TÂM KINH BÁT NHÃ
PHIÊN ÂM
Bồ Tát Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Java, Indonesia) |
Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát
nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị
sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức
diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp
không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất
tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng,
hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô
minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc
vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát
đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại;
vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên
đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y
Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại
thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô
đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú,
tức thuyết chú viết:
Yết đế, Yết đế, Ba la Yết
đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.
TÂM KINH BÁT NHÃ
DỊCH NGHĨA
Bồ tát Quán tự tại khi hành
Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều
không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không
chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng
lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp
đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên,
trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn
giới cho đến không ý thức giới; không vô minh
cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không
già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng không đắc.
Bởi không sở đắc, Bồ
tát nương Bát nhã ba la mật đa, nên tâm không mắc ngại; vì
không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên
đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã
ba la mật đa nên chứng a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là chú
thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh
bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
Nên nói chú Bát nhã ba la mật đa, nên nói
chú rằng: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba
la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
Bản phổ kệ:
(Thích Nhất Hạnh)
Bồ Tát Quán
Tự Tại
Khi quán
chiếu thâm
sâu
Bát Nhã Ba La Mật
(tức Diệu
Pháp Trí
Độ)
Bổng soi thấy năm
uẩn
Đều không có tự
tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
Nghe đây Xá
Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.
Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh
không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý (sáu căn)
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp (sáu
trần)
Không có mười
tám giới
Từ nhãn đến ý
thức
Không hề có vô
minh
Không có hết vô
minh
Cho đến không lão
tử
Cũng không hết lão
tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ
Tát
Nương Diệu
Pháp Trí
Độ
(Bát
Nhã Ba La Mật)
Thì tâm
không chướng
ngại
Vì tâm
không chướng
ngại
Nên không có sợ
hãi
Xa lià mọi vọng
tưởng
Xa lìa mọi điên
đảo
Đạt Niết
Bàn tuyệt
đối
Chư Bụt trong ba
đời
Y Diệu
Pháp Trí
Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô
thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh
chú đại thần
Là linh
chú đại
minh
Là linh
chú vô
thượng
Là linh
chú tuyệt
đỉnh
Là chân
lý bất vọng
Có năng
lực tiêu
trừ
Tất cả mọi khổ
nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần
chú Trí
Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ
Tát
Liền đọc thần
chú rằng:
Yết đế, Yết
đế
Ba la Yết
đế
Ba la Tăng yết
đế
Bồ đề tát
bà ha
TÂM KINH BÁT NHÃ BA
LA MẬT ĐA
CHÚ GIẢI
DẪN NHẬP
Nói đến Phật
giáo Đại thừa là nói đến Bát nhã. Vì, không có Bát nhã, là
không có Phật giáo Đại thừa. Bát nhã là đầu mối, là mạch
nguồn từ đó các trào lưu tư tưởng Đại thừa kể cả Mật
giáo dậy khởi.
Như vậy
trong thực chất, Bát nhã là gì mà có một nguồn sinh
lực dồi dào bất tận đến thế?
Bát
nhã do Phạn ngữ Prajnà phiên âm. Tàu dịch nghĩa là Tuệ, Trí
Tuệ, Không Trí. Nhưng dù dịch gì đi nữa cũng không một từ nào trong Hoa văn lột
được hết ý nghĩa hàm ẩn trong phạn ngữ Prajnà. Cho
nên, văn học Phật giáo Trung Hoa cuối cùng cũng phải
dùng từ ngữ phiên âm Bát nhã để chỉ cho loại
trí tuệ đặc biệt này, mới có thể tránh mọi ngộ
nhận sai lạc cho người học.
Thông thường, cứ nói
đến trí hay tuệ hay trí tuệ, người nghe lập tức liên
tưởng đến trí năng, một trong ba năng lực (cảm
năng, trí năng và ý chí) của con người mà các sinh vật
không có, hoặc có nhưng ở một mức độ thấp kém. Trí hay trí
tuệ thường được hiểu như trí khôn hay óc thông
minh xán lạn, lãnh hội dễ dàng các kiến thức đã có,
hoặc hội ý những kiến thức mới mà loài người sắp
phát hiện ra. Cái bộ óc thông minh ấy đối với Phật giáo được
mệnh danh là thế trí biện thông, bao gồm cả tốt lẫn xấu ngay
trong bản chất, và tác dụng nó thì thường là lành ít dữ nhiều,
bởi lẽ trí ấy gắn liền với phiền não khổ đau, hay tệ hơn nữa, nó
chính là sản phẩm của chính phiền não khổ đau.
Khác với thế trí
biện thông, Bát nhã là loại trí tuệ siêu thiện
ác, trí tuệ vô phân biệt đã rủ sạch phiền não. Cho nên, từ
trong bản chất, nó là loại trí tuệ thanh tịnh rỗng
lặng, không chút bợn nhơ, trong suốt như hư không, nên cũng được
gọi là không trí. Do đó, nó thường xuất hiện như một thứ trí
tuệ sâu xa vi diệu, mà Tâm kinh Bát nhã gọi
là thâm Bát nhã, trí tuệ sâu xa. Vì tính chất nó như
thế nên nó hoàn toàn tự tại trước mọi đối tượng nhận thức,
trong mọi hoàn cảnh, nó không bị đối tượng hay hoàn cảnh chi
phối buộc ràng. Từ đấy, nó soi suốt thật thể các pháp tức các hiện
tượng trên cõi đời, thấy rõ bản chất của chúng. Trí
tuệ ấy tự bản chất nó được mệnh danh là Thật tướng Bát
nhã. Lại cũng trí tuệ đó, trên phương diện tác
dụng soi suốt các hiện tượng, thì mang tên Quán chiếu Bát nhã. Thật
tướng trong suốt vắng lặng, quán chiếu cũng trong
suốt rỗng lặng, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Và có trong
suốt vắng lặng như thế thì mới thấy được cái thực chất nhân
duyên sanh của tất cả các pháp. Vì đã do nhân duyên sanh, các pháp
thảy đều không có tự thể, thảy đều giả hữu, hết thảy đều không. Không ở
đây phải hiểu là không có thật thể. Thuật ngữ Phật giáo gọi cái
không ấy là Thuấn nhã đa, tức phiên âm chữ Ínyat, thường dịch là tánh
không.
Giáo nghĩa tánh
không bắt nguồn từ đâu? Vị trí nó trong giáo lý Phật
như thế nào? Chính thống chăng? Bàng thống chăng? Đó là những câu hỏi
cần có giải đáp thì may ra mới tạm có một khái niệm tương
đối rõ ràng về Bát nhã. Chỉ khái niệm mà thôi, Còn thực
chất ra sao, thì phải tu mới chứng được.
Ai có nghiên
cứu Phật giáo cũng đều biết rằng tinh hoa của Pháp mà Phật
dạy chỉ tụ tại một điểm và chỉ một điểm mà thôi. Đó là duyên khởi, cũng
gọi là duyên sanh. Phật giáo sở dĩ khác với các thần
giáo chỉ một điểm này và ở một điểm này. Và ai đã thừa
nhận luật duyên khởi thì không thể nào thừa nhận một
đấng tạo hóa sáng thế nữa. Người đó trên hình thức, dù có theo đạo
Phật hay không theo đạo Phật, cũng đã là Phật tử trên bình
diện tư tưởng rồi. Ngược lại, dù là tăng sĩ, nhưng không thông
suốt duyên khởi, thì đó cũng chỉ là ngoại đạo trá hình. Nói thế,
cốt để nhấn mạnh vai trò chỉ đạo, vai trò tiên
quyết của luật duyên khởi trong toàn bộ giáo
pháp Phật. Không có duyên khởi, không có Phật giáo,
cũng như không có Bát nhã thì không có Đại thừa, như
đã khẳng định ngay trong câu mở đầu.
Khi đã thừa
nhận duyên khởi thì đương nhiên phải thừa nhận hai hệ
luận gắn liền với duyên khởi, đó là vô ngã và vô
thường. Đã là vô thường thì tác dụng do nó gây ra là khổ.
Còn vô ngã thì đương nhiên các sự kiện tự nó là không.
Không, đây cần nhắc lại, là không có tự thể. Từ những cái mắt thấy tai
nghe, cho đến những cái ý thức suy nghĩ, hết thảy đều không
có tự thể dù chúng đang hiện hữu trước mặt. Sự hiện hữu ấy
do các duyên (pratÌtyasamutpda) tức các điều kiện giả hợp mà
thành, không có ngã thể, dù bất cứ là ngã thể của hữu tình hay ngã
thể của vô tình. Vô ngã của hữu tình thì gọi là nhân
vô ngã; vô ngã của vô tình thì gọi là pháp vô ngã. Nói rõ ra,
tất cả mọi sự vật trong đó gồm cả con người, đều là vô ngã. Trường
phái Bát nhã triển khai lý luận về hai thứ vô
ngã ấy, tức vô ngã về con người, vô ngã về sự
vật, mà thành lập thuyết tánh không, chứng
minh cho triết học luận lý bát bất là thành
tựu bằng đạo học của phương pháp hành trì thực
tế để giải quyết khổ đau.
Tính chất nhất
trí và liên tục từ Phật giáo Nguyên thủy đến Phật
giáo Đại thừa như thế thật quá rõ ràng, trước khi Đại
thừa hưng thịnh, các trường phái A tỳ đàm chỉ chú trọng
đến nhân vô ngã, và ít lưu tâm đến pháp vô ngã. Thậm chí có
trường phái như nhất thiết hữu bộ chẳng hạn, lại còn chủ
trương cực đoan rằng nhất thiết pháp giai hữu với cách
ngôn là tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu. Để đối
kháng với chủ trương cực đoan đó, các trường phái A tỳ
đàm thuộc Đại chúng bộ đưa ra chủ trương đối nghịch và cực
đoan không kém là nhứt thiết pháp giai không. Bằng phương
tiện triết học phân tích tinh vi, nghĩa là bằng thuần
túy luận lý các trường phái sau đưa giáo nghĩa của họ đến một
cái ngoan không rùng rợn thê thảm. Và Niết
bàn theo quan điểm này là một trạng thái chết, trong
đó xác thân phải biến ra tro bụi, còn ý thức và trí tuệ thì
không còn một chút dấu vết lưu lại (khôi thân diệt trí).
Vô ngã, nếu chỉ hiểu
được theo nghĩa nhân vô ngã mà thôi, thì không sao tránh
khỏi pháp chấp. Còn vô ngã, dù bao trùm cả pháp vô ngã, nếu
chỉ loanh quanh trong khái niệm triết học do thuần
túy lý luận tạo dựng nên, thì xa rời thực tế, trở
thành khô cằn và đưa đạo Phật vào cõi chết. Nguy hiểm
của triết học dù cho đó là triết học tinh vi u
huyền cùng cực đi nữa, chính là ở đó.
Thừa hưởng truyền
thống không cả nhân lẫn pháp của Đại chúng bộ, trường phái Bát
nhã chủ trương thực hiện cái không bằng trực quán tổng hợp,
nghĩa là bằng hành trì thực tế theo con đường đạo học,
để tự mình trực tiếp thể nghiệm cái không ấy trong khi các pháp đương giả
hữu. Cái không hiện ra qua công phu tu chứng đó gọi là
đương thế tức không, nghĩa là trong khi các pháp đương hiện hữu sờ
sờ trước mặt, tự thể của chúng vẫn chỉ là không. Vì do nhân
duyên giả hợp chúng không có ngã thể riêng. Sự hiện hữu của
chúng chẳng qua chỉ là giả hữu mà thôi. Như vậy, cái sở quán (các
pháp) vốn dĩ không, thì cái năng quán (trí) cũng phải là không, như vậy mới
không bị chướng ngại và đạt tiêu đích là soi suốt thực
tế các pháp. Trí ấy mệnh danh là Bát nhã (Prajnà).
Dứt khoát Bát
nhã phải do tu chứng mà tựu thành, không do cái học mà un
đúc nên. Trong địa hạt này, cái học hoàn toàn bất lực. Cái học
chỉ giỏi tạo ra một mớ bòng bong khái niệm. Hiện thực hóa các khái
niệm ấy, phải do công phu hành trì thực tế của đạo
học. Bởi vì Bát nhã Ba La Mật Đa là một thứ gì sâu xa vi
diệu, không dễ gì thể nhập nếu không có sự hành trì. Có thể
hiểu được như thế thì mới xác định được ba chữ hành và chiếu
kiến trong câu mở đầu của Tâm kinh Bát nhã.
Hành nghĩa
là hành trì. Phương pháp hành trì ở đây là pháp
quán Bát nhã, tức là một pháp hành thiền riêng của trường phái
này, nhờ đó mà hành giả tự mình trực tiếp thấy được cái không
của đương thể bị quán. Thấy được cái không ấy là quán
chiếu. Quán chiếu không lìa thực tướng. Tuy hai mà một, như
đã nói trên. Bên dụng bên thể. Ngay ở nơi dụng mà bắt được thể. Thể hay dụng
cũng chỉ một Bát nhã mà thôi. Rõ ràng cái học từ chương
không có giá trị gì ở đây cả. Cũng không có giá trị gì kể
cả đến các khái niệm triết học duy lý được tạo dựng trên nền tảng
luận lý học hữu danh vô thực.
Tuy nhiên, nếu phải do
tu đắc mới biết có trí Bát nhã, thì những kẻ chưa tu hay không tu làm thế
nào để có một khái niệm về cái trí này? Và làm sao khiến họ có được niềm
tin để theo đòi hạ thủ công phu? Nhu cầu được đặt ra là
phải thuyết minh trí ấy để hé cho người muốn tu biết dung
mạo hình dáng của nó ra sao. Vì vậy mà phải dùng phương
tiện để mô tả, đó là văn tự Bát nhã. Phạm
vi của văn tự Bát nhã bao gồm toàn bộ văn học Bát
nhã, từ ngôn thuyết cho đến triết học, nhằm mục
đích thuyết minh giáo nghĩa này. Nhưng nói theo nghĩa
hẹp thì văn tự Bát nhã chính là triết học Bát nhã.
Cần nhấn mạnh lại một lần nữa rằng, triết học Bát
nhã chỉ được dùng như một phương tiện để giới
thiệu Bát nhã mà thôi. Nó không thể nào thay thế được quán chiếu
Bát nhã. Lý thuyết không đem lại kết quả cụ
thể như công phu thực tập.
Nói đến triết
học Bát nhã thì phải đề cập đến cơ sở lý luận, căn cứ
vào đó triết học này được xây dựng. Đó là luận lý
học bát bất mệnh danh là bát bất Trung đạo.
Khác với các hệ
thống luận lý thông thường đặt cơ bản trên những dữ kiện coi như
thực hữu và cố định, hệ thống luận lý mới này là một loại luận lý
siêu luận lý, do Long Thọ sáng tạo, nhằm thuyết
minh những hiện tượng giả hữu và chuyển
biến trong từng sát na, là các pháp duyên sanh như
huyễn. Phương pháp luận lý này chuyên môn dùng phủ định để khẳng
định. Bởi lẽ văn pháp vốn là duyên sanh vô thường, không có
một pháp nào đứng yên một chỗ, thì thử hỏi trong trạng
huống đó, ta có thể khẳng định được gì không? Cái hiện thực của
lát giây trước, không phải là cái hiện thực của lát giây sau. Dòng
sông phút trước không phải là dòng sông tiếp liền theo đấy. Càng không phải là
dòng sông năm xưa hay dòng sông trong mười năm tới, tuy cùng mang tên một dòng
sông chung. Cho nên, đúng theo sự thật, ta không thể khẳng định được gì
cả. Để được gần sát với sự thật hơn, phép luận lý chơn chánh
và lành mạnh buộc ta phải tìm khẳng định trong phủ định là vì thế.
Pháp luận lý phủ định
này, mãi cho đến giữa thế kỷ XIX mới được các triết
gia phương Tây biết đến và được họ tôn xưng là siêu biện
chứng. Bát bất nghĩa là tám sự phủ định gồm bốn cặp tám điều: sanh,
diệt; thường, đoạn; nhứt, dị; lai, xuất. Thật ra thì, gặp gì phủ định nấy, mới
sát với lý vô thường biến chuyển của vạn pháp.
Nhưng sở dĩ luận bát bất chỉ quy định có tám điều mà
thôi, là vì đấy là tám hiện tượng rõ ràng nhất và tiêu
biểu nhất trong tiến trình chuyển biến của sự vật. Hễ phủ định
cái nọ thì lại khẳng định cái kia theo hai mặt tương đối của nó.
Như nói bất sinh, đồng thời phải nói đến có diệt. Nói bất
sinh bất diệt tức là đồng thời phải nói là thường. Nói bất
thường thì đoạn tự hiện ra. Nói bất đoạn thì nhứt tự hiện
ra. Nói bất nhứt thì dị tự hiện ra. Nói bất dị thì lai tự hiện ra.
Nói bất lai thì xuất tự hiện ra. Nói bất xuất thì sanh lại
tự hiện ra, v.v... Vì lẽ ấy, và để được sát với sự
thật không ngừng biến chuyển, đừng nên khẳng định cái gì hết. Và khi
muốn khẳng định thì dùng phủ định mà diễn đạt. Thay vì khẳng định diệt thì
nên nói bất sanh. Thay vì khẳng định đoạn nên nói bất thường, v.v...
Phép phủ định này
được Long Thọ phát kiến, và dựng thành một cơ sở luận lý học vĩ đại
để thuyết minh giáo nghĩa tánh không của trường
phái Bát nhã. Có hiểu được then máy của phép luận lý này, mới hiểu được
đoạn: chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất
cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm trong bài Tâm kinh. Sáu chữ bất ở
trong đoạn này là một loạt phủ định dồn dập, nhằm mục đích khẳng
định thực chất của tướng không ở nơi năm uẩn.
Nói tướng không ấy bất sanh, tức nói nó tịch diệt. Nói
nó bất diệt tức nói nó thường tại, v.v... Trọn cả đoạn này cho
đến vô trí diệc vô đắc là chứng minh tánh không bằng
luận lý triết học, để rồi đi đến chỗ dĩ vô sở đắc cố ở
đoạn tiếp theo là đưa hành giả vào đoạn
thực tế hành trì. Triết học thuyết minh là gieo khái
niệm để mở đường chỉ lối. Tiếp theo là công việc của đạo
học phải thành tựu bằng công phu tu hành. Thực ích
lợi là phần của đạo học, nhưng nếu không nhờ
phần triết học soi sáng thì không biết nương tựa vào đâu
để lần theo dấu vết mà hành trì. Ngược lại, nếu chỉ thuyết
minh suông mà không hạ thủ công phu thì chung quy chỉ dẫm
chân một chỗ mà thôi. Có lẽ là tệ hơn nữa: đi giật lùi trên
đường tu chứng.
Trên đây là những khái
niêm căn bản về đạo học Bát nhã và triết
học Bát nhã: đạo học thành tựu bằng phép quán
chiếu; triết học xây dựng trên căn bản bát bất.
Hơn nữa, ai đọc
tụng bản dịch của Huyền Tráng cũng thấy tinh thần sảng
khoái, tâm lý an tịnh, có một sự linh cảm vô cùng đặc biệt.
Chính ngay ngài Huyền Tráng khi đi Ấn Độ thỉnh kinh, dọc
đường trải qua vô lượng gian khổ, gặp một vị Phạn
tăng truyền cho bài Tâm kinh này. Ngài học thuộc lòng, âm
thầm tụng niệm không ngớt, nhờ sức oai linh gia bị,
ngài vượt qua tất cả nguy hiểm của rừng thiêng nước độc, của yêu
tinh thú dữ, để rồi cuối cùng đạt được mục đích tham
học, thỉnh được kinh pháp trở về Trung Hoa, thành một
nhà đại học vấn, thành tựu sự nghiệp vĩ đại hoằng
pháp lợi sanh mà Đông Tây cổ kim thảy đều ngưỡng mộ. Cho
nên, Tâm kinh Bát nhã này không những lý nghĩa vô
cùng sâu xa mà sức cảm ứng cũng vô cùng linh
nghiệm. Ai nhất tâm thành tín đọc tụng thì cũng
có công đức vô lượng.
BỒ TÁT BÁT NHÃ
GIẢI
THÍCH ĐỀ KINH
Tám chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM
KINH là đề mục của kinh
này. Sáu chữ trước gồm hai danh từ tiếng Phạn phiên âm là Bát nhã, tức Prajnà và ba
la mật đa, tức pramitã. Tâm là tiếng Hán dịch chữ Phạn hrdaya. Kinh là
tiếng Tàu dịch chữ Phạn sÍtra. Vậy nguyên văn Phạn
ngữ của Tâm kinh là
Prajnpramit hrdaya sÍtra.
BÁT NHÃ
Bát nhã (prajn), Hán dịch
là tuệ, trí tuệ. Nhưng vì trong Hoa ngữ
không có một từ ngữ nào tương đương
với từ Bát nhã trong tiếng Phạn nên về
sau người ta bắt buộc phải tạo từ mới bằng cách ghép thêm chữ không vào
để tăng cường và xác định ý nghĩa của từ tuệ và trí và ta có không tuệ và không trí. Nhưng cũng vẫn chưa lột
hết ý nghĩa hàm ẩn trong danh từ Bát nhã. Nghĩa gốc của Bát
nhã chuyên chỉ cho loại trí tuệ đặc biệt, phát sinh từ công
hạnh tu hành theo pháp quán không mà chứng đắc. Đây là loại
trí tuệ thanh tịnh của chư
Phật vừa rỗng lặng vừa suốt soi, nhờ đó mà quán
chiếu được thật tướng của
các pháp và thấy rõ các pháp là không có tự tánh.
Đây không phải là loại trí tuệ thế trí biện thông. Vì thế để tránh mọi ngộ nhận vô tình hay cố ý, văn học Phật giáo Trung Quốc buộc lòng phải dùng y nguyên tiếng Phạn là Bát nhã với những chú
giải kèm theo.
Trong kinh luận chia Bát nhã thành ba loại: văn tự Bát nhã, quán
chiếu Bát nhã và thật tướng Bát nhã. Nương nơi văn tự ghi
chép trong kinh luận hay nhân nghe
diễn giảng về giáo nghĩa Bát nhã mà phát sinh trí tuệ, rồi nhờ đó mà thấu rõ nghĩa văn, không
bị chướng ngại, trí tuệ ấy gọi là văn
tự Bát nhã. Nó cũng được gọi là phương tiện
Bát nhã, nghĩa là thứ trí tuệ do phương tiện của ngôn
ngữ văn tự mà phát sanh. Tiến
lên một bước nữa, do nương theo các khái niệm đã lý hội được để suy tư quán sát thật tướng các
pháp, rời bỏ tướng ngữ ngôn văn tự, trong lúc tâm
hành như thế mà thật tướng các pháp tự phơi bày ra dưới sự xem xét của trí tuệ thì
gọi là quán chiếu Bát nhã. Từ quán chiếu ấy, gia
công hành trì quán sát đến một mức thâm sâu nhuần nhuyễn, nhuần nhuyễn đến độ nhứt
cử nhứt động, bất cứ nói phô hay im lặng,
đều không lìa khỏi Bát nhã. Từ cạn vào sâu,
nhờ sự quán sát nhỏ nhiệm mà xả bỏ
được quán sát thô phù theo kiểu người
đời gọi là dùng nêm nọ trục xuất nêm kia; cứ thế tiến mãi cho đến khi rủ bỏ hết tất cả các tướng phân biệt, tâm niệm bỗng
nhiên bừng sáng chói, khế hợp hòa đồng
và trùm khắp tất cả, không còn ranh giới giữa bỉ thử, nhơn ngã, nội ngoại, thị phi. Pháp tánh chơn như tự
hiện bày. Cái trí tuệ sáng chói ấy gọi
là thật tướng Bát
nhã; cũng gọi là căn bản Bát nhã. Thật tướng Bát nhã là chơn thể của Bát nhã. Quán chiếu Bát
nhã là diệu dụng của Bát nhã. Trong chơn thể, nó là trí tuệ vô phân biệt Cho
nên, nó có diệu dụng quán chiếu cùng khắp. Tuy hai mà một, tuy một mà hai, vì dụng không lìa
thể. Văn tự Bát nhã cũng chính là trí tuệ ấy, nhưng hiện
ra trong năng lực lãnh hội những khái niệm về giáo nghĩa Bát nhã xuyên qua văn học và triết học Bát nhã. Vì vậy, văn tự Bát nhã chỉ
được xem như một loại trí tuệ phương
tiện giúp soi đường cho hành giả trên
tiến trình tu tập quán chiếu Bát nhã, nhằm khai thông thật tướng Bát nhã để bước lên bờ bên kia: ba la mật đa.
BA LA MẬT ĐA
Từ ngữ này La Thập phiên âm là ba
la mật và dịch nghĩa là độ (đưa qua sông, sang sông), hay đáo bỉ ngạn: đến bờ kia. Độ hay đáo bỉ ngạn đều chỉ là những dụng ngữ nói
lên sự giải thoát khổ đau. Cõi sanh tử mà chúng
sanh đang trôi lăn được xem như bờ
bên này, thì bờ bên kia được ví
với Niết bàn, ở đó, chúng sanh được thoát ra ngoài vòng sanh tử. Ngăn cách giữa hai bờ là con sông phiền não. Vượt sông phiền não tức đến Niết
bàn. Vì vậy, bờ bên kia nguyên là dụ ngữ ngầm chỉ cho Niết bàn. Và phương pháp để
đi đến Niết bàn (đáo bỉ ngạn) là 37 phẩm trợ
đạo.
Với sự xuất hiện của Đại thừa mà mở đầu là Bát nhã, con sông ngăn cách không phải chỉ có phiền não mà thôi, nó còn là con sông mê lầm nữa. Cho nên, bờ bên kia vừa là giải
thoát (niết bàn) vừa là bờ giác ngộ (bồ đề).
Để đạt được đến
bờ bên kia, phải tu theo sáu pháp ba la mật (hay
mười pháp). Sáu ba la mật gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ (tức Bát nhã). Hành trì bất cứ pháp nào trong sáu pháp ấy cũng
đều đạt kết quả mong muốn là bước lên bờ bên kia. Nhưng nếu tu theo 37 phẩm trợ đạo hay tu theo năm pháp ba la mật trước thì tâm giải thoát (Niết bàn) đạt được trước, tuệ
giải thoát (Bồ đề) tiếp liền sau.
Như vậy, với các phương pháp trên
đây, bờ bên kia có nghĩa ưu tiên là bờ giải
thoát. Phật giáo Đại thừa thiên trọng về quả vị giác ngộ hơn,
Cho nên, ba la mật Bát nhã được xem như pháp
tu đứng hàng đầu trong số sáu ba la mật.
Theo Đại thừa, Niết bàn còn có nghĩa viên tịch. Tịch tức tịch
diệt còn viên tức thành tựu viên mãn cả phước lẫn huệ. Nếu thành tựu được vô
thượng Bồ đề thì viên mãn cả
hai (phước túc và huệ túc) mà giải thoát. Như vậy, với Đại
thừa, bờ bên kia có nghĩa là
bờ giác ngộ. Có biết như thế thì mới hiểu
được vì sao cùng theo một pháp tu Bát nhã ba la
mật đa, nhưng chư Phật thì chứng đắc Vô thượng Bồ đề, còn Bồ
tát thì đang trên con đường hướng
đến Niết bàn, không còn vọng niệm chi phối nữa.
Tóm lại, Bát nhã ba la mật đa nghĩa là pháp tu đưa qua
bờ giác ngộ ở bên kia sông mê. Nội
dung của pháp tu này là quán chiếu Bát nhã.
TÂM
Tâm có nghĩa là trung tâm,
thông thường người đời cho rằng tinh túy của
sự vật nằm ngay trong lòng của nó. Với con người cũng
vậy. Như trong con người, đứng về mặt sinh lý mà nói, máu huyết từ tim (tâm) phát ra,
chảy khắp thân thể để nuôi các tế bào,
rồi quay về tim mà phát ra trở lại. Đứng về mặt tâm
lý mà nói, các hiện tượng tâm lý đều phát xuất từ tâm, rồi cũng trở về đó
để phối kiểm lại. Vì tâm được hiểu như trung tâm,
Cho nên, tất cả tinh hoa được xem như đổ dồn và tập trung về đó. Cho nên, trại
ra nghĩa bóng, tâm được hiểu là tinh yếu,
nghĩa là cái chủ yếu tinh ròng của một việc gì hay một vật gì. Tùy từng sự việc
khác nhau và theo cách quan niệm chủ
yếu ấy đặt ở chỗ nào thì có một danh xưng riêng để nói lên cái chủ yếu ấy cho
hợp cách và sát nghĩa. Như vậy chủ yếu
trong cái thân này là lõi cây. Chủ yếu về mặt đạo
đức đối với người Việt Nam là
cái tấm bụng; còn chủ yếu về mặt tâm lý là
cái ruột non v.v... Bụng, ruột, lõi lòng v.v... hay tâm, chung quy đều chỉ nói
lên cái tinh yếu của sự vật hay của con người mà
thôi.
Như vậy, Bát nhã Tâm kinh là bài kinh cô đúc tất cả tinh yếu của giáo nghĩa Bát nhã.
Cũng như A tỳ đạt ma Tâm luận là quyển
luận cô đúc tất cả tinh yếu của giáo nghĩa A tỳ đạt ma, Tâm kinh hay Tâm luận là những danh từ thường gặp trong văn học Phật giáo,
chỉ cho các bản văn toát yếu của kinh
hay của luận, để người học dễ nhớ, dễ thuộc. Tức loại "giúp trí nhớ"
vậy.
Ta có thể dịch Bát nhã Tâm kinh ra
tiếng Việt là kinh ruột Bát nhã, kinh
lõi Bát nhã hay "bài toát yếu kinh Bát nhã", hoặc đảo ngược lại cho hợp với ngữ pháp Việt Nam và gọi là Tâm
kinh Bát nhã, nếu thấy các danh từ
mới dịch chưa quen tai. Ngày xưa ngài Chân Nguyên và ngài Toàn Nhật đã dịch là Kinh
Lòng.
KINH
Kinh là danh từ dịch nghĩa Phạn ngữ sũtra,
phiên âm tu đa la, Tu đa la Tàu dịch là tuyến, nghĩa là sợi chỉ,
hoặc xâu với nhau.
Tu đa la so với kinh trong
Hoa ngữ, hình thức cấu tạo tuy không giống nhau, nhưng nội dung hai
bên tương đồng. Trong Hoa ngữ, những sách ghi chép những lời của thánh nhân truyền dạy thì gọi là kinh, vì những
lời đó làm tiêu chuẩn cho muôn đời sau. Khác với sách ghi chép những lời của danh nhân, chỉ được gọi là truyện. Cho nên, mới
có thành ngữ thánh
kinh huyền truyện. Đức Phật là thánh nhân phương Tây (của Trung Hoa, tức Ấn Độ). Vậy sách ghi chép lời Phật dạy mà dịch là kinh thì quả thật rất đúng nghĩa gốc rồi.
Ta nên biết thêm rằng lời Phật dạy gồm có hai phần: pháp (đạt
ma, dharma) và giáo (tỳ nại da, vinãya).
Cả hai nguyên gọi là kinh hết, vì đều do Phật dạy. Nhưng về sau giải biệt thành
hai tạng riêng, Cho nên, chỉ những sách ghi chép pháp mới gọi là kinh, còn
những sách ghi chép giáo thì gọi là luật. Tạng ghi chép những lời chú
thích biện giải của các Tổ về sau, thì
được biệt lập thành một tạng riêng gọi
là luận. Bài kinh này thuộc tạng kinh.
Tóm lại, "Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh" nghĩa là: bài kinh tóm thâu yếu nghĩa tinh ròng của
pháp tu quán chiếu Bát nhã đưa hành giả lên
bờ giác.
"ÁN, MA NI BÁT DI, HỒNG."
GIẢI
THÍCH NỘI DUNG
A. TỰ PHẦN
- Quán tự tại bồ
tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Bồ tát Quán tự tại khi hành
trì bát nhã ba la mật đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều
không, vượt qua tất cả khổ ách.
Đoạn văn mở đầu này trực tiếp hiển
thị cái thực chất vô ngã rốt ráo và trọn vẹn ở nơi mỗi chúng
sanh (hay nói theo nghĩa hẹp, ở nơi mỗi con
người) mà thánh trí của Bồ Tát chứng đắc khi hành trì Bát nhã ba la
mật đa sâu xa, và nhờ đó giải thoát tất cả khổ
ách.
Lời mở đầu này bao hàm tất cả nội dung của giáo nghĩa Bát nhã.
Trọn phần chánh tôn kế tiếp về sau,
chỉ làm công việc quảng diễn nội dung này về hai
mặt triết học và đạo học mà thôi. Ta có thể nói rằng, nếu
lời Tâm kinh Bát
nhã gồm 260 chữ này là tinh yếu của hệ
thống Đại Bát nhã dày 720
quyển, thì đoạn mở đầu gồm có 25 chữ
này lại thêm một lần nữa cô súc tinh
yếu của bài Tâm kinh. Phần ròng của giáo nghĩa Bát nhã được
kết tinh trong lời mở đầu này.
Quán Tự Tại Bồ tát
Bồ tát là tiếng gọi tắt danh từ Bồ đề tát đỏa (phiên âm từ chữ
Boddhisattva). Bồ đề dịch nghĩa
là giác ngộ, tát
đỏa dịch là hữu tình hay chúng sanh. Hai chữ ghép chung với nhau thành ra Bồ
đề tát đỏa, có nghĩa là chúng sanh cầu đạo giác ngộ.
Tàu dịch nghĩa Bồ đề tát đỏa là
giác hữu tình, tức hữu tình hướng về giác
ngộ, hoặc sắp được giác ngộ.Vì vậy bất cứ chúng
sanh nào phát tâm bồ đề cầu đạo giác ngộ, đều gọi là Bồ
tát. Tuy nhiên, từ cấp mới hướng về
đến cấp sắp đạt được, khoảng cách giữa hai
bên thật là mù thẳm xa khơi. Trong khoảng cách
ấy, có nhiều cấp bậc sai khác nhau. Từ những kẻ sơ
phát tâm là hạng thập tín đến
những bậc công hạnh sâu dày là
hàng thập địa, có tất cả là 50 bậc.
Bồ tát Quán Tự Tại nói đây, ít nhất cũng từ bát
địa (trong thập địa) trở lên.
Vì chỉ sau khi trải qua địa vị bất động ở thập địa, bấy giờ mới được tự tại. Và cũng đến cấp đó mới đương nổi công việc
thượng cầu hạ hóa, nghĩa là trên cầu Phật quả, dưới hóa độ chúng sanh. Quán Tự Tại là
tên riêng của đức Bồ tát này. Quán có
nghĩa là xem xét. Trong lúc hành
thiền, hành giả lắng lòng trầm tư mặc tưởng để suy cứu đề tài tham
khảo thì gọi là quán. Quán phối hợp với
Chỉ, đó là thiền, chứ không chi khác. Trong Chỉ, đối tượng bị rị lại một vị trí bất động.
Trong Quán, đối tượng di động, chuyển biến theo quá trình tự nhiên của nó. Chỉ
và Quán chỉ khác nhau ở đối tượng sở quán, không khác nhau về
mặt tâm hành năng quán.
Bồ tát Quán Tự Tại, là dịch nghĩa Phạn ngữ Avalokitesvara. Từ này gồm hai chữ ghép
lại: Avalokita có nghĩa là quán, chiếu kiến hay
nhìn khắp mọi phương; và isvara có nghĩa là vị chúa tể, vì có quyền năng hành xử mọi
việc một cách tự do. Vì thế,
Avalokitesvara là vị bồ tát dùng
pháp quán chiếu Bát nhã để quan sát đối tượng đương
thể tức không, không bị chướng ngại bởi
các yếu tố giả
hợp tạo nên các ảo tượng của đương thể,
nên gọi là Bồ tát Quán Tự Tại. Giống như trường
hợp một vị Bồ tát chuyên tu hạnh Không mong khởi tâm khinh mạn bất cứ ai, dù đó là kẻ ngu
hèn thấp kém nhất trong xã hội, đó là Bồ tát Thường
Bất Khinh. Theo công hạnh riêng mà đặt
tên, đó là công lệ chung trong Phật giáo Đại thừa.
Do vì công hạnh riêng
mà đặt tên, Cho nên, Bồ tát Avalokitesvara
còn có nghĩa là Quán thế âm, Kuan shih yin,
theo truyền thống Trung Hoa, là
vị Bồ tát được thờ phụng phổ biến nhất
tại phương Đông, với công hạnh quan sát nghe thấy tất cả những tiếng kêu cứu của chúng
sinh trên cõi ta bà này.
Lời tụng "Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn Quán thế âm Bồ tát", tất cả Phật tử đều khấn vái hằng ngày. Phẩm Phổ môn thuộc kinh Pháp hoa là dành riêng để xưng tán đức Bồ tát
Quán thế âm trong công phu nhật tụng triêu mộ cho cả hai giới xuất gia và tại gia.
Các ngài Pháp Hiền (du hành những năm 399 - 413) Huyền Tráng (dh 629
- 645) và Nghĩa Tịnh (dh 671 - 695)
đều có ghi lại trong các quyển Phật quốc ký, Đại Đường Tây vực ký và Nam hải ký quy nội pháp truyện nhận
xét của các ngài là Bồ tát Avalokitesvara
rất được tôn thờ ở tất cả mọi nơi mà dấu chân các ngài trải
qua, từ Tây Tạng, Nepal, ngay
cả Ấn Độ. Bắt đầu khoảng thế kỷ thứ nhất là
đã được dân gian sùng bái, cho đến thế kỷ thứ bảy là thịnh hành nhất. Bấy giờ Bồ tát Avalokitesvara hiện thân nam, tượng thờ đứng, một mặt hai tay;
hoặc ngồi trên tòa sen một mặt hai tay
hoặc sáu tay, đôi khi từ mười tay đến hai mươi tay. Biểu tượng của ngài là tràng hạt (màlà) và hoa
sen (padma). Mạn trà xưng tán ngài
là Om, mani padme, hùm tức là An, ma ni bác
di, hồng. Đến vào khoảng thế kỷ XII
trở đi thì Bồ tát Avalokitesvara
được sùng bái với tượng thân nữ và tôn
thờ là Bồ tát Quán thế âm, tại Trung Hoa
cũng như tại Việt Nam, trong lúc ấy các nước ở Trung Á thì không
còn ảnh hưởng gì
nữa. Từ đây, Bồ tát Quán thế âm còn
có các tên khác như Tống tử Quan âm, Quan âm Diệu Thiện, hay Thiên thủ thiên nhãn Quan thế âm, Bạch y Quan âm, Tử trúc Quan
âm, Quan âm quá hải, đều
rất phổ biến trong dân gian.
Ở Tây Tạng, Bồ tát được gọi là spyan ras gzigs, có nghĩa là
vị Bồ tát có cái nhìn từ bi mẫn độ chúng
sanh. Mông Cổ gọi ngài là
Nidubarujekei, vị Bồ tát có đôi
mắt quán chiếu, tức là quon sim
bodhisattva. Tại Nhật, ngài là Kwan non (Canon).
Gần đây, các nhà khảo cổ tìm thấy dấu vết sùng
bái Bồ tát này tại Chiêm Thành,
tức miền Trung Việt Nam nước ta ngày
nay, từ trước thế kỷ thứ mười. Khi ấy, Bồ tát được
gọi là Lokesvara, gồm hai chữ Loka (thế gian) và
isvara, tức nghĩa tương tợ như Quán thế âm. Một tượng đá đức Quán thế âm này vừa được tìm thấy ở chùa Đại Hựu, có bia ký ca tụng công đức của Bồ tát, được cho là khắc vào
khoảng năm 900 về trước.
Tất cả các truyền thống đều
tin rằng sở trú của Bồ tát là đỉnh núi
Potala. Có nhiều địa điểm. Ngài Huyền Tráng ghi rằng đức Quán thế âm xuất hiện trên
đỉnh Potala ở miền Nam Ấn. Tự viện của Đạt Lai Lạt Ma ở Lhasa cũng được gọi là Potala,
vì Mật giáo Tây
Tạng tin rằng Bồ tát là
chúa tể của thế giới chúng ta, mà Đạt Lai là hóa
thân của người. Quần đảo Châu Sơn, ngoài khơi Triết Giang, gần Ninh
Ba (Ningpo), nơi đức Quán thế âm rất
được sùng bái, còn được gọi là P'u t'o,
tức Phổ Đà. Dân gian còn truyền tụng rằng núi Phổ Đà ở ngoài khơi Nam Hải.
Bồ tát Quán Tự Tại, do vì quán
sát rằng "sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức
là không, không tức là sắc..." tất cả là hai mà chẳng phải hai, Cho nên,
ngài còn là biểu tượng của Bồ tát Bất Nhị Trí tuệ Bát nhã là công
đức mà ngài hành trì, Cho nên,
ngài cũng là Bồ tát Bát Nhã. Và Bồ tát Bát Nhã Ba la mật đa là hiện thân siêu việt, tổng trì mọi công
hạnh kể trên.
Hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời
Khi hành Bát nhã Ba la
mật đa sâu xa
Sáu chữ Bát nhã Ba la mật đa đã
giảng rõ ở trên. Thâm là sâu xa, nói
rằng Bát nhã Ba la mật đa là sâu xa vi diệu không
dễ gì thể nhập mà đòi hỏi một quá
trình hạ thủ công
phu hành trì. Hành có nghĩa là hành trì, tức là tu tập và thực hành. Cần nhắc lại là trí tuệ Bát nhã không do cái học mang lại mà phải
do công phu tu
trì mới tựu thành, nên nói là hành. Vì
vậy, do sâu xa vi diệu, Bát nhã Ba la
mật đa đòi hỏi phải công phu tu hành mới tựu thành, chứ không phải một cái gì
có thể tự nhiên mà có.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không
Soi thấy năm uẩn đều không
Soi thấy là diệu dụng của quán chiếu Bát nhã. Nói soi thấy, tức tự mình trực
tiếp thấy rõ, như người uống nước, tự mình biết rõ nước ấy nóng hay lạnh, ngọt
hay mặn, không qua trung gian của khái
niệm hay ngữ ngôn văn tự.
Năm uẩn là năm nhóm họp
thành một chúng sanh, tức là một con người. Chữ uẩn là do ngài Huyền Tráng dịch
chữ kiền độ (skandha) tiếng Phạn.
Ngài La Thập trước dịch là ấm với
nghĩa là che phủ. Các dịch giả về trước nữa thì dịch là chúng, từ tập họp
nhiều yếu tố lại. Sản phẩm do năm
chúng, tức năm uẩn giả họp lại mà thành
thì gọi là chúng sanh. Vì vậy nói cho dễ
hiểu, khi nói đến tập họp của năm uẩn tức chỉ con người; con người là sản phẩm của năm uẩn. Phật giáo trong
các bộ kinh được gọi là nguyên thủy đã trịnh
trọng xác nhận tính chất vô ngã của
tập họp năm uẩn này rồi. Riêng từng
uẩn có vô ngã hay không, đó là đối
tượng khảo sát của trường phái Bát nhã.
Theo trường phái này, không một uẩn nào trong năm
uẩn là có tự thể, không có tự thể tức là vô ngã. Tập hợp của năm
uẩn là vô ngã, tức nhân không; từng uẩn một trong tập hợp ấy cũng vô ngã, tức pháp không.
Cả nhân lẫn pháp đều không, đó là nội dung trong nghĩa
không của Bát nhã.
Trong năm uẩn, sắc uẩn chỉ nhóm vật
chất bao gồm bốn đại, tức đất nước gió lửa, tạo nên xác thân con người. Thọ uẩn chỉ
nhóm cảm giác, bao gồm mọi khía cạnh sinh hoạt tâm lý hạ
đẳng nơi con người. Tưởng uẩn, chỉ nhóm suy tư bao gồm mọi khía cạnh sinh hoạt tâm lý cao
cấp. Hành uẩn chỉ nhóm ý chí bao gồm những sinh hoạt có tính
chất bản năng và ý chí. Hành là dấu vết của nghiệp cũ đang tạo tác và dìu
kéo các sinh hoạt hạ đẳng và cao cấp
nơi con người, đấy là loại ý chí mù quáng.
Chính vì vậy, nó đóng một vai trò quyết định trong suốt đời người. Thức uẩn chỉ nhóm tri
giác bao gồm mọi kiến thức trong việc nhận diện sự vật bên trong và bên ngoài con người. Trong số năm
uẩn vừa nêu, sắc uẩn thuộc sắc pháp, bốn uẩn kia thuộc tâm pháp. Sắc tâm hòa hợp tạo nên con
người, mệnh danh là thân năm uẩn.
Trong thân ngũ uẩn ấy,
các thần giáo và triết học Ấn Độ cho
rằng có một thần ngã (atman) ngự trị
bên trong bất di bất dịch, không chịu sự chi phối của vô thường. Nhưng Phật
giáo vốn xây dựng trên
lý duyên khởi, triệt để đánh ngã cái lý thuyết thần ngã ấy. Giáo lý vô ngã là
câu trả lời đanh
thép của thuyết có thần ngã vừa
nói. Về sau, khi các trường phái A ty đàm vốn thuộc Thượng tọa bộ xuất hiện, giáo lý vô ngã tuy
càng ngày càng thêm bền gốc chắc rễ, nhưng lại bị hạn cuộc trong phạm vi của lý
thuyết nhân vô ngã. Đến lúc Đại thừa xuất hiện với giáo nghĩa Bát nhã,
thì vô ngã mới bao trùm lên hết thảy,
đó là pháp vô ngã.
Đoạn kinh trên nói tới việc năm uẩn đều
không, tức đề cập đến vấn đế này đây, bởi vì vô
ngã cả nhân lẫn pháp chính là
nội dung của giáo nghĩa tánh không Bát nhã.
Với giáo nghĩa tánh không, thuyết vô ngã như
một trong hai hệ luận của duyên khởi, đã
được triển khai, thuyết minh đến mức tuyệt
đối cùng tột của nó. Thuyết vô ngã này
không phải thuần túy là một khái
niệm triết học tinh ròng, mà còn thể hiện một thực tế sống động tựu thành nhờ pháp trực quán tổng hợp,
nghĩa là bằng hành trì mà chứng đắc. Do đó, nên nói soi thấy năm uẩn đều không.
Độ nhất thiết khổ ách
Vượt qua mọi khổ ách
Khổ ách có ba loại. Khổ ách do chính thân
tâm tạo ra gọi là ngũ uẩn xí
thạnh khổ, bao gồm sanh, già, bệnh,
chết, mong cầu mà không đạt được, oán ghét
mà phải gặp mặt, thương yêu mà phải
chia lìa; đó là loại khổ thứ nhất. Loại khổ ách thứ
hai do thiên nhiên mang lại như tai
trời ách nước, bão lụt, gió mưa ... Ba là khổ ách do xã hội tạo ra như giai
cấp xung đột, chế độ hà khắc, chiến
tranh ... Tất cả những loại khổ ách này,
nhờ hành trì Bát
nhã ba la mật đa, hành giả có
thể vượt qua chúng một cách dễ
dàng. Vượt qua có nghĩa là không còn
bị chúng chi phối, nhận chìm.
Tóm lại, đoạn tự phần này nói rằng Bồ tát Quán Tự Tại khi hành trì Bát nhã ba la
mật đa sâu xa thì soi
thấy năm uẩn họp thành con người không một uẩn nào là có tự thể, nhờ
đó giác ngộ tánh
không và giải thoát tất cả
mọi ách khổ đau. Chỉ trong một đoạn này thôi, tất cả yếu lý căn bản của Bát nhã đã
được trình bày đầy đủ. Các đoạn tiếp theo chỉ
để triển khai yếu lý ấy về cả hai mặt triết học và đạo học.
B.
CHÁNH TÔN
Phần này trình bày giáo nghĩa tánh không của Bát
nhã, chia làm ba đoạn:
1. Nguyên lý bất nhị giữa
uẩn và không
2. Chứng minh nguyên lý
ấy qua luận lý triết học, và
3. Hiện thực nguyên lý
bằng hành trì thực
tế về mặt đạo học.
I.
NGUYÊN LÝ BẤT NHỊ GIỮA UẨN VÀ KHÔNG.
- Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không
tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng,
hành, thức cũng là như vậy.
Xá Lợi Tử còn gọi là Xá Lợi Phất, dịch
nghĩa tiếng Phạn riputra là người đứng đầu trong
hàng đệ tử Phật, được Đức Phật chia cho nửa ghế ngồi (bán tòa), ngài
được Đức Phật gọi mà dạy bảo là điều tất nhiên.
Trong năm uẩn, sắc uẩn là nhóm vật
chất, thuộc sắc pháp. Bốn uẩn còn
lại là thuộc tâm pháp. Tâm pháp là hiện
tượng tâm lý thường hay thay đổi, không thể sờ mó, bắt, nhìn,
Cho nên, nói là không có thực thể; đó là
điều có thể hiểu. Nhưng sắc pháp là hiện tượng vật chất,
tự nó có chất ngại làm thể, thì sao
lại bảo không thực thế được? Vì vậy đoạn
kinh này phải lý giải vấn đề tại
sao năm uẩn đều không tự thể.
Trước hết là nói sắc uẩn. Sắc uẩn chính là xác thân con người chớ không chi khác. Xác thân ấy, nói
cho cùng, không ngoài bốn đại là đất
nước gió lửa, giả hợp mà tạo thành.
Khi bốn đại giả
hợp thì có hiện tượng xác
thân. Khi chúng chia lìa thì không tìm thấy đâu
nữa. Rõ ràng xác thân là không tự thể,
không thường còn, không bất biến, Cho nên,
nói nó là không. Không đây chẳng phải là cái không đối lập với cái có, mà là cái đương thể tức không, tức là khi sự vật hiển dương tồn tại,
cái thể của nó đã không rồi, tức là nó không có tự thể, không có cái ngã riêng
của nó, nghĩa là nó vô ngã. Vì nó đương thể tức không, nên tương quan giữa các sắc uẩn và không được xác định qua hai khía cạnh:
chẳng khác và tức là.
Trong câu "sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc", hai chữ chẳng khác xác minh rằng sắc và không là hai pháp
riêng biệt nhưng mang tính thống nhất.
Còn câu "sắc tức là không, không tức là
sắc",
thì hai chữ tức là khẳng định ngược lại sắc và không chung quy cũng chỉ một
pháp. Như thế, tính thống nhất này xác
định sự thật tuy
hai mà một, tuy một mà hai, vừa nói lên được tính vô ngã vừa xác định được tính vô thường của nó. Nói cách khác, tính thống nhất ấy thể
hiện được bản chất vô thường biến hành nhưng
độc đáo của mỗi hiện tượng mà ngày xưa các vị Tổ thường gọi là nguyên lý bất nhị.
Bốn uẩn còn lại cũng giống như thế. Nghĩa là thọ chẳng khác
không, không chẳng khác thọ; thọ tức là không, không tức là thọ. Cho đến thức chẳng khác không, không chẳng khác
thức; thức tức là không, không tức là thức. Như vậy tương quan giữa uẩn và
không là một tương quan chẳng khác và tức là, nghĩa là hoàn toàn xây dựng trên
nguyên lý bất nhị. Do đó, không những cái
tập hợp năm uẩn tức con người là vô ngã (nhân không), mà từng uẩn một trong tập hợp ấy
cũng vô ngã (pháp
không). Với ngã và pháp đều không, trường phái Bát nhã của Đại thừa đã triển khai thuyết vô
ngã đến mức cùng tột mà hoàn thành giáo nghĩa tính không. Giáo nghĩa này mở đầu cho nhiều trào lưu tư tưởng khác tiếp
nối và dấy khởi bất tận. Vì thế mà nói rằng Bát nhã là cái bào
thai đẻ ra tất cả các kinh đại thừa.
II. CHỨNG MINH BẰNG LÝ
LUẬN TRIẾT HỌC
- Xá Lợi Tử thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt,
bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Xá Lợi Tử: Tướng không của các pháp đây chẳng sanh chẳng
diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Xuất xứ từ nguyên lý bất nhị trên, bản
kinh bây giờ trình bày cho ta cái trình tự làm sao mà đạt được cái nguyên lý bất nhị đó, để thấy rằng tất cả các pháp đều
không. Luận lý áp dụng cho việc trình
bày ở đây là bát bất trung đạo; đấy là luận
lý phủ định hay còn gọi là biện chứng phủ
định. Nói cái không ấy chẳng sanh chẳng diệt, tức nói bản thể nó thường
tịch. Nói chẳng sạch chẳng dơ, tức nói tác
dụng của nó vô phân biệt. Nói
chẳng thêm chẳng bớt tức nói hiện tượng nó
thường tự viên mãn. Ap dụng luận lý phủ
định một cách cô đọng và ít lời đến mức đó để chứng
minh cái không ở đây, trường phái Bát
nhã đã khai thác nguyên lý bất nhị một
cách tài tình, bởi vì nó chỉ cần nêu ra cái
phủ định, thì ngay trong cái phủ định ấy hiện ra muốn
khẳng định ngay liền. Sanh diệt ở đâu
thì cũng chính ở đó là bất sanh diệt; bất sanh diệt ở ngay trong sanh diệt. Có sai khác là chỉ vì mê ngộ không đồng mà thôi. Vì vậy, Đại thừa đã quả quyết rằng phiền
não tức bồ đề, ta bà tức tịnh độ. Phủ định phiền
não thì bồ đề tự hiện ra. Phủ định ta bà tức tịnh độ xuất hiện. Bất nhị mà!
- Thị cố không trung vô sắc, vô thọ,
tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô
minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử diệc
vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt,
đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Cho nên, trong không không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức,
không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới; không vô minh cũng không
vô minh hết; cho đến không
già chết cũng không già chết hết; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí cũng
không đắc.
Đối tượng con người,
theo Phật giáo nguyên thủy phân tích
và còn được ghi chép trong bốn bộ A Hàm (nhất
là bộ Trung và bộ Tạp) được chia làm ba phạm trù:
a. Thành phần họp
thành con người (năm uẩn);
b. Các yếu tố đóng vai trò trung gian giữa con người và ngoại
giới (mười hai xứ);
c. Các khu vực hoạt động riêng
rẽ trong toàn bộ sinh hoạt chung của con
người (mười tám giới).
Cứu cánh mà con người phải đạt cho được là trí, vì trí có
nhạy bén thì mới có giác ngộ mà chấm dứt đau khổ.
Giáo pháp đối trị được gói ghém trong pháp Tứ Diệu Đế, mà cái hồn sống
động là Duyên khởi, khai triển
thành lý mười hai nhân duyên (hay
chín nhân duyên theo buổi nguyên thủy).
Như vậy, các chủ điểm
quan trọng mà giáo pháp Phật phải khai
thị gồm có:
a. 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới (trong phần đối tượng giải quyết);
b. 12 nhân duyên, 4 đế (hồn
và xác của giáo pháp);
c. Trí (cứu cánh phải chứng đắc).
Tất cả sáu chủ điểm trên, đều được thuyết
minh rất đầy đủ trong Tạp và Trung A
Hàm.
Đối trị tất cả sáu chủ
điểm trên, trường phái Bát nhã lần lượt áp dụng luận
lý phủ định lên tất cả, để thuyết minh lý vô ngã một cách triệt
để.
Áp dụng luận lý phủ định
trong đoạn này, những khẳng định mới được ghi nhận thêm:
5 uẩn là giả hữu, 12 xứ là giả hữu, 18 giới là giả
hữu. Như vậy, cái ngã trong con người chỉ
là một ảo tưởng. Để đối trị cái ngã giả
hữu ấy, giáo pháp Phật dạy
cũng chỉ là phương tiện giả lập mà thôi. Cho nên, nói không 12 nhân duyên và cũng không có sự chấm dứt của 12 nhân
duyên. Cũng như không bốn
đế. Giáo pháp giả
lập là nhằm đối trị cái
ngã giả hữu. Dụng giả trừ giả. Như vậy thì cái trí mà giáo
pháp nhằm thắp sáng lên ở nơi cái ngã ấy cũng không nốt. Mà trí đã
không thì sự chứng đắc cũng không
thành, Không có thành đạo, không có chứng quả. Mà thật đúng như thế. Đứng về mặt tâm lý mà nói, ai thật sự có đắc một cái gì thì
không bao giờ nghĩ rằng mình đắc. Chỉ tơ tưởng ôm
ấp theo đuổi là khi mình chưa có. Khi
đã có rồi, thì lòng bình thản dửng dưng.
Hóa ra, không đắc mới thật sự có đắc. Hơn nữa đứng về mặt lý trí mà xét, cái đắc ấy không khác chi hơn là
cái mình sẵn có, nhưng vì vô minh che lấp, nay nhờ giác ngộ mà
bắt gặp trở lại mà thôi.
Bây giờ, lý luận ngược
chiều trở lại, ta mới thấy tất cả cái tài tình của phép luận lý phủ định. Vì không đắc
nên không trí. Đã không trí thì giáo pháp thắp
sáng cái gì? Và trí đã không thì 18 giới, 12 xứ và 5 uẩn thảy đều không.
12 xứ là 12 chỗ tiếp xúc giữa
trong và ngoài thân, một đối một. Mắt đối sắc, tai đối thanh ... cho đến ý đối pháp.
Như vậy, ta có 6 xứ bên trong (6 căn) và sáu xứ bên
ngoài (6 trần) tiếp xúc với nhau theo từng cặp thích đáng để cho ta những cảm thọ. Trong các kinh A
Hàm chỉ có sáu xứ thôi và
được gọi là lục xúc nhập xứ. Đây là
thuyết đầu tiên triển khai sáu trần sau làm thành 12 xứ.
18 giới là18 khu vực riêng rẽ, gồm
có 6 khu vực như 6 căn, 6 khu vực như 6 trần và 6 khu vực như 6
thức. Không khu vực nào xen lẫn với
khu vực nào, Cho nên, gọi là giới. Giới có nghĩa là có một giới hạn riêng biệt với
nhau.
12 nhân duyên là12 khâu
làm nhân cho nhau và vin vào nhau (duyên) mà tạo thành dây chuyền sanh tử tiếp nối không
bao giờ ngừng. Nói nhân là nói chiều dọc, tiếp nối dòng thời gian. Nói duyên là nói chiều ngang, vin vào nhau
trong không gian. Vì vậy, lý duyên sanh giàn
trải cả hai chiều không gian và thời gian, và phải hiểu trong tinh thần ấy mới đúng cách. 12 nhân duyên gồm có:
A. Nhân quá khứ: 1 vô minh; 2 hành;
B. Quả hiện tại: 3 thức;
4 danh sắc; 5 lục
nhập; 6 xúc; 7 thọ;
C. Nhân hiện tại: 8 ái; 9
thủ; 10 hữu;
D. Quả vị lai: 11 sanh;
12 lão tử.
12 nhân duyên là không,
Cho nên, cũng không có sự chấm dứt của
12 nhân duyên. Vì vậy mà nói: không
vô minh, cũng không vô minh
hết, là thế.
Tứ đế là bốn sự thật căn bản:
khổ, tập, diệt, đạo. Khổ bao gồm tất
cả khổ đau về tinh thần và thể xác.
Tập là nguyên nhân gây ra khổ đau, mà
đầu mối là tham, sân, si. Diệt là chấm dứt khổ
đau, tiêu diệt nguyên nhân khổ đau. Đạo là con đường, là phương pháp hành trì thực tế đưa
đến chấm dứt khổ đau. Khổ và tập là
hai nhân quả thuộc thế gian. Diệt và đạo là nhân
quả xuất thế gian. Cặp nào cũng quả
trước nhân sau, vì giáo pháp Phật xây dựng trên kinh
nghiệm thực tế, chứ không phải trên
khái niệm triết học.
III. HIỆN THỰC BẰNG HÀNH
TRÌ THỰC TẾ
- Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề
tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn. Tam thế chư
Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Bởi không sở đắc, Bồ tát nương Bát nhã
ba la mật đa nên tâm không mắc
ngại, vì không mắc ngại mà không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn. Chư Phật ba đời nương Bát nhã ba la mật đa nên chứng A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Câu bởi không sở đắc, xưa nay các nhà chú
giải thường dựa vào nội
dung của bản văn để ngắt vào đoạn sau. Nhưng gần
đây có một vài nhà luận giải cho
rằng nó phải thuộc đoạn trước. Điều này gây ra nhiều phân vân. Tra với nguyên
bản, thì lược bản Phạn văn do ngài Huyền Tráng phiên âm có câu: đa sa mỗi na
bát ra tỉ để đạt phạ, tức tương đương Phạn văn: tásmãd apraptitvena (vì vậy, do vô đắc). Và quảng bản của kinh cũng thế. Theo văn pháp,
câu dĩ vô sở đắc cố phải gắn liền với đoạn sau. Do thế, cách giải thích xưa nay về
câu ấy như một câu "thừa thượng tiếp hạ" không phải là không có lý do và đã được các bản Phạn văn chứng thực là đúng
đắn.
Bồ đề tát đỏa là một phiên âm tiếng
Phạn chữ Bodhisattva, ta thường gọi là Bồ tát. Hành giả tu theo Đại
thừa, sở dĩ được gọi là Bồ tát và xứng hợp với
danh xưng này, là bởi kiên trì sáu
phép ba la mật, trong đó tối thắng nhất là phép tu quán chiếu Bát
nhã. Nhờ kiên trì thực hành phép quán này cho tới trình độ vô sở đắc thì tâm không còn gì quái ngại.
Quái là bị nhốt vào lồng, mất
hết tự do như chim trong lưới, như cá
trong nơm. Ngại là bị ngăn trở từ khắp mọi phía, trên dưới
trong ngoài, tả hữu, trước sau. Cả hai chữ
đều có nghĩa là bị ngăn trở. Đầu mối của sự ngăn trở này là cái mạn nghi (nghi cái), Cho nên, mắc ngại đây là mắc nghi ngại. Vì mạn nghi chụp lên đầu, không cựa quậy
được, như cá chậu chim lồng, nên lòng luôn luôn sợ
hãi. Mà lòng đã sợ hãi thì vọng niệm dậy khởi liên
miên như trong giấc mơ, lấy giả làm chân, lấy quấy làm phải, điên đảo đảo điên,
không biết đâu là bờ bến. Do đó, trên bước đường tu
hành, có ba cái mốc lớn để kiểm chứng xem công
phu hành trì có thực sự kết quả
hay không. Một là đã giải tỏa mạn nghi chưa? Hai là đã được vô úy chưa? Ba là vọng
niệm còn dậy khởi không? Nếu mốc đầu chưa lọt qua, thì chắc chắn đang còn dẫm chân tại chỗ, chưa nhích
được bước nào kể từ khi khởi tu.
Bồ tát nhờ hành trì quán chiếu Bát
nhã, soi thấy năm uẩn đều
không, Do đó, không có gì chướng ngại nên
được tự tại thoát ngoài vòng nghi mà
bấy lâu giam hãm mình vào trong. Sau
khi giải tỏa mạn nghi rồi, mới giải tỏa được sự sợ
hãi, thành tựu vô úy. Đạt được vô úy rồi thì không còn bị chi phối nữa. Tâm
thanh tịnh dần để mà thấy rõ sự thật, vọng niệm tan biến. Cơn ác mộng đảo điên điên đảo của cuộc sống được giải tỏa. Từ đây
không còn gì vướng bận. Hành giả thong dong tiến thẳng đến Niết Bàn (giải thoát),
để rồi cuối cùng bắt gặp cái mà chư
Phật đã chứng ngộ: Bồ đề (giác ngộ).
Trên đây là tiến trình tu hành của Bồ tát qua ba giai đoạn lớn, đánh dấu bởi ba trụ mốc. Nếu không đạt được một
trụ mốc nào trong ba trụ mốc ấy để
kiểm chứng trên thực tế, thì mỗi ngôn từ chỉ là hý lộng ngoa ngôn, dù cho đó là ngôn
từ của văn tự Bát nhã. Đó là
chưa kể trường hợp càng sử dụng ngôn từ bát nhã thiện xảo bao
nhiêu thì lại mang tội lừa người dối mình bấy nhiêu, nếu không đạt được kiểm
chứng bằng kết quả hành trì cụ thể.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là từ ngữ phiên âm tiếng Phạn anuttarasamyaksambodhi.
A nậu đa la (anuttara), có nghĩa là vô thượng (không
gì cao hơn). Tam miệu (samyak) có nghĩa chánh
đẳng (bình đẳng chơn chánh) hay biến (cùng
khắp). Tam bồ đề (sambodhi) có
nghĩa chánh giác. Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là giác ngộ chơn chánh tuyệt
đối, bình đẳng, không còn giác ngộ nào cao hơn. Còn vô thượng biến chánh
giác thì nghĩa là giác ngộ chơn
chánh cùng khắp không còn giác ngộ nào
cao hơn. Chánh đẳng và biến, nghĩa gần tương đồng, vì đã tuyệt đối bình đẳng thì
dàn trải ra cùng khắp mọi địa hạt. Để có một ý
niệm rõ ràng về quả vị này, ta thử đem so sánh với những quả
vị mà ngoại đạo và tam thừa đạt được để
biết hơn kém thấp cao. Trừ phàm phu mê lầm,
không nói đến, ngoại đạo có giác nhưng
không có chánh. Nhị thừa có chánh giác nhưng không cùng khắp. Bồ tát có chánh giác cùng
khắp nhưng không vô thượng. Chỉ Phật
mới có giác ngộ gồm đủ ba khía cạnh
nói trên. Cùng từ ngữ này có chỗ dịch
là vô thượng chánh biến tri, vô thượng chánh đẳng giác, hoặc dịch gọn là vô thượng bồ đề.
Bồ tát trên tiến
trình tu hành, nhờ nương vào quán chiếu Bát nhã mà được tự tại giải thoát (rốt ráo hướng đến Niết
bàn) để rồi bắt gặp quả vị tối cao của chư Phật là quả vị vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Và chư Phật sở dĩ thành Phật cũng do một pháp quán ấy mà thôi. Một
bên đã thành, một bên sắp thành. Cả hai cùng do một nhân tu như nhau, cùng một hạnh tu như nhau.
Đến đây là thuyết minh xong giáo nghĩa tánh không của Bát nhã.
C. LƯU THÔNG
Phàm là một văn phẩm tuyệt hảo,
bao giờ cũng có đủ ba phần: nhập, thân và kết. Nếu tự phần là phần nhập trong đó vấn đề đã được đặt ra rõ ràng chính xác,
thì chánh tôn là phần thân, trong đó vấn đề được triển khai và quảng diễn một cách viên mãn. Đến đây, phần lưu
thông là phần kết với hai nhiệm vụ,
vừa gói vừa mở. Gói tức là tóm tắt các
ý chính nổi bật nhất của đề tài
vừa thuyết minh. Mở là khai thông đề tài,
hướng nó đến một chân trời bát ngát bao la hơn,
gây cho người đọc niềm hy vọng.
Phần lưu thông của kinh
này có đủ hai nhiệm vụ vừa nói. Nó có
đoạn một, tóm tắt nội dung bằng
cách tán thán công
đức to lớn của phép tu quán chiếu Bát nhã; và đoạn hai, trình bày diệu dụng của thần
chú Đà la ni trong Mật giáo.
I. TÁN THÁN CÔNG ĐỨC CỦA BÁT NHÃ.
- Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại
minh chú, thị vô thượng chú,
thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt
thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Nên biết Bát nhã ba la mật đa là thần chú lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không chi sánh bằng, trừ được tất cả khổ ách, chắc thật không dối.
Chú là dịch chữ mạn trà (mantra) trong tiếng Phạn. Theo nghĩa
hẹp, mạn trà là những lời cầu đảo, nghĩa rất bí
hiểm khi đọc lên, có tác dụng biến hóa ra các hiện
tượng thiên nhiên, cả lành lẫn dữ.
Theo nghĩa rộng, và đích thực của nó, mạn trà là cái gây cho ta suy nghĩ, có công năng nắm
giữ tóm thâu mọi nghĩa lý, làm tiền đề cho
việc tham khảo của ta, từ đó, đẻ ra
mọi công đức, mọi diệu dụng. Trong nghĩa này, mạn trà thuộc một trong bốn thứ đà la ni,
tức: pháp đà la ni, nghĩa đà la ni, nhân đà
la ni và chú đà la ni. Chữ chú
trong bài kinh này thuộc loại
chú đà la ni.
Đại thần chú nghĩa là chú thần lớn,
tức có thần lực vĩ đại, có thể chuyển
dời, thay đổi mọi việc. Phép tu quán chiếu Bát
nhã khêu sáng trí tuệ, Do
đó, mà sinh tử trở thành Niết bàn, phiền não chuyển thành Bồ đề, nên nói là đại
thần chú. Thần chú trí tuệ ấy chiếu phá vô minh, trừ dứt phiền
não nên nói là đại minh chú,
nghĩa là chú cực kỳ sáng chói, tức chú minh lớn. Cũng nhờ trí tuệ ấy mà chứng được vô thượng Niết bàn nên nói là chú vô thượng, nghĩa là chú không có gì cao hơn nữa. Lại
cũng nhờ trí tuệ ấy mà chứng
được vô thượng bồ đề, nên nói là chú vô đẳng đẳng, nghĩa là chú sánh với cái không gì sánh
kịp.
Vì phép tu quán chiếu Bát nhã có công đức to
lớn như thế, so với công đức của Đà la ni hai bên ngang nhau, vì thế nên đức Phật đã tán thán và
tôn xưng phép tu ấy như là thần chú. Và vì
có công đức như thế, Cho nên, trừ được
tất cả thống khổ ách nạn. Cũng
vì công đức ấy là công đức quả có trên hiện thực Cho nên, khẳng định lại một lần nữa rằng nó là chân thật, vì chẳng phải là dối gạt.
II. DIỆU DỤNG CỦA BÁT
NHÃ
- Cố
thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức
thuyết chú viết:
Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
Nên nói chú Bát nhã Ba la mật đa.
Nên nói chú rằng:
Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
Phép quán chiếu Bát nhã có công đức sánh ngang với công đức của chú đà
la ni, tức nhiên diệu dụng của
phép tu này cũng không thể nghĩ bàn được, Cho nên, thực hành lời chú. Tức thuyết
chú viết, nghĩa đen là liền nói chú rằng. Nhưng để diễn đạt cái diệu
dụng linh ứng không thể nghĩ
bàn ấy, tưởng nên dịch câu ấy là: chú liền ứng rằng thì mới lộ hết ý sâu xa tàng ẩn trong đoạn này, có hô thì lập tức có ứng. Và có như thế mới gọi là linh,
là huyền diệu.
Chú vốn là mật ngữ (lời bí mật). Đã là bí mật,
làm sao cắt nghĩa? Tuy nhiên, dựa vào sự cấu tạo,
có thể suy đoán một cách thô sơ nghĩa
của một số chữ. Chẳng hạn như với câu chú này, nghĩa của nó không đến nỗi khó
khăn lắm.
Yết đế, Tàu dịch nghĩa là độ, chữ Phạn vốn đọc là gate, có nghĩa đi
qua, vượt qua. Yết đế lặp lại hai lần có nghĩa là độ cho mình và
độ cho người. Ba la yết đế, do chữ pragate, có nghĩa là đi qua bờ bên kia. Ba la tăng yết đế, là do phiên âm chữ prasamgate, nghĩa là đi
qua bờ bên kia hoàn toàn. Bồ đề là giác ngộ. Tát bà ha do
phiên âm chữ svha có nghĩa là Ngài khéo nói. Như vậy, ý nghĩa của toàn bài chú có thể tạm dịch như sau:
Qua đi, qua đi, qua bờ bên kia đi, hoàn toàn qua bờ bên
kia đi, thì có bồ đề. Ngài khéo
nói như vậy.
Tạm dịch nghĩa đen của
bài chú như trên, nhưng công hiệu của
chú hoàn toàn không phải ở nghĩa hay
lý. Vì thế, hiểu nghĩa hay lý đối với chú không ích
lợi gì cả. Điều cốt yếu khi tụng chú,
là phải thành tâm. Càng thành tâm thì càng nhiều linh nghiệm, bởi vì công
dụng hàng đầu của việc trì chú là
diệt niệm. Vọng niệm có diệt được
thì thân tâm mới khinh an. Do đó, mới có cảm
ứng linh nghiệm bất khả tư nghị. Riêng về chú Bát nhã trên đây, diệu
dụng cứu cánh là đưa ta mau lên
bờ giác.
"Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát
bà ha"
Bồ tát Quán Thế Âm
Theo: Vọng Nguyệt Tín Hanh, tập 1, tr. 802b.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét