Om Mani Padme Hum là
một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara) và là thần chú quan
trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nó còn được mệnh danh là “Lục Tự
Đại Minh Chân Ngôn” tức là “Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ”.
Om : Quy mệnh
Mani : Viên ngọc như ý
Padme : Bên trong hoa
sen
Hum : Tự ngã thành tựu
Có thể dịch câu này là
Om, ngọc quý trong hoa sen, Hum. (Om, to the Jewel in the Lotus, hum).
Theo âm Hán-Việt, câu
này được đọc là Úm ma ni bát ni hồng hoặc Án ma ni bát mê hồng.
Thông thường người ta
không giảng nghĩa thần chú, nhưng ở đây cần nói thêm là: “ngọc quý” biểu hiện
cho Bồ-đề tâm (bodhicitta), “hoa sen” chỉ tâm thức con người, ý nghĩa là tâm
Bồ-đề nở trong lòng người. Tuy nhiên thần chú có những âm thanh riêng biệt và
những tác dụng bí ẩn theo cách trình bày của Kim cương thừa. Đối với Phật giáo
Tây tạng thì Om Mani Padme Hum chính là lòng từ bi rộng lớn, muốn
đạt Niết-bàn vì lợi ích của chúng sinh. Vì vậy sáu âm tiết của thần chú này
cũng được xem là tương ưng với sáu cõi tái sinh của dục giới.
*
Dịch Việt : Mỹ Thanh
Các thần chú là biểu
hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Nó là âm thanh xác thực của
khoảng trống không.
Bắt nguồn từ khái niệm
về chân lý tuyệt đối và trạng thái rỗng không, câu chú không hiện hữu. Không có
âm thanh hay câu chú. Âm thanh và câu chú, như tất cả những dạng biểu thị khác
nhau, đều ở vị trí của cõi tương đối xuất hiện từ rỗng không. Trong cõi tương
đối, mặc dù âm thanh chính nó không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ
định, đặt tên, và có sự hoạt động ở tâm thức.
Thí dụ, khi có ai đó
nói với chúng ta “Anh là một người tốt” hoặc “Anh là một người khó ưa”, những
chữ “tốt” hoặc “khó ưa” không phải là “vật gì”. Đó chỉ là những âm thanh mà tự
nó không “tốt” hay “khó ưa”, nhưng đơn giản gợi lên ý nghĩ về “tốt” hoặc “khó
ưa”, và gây ra một tác dụng nơi tâm thức. Cũng như vậy, trong phạm vi tương đối
nơi hành động, thần chú được phú cho một năng lực không thể sai lạc.
Các câu chú thường là
tên các vị Phật, Bố Tát, hoặc thần thánh. Thí dụ, OM MANI PADME HUNG (ÁN MA-NI
BÁT DI HỒNG) là cách gọi ngài Chenrezig (Quán Âm). Từ quan điểm tuyệt đối,
Chenrezig không có tên, nhưng trong phạm vi ý nghĩa tương đối hoặc nghĩa đen,
ngài có tên gọi riêng. Những tên nầy là trung gian của lòng từ bi, vẻ thanh
nhã, và sức mạnh cùng các nguyện ước của ngài làm lợi ích cho chúng sinh. Bằng
cách niệm danh hiệu của ngài để những phẩm chất tâm thức nầy được truyền đến
ta. Ở đây, việc giải nghĩa về năng lực lợi ích của thần chú, danh hiệu của
ngài. Như chúng ta đồng hóa chúng ta với tên họ và những gì liên hệ đến nó,
cũng bằng cách nầy, trên bình diện tương đối, thần chú đồng nhất với vị thần.
Cả hai trở thành một thực tại duy nhất. Khi một người niệm chú, người ấy nhận
được vẻ thanh nhã của vị thần; bằng cách hình dung vị thần, vị thánh ấy, người
niệm chú nhận được vẻ thanh nhã không khác biệt của các vị thánh.
Thần chú OM MANI PADME
HUNG đôi lúc được giải thích với những ý nghĩa cầu kỳ và thần bí. Tuy nhiên,
như chúng ta đã nói, đây đơn giản chỉ là tên của Bố Tát Quan Âm (Chenrezig)
được đặt giữa hai âm thanh truyền thống và thiêng liêng, OM và HUNG.
– OM tượng trưng cho
thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm nầy.
– MANI nghĩa “châu báu”
trong Sanksrit;
– PADME, phát âm theo
Sankrit, or PEME trong tiếng Tây Tạng, có nghĩa “hoa sen”;
– HUNG tượng trưng cho
tâm thức tất cả các vị Phật và thường là câu cuối trong các thần chú.
– MANI nói về châu báu
mà Bố Tát Quan Âm (Chenrezig) cầm trong hai tay giữa và PADME là hoa sen cầm ở
tay trái thứ nhì. Khi gọi MANI PADME là gọi tên ngài Chenrezig xuyên qua những
phẩm hạnh của ngài: “Người đang cầm châu báu và hoa sen.”
“Chenrezig” hoặc “Hoa
sen báu” là hai tên gọi của ngài Chenrezig (Quán Âm).
Khi chúng ta niệm chú,
thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên ngài Chenrezig. Thực tập nầy có lẽ
trông lạ lùng. Tỷ như có một người mang tên Sonam Tsering và chúng ta lặp đi
lặp lại tên người đó không ngừng nghỉ theo kiểu đọc thần chú. Sonam Tsering, Soanm
Tsering, Sonam Tsering, v..v.. Điều nầy thật là lạ và có thể là vô dụng. Mặt
khác, nếu như niệm câu chú OM MANI PADME HUNG thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú
nầy được “đầu tư” bởi sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm
(Chenrezig), ngài Chenrezig đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật
và Bố Tát. Trong cách nhìn nầy, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối,
và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ
bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.
Các vị bồ tát và thần
chú là một nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm chú mà không cần thiết
phải hình dung, tưởng tượng. Niệm chú vẫn có hiệu quả.
Phẩm chất xác thực của
mỗi âm trong sáu âm của câu chú được giải thích rất phù hợp.
Trước tiên, hãy để chúng
ta xem mỗi âm giúp chúng ta đóng cánh cửa tái sanh đau khổ, một trong sáu cõi
hiện hữu của vòng luân hồi:
– OM đóng cánh cửa
luân hồi trong cõi trời;
– MA, cánh cửa cõi
thần, A-tu-la
– NI, cánh cửa cõi
người
– PAD, cánh cửa cõi
súc sanh
– ME, cánh cửa cõi ngạ
quỷ;
– HUNG, cánh cửa cõi
địa ngục.
Mỗi âm tiết được xem
như có ảnh hưởng thanh tịnh hóa:
– OM thanh tịnh hóa
bản thân;
– MA thanh tịnh hóa
lời nói;
– NI thanh tịnh hóa
tâm thức;
– PAD thanh tịnh hóa
những cảm xúc mâu thuẫn;
– ME thanh tịnh hóa
điều kiện ẩn tàng;
– HUNG thanh tịnh hóa
tấm màn che phủ trí tuệ.
Mỗi âm tiết là một bài
cầu nguyện:
– OM lời cầu nguyện
hướng về thân thể của các vị Phật;
– MA lời cầu nguyện
hướng về lời nói của các vị Phật;
– NI lời cầu nguyện
hướng về tâm thức các vị Phật;
– PAD lời cầu nguyện
hướng về những phẩm chất của các vị Phật;
– ME lời cầu nguyện
hướng về hoạt động của các vị Phật;
– HUNG gom góp sự
thanh nhã của thân, khẩu, ý, phẩm chất, và hoạt động của các vị Phật.
Sáu âm tiết liên hệ
đến sáu ba-la-mật, sáu sự hoàn hảo được chuyển hóa:
– OM liên hệ đến sự
rộng lượng;
– MA, đạo đức;
– NI, kiên trì, nhẫn
nhịn,
– PAD, chuyên cần,
– ME, chú tâm,
– HUNG, trí tuệ.
Sáu âm tiết cũng liên
quan đến sáu vị Phật, ngự trị trên sáu Phật gia:
-OM liên hệ đến
Ratnasambhava (Bảo-Sanh Phật);
– MA, Amaghasiddi
(Bất-Không-Thành-Tựu Phật);
– NI, Vajradhara (Kim
Cương Trì / Phổ-Hiền Bồ Tát);
– PAD, Vairocana
(Lô-Xá-Na Phật);
– ME, Amitabha
(A-Di-Đà Phật);
– HUNG, Akshobya
(A-Súc-Bệ Phật).
Cuối cùng, sáu âm tiết
liên hệ đến sáu trí tuệ:
– OM = Trí tuệ thanh
thản, an bình;
– MA = trí tuệ hoạt
động;
– NI = trí tuệ tự tái
sanh;
– PAD = trí tuệ pháp
giới;
– ME = trí tuệ phân
biệt;
– HUNG = trí tuệ như
gương
Ở Tây Tạng, mọi người
thường tụng niệm thần chú của ngài Chenrezig (Quan Âm). Sự đơn giản và phổ
thông của thần chú không làm giảm đi sự to tát của thần chú, và còn có giá trị
to lớn hơn. Điều nầy được thể hiện trong câu nói khôi hài sau:
Ở đoạn khởi đầu, không
có đau khổ vì không biết,
Ở đoạn giữa, không có
lòng tự kiêu vì hiểu biết,
Ở đoạn cuối, không sợ
quên câu chú.
Không có sự hiểu biết
về lý luận, y học, chiêm tinh học, và những môn khoa học khác là sự đau khổ,
bởi vì một người có thể bỏ nhiều năng lực, cố gắng và chấp nhận nhiều mệt mỏi
để học hỏi nó. Tuy nhiên, trong vài giây ngắn ngủi đã đủ để học thuộc thần chú
của ngài Chenrezig. Không cần đối diện với đau khổ từ si mê cho đến hiểu biết.
Bởi vì vậy, “Ở đoạn đầu không có đau khổ vì không biết.”
Một người sau mấy năm
học hỏi môn khoa học khó khăn sẽ nhận được danh vọng hoặc chức vị ở xã hội, và
họ hoàn toàn hài lòng với bản thân và tin rằng họ giỏi hơn tất cả những người
khác. Thần chú đơn giản của ngài Chenrezig giúp cho một người tránh rơi vào tình
trạng nói trên. Như vậy, “Ở đoạn giữa, không kiêu ngạo khi hiểu biết.”
Cuối cùng, nếu chúng
ta không gìn giữ câu chú, sự hiểu biết mà chúng ta thâu thập được trong y học,
chiêm tinh học, hoặc những môn khoa học khác có thể dần dà bị mai một. Nhưng không
thể nào quên được sáu âm tiết câu chú. OM MANI PADME HUNG. Vậy, “Ở đoạn cuối,
không sợ quên câu chú.”
Cũng vậy, từ những bài
ghi chú của tôi “Cơn mưa liên tục làm lợi ích cho Chúng Sinh”:
– OM là màu TRẮNG;
– MA, màu XANH LÁ CÂY;
– NI , màu VÀNG;
– PAD, màu XANH DA
TRỜI;
– ME, màu ĐỎ;
– HUNG, màu ĐEN.
Câu chú có thể được
tóm tắt như sau : “Tôi cầu xin hiện thân của năm dạng và năm ý thức chuyển hóa,
Vị bồ tát sỡ hữu viên ngọc và hoa sen để bảo hộ tôi thoát khỏi những nỗi đau
khổ của chúng sinh trong sáu cõi.”
OM MANI PADME HUNG là
bản tóm tắt của bộ sưu tập kiến thức trực tiếp của tất cả các vị Phật. Những
chỉ dẫn bao gồm trong mỗi âm của sáu âm tiết, là bản chất Tinh Thông Bí mật về
các vị Phật, là nguồn gốc của tất cả mọi phẩm chất và hạnh phúc sâu sắc, gốc rễ
của các thành tựu lợi ích, sung sướng, và là con đường vĩ đại đưa đến những
hiện hữu và tự do cao cả.
*
Nguồn: Phần phụ lục
sách: “Tạng thư Sống Chết”
The Tibetan Book Of
Living And Dying
Sogyal Rinpoche
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
dịch
Tạng ngữ đọc là Om
Mani Pémé Hung. Thần chú này tiêu biểu tâm đại bi và ân sủng của tất cả chư
Phật, Bồ-tát, nhất là ân sủng của Quán Tự Tại, vị Phật của lòng bi mẫn. Quán Tự
Tại (hay Quán Thế Âm) là hiện thân của Phật trong hình thức Báo thân, và thần chú
của ngài được xem là tinh túy của lòng bi mẫn của chư Phật đối với hữu tình.
Nếu Ngài Liên Hoa Sinh là bậc thầy quan trọng nhất của người Tây Tạng, thì Quán
Tự Tại là vị Phật quan trọng nhất của họ, là vị thần hộ mệnh của dân tộc này.
Có câu nói nổi tiếng là vị Phật của lòng bi mẫn đã ăn sâu vào tiềm thức Tây
Tạng tới nỗi một hài nhi vừa biết nói tiếng “Mẹ” là đã biết đọc thần chú này,
OM MANI PADME HUM.
Tương truyền vô lượng kiếp về trước có một ngàn thái tử phát tâm Bồ-đề nguyện thành Phật. Một vị nguyện thành Phật Thích Ca mà ta đã biết; nhưng Quán Tự Tại thì nguyện sẽ không đạt thành Chính giác khi mà tất cả ngàn thái tử chưa thành. Với tâm đại bi vô biên, ngài còn nguyện giải thoát tất cả chúng sinh ra khỏi khổ sinh tử luân hồi trong lục đạo. Trước mười phương chư Phật, ngài phát nguyện: “Nguyện cho con cứu giúp được tất cả hữu tình, và nếu có khi nào con mệt mỏi trong công việc lớn lao này thì nguyện cho thân con tan thành một ngàn mảnh”.
Đầu tiên, ngài xuống
cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. Từ đấy ngài
tình cờ nhìn xuống và trông thấy than ôi, mặc dù ngài đã cứu vô số chúng sinh
thoát khỏi địa ngục, vẫn còn có vô số khác đang sa vào. Điều này làm cho ngài
đau buồn vô tận, trong một lúc ngài gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vĩ
đại mà ngài đã phát, và thân thể ngài liền nổ tung thành ngàn mảnh. Trong cơn
tuyệt vọng, ngài kêu cứu tất cả chư Phật. Những vị này từ mười phương thế giới
đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. Với thần lực nhiệm mầu, chư Phật làm cho
ngài hiện toàn thân trở lại, và từ đấy Quán Tự Tại có mười một cái đầu, một
ngàn cánh tay, trên mỗi lòng tay có một con mắt. Ý nghĩa rằng sự phối hợp giữa
trí tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của đại bi chân thực. Trong hình
thức này, ngài còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp
tất cả chúng sinh. Tâm đại bi của ngài khi ấy còn mãnh liệt hơn nữa, và ngài
lại phát lời nguyện này trước chư Phật: “Con nguyện không thành Chính giác khi
tất cả chúng sinh chưa thành”.
Tương truyền rằng vì
đau buồn trước nỗi khổ luân hồi sinh tử, hai giọt nước mắt đã rơi từ đôi mắt
ngài, và chư Phật đã làm phép biến hai giọt nước mắt ấy thành hai nữ thần Tara.
Một nữ thần có màu xanh lục, năng lực hoạt động của tâm đại bi, và một nữ thần
có màu trắng, khía cạnh như mẹ hiền của tâm đại bi. Tara có nghĩa là người giải
cứu, người chuyên chở chúng ta vượt qua biển sinh tử.
Theo kinh điển đại
thừa, chính Quán Tự Tại đã cho đức Phật câu thần chú, và đức Phật trở lại giao
phó cho ngài công tác cao quý đặc biệt là cứu giúp tất cả chúng sinh tiến đến
giác ngộ. Vào lúc ấy, chư thiên tung hoa xuống ca ngợi hai ngài, quả đất chấn
động, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUM HRIH.
Có câu thơ về ngài ý
nghĩa như sau:
“Quán Thế Âm như
vầng trăng, với ánh sáng mát dịu, dập tắt những thiêu đốt của sinh tử. Trong
ánh sáng ấy, đóa sen từ bi – lọai hoa nở về đêm – mở ra những cánh trắng tinh
khôi” .
Giáo lý giải thích
rằng mỗi âm trong sáu âm của thần chú OM MANI PADME HUM có một hiệu quả đặc
biệt để mang lại sự chuyển hóa thuộc nhiều tầng lớp khác nhau của bản thể ta.
Sáu âm này tịnh hóa tất cả sáu phiền não gốc, biểu hiện của vô minh khiến chúng
ta làm những ác nghiệp của thân, lời, ý, tạo ra luân hồi sinh tử và những khổ
đau của chúng ta, trong đó kiêu mạn, ganh tị , dục vọng, ngu si, thèm khát và
giận dữ, nhờ thần chú mà được chuyển hóa trở về bản chất thực của chúng, trí
giác của sáu bộ tộc Phật thể hiện trong tâm giác ngộ. (Chú thích: Giáo lý
thường nói đến năm bộ tộc Phật, bộ tộc thứ sáu là tổng hợp của năm bộ tộc
trên).
Bởi thế, khi ta tụng
thần chú OM MANI PADME HUM thì sáu phiền não nói trên được tịnh hóa, nhờ vậy
ngăn ngừa được sự tái sinh vào sáu cõi, xua tan nỗi khổ ẩn tàng trong mỗi cõi.
Đồng thời thần chú này cũng tịnh hóa các uẩn thuộc ngã chấp, hoàn thành sáu
hạnh siêu việt của tâm giác ngộ (sáu ba la mật): bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Người ta cũng nói rằng thần chú OM MANI PADME
HUM có năng lực hộ trì rất lớn, che chở ta khỏi những ảnh hưởng xấu và các thứ
tật bệnh.
Thường có chủng tự HRIH của Quán Thế Âm được thêm vào sau câu thần chú, làm thành OM MANI PADME HUM HRIH. HRIH là tinh yếu tâm đại bi của tất cả chư Phật, là chất xúc tác đã khởi động tâm đại bi chư Phật để chuyển hóa các phiền não của ta thành bản chất trí tuệ của các ngài.
Kalu Rinpoche viết:
Một cách khác để giải
thích thần chú này là: OM là tính chất của thân giác ngộ, MANI PADME tiêu biểu
ngữ giác ngộ, HUM tiêu biểu ý giác ngộ. Thân, ngữ, ý của tất cả chư Phật được tàng
ẩn trong âm thanh của thần chú này. Thần chú này tịnh hóa những chướng ngại của
thân, lời, ý, và đưa tất cả hữu tình đến trạng thái chứng ngộ. Khi tụng thần
chú này, mà phối hợp với đức tin và tinh tiến thiền định thì năng lực chuyển
hóa của thần chú sẽ phát sinh và tăng trưởng. Quả vậy, chúng ta có thể tịnh hóa
bản thân bằng phương pháp ấy.
Đối với những người đã
quen thuộc với thần chú này, suốt đời tụng đọc với nhiệt thành và niềm tin, thì
Tử Thư Tây Tạng nói, ở trong cõi Trung Ấm: “Khi âm thanh của pháp tính gầm thét
như ngàn muôn sấm sét, nguyện cho tất cả tiếng này trở thành âm thanh của thần
chú sáu âm”. Tương tự, kinh Lăng Nghiêm cũng nói:
“Mầu nhiệm thay là âm
thanh siêu việt của Quán Thế Âm. Đấy là âm thanh tối sơ của vũ trụ… Đó là tiếng
thì thầm âm ỉ của thủy triều trầm lắng. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại giải thoát
bình an cho tất cả hữu tình đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và đem lại một sự
an trú thanh tịnh cho tất cả những ai đang tìm sự thanh tịnh vô biên của niết
bàn”.
*
Đức Đạt-lai Lạt-ma
thuyết giảng, Hồng Như Việt dịch
Nguyên bản tiếng Anh:
Om Mani Padme Hum, by HH the Dalai Lama
Hồng Như chuyển Việt
ngữ.
Trì tụng minh chú Om
mani padme hum [Án ma ni bát di hồng] là một việc rất tốt. Tuy vậy, khi tụng
chú cần phải nhớ nghĩ đến ý nghĩa của lời chú, vì sáu âm này mang ý nghĩa thâm
sâu quảng đại vô cùng. Âm thứ nhất, OM, là tổng hợp của ba mẫu tự A, U và M, tượng
trưng cho thân miệng ý ô nhiễm của người tụng chú, đồng thời cũng tượng trưng
cho thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà.
Có thể nào chuyển thân
miệng ý ô nhiễm thành thân miệng ý thanh tịnh được không? hay đây là hai phạm
trù hoàn toàn tách biệt? Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước
theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay
từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm, mang đủ mọi tánh đức. Thân miệng ý thanh tịnh đến
từ sự tách lìa trạng thái ô nhiễm, chuyển hóa ô nhiễm thành thanh tịnh.
Chuyển hóa bằng cách
nào? Phương pháp tu được nhắc đến qua bốn âm kế tiếp. MANI [ma ni], nghĩa là
ngọc báu, tượng trương cho phương tiện, là tâm bồ đề, vì chúng sinh mà nguyện
mở tâm từ bi, đạt giác ngộ. Cũng như viên ngọc quí có khả năng xóa bỏ cảnh
nghèo, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng xóa bỏ sự bần cùng khó khăn trong cõi
luân hồi và niết bàn cá nhân. Như ngọc như ý có khả năng chu toàn mọi ước
nguyện của chúng sinh, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng chu toàn mọi ước nguyện
chúng sinh.
Hai chữ PADME [bát
mê], nghĩa là hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ. Hoa sen từ bùn mọc lên nhưng
lại không ô nhiễm vì bùn. Tương tự như vậy, trí tuệ có khả năng đặt người tu
vào vị trí không mâu thuẫn ở những nơi mà người thiếu trí tuệ đều sẽ thấy đầy mâu
thuẫn. Có nhiều loại trí tuệ, trí tuệ chứng vô thường, trí tuệ chứng nhân vô
ngã (con người không tự có một cách độc lập cố định), trí tuệ chứng tánh không
giữa các phạm trù đối kháng (nói cách khác, giữa chủ thể và khách thể) và trí
tuệ chứng sự không có tự tánh. Mặc dù có nhiều loại trí tuệ, nhưng chính yếu
vẫn là trí tuệ chứng tánh Không.
Trạng thái thanh tịnh
có được là nhờ sự kết hợp thuần nhất giữa phương tiện và trí tuệ, được thể hiện
qua âm cuối, HUM [hồng]. Âm này ứng vào trạng thái bất nhị, không thể phân
chia. Trong hiển thừa, phương tiện và trí tuệ bất nhị có nghĩa là phương tiện
ảnh hưởng trí tuệ, và trí tuệ ảnh hưởng phương tiện. Trong mật thừa, sự hợp
nhất này ứng vào một niệm tâm thức trong đó phương tiện và trí tuệ đồng loạt
hiện hành. Nói về chủng tự của năm vị Thiền Phật, HUM là chủng tự của Bất Động
Phật [Akshobhya], sự đứng yên không gì có thể lay chuyển nổi.
Vậy Lục Tự Đại Minh
Chú, Om mani padme hum, có nghĩa là dựa vào đường tu kết hợp thuần nhất phương
tiện và trí tuệ mà người tu có thể chuyển hóa thân miệng ý ô nhiễm của mình
thành thân miệng ý thanh tịnh của Phật. Thường nói người tu không thể tìm Phật
ở bên ngoài, tất cả mọi nhân tố dẫn đến giác ngộ đều sẵn có từ bên trong. Đức
Di Lạc Từ Tôn có dạy trong bộ Tối Thượng Đại Thừa Mật Luận (Uttaratantra) rằng
tất cả chúng sinh đều có Phật tánh trong tâm. Chúng ta ai cũng mang sẵn trong
mình hạt giống thanh tịnh, cốt tủy của Như Lai (Tathatagarbha – Như lai tạng),
đó là điều cần nuôi nấng phát triển đến mức tột cùng để bước vào địa vị Phật
đà.
*
Lạt ma Thubten Zopa
Rinpoche
Người dịch: Thanh Liên
Nguyên tác: The
Benefits of Chanting Om Mani Padme Hum
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét