc mơ của hoàng đế, Munechika liền
đi đến đền Inari để cầu nguyện sự giúp đỡ từ thánh thần. Đáp lại lời
nguyện cầu, thần Inari (thần cáo) xuất hiện trong hình thức của một
chàng trai trẻ đã trấn an anh ta, với một lời hứa hỗ trợ. Sau đó họ
cùng nhau làm một thanh kiếm tuyệt vời.
Mae-shite mang
mặt nạ Doji/Jido, và nochi-shite mang mặt nạ Ko-tobide
|
Trong vở kịch
này, mae-shite là cậu bé mang mặt nạ Doji/Jido, còn nochi-shite là
thần Inari mang mặt nạ Ko-otobide. Vai phụ (waki) là
nghệ nhân rèn kiếm Munechika, bạn diễn (waki-tshu) của Munechika là
sứ giả nhà vua, cả hai đều không đeo mặt nạ.
Mặt
nạ Doji
|
"Doji là trẻ con, khuôn
mặt của nó thể hiện hình ảnh của người đàn ông chưa trưởng thành. Khuôn mặt dạng
tròn và có nét phụ nữ như thường thấy ở người ái nam ái nữ. cái miệng hé mở,
khóe môi cong lên như thể muốn nói. Mặt nạ Doji có độ cong ít hơn mặt nạ
onna-men. Doji không hẳn là một cậu bé - sự kết hợp giữa vẻ đẹp quý phái và vẻ
thanh cao không vướng bụi trần làm cái mặt nạ này thường được dùng cho các nhân
vật thần tiên trong hình dạng con người.
Mặc dầu tiếng Nhật gọi
"doji" là trẻ con nhưng trong Noh nó không đơn giản chỉ mang ý nghĩa
này. Nó thiên về ý nghĩa của biểu tượng thần thánh nhằm vào sự trẻ trung vĩnh cửu.
Những sợi tóc kéo căng phủ
qua lông mày của đứa trẻ được vẽ rất khéo léo. Mỗi sợi tóc đòi hỏi người vẽ sự
dụng công rất lớn để làm cho nó tự nhiên như không. Cặp lông mày cong thanh nhã
kết hợp với cái miệng như muốn mở tạo ra một cảm giác bí ẩn tinh quái. Đây
không phải là cái mặt nạ mà người cứ có kinh ngiệm là làm được, nó cần một nghệ
nhân có một mỹ cảm nhạy bén bẩm sinh". (2)
Một vài trường dạy kịch Noh
lại dùng mặt nạ Kasshiki thay cho mặt nạ Doji trong vở kich
này. Kasshiki là thầy tu giúp việc, người này có nhiệm vụ thông báo
thực đơn hàng ngày cho đạo hữu khi họ tập trung lại để tụng kinh Phật. Mặt
na Kasshiki là bản sao của mặt nạ trẻ con.
Mặt
nạ Kasshiki
|
"Điểm chính yếu để phân
biệt mặt nạ này là chùm tóc hình lá bạch quả ở trước trán. Khóe miệng vểnh lên
nhẹ trong khi mí ngoài của lông mày và đuôi mắt cong ngược lên. Nghệ nhân phải
tạo cho đươc khuôn mặt nghiêm nghị nhưng tươi cười với cái nhìn bén nhạy và sắc
sảo khi làm cái mặt nạ này". (2)
Vũ đạo trong kịch Noh được gọi
chung là mai, mai cùng với ca từ và nhạc cụ là những thành phần cơ bản
của nghệ thuật này. Các vị thần luôn xuất hiện trong vũ đạo có tên
là kami-mai, vũ đạo này rất nhanh, đẹp và nghiêm trang. Những động tác nhấc
cao chân và dộng xuống sàn; nhằm tạo hiệu ứng âm thanh được khuếch đại bởi hệ
thống nhiều cái lu rỗng bên dưới sân khấu; thường được các nhân vật kiểu này
khai thác. Khi thần Inari xuất hiện, sân khấu bị khuấy động bởi âm
thanh và vũ đạo mạnh mẽ. Khuôn mặt xương xẩu ẩn trong mái tóc dài rũ rượi tạo
cho nhân vật vẻ cổ quái đặc biệt. Trong vở Kuzu, nam thần xuất hiện dưới mặt
nạ Otobide, trong vũ đạo nhằm xiển dương công đức của Hoàng đế Temmu đã
trở thành một chuẩn mực cho điệu kami-mai này.
Mặt
nạ Otobide
|
Otobide là mặt nạ cho
những vai thần bay lượn trên thiên đường. cái mặt nạ được phủ nhũ vàng, mắt to,
lông mày cong vòng và miệng rộng tới mang tai, đại diện cho một thế lực siêu
nhiên mạnh mẽ. Khi nhìn kỹ, ta sẽ thấy con mắt trái nhìn lên trên còn con mắt
phải thì nhìn xuống dưới, bởi vì vị thần này quan sát thiên đình lẫn hạ giới
trong cùng một lúc. (2)
Kuzu là vở kịch ca ngợi
việc thiện. Đó là câu chuyện của hai vợ chồng ngư phủ già liều mình cứu hoàng đế
chạy nạn. Khi làm việc thiện; bằng cách phóng sanh một con cá do ngư phủ mang
cho; hành động này như một điềm báo về sự phục hưng của Hoàng đế. Để xiển dương
công đức này vợ chồng ngư phủ hóa thành nam thần và nữ thần trong một điệu múa
hân hoan mừng triều đại mới.
Ông ngư phủ đóng vai chính
(shite) đeo mặt nạ Sanko-Jo, bạn diễn là bà ngư phủ (tsure) đeo mặt nạ Uba, trong
khi Hoàng đế là một đứa trẻ và không đeo mặt nạ như quy ước trong Noh truyền thống.
Mặt
nạ Sanko-Jo
|
"Sanko-Jo được gọi theo
tên của người tạo tác nó là một thầy tu ở đền Heijenji thuộc tỉnh Echizen vào
cuối thời Muromachi (1338-1578). Ông già này có nụ cười nhăn nheo trên gương mặt
xương xẩu với gò má cao và cơ má xệ. Gương mặt cục mịch này là của những người
lao động chân tay và thường được chọn cho các vai diễn quê mùa như thợ xẻ, thợ
làm muối hay ngư dân"(2)
Trở lại thế kỷ 14, thời điểm
mà Noh trở thành một môn nghệ thuật như ta thấy ngày nay. Thời đó rất ít người
Nhật có tuổi thọ cao, người cao tuổi luôn nhận được sự tôn kính của xã hội và
thậm chí họ còn được ban cho sức mạnh của thánh thần. Mặt nạ Jo, vì vậy,
cũng thường được chọn cho các vai tôn quý như vai Thượng đế trong hình dáng con
người. Những mặt nạ kiểu này được gọi chung là Okina gồm hai mặt nạ rất
nổi tiếng là Kokushiki-jo và Hakushiki-jo, chúng có trước kịch
Noh và tách biệt hẳn nội dung vở kịch. Khi xuất hiện, chúng là hình ảnh của thần
thánh trong nỗ lực ban phát ân sủng cho con người. Đây là một ví dụ cho thấy cội
nguồn của nghệ thuât được tách ra từ nghi lễ thiêng liêng.
Mặt nạ Noh trong nghệ thuật trình diễn
Sân khấu Noh hoàn chỉnh phải
gồm ba phần: phòng kiếng (kagami-no-ma, cầu dẫn (hashigakari) vả sân
khấu chính (hon-butai). Khán giả thấy nghệ sĩ xuất hiện trên cầu dẫn nhưng
với diễn viên, vở kịch đã bắt đầu từ phòng kiếng được thiết kế ẩn bên trong.
Mô
hình sân khấu Noh và vị trí của dàn nhạc và diễn viên
|
Phòng kiếng (kagami-no-ma -
mirror room) là địa điểm đặc biệt của các shite, với họ nơi đây vở diễn
chính thức bắt đầu, nơi đây họ chuẩn bị trang phục và thực hiện một nghi lễ đặc
biệt là đeo mặt nạ. Tuần tự, chậm rải và tôn kính, diễn viên Noh nâng mặt nạ trên
hai tay, nhìn vào khoảng tối phía bên trong và hoá thân vào vai diễn trong những
khoảng lặng liên tục như là nghi thức, trước và sau khi áp mặt nạ vào mặt mình.
Người ta nói rằng người nghệ sĩ Noh giỏi là người không đeo mặt nạ mà để mặt nạ
tự kéo khuôn mặt mình vào.
Phòng
kiếng (kagami-no-ma)
|
Tiếng Nhật không gọi mặt nạ Noh là men
(mask / mặt nạ) mà gọi là omote (facade / khuôn mặt có sắc diện). Điều
này cho thấy một mối quan hệ đặc biệt giữa nghệ sĩ và mặt nạ của họ, với họ, mặt
nạ không phải là một vật phẩm bằng gỗ mà là một người đồng hành có khả năng ban
cho họ ma thuật và quyền lực siêu nhiên. Vì vậy, ngoài việc thể hiện tính thẩm
mỹ cao, mặt nạ Noh còn là phương tiện truyền thông của những thế lực
siêu nhiên, của các vị thần và có sức mạnh tinh thần nội tại. Khi mặt nạ được
đeo lên, ánh sáng bị cản lại và bóng tối phủ lên khuôn mặt nghệ sĩ, bảy vị trí
gồm mắt mũi, miệng và tai sẽ là những cánh cổng thụ cảm của họ, "như những
ngôi sao trong chòm Bắc Đẩu, chúng dẫn hướng để (nghệ sĩ) đi qua hành trình làm
người" (Nearman 1984).
Hành trình này được Zeami Motokiyo (1363–1443), ông tổ kịch Noh ngày nay (xem thêm: http://en.wikipedia.org/wiki/Zeami_Motokiyo), gọi là Hana (flower/hoa). Đây là khái niệm nhằm chỉ ra cái đích để mỗi nghệ sĩ Noh hướng tới trong nghệ thuật trình diễn của mình. Hoa được hiểu như là một quá trình, là sự công phu luyện tập của người diễn viên. Hoa nhất thời để chỉ các diễn viên thiếu niên có vẻ đẹp trong sáng, giọng ca trong trẻo nhưng sẽ tàn đi theo thời gian. Hoa thật sự là hoa sẽ nảy nở trong suốt cả sự nghiệp khổ công luyện tập của người nghệ sĩ.
Nghệ
sĩ Katsumi Endo đang đeo mặt na trong phòng kiếng (theo: http://townhall.com)
|
Nhiều mặt nạ Noh dùng cho
nhân vật là người có kích thước nhỏ, không che hết khuôn mặt. nó chỉ che vừa
khít phần mặt trước, trán, hai gò má, miệng và để lộ ra cái cằm của người nghệ
sĩ, Chính chuyển động của cằm và cổ làm thay đổi góc nghiêng của mặt nạ nhằm tạo
ra những sắc thái biểu cảm khác nhau. Những loại mặt nạ che toàn bộ khuôn mặt
thường có mục đích giả trang để mô tả những nhân vật huyền thoại như
là Hannya hay Otobide chẳng hạn.
Mặt nạ Noh có phần đục lỗ ở
vị trí con mắt cực kỳ nhỏ. Mặt nạ cho vai nữ có lỗ con mắt chuyển dần hình dạng
từ vuông qua bầu dục rồi tròn theo thứ tự tăng dần tuổi tác. Người ta cho rằng
cái lỗ hình vuông làm thị trường bị nhòa và không gom lại khiến cho nghệ sĩ phải
nhìn qua một môi trường ảo, chính điều này làm tăng khả năng thể hiện những biểu
đạt tinh tế nhất. Đây cũng là lý do để sân khấu Noh luôn có thiết kế bốn cột ở
góc, các cột này là mốc để người nghệ sĩ điều hướng và ngăn không cho họ rơi ra
ngoài.
Mặt
sau của một mặt nạ Noh, miếng vải màu xanh có lẽ có tác dụng chêm cho vừa
khít khuôn mặt người biểu diễn
|
Trong một vài trường hợp đặc
biệt, như ở phần hai của vở Daie, người nghệ sĩ có lúc phải đeo hai cái mặt
nạ và hai bộ trang phục để nhanh chóng chuyển từ vai Phật qua vai yêu tinh. Những
lúc này nghệ sĩ hầu như bị mù, họ diễn bằng trực giác và hóa thân hoàn toàn vào
nhân vật.
Zeami cho rằng vẻ đẹp
tuyệt đích được miêu tả tốt nhất bằng hình thức diễn xuất cách điệu và những
hình thức biểu hiện đơn giản nhất. Nhiều động tác cố định được sáng tạo, gọi là
Kata: ví dụ, có ba cách cho thấy nỗi buồn, tùy theo chiều sâu nỗi buồn ấy: thứ
nhất, chỉ đơn giản là cúi thấp mặt cho thấy nỗi buồn man mác; thứ hai, cúi thấp
mặt và đưa tay ngang mắt hai lần, không thực sự chạm vào mắt (tượng trưng cho
việc lau đi một giọt nước mắt) để cho thấy một nỗi buồn sâu thẳm; thứ ba cúi thấp
mặt và đưa cả hai tay lên ngang mắt, lặp lại động tác hai lần, biểu thị nỗi tuyệt
vọng. Tính biểu cảm giản đơn của Noh đã tạo ra một không khí riêng, được
miêu tả bằng thuật ngữ wabi và sabi biểu thị trạng thái yên
tĩnh.(theo: Fushi-Kaden, Ze-Ami & Zenchiku (1974)
Bên cạnh đa số vai diễn sử dụng
mặt nạ, có một số vai diễn không sử dụng mặt nạ như vai thị đồng (dành cho diễn
viên trẻ, ít kinh nghiệm) và Hitamen (diễn viên lão thành). Với loại vai
Hitamen, diễn viên phải dồn nén cảm xúc để diễn bằng khuôn mặt thật, không hóa
trang với nét mặt lạnh lùng, mắt nhìn vào cõi hư không trong suốt buổi diễn. Chỉ
có những nghệ sĩ bậc thầy, dày dạn kinh nghiệm mới có thể biến chính khuôn mặt
mình thành mặt nạ Ko omote. Khi khuôn mặt – mặt nạ trở thành tấm gương thu nhỏ
và phóng đại cảm xúc cũng chính lúc người nghệ sĩ đã lột tả được hết vẻ đẹp của
kịch Noh và đạt tới đỉnh cao nghệ thuật biểu diễn này. (theo: Xuan Phong)
Mặt nạ Noh: nghệ thuật chế tác
Mặt nạ Noh phần lớn
được chạm khắc từ loại gỗ Hinoki. Trong số các loại mặt nạ, loại dành cho
Quỷ (đặc biệt là Hannya) lại được chạm khắc công phu và tinh xảo nhất trên
loại gỗ cứng. Ngược lại, loại dành cho nữ (nhất là Ko-omote) chạm khắc ít
nhất nhưng lại được tô vẽ tinh tế nhất trên loại gỗ mềm.
Xin xem đoạn video rat thu
vi này
Lời kết
Có lẽ không dân tộc nào trân
trọng sự lụi tàn như người Nhật, những khái niệm mỹ học Nhật Bản
như “aware” (bi cảm), “yugen” (u huyền), “wabi” (đà), “sabi” (tịch) đều
nội hàm trong mình ý nghĩa diệt vong.
" Phù bào khoảnh khắc vòng sinh diệt
Không ngẫu nhiên
mà Zeami chọn hana / hoa làm biểu tượng của cuộc đời người
nghệ sĩ noh, bởi nghiệp hoa, nói cho cùng là một sự tận hiến đến định mệnh
diệt vong cuối cùng.
Thọ nghiệp để hiểu nghiệp âu
cũng là một cách để trường tồn vậy!
Posted by Hoang Thong
-------------
Đọc thêm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét