Năm 1995 truyện ngắn Gió dại của Bảo Ninh viết về một cái làng ở miền Nam Việt Nam trong thời chiến tranh được đăng trên tờ Granta và đã khiến Hà Nội bực tức. Ông lại bị chính quyền phê phán và đôi lúc bị theo dõi kỹ. “Thường chúng tôi vừa đến một quán cà phê là lại phải đi ngay sang quán khác vì cảm giác như mình bị theo dõi,” Nguyễn Quý Đức, nhà văn và dịch giả văn học nói với tôi. Bảo Ninh cũng bị khủng hoảng tinh thần, chỉ biết tiêu thời gian trong sự cô đơn, hút thuốc và uống rượu nhiều, giống như nhân vật Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh, sau khi trở về Hà Nội “đã sống với lũ lượt những hồi ức khủng khiếp, ngày này qua ngày khác, đêm dài này nối tiếp đêm dài khác.” Năm 1995, nhà văn và nhà báo Pháp Janie Di Giovanni đến thăm Bảo Ninh ở Hà Nội về đã viết trên tờ The Guardian: “Tôi đến một khu dự án nhà ở hoang vắng để gặp nhà văn tài năng, u ám này. Tôi bị ám ảnh bởi lối văn trữ tình, cảm xúc mạnh mẽ, nỗi buồn lặng lẽ và tuyệt vọng của ông. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh ông khi tôi rời khu nhà nghèo khổ ông ở - uống nhẹ vào lúc 11h sáng, cười bâng quơ, dáng vẻ buồn bã khủng khiếp bởi những thứ chiến tranh đã in hằn trong tâm trí ông.”
(Rohit Inani- Ấn Độ)
Gió Dại
Truyện ngắn Bảo Ninh.
Kìa! Nghe thấy không, hình như là Diệu Nương đấy!
Nhiều tháng, và không
chừng nhiều năm rồi đã trôi qua, Diệu Nương, cô gái ấy đã bị bắn chết từ những
bao giờ vậy mà vào mỗi buổi mai, trước khi bắt sang một ngày mới, ở làng Diêm
người ta vẫn mơ hồ ngái ngủ bảo với nhau thế. Như có thể nghe được quá khứ, như
có thể thu được hồi thanh của thời gian vậy.
“Ta rong chơi giữa đời...
ới a... biết đâu nguồn cội. Em xin làm bến đợi mà chân anh ghé qua...”
Khi đó là giờ của rạng
đông yên tĩnh với ngôi sao Mai miền thảo nguyên to lạ lùng tỏa ánh biếc trên tầng
không quang mây đang tảng sáng. Vào giờ đó mặt trời chưa mọc nhưng trên đồng cỏ
bóng tối và sương mù đang nhẹ tách khỏi nhau, đang tan. Trong mông lung, làng mờ
hiện.
Một vệt đường 14. Những
cụm nhà mái tôn. Một ngôi nhà thờ.
Eo óc tiếng gà gáy da
diết và cọt kẹt tiếng những con ròng rọc quay trên các miệng giếng trong làng.
Làng Diêm thức giấc, buồn ngắt, chơ vơ, nổi lên chìm lịm giữa bốn bề mênh mông
thảo nguyên bao la quạnh vắng.
Vào giờ đó, phía bên
kia đồng cỏ những cỗ 105 ly trong căn cứ của Quân đoàn II ngụy vẫn đang ngon giấc
và chiếc thám thính cơ L19 được dành riêng cho làng Diêm còn chưa chấm hiện lên
ở chân trời. Dưới sông A Rang chảy qua bên làng, chiếc xe tải qua ngầm trễ nhất
vừa lội lọt sang bờ bên kia, để lại những vòng sóng lan rộng tắt dần trên mặt
nước mùa khô phẳng phiu.
Vào khoảng giờ này hồi
trước trong thinh không đang ngân vang tiếng chuông giục giã giáo dân đi lễ
mi-xa buổi sớm, nhưng trúng phải đạn đại bác tháp chuông đã từ lâu rồi im hơi lặng
tiếng. Khắp sân nhà thờ toang hoác những hố bom và hố pháo không ai buồn lấp.
Um tùm lùm bụi và gai góc tràn lấn các lối đi. Hàng sáng trên thềm đá dưới hiên
nhà thờ, một vị linh mục trong bộ chùng thâm âm thầm tựa cửa ngóng mặt trời
lên.
Suốt đêm, trên khúc
đường 14 chạy ngang trước nhà thờ nườm nượp xe pháo và quân lính trẩy dọc qua
làng. Bây giờ tất cả đã biến đi nhường chỗ cho buổi tinh mơ không một bóng người.
Sau sương, trên đường
thôn nghe như có tiếng xe bò lăn bánh, lộc cộc lộc cộc ra đồng. Đây đó, im lìm
rải rác những mái nhà tôn còn ẩm hơi khuya nhè nhẹ thở ra làn khói bếp.
“Ta rong chơi giữa đời...
ới a... biết đâu nguồn cội...”, từ đâu đó dưói đáy sương nương theo ngọn gió
sau chót của trời đêm đang lẳng lặng giã từ bờ sông và đồng cỏ, tiếng hát cất
lên, bổng bay.
Trong cõi lòng ủ ê của
linh mục thoáng rợn luồng cảm giác như dòng điện. Ông rùng mình, bàn tay chực
đưa lên làm dấu thõng rơi. Nhắm mắt lại, ông cúi đầu xuống, khẽ thở dài.
Xa, sau rặng đồi thâm
thấp nhấp nhô trên bờ đông đồng cỏ vừng dương ướt át, mềm mại và tươi hồng đang
thầm lặng nhô lên. Từ tù mù xám đục không gian bỗng trong vắt một vùng và cả nửa
vòm trời đã ngả màu lơ. Ánh sáng lung linh chảy thành dòng. Cùng với ngày mới
tiếng hát dường như lớn lên mãi và tràn rộng ra, vừa sâu trầm vừa vút cao, tự
thoát đi trở thành âm thanh vô chủ, ngân lên hoang dã trở thành khúc du ca của
thiên nhiên.
Trong làng, bọn nhãi
hát với theo Diệu Nương. Người lớn, ai nấy sững sờ.
Bên sông, trong trận
địa phòng không bảo vệ ngầm, các pháo thủ đang làm những công việc chuẩn bị cho
trận đánh trong ngày bất giác ngừng hết lại. Các trinh sát viên rời mắt khỏi bầu
trời, dõi ống nhòm về phía làng.
“... trăng ơi mày quá
tệ...”
- Kìa! Trông kìa, cô
ta đấy!
Một người lính kêu lên,
đưa tay trỏ.
Cảnh vật được ống
nhòm làm cho xích gần lại. Sau những lùm cay che lấp con đường nhỏ viền quanh
làng dường như thấp thoáng bóng người đàn bà đang hát. Trong màn ban mai, ảo mộng
và thực tại lẫn lộn, âm thanh và hình ảnh nhòa nhập. Một thân hình thon thả, một
dáng đi uyển chuyển. Suối tóc xõa trên lưng. Song đó có thể chỉ là hư ảnh của
bài ca, một ảo giác lồng trong tiếng hát. Một bóng ma. Một bóng ma tha thướt và
quyến rũ, mềm mại và sống động, nhưng có thể bỗng chốc tan biến trong huyền bí.
Đứng trên nóc hầm
thông tin, đại đội trưởng và chính trị viên chuyền nhau chiếc ống nhòm.
Huyền thoại về Diệu
Nương, ca sĩ ngụy Sài Gòn bị chiến sự thình lình cầm giữ trong vùng Giải phóng,
lâu nay là câu chuyện hàng ngày ở pháo đội này. Trí tưởng tượng của từng người
làm giàu thêm những chi tiết hoang đường.
- Rong chơi! - Chính
trị viên buông ống nhòm, nhăn mặt - Không bắt cái đồ đĩ ấy câm miệng lại, cả đại
đội sẽ bị nó hớp hồn. Rồi sẽ khối đứa đâm đầu theo nó mà rong chơi.
- Nhưng làm sao
cấm hát được? Đại đội trưởng nhún vai.
- Cấm! Vì là nhạc
vàng, là phản chiến, là ngụy ca!
- Đấy là Trịnh
Công Sơn.
- Cũng thế
thôi. Mà sao cứ đúng giờ này là nó nỉ non, hay nó làm ám hiệu? Hay nó muốn rủ
rê lính mình bỏ trận địa xuống ngủ với nó cho sinh bệnh mất sức chiến đấu, hả?
Có phải nó toan thế không?
- Nhưng cô ta
hát mới hay làm sao. Thật là một giọng hát tiên cô...
Ở bên kia sông, một
toán bộ binh đang lội qua vàm cỏ tranh. Ánh kim loại lấp lánh. Người đi sau
cùng dừng lại, ngoái nhìn về làng Diêm.
Mặt sông A Rang màu
lam đang bốc hơi nghi ngút. Gió sang sông mang theo tiếng hát. Cơ thể người lính
đón nhận tiếng hát với cái rùng mình. Giai điệu bài ca như đụng khẽ vào tim
anh. Trong trẻo và sáng rõ như được tắm gội trong khí mát ban mai, nhưng càng
lan xa bài ca càng rung lên nỗi buồn, một nỗi buồn sâu thẳm, cao vợi và rộng lớn
vô biên, dường như tiếng hát ấy chính là nỗi niềm của thảo nguyên. Thảo nguyên
tự do, mênh mông vô tận, chạy hút về phương trời xa xăm, không biết đến các tuyến
tiền duyên, không màng gì tới chết chóc, trận mạc, bom pháo, giết chóc.
Buồn thay khúc du ca
lạc loài. Nỗi sầu thương hồ hải.
Mặc dù người ta đồn
thổi, người ta thêu dệt, đời Diệu Nương vẫn hoàn toàn là bí ẩn. Thiên hạ chỉ chắc
chắn rằng Diệu Nương lưu lạc đến vùng sông A Rang này vào mùa hè năm 72, sau
ngày quân Giải phóng tấn công và quân Sài Gòn tháo chạy, còn trước đó cô là ai,
từ đâu cô phiêu bạt tới, tên thật của cô thế nào thì chẳng mấy người biết, mà
những người xưng là có biết thì lại mỗi người kể mỗi phách. Ngay chính Diệu
Nương hình như cũng không hề hay biết gì nữa về mình. Đời cô, cô dường đã quên
cả.
- Nghe nói khi
dạt về đến đây cô ta chẳng còn lấy một manh vải che thân.
Tôi cũng nghe nói vậy.
Song, vào “Mùa hè đỏ lửa” thì có riêng gì cô ta mới ra thân tàn ma dại, tôi
nghĩ. Cũng như cỏ cây, số phận con người mà bị khói lửa chiến tranh ngốn thì chỉ
thoáng chốc thôi là thành tro than.
Năm 72, chiến sự rùng
rợn giết hàng đống người. Người chết, chết ngả rạ dọc các ngả đường, la liệt
trên các nội cỏ và nổi lềnh phềnh trên mặt sông. Người còn sống sống ngắc ngoải,
dở sống dở chết. Tứ phương tan tác. Cả đến thiên nhiên cũng như thể bị hóa kiếp.
Cảnh làng biến tướng.
Thực ra thì không làm
gì còn làng nữa. Ngày trước làng ồn ào nhộn nhịp, nửa làng nửa phố, nhà cửa san
sát, trù phú, thịnh đạt. Cách thị xã chỉ mười cây số đường chim bay, làng được
quân Mỹ gìn giữ. Đàn ông trong làng đi lính hưởng lương. Đàn bà chạy chợ. Cả
làng ngoan đạo. Bây giờ thì bao nhiêu sự giàu có thời Mỹ-ngụy đều rữa nát và mục
thối ra dưới những đống hoang tàn.
Ngày ngày làng rơi
vào tầm đại bác từ thị xã rót về, và ngày ngày hàng đàn phi cơ tràn tới, hoặc cắn
đuôi nhau bổ nhào hoặc bay bằng trút bom xuống làng, xuống hai bờ sông, xuống đồng
cỏ. Cây cầu sắt bắc qua sông A Rang bị đánh sập. Công binh vận đá về làm ngầm,
bom pháo càng thêm ác liệt. Đất trời nghiêng ngửa.
Giữa năm 73, tiểu đoàn
17 pháo cao xạ được điều về giữ ngầm A Rang. Ba đại đội pháo 37 ly chốt hai bên
bờ sông, tạo thế chân kiềng quần nhau với không lực Sài Gòn. Đại đội tôi bám
chân ngay kề làng Diêm.
Một cái làng cô hồn.
Cỏ dại, gai góc, lùm bụi, những đống gạch vụn, ngói nát, rầm gãy ngổn ngang. Rải
rác, xiêu vẹo, những túp những nửa lều nửa hầm mọc ngoi lên trên nền đổ nát. Từ
những đống hoang tàn bầy chó trong làng bươi ra đủ thứ nát bét của đời sống một
thời đã sụp đổ: những mớ nhầu bấy, rách bươm và sặc sỡ váy áo, mũ mão, đồ da, đồ
nhựa, những mảnh vụn đồ gỗ, đồ thủy tinh, vật dụng gia đình... cùng những khúc
xương xẩu người và gia súc mà đàn chó xâu xé, giằng giật của nhau, tha đi, chuyền
cho nhau như đánh khăng.
Dân cư của làng thưa
vãn và suy tàn, đầy rẫy những nhân vật hoang dại. Đàn ông còn lại chẳng bao
nhiêu mà đa phần lại là những phế binh đã hết thời được ngó ngàng chăm sóc, què
cụt, đui mù, bẹp dí. Hầu như chỉ thấy đàn bà và trẻ con ló mặt khỏi nhà. Những
mụ vợ lính lạc chồng, những ả góa rách rưới, rạc rài, không lai lịch và bầy trẻ
ranh ốm đói trần truồng, bụng ỏng, gầy giơ xương.
Phần đông vốn không
phải người làng Diêm. Mùa hè năm 72 từ nhiều thị trấn, làng mạc, khu gia binh họ
nhập vào dòng thác chạy loạn đổ xô theo đường14 dồn về thị xã. Đụng phải xe tăng
Giải phóng, biển người bị nén lại ở làng Diêm. Tại đây, vào lúc nửa đêm đã diễn
ra một cuộc thảm sát.
Người ta kể lại rằng
đêm ấy, nghe tiếng động cơ của một chiếc Dakota lượn ì ì trên bầu trời đồng cỏ,
đám dân chạy loạn đã đốt lên cả ngàn ngọn đuốc. Một cây thánh giá khổng lồ đã
được vẽ ra bằng lửa trên quảng trường trước nhà thờ. Trong đêm tối, người ta hò
hét, kêu gào vẫy gọi con tàu Nô-ê trên lưng chừng trời. Không ai nghe thấy những
loạt đề pa, không ai nhìn thấy những nhoàng lửa đầu nòng chớp lên giần giật ở
chân trời. Sau cả giờ chết chìm trong pháo bầy cấp tập, lại tiếp tục những lượt
người tan xương nát thịt dưới trận mưa bom kéo rền rền tới tận sáng. Trong nhúm
người may mắn còn được sống có lẫn Diệu Nương.
Bọn họ trở thành người
làng Diêm từ đấy. Từ đấy tất cả bắt đầu cuộc đổi đời bắt buộc. Tất cả đều phải
cam chịu sống đời gian khổ, ăn đói mặc rách, đổ mồ hôi trên nương sắn rẫy lúa tự
cày cuốc nuôi thân. Tất cả đều phải sớm biết thu mình vào khuôn khổ kỷ cương của
chính quyền mới. Những kẻ cứng đầu, những tên to mồm đều bị thẳng thừng trấn
áp. Nhiều tên bị bắn, nhiều kẻ bị bắt.
Diệu Nương cũng đã một
lần bị du kích tống giam. Họ nhốt cô ba ngày trong xà lim hầm đất vì tội nhiều
lần hát những khúc ca ngụy. Được thả, cô vẫn chẳng chừa, vẫn buông thả không
khuôn phép, tự do lãng đãng sống tách khỏi cộng đồng, và sáng sáng chiều chiều
cô vẫn cứ hát, giọng ca huyền hoặc quỉ ám. Người ta đồn rằng đêm đêm cánh đàn
ông vẫn mò mẫm tới túp lều nát của cô ở ven sông. Họ gõ cộc cộc vào cánh cửa gỗ
dán hoặc cào sột sột vào vách liếp. Họ thu trong tay họ người thì phong lương
khô hoặc túi gạo sấy, người thì hộp thịt, bao thuốc lá hay miếng vải, hay là
kim chỉ, gương lược, diêm muối, đủ thứ để đổi lấy một thứ. Chẳng có bằng chứng
nào, song tiếng tăm điên rồ và vô liêm xỉ của Diệu Nương vẫn xầm xì lan rộng.
Có thể vì thế mà nhiều người bảo rằng ngày trước Diệu Nương là gái bán bar
trong căn cứ Mỹ, thậm tệ hơn người ta còn bảo cô vốn là một con “thiên nga”, đại
khái là đồ đĩ rạc. Hư thực ra sao chẳng ai quả quyết, bởi vì còn những lời đồn
đại hoàn toàn khác, những thuyết khác hẳn về nguồn gốc của Diệu Nương.
Nhiều người nói rằng
thuở trước cô là một danh ca Sài Gòn. Ban nhạc của cô nhận lời lên biểu diễn
cho một đơn vị biệt động quân đồn trú tại Tân Trấn. Suất diễn cuối cùng rủi
thay lại trùng với giờ N mở màn Mùa hè đỏ lửa. Xe tăng và bộ binh Bắc Việt tràn
ngập Tân Trấn, tuyến phòng thủ vỡ, quân lính bị giết, ban nhạc tan tác. Diệu
Nương theo dòng người chạy về tới làng Diêm thì cùng đường. Áo xống lộng lẫy cửa
nữ danh ca đã thành tã trong cuộc tháo chạy ngang qua đồng cỏ ngụt lửa. Đêm đến,
trong hỏa ngục rùng rợn của cuộc tàn sát, Diệu Nương bị vùi dưới núi xác chết
chất trên sân nhà thờ. Hơn một ngày thở bằng hơi thở của các tử thi rồi cô mới
được moi ra, trần truồng, bê bết máu đặc. Và bởi chấn thương tinh thần do nỗi
kinh hoàng đêm ấy mà Diệu Nương trở nên điên dại, người ta bảo thế. Lúc điên ngấm
ngầm, lúc lấp lửng điên, lang thang, vật vờ, nửa mộng du, lúc bột phát quay cuồng,
mất trí.
Từ đấy, mặc dù được
giải phóng nhưng đời cô mai một. Bàn tay cô quá mềm, da quá mỏng không cầm rựa
phát cây được, không nhấc nổi cuốc để cuốc đất, nên thân cô không được trui
rèn, không tự cải tạo nổi bằng tăng gia sản xuất. Sắc đẹp của cô chỉ nhấn mạnh
thêm lên vẻ lạc loài. Giọng hát của cô chẳng hữu ích cho ai trong thời buổi
nghiệt ngã cam go, nay sống mai chết, nhọc nhằn và túng đói.
Tuy nhiên, ngày ngày,
vào những ban mai và những hoàng hôn, bản năng xướng ca vẫn thúc bách Diệu
Nương cất tiếng hát. Giọng ca tuyệt vời song thảng thốt như làn gió dại lướt
xiên đồng cỏ trong ánh nhá nhem buồn thảm của mỗi ngày. Trong lời ca của Diệu
Nương đau thắt nỗi nhớ quê nhà, nhớ đời nghệ sĩ, nhớ sàn diễn, nhớ khán giả, sắc
đẹp và tuổi thanh xuân mà nay tất cả đã rời bỏ cô, đã xa lắc xa lơ ở bờ bên kia
không thể vượt qua được của chiến tuyến.
“... nhưng ôi, chúng
ta, chính chúng ta đây.
một thời chúng ta
cũng có.
một quê hương và một
mối tình...”
Ở làng Diêm bây
giờ vẫn còn có người nhẩm lại được giai điệu và lời của bài hát buồn vô hạn ấy
mà một buổi xế chiều xa xưa nọ Diệu Nương đã lần đầu hát lên. Chiều ấy, lúc xế
tà, bộ đội dong tù binh qua làng. Hằng trăm lính áo rằn bị trói thành cặp, lầm
lũi lê bước. Những lính áp giải đầu súng gắn lê, gay gắt, lạnh lùng lùa thúc
đoàn tù đi mau qua khỏi khu vực dân cư.
Hai bên đường sau các
ngưỡng cửa thấp lè tè lấp ló những khuôn mặt sợ sệt, bồn chồn. Dân làng mong
tìm kiếm người thân trong đám tù binh nhưng chẳng ai dám mon men ra đứng ở vệ
đường.
Chợt sau rặng cây
phía cuối làng thấp thoáng bóng một người. Ấy là Diệu Nương, và giờ đấy, giờ tận
chiều của mỗi ngày cũng là giờ xuất thần của cô.
Môi mấp máy, mắt nhìn
chăm chăm, Diệu Nương rẽ đám cành lá, đi theo đoàn tù. Những người đàn ông lưng
còng đang lê bước không để ý tới cô. Trong bóng chiều chạng vạng mặt mày họ tối
om như mặt đất.
Bỗng người ta nghe thấy
những âm thanh như tiếng ai khẽ nức nở. Diệu Nương lấy giọng yếu ớt và vấp váp
hát lên một khúc ca hầu như chưa từng ai nghe thấy trên đời. Tiếng hát nhỏ,
giai điệu u tối và không rõ lời.
Như nghẹn ngào, Diệu
Nương ngừng lại lấy hơi rồi lại hát tiếp. Ở giữa khối tù một người chợt cất cao
giọng. Rồi một người khác nối theo. Rồi nhiều người. Giọng hát của Diệu Nương
như lướt một cái hôn dài trên môi tất cả. Đoàn tù biến thành dàn đồng ca. Những
giọng đàn ông chung nhau một bè trầm át tiếng chân bước. Đội áp giải không bắt
tù phải im miệng. Những ngọn lê chúc cả xuống.
Dân làng ra hết hai
bên đường. Họ lặng lẽ đứng chôn chân nhìn theo đám rước đang khuất dần trong vầng
bụi bốc lên trên con đường tù đày vô định xuyên qua thảo nguyên bát ngát. Bài
ca của Diệu Nương và của những chiến binh xấu số vang lên trong thinh không lúc
ấy đã tràn đầy bóng tối.
“Trong cuộc huynh đệ tương tàn.
Chúng ta chỉ là con sâu cái kiến.
Nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây.
Một thời chúng ta cũng có.
Một quê hương và một mối tình...”
Giờ đây, Diệu Nương
đã chết. Trên đồng cỏ, giữa vô vàn gò đống, nấm đất nào là nấm đất của Diệu
Nương, ai là người có thể chỉ ra được?
Và cả nấm mồ của người
bị bắn chết cùng cô nữa, thất lạc nơi đâu trong đất trong cỏ?
Cuộc sống triền miên
trôi chảy. Cuộc sống không hề có trí nhớ. Những lớp lá rụng, những lượt thời
gian. Đất cát. Cỏ cây. Mùa mưa. Mùa khô. Năm này tấp lên năm khác.
Ngôi nhà thờ của làng
Diêm cuối cùng rồi cũng bị máy bay triệt hạ. Cỏ dại chôn vùi các bức tường đổ,
nuốt dần các bậc thềm. Sáng sáng tiếng quạ kêu trong thánh đường hoang tàn gợi
người ta nhớ tới vị linh mục. Ông ta đã bỏ làng ra đi, chẳng ai biết là đi
đâu...
Bên sông trận địa
pháo cao xạ chỉ còn chơ vơ những công sự hình móng ngựa đã sụt lở. Đây đó vài hố
bom đìa hoác miệng. Những hố bom bi, bom phạt quang và hố đạn pháo thì thời
gian đã san bằng. Và cái lối nhỏ ngày xưa đính pháo đội với làng Diêm nay chỉ lờ
mờ một vệt trăng trắng uốn lượn lẩn khuất dọc bờ sông um tùm lau lách. Lính
tráng đi xa chắc vẫn chưa quên con đường mòn ấy. Trên lối ấy, hồi đó, ngày hai
bận anh nuôi từ trong làng gùi cơm canh ra trận địa. Ban đêm, nhất là những đêm
tối trời, cũng lối ấy lính các khẩu đội tụt tạt mò vào làng “dân vận”. Thoáng
bóng cán bộ đại đội hay là tuần tra của du kích, những kẻ xé rào đi ăn sương lẳng
lặng né ngang xuống mép sông, thu mình trong bãi lau. Văng vẳng tiếng cuốc kêu
phía đầu làng. Hơi ẩm màn đêm ướt lạnh vai áo. Cầm lòng không đậu.
Hồi ấy, lệnh trên gần
như cấm tiệt bộ đội không được tiếp xúc với đám dân còn chưa được giác ngộ, còn
nửa ngụy của vùng mới giải phóng. Không có nhiệm vụ tuyệt đối không được láng
cháng vào làng. Kiêng kỵ như vậy thật kỳ quặc, nhưng quân lệnh như sơn, lơ mơ bị
bắt quả tang đang vi phạm thì tha hồ mà kiểm thảo lên kiểm thảo xuống, rồi kỷ
luật đảng kỷ luật đoàn đủ vành đủ vẻ tai vạ chuốc vào thân. Mặc dù vậy, lính gần
dân lửa gần rơm.
Dẫu không phải là
tình cá nước, nhưng thời gian trôi qua quan hệ vụng trộm giữa các khẩu đội pháo
với những túp lều nát trong làng đã thầm lén in lên mặt cỏ một lối mòn. Ban
ngày, trừ tổ anh nuôi không ai lai vãng trên lối đi ấy, nhưng đêm xuống đó là
đường ân tình. Có lẽ tới bây giờ trong mỗi túp lều còn có thể gom lại hàng mớ kỷ
vật và ở trong lòng mỗi người dân thì còn vương nhièu kỷ niệm về các tay lính
pháo thủ cao xạ Bắc Việt ngày ấy. Người ta bảo rằng trong quan hệ quân dân khuất
tất hồi ấy đã lén lút sinh ra không ít niềm quyến luyến, gồm cả những mối tình,
cho dù hầu hết chỉ thoảng qua, vội vã, chợt nhen chợt tắt, tù mù, chẳng dẫn tới
gì, chẳng đi tới đâu, nhưng vẫn là tình.
Hồi ấy niềm ước ao hạng
nhất của lính pháo thủ là được vào làm phụ bếp cho anh nuôi trưởng Cù. Cả đại đội
chỉ mỗi Cù chốt hẳn trong làng, còn hai phụ bếp thì phải luân phiên, mỗi tháng
thay một lần.
Chẳng hiểu là tới bây
giờ hai cái lán nứa nền âm, một nhà kho, một nhà bếp, được cất lên ngay cạnh
khuôn viên nhà thờ có còn dấu tích gì không. Hồi đó, Cù nhắm vuông đất bên nhà
chung bởi anh hy vọng đấy là tọa độ tương đối ít phải ăn bom. Bất tiện là phải
chung giếng nước với ông cha đạo nhưng Cù thích cái giếng ấy, nước của nó trong
và ngọt nhất làng. Còn cha cố thì tiếng vậy chứ cũng là người. Mặc dù trẻ tuổi
song ông ta rất nghiêm túc, vẻ lễ độ khoan hòa, ứng xử biết điều hơn bất kỳ ai
trong đám chúng dân làng Diêm. Cù không ưa gì họ. Rặt một phường vô dụng. Sống
giữa đồng cỏ, đất đai vô thiên song vì là thứ dân tứ chiếng, một hạng nông dân
miễn cưỡng, họ không thiết làm lụng để có cái ăn mà chỉ toàn xoay xở đắp đổi
qua ngày. Có lẽ bọn họ đã quá quen với viện trợ Mỹ, quá quen nằm ngửa ăn sẵn,
nên giờ đây lòng họ chỉ canh cánh hoài tiếc thuở vàng son đi lính và làm đĩ cho
Mỹ cho ngụy, Cù nghĩ. Có lẽ bọn họ đều ngấm ngầm một lòng với địch, ngấm ngầm
ngóng đợi một thời cơ, sau cái vẻ bề ngoài nhẫn nhịn và cam chịu mà Cù thấy là
đê tiện.
Và nhất là bọn đàn
bà. Cù không hiểu nổi can cớ làm sao mà đồng đội của anh nhiều tay lại để cho
chúng hớp hồn dễ dàng như vậy. Cả đại đội, năm chục thằng, bao nhiêu năm tút
hút trong rừng sâu với nhau chẳng thành vấn đề gì, nhưng vừa kéo nhau ra nơi trời
đất quang quẻ, có sông, có làng, có thấp thoáng bóng đàn bà là có chuyện. Mà
nào phải là người phụ nữ hiền thục, trung hậu, đảm đang nơi quê xa ngoài Bắc
hay các chị em giàu truyền thống cách mạng trong vùng hậu cứ. Cả làng, Cù nghĩ,
rặt một lũ vi trùng giống cái.
“Vi trùng giống cái
truyền bệnh tiêm la, giang mai...”, chí ít thì đấy cũng là cái cách anh thường
nói để răn đe các tay phụ bếp.
Không phải bất cứ gã
nào ngoài trận địa Cù cũng nhận vào tổ anh nuôi. Những tay nom tốt mã, những
tay bẻm mép, láu lỉnh, lắm tài vặt, dễ léng phéng là Cù gạt ngay. Có tay nom bề
ngoài củ mỉ cù mì nhưng phụ bếp mới quá một ngày đã bị Cù tống khứ về với mâm
pháo vì hóa ra là một thằng tẩm ngẩm tầm ngầm.
“Đã là thằng anh nuôi
ngày ngày thường xuyên với gạo nước rau mắm của đơn vị - Cù bảo - thì hai bàn
tay phải tinh khiết, cấm đụng chạm tới những sự uế tạp, dơ dáy, nhất là cấm kỵ
không có được vọc vào đàn bà.”
Dân làng cũng sợ Cù.
Chẳng ai dám mon men tới gần giếng gần bếp của anh. Dẫu có bắt quen được với
tay phụ bếp nào, muốn xin xỏ hay đổi chác gì thì cũng phải đợi lúc Cù gùi cơm
ra trận địa mới hòng.
Ngày hai lần, tinh mơ
và chiều tà, để một người coi nhà, còn Cù cùng một anh nuôi viên nữa mang bữa
ăn ra cho các khẩu đội pháo. Con Ních, một con chó săn nòi Lào nhỏ vóc và nhanh
nhẹn, thính mũi cực kỳ chạy mở đường. Họ đi trên đường14 một đoạn ngắn rồi rẽ
xuống, lối đi lượn vòng vèo trong làng qua các tụp lều nghèo nàn bệ rạc tường đất
mái tôn. Họ đi, người hơi đổ về phía trước, hai bàn tay vòng sau chắp lại đỡ lấy
đáy gùi. Hai cái gùi to như hai cái thùng phuy, bọc bao tải, tỏa hơi nóng và
mùi cơm chín tới, mùi thức ăn lính.
Bầy chó trong làng
thoáng bóng con Ních, chạy dạt. Đói meo, chúng núp sau các đống đổ nát, nhìn ra
mà không dám sủa. Chỉ có mấy thằng bé rách rưới bị mùi cơm canh nóng sốt quyết
rũ là lẵng nhẵng bám theo hai cái gùi.
- Bác anh nuôi ơi,
bác anh nuôi... - Chúng kêu lên khàn khàn như đàn quạ.
- Bọn ngụy con, cút
xéo! - Cù quát.
Nhưng nếu có ông lỏi
nào gan lỳ theo được tới cuối làng thì Cù dừng bước, vẫy nó lại. Anh móc trong
bị cói đeo bên hông ra một củ sắn nướng hoặc bắp ngô luộc, có hôm cả một con cá
khô. Anh bảo:
- Đó, cho mày. Có vậy
thôi. Cơm canh bộ đội có chó gì. Sắn cõng gạo. Tàu bay chấm muối riềng. Ơn cách
mạng đời chúng mày được giải phóng, nhưng phải biết chịu khổ. Phải biết cuốc
cày mà nuôi lấy nhau, về bảo mẹ chúng mày thế. Đừng có ưỡn ườn ra trên giường
mà chờ sung. Cách mạng còn dài. Đến hết đời chúng tao. Hết cả đời chúng mày...
Nghe nói đến tận bây
giờ người ta vẫn thấy con Ních đi và về trên con đường ấy. Nó lần ra bờ sông,
ngửi hít những cái vỏ đạn 37 ly đã rỉ xanh, rồi leo lên một cái hầm pháo cao xạ
ngập trong cỏ tranh, nó đờ đẫn ngó làn nước trôi. “Bác anh nuôi ơi, bác anh
nuôi!”, một trong những thằng bé hồi ấy giờ đã lớn quen miệng cất tiếng gọi khi
trông thấy con chó già cô độc bị bỏ rơi đang đi trên đường thui thủi. Dường như
thằng bé còn nom thấy đằng sau con chó hình bóng hai người lính cấp dưỡng đang
cõng trên lưng hai chiếc gùi.
Con chó bị riết vào lối
mòn xưa. Và bao giờ nó cũng qua làng vào thời điểm thấp nhất của mặt trời: khi
ban mai, khi hoàng hôn. Không gì có thể làm xao nhãng cuộc mộng du ấy. Không ai
dám đụng tới con vật đó.
- Chính là nó đã giết
chết Diệu Nương.
Những người mang mang
biết chuyện bảo thế. Nhưng những người không hề hay biết gì về tấn thảm kịch
cũng sờ sợ con chó, họ mơ hồ cảm thấy trong cuộc dạo chơi buồn thảm nhịp nhàng,
lặp đi lặp lại của nó một vẻ mù quáng và điên dại đặc biệt con người.
Lần ấy, đến hẹn, khẩu
đội 3 và khẩu đội 4 cử người vào làm anh nuôi thay cho Bình khẩu đội 1 và Tuấn
khẩu đội 2 đã hết phiên. Nhưng trái lệ thường, Cù chỉ thay Bình còn giữ lại Tuấn.
“Thằng Tuấn thạo việc rồi, với lại nó rất chịu thương chịu khó, có thể kế cận
cho tôi làm anh nuôi trưởng cũng được”, Cù giải thích thế với chỉ huy đại đội.
Tuấn vốn gốc gác bộ
binh. Bị thương nặng, đáng lý được ra Bắc rồi nhưng nghe động viên thế nào đó
đã tình nguyện ở lại chiến trường. Người ta không điều Tuấn về lại đơn vị cũ mà
bổ sung sang tiểu đoàn cao xạ. Anh về đại đội tôi mới được nửa năm, giữ chân
pháo thủ số 3 ở khẩu đội 2.
Vóc người anh cao, ốm
yếu, võ vàng, cổ lộ hầu, một vệt sẹo dữ dội do đạn bắn thẳng cày chéo từ mang
tai xuống cằm. Miệng anh vì thế méo đi, cho anh cái biệt danh là Tuấn “mếu”. Mặc
dù là dân Kinh Bắc nhưng Tuấn lầm lỳ, nóí ít lạ lùng và nói miễn cưỡng. Giữa một
đám pháo thủ luôn ăn to nói lớn, thích tán dóc đấu láo, Tuấn âm thầm nín thinh,
chẳng góp chuyện, chẳng bật cười, chẳng bao giờ tức khí nổi xung. Tuyệt đối thờ
ơ lãnh đạm. Một nhà quí tộc hay một gã chán đời?
Tuấn dửng dưng với những
cú bổ nhào trực tiếp lao cắm mặt xuống cắt bom của máy bay cường kích. Bom nổ
xa, nổ gần, rốckét nã trúng bờ công sự, Tuấn kệ. Song cái thứ tính khí lạnh nhạt,
bàng quan với tất thảy ấy lại có vẻ hết sức thích hợp để làm pháo thủ số 3. Giữa
cuộc hỗn chiến đất đối không, số 3 chân chính là người không hề để mắt tới máy
bay, tới bom, tới đường đạn bắn lên trúng hay trượt, mà hoàn toàn ung dung tự tại,
anh ta chỉ một nhiệm vụ là điềm nhiên bình thản quay tay quay điều chỉnh cự ly
bắn đón cho pháo theo nhịp đếm của trắc thủ đo xa.
- Đánh nhau kiểu cao
xạ sao mà tẻ - Có lần Tuấn ra lời bình phẩm như thế với tôi - Đánh trận mà như
là đánh máy chữ. Chẳng có kịch tính gì, khác xa bộ binh.
- Tại cậu đứng mãi số
3 nên thấy thế đấy - Tôi bảo - Nếu muốn thì đề nghị khẩu đội trưởng cho hoán vị,
tớ đứng số 3, cậu ngồi ghế số 2 của tớ mà dận cò.
- À không. Là nói thế.
Chứ bảo mình thế nào thì mình thế nấy. Chả xin gì chả ước gì. Thế tuốt!
- Chán đánh nhau sao
không ra Bắc, lại ở lại?
Tuấn nhún vai.
- Hay thất tình? Chắc
hay tin vợ ở nhà ngủ với dân quân chứ gì?
Tuấn “à” một tiếng rồi
lại ngậm tăm. Miệng méo xệch.
Thực ra Tuấn vợ con
chưa, ai mà biết. Cả chính trị viên cũng không nắm được gì nhiều về Tuấn ngoài
mấy dòng trong lý lịch quân nhân. Tuấn chẳng tâm tình, chẳng thiết thổ lộ. Chẳng
bao giờ tháy anh viết thư hay được thư. Họp hành, anh ngồi im. Cùng lắm là ậm ừ.
Ngoài cái nết kín
bưng nổi bật ấy, Tuấn có nét nổi bật nữa là tài chơi đàn. Khác với lối chơi ghi
ta thường thấy của lính, Tuấn không vừa đàn vừa dậm chân rung đùi, không lúc lắc
vai, không vừa đàn vừa huýt sáo hay là ư ử trong họng, anh đàn một cách thẫn thờ,
chẳng phải để cho ai nghe, cũng chẳng phải cho mình.
- Cậu chơi bài gì
nghe lạ vậy Tuấn? Tuấn lại chỉ “à” khẽ một tiếng.
Vào làm anh nuôi, Tuấn
cũng xách ghi ta theo. Một cây đàn cũ kỹ, thùng đàn xây xát, nhưng mà tiếng rất
tốt. Nghe nói Tuấn đã tha theo cây đàn này vào bộ đội và mọi người đều lấy làm
lạ không hiểu bằng cách nào mà anh vẫn giữ được nó qua bao nhiêu là chặng của đời
lính.
Vào làng buổi sáng,
chiều Tuấn đã cùng Cù đưa cơm ra trận địa. Gùi canh môn thục tổ bố bốc khói
trên lưng.
- Vất vả không Tuấn?
- Cũng vất.
- Bọn đàn bà làng
Diêm thế nào, giàu kịch tính không?
- À.
Tuấn hờ hững. Bảo ở
pháo thì ở, bảo vào làm anh nuôi thì vào, anh chẳng sốt sắng cũng chẳng thoái
thác. Im lìm nguội lạnh, chẳng nói chẳng rằng, song anh làm việc hết mình, không
hề nề hà ngại khó, chẳng bao giờ kêu ca.
Lúc đầu Cù không
thích Tuấn, anh bực với cái lối âm thầm ngậm tăm ấy, nhưng rồi cũng đâm quen.
Trầm tính không phải là một cái phốt, vả lại làm anh nuôi thì cả ngày đầu tắt mặt
tối, túi bụi, tất bật, luôn chân luôn tay còn đâu thời gian hở ra mà chuyện
vãn.
Chỉ có một khoảng ngắn
ngủi về khuya, khi một ngày cơm nước cho đơn vị đã chu toàn, ba chàng cấp dưỡng
mới được tắm táp, nghỉ ngơi, tranh thủ trao đổi với nhau đôi lời trước khi mệt
nhọc rũ người xuống võng. Cù lôi rượu ra. Mỗi thằng nhấp một chén và nghe Cù cắt
cử phần việc phải làm ngày mai. Hôm nào được chút thảnh thơi, Cù và Bình đánh
bài, còn Tuấn thì gỡ cây đàn treo trên vách xuống, chầm chậm so dây rồi nhè nhẹ
phác một giai điệu.
Bấy giờ, khoảng đầu
tháng Năm ta, đêm thường mưa. Ngoài sông A Rang nước lên, con lũ chuyển mùa ầm
vang đồng cỏ. Trên mây sấm lăn rền rền.
Bình huýt sáo nhịp
theo khúc nhạc. Cù buông bài, quay sang lặng lẽ nghe Tuấn đàn. Âm điệu quá quen
thuộc mỗi sáng mỗi chiều. “Ta rong chơi giữa đời biết đâu nguồn cội”.
Ngoài trời miên man
mưa, không khí trong lán ẩm ướt. Quầng sáng đèn dầu vàng ủng. Đời lính buồn rầu
hiu hắt. Như tiếng thở dài.
Bếp anh nuôi của pháo
đội cao xạ và căn nhà của linh mục nhìn sang nhau qua một vườn rau. Hai bên
dùng chung cái giếng xây và cùng đi một lối để vào làng.
Nhà của linh mục cũng
nền âm, lại thêm bốn ụ đất chống mảnh bom bao quanh nên từa tựa một cái hang.
Trong tu phòng chẳng có đồ đạc gì. Một chiếc chõng tre với nệm rơm và gối gỗ, một
cái kệ để sách và ảnh thánh. Bên ngoài cửa ra vào treo một cái giá, hàng sáng
con chiên trong làng đưa cơm tới để lên giá đó cho linh mục. Mỗi ngày ông ra khỏi
tu phòng đôi ba lần và hầu như chưa hề đi đâu vượt ra ngoài khuôn viên nhà thờ.
Ông sống thu mình kín đáo trong vòng chí thánh.
Bỗng dưng ông rời bỏ
nhà thờ, rời bỏ làng Diêm, lặn mất tăm. Ngày ông biệt tích trúng với ngày Diệu
Nương bị giết. Lập tức sinh ra những lời đồn thổi. Tất nhiên chẳng có bằng cớ
gì. Có điều từ đấy trong hầu hết các câu chuyện và các giả thiết về đời Diệu Nương
người ta đều thấy thấp thoáng bóng cái áo chùng thâm.
Bản thân linh mục
cũng là một số phận xui xẻo. Tai họa đến với ông cũng bất ngờ, na ná tai họa
dành cho Diệu Nương. Nhằm đúng hôm ông lĩnh mệnh bề trên về nhà thờ làng Diêm
cai quản xứ đạo thì Việt Cộng đùng đùng đánh lớn. Chiếc xe đò đưa ông từ thị xã
về làng chưa kịp vào bến đỗ đã nghe súng nổ ran dọc bờ A Rang. Pháo 130 ly cấp
tập nã và xe tăng T54 xuất hiện thình lình trên đường 14 tàn nhẫn cắt lối chạy
lui. Hành khách đổ xuống xe xô nhau chạy và đám đông con chiên đang tề tựu để mừng
đón cha xứ cũng lâp tức nháo nhào tan tác.
Người ta bảo rằng
đúng vào cái đêm khủng khiếp, đêm bọn Mỹ dập pháo và dội bom xuống biển người
di tản, tình cờ Diệu Nương nằm kề bên linh mục. Chính ông đã moi cô ta ra khỏi
núi xác chết. Và mặc dù khi ấy Diệu Nương chỉ còn là một cái xác lõa lồ, bê bết
máu me, ông đã làm cô hồi tỉnh, đã cứu sống cô. Ông cưu mang cô từ đấy.
Diệu Nương sống nhiều
tháng trong nhà thờ, kề cận cha xứ, y như thể cô là một ma-xơ hay là một người bõ,
một người bõ đàn bà. Sống như thế tất nhiên là trái lẽ song giữa hỗn mang đại
loạn của thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng điều răn nào là còn hiệu lực, chẳng lề
luật nào mà không bị nới lỏng.
Về sau, khi đã bỏ ra
sống ở túp lều ngoài rìa làng, Diệu Nương vẫn thường lẻn về nhà thờ với cha. Để
xưng tội, chắc thế nếu cô là giáo dân, và tiếp tế cho cha bằng những tặng phẩm
mà hàng đêm người này người khác vẫn lén lút đưa tới dấm dúi biếu xén cô. Ấy là
những thức họ san sẻ ra từ khẩu phần lính mỗi ngày, hoặc là những đồ nhu yếu họ
quơ được khi thu chiến lợi phẩm. Diệu Nương nhận quà cáp và ngủ với tất cả, khi
thì ở trong lều, khi ở ngoài bờ sông trên bãi cỏ dưới trăng mờ.
Cô là đồ đĩ rạc, song
từ bao giờ cô đâm ra thế, cô không nhớ mà mọi người cũng vậy, không nhớ không
biết. Không lẽ từ ngày được giải phóng, được đổi đời, cô trở thành đồi bại?
Rất có thể bản tính
Diệu Nương hư hỏng sẵn rồi.
Chẳng vậy mà thiên hạ
đồn cô gốc gác “thiên nga “? Ngủ với cô rồi, giữa hai chầu rượu nhiều kẻ kháo
nhau về cô, bảo cô là cái ổ của những tật bệnh xấu xa.
Riêng tôi, mà có lẽ
chẳng riêng tôi, không coi nết lang chạ của Diệu Nương là hư đốn hay đồi bại gì
sất. Đến với Diệu Nương tôi đã được hưởng những phút chưa từng được hưởng bao
giờ ở quê nhà ngoài kia.
Nhiều năm qua rồi mà tôi
vẫn không muốn quên và thực ra thì cũng không thể nào quên nổi. Bần thần, ký ức
tôi mơ màng mộng tưởng ra trước mắt hình bóng của Diệu Nương, khi Diệu Nương một
mình đi trên đường vắng, dáng đi mềm mại uyển chuyển đung đưa toàn thân, hay
khi cô thẫn thờ ngồi lặng bên sông, hay là khi...
Những khi ấy, trái
tim rộn ràng kinh hãi, tôi từ ngoài đêm rẽ manh chiếu Diệu Nương dùng thay mành
cửa, bước vào trong lều tối đen.
- Lại đây, anh lính của
em. Đừng sợ. Chỉ có mình em trong này thôi.
Tôi bước tới một bước
và bất ngờ chạm vào một cái gì đó tuyệt vời, một cái gì đó nóng hổi, mềm mại, dập
dờn, một cái gì đó không thể diễn tả. Và ngay lập tức tôi bị du vào một địa ngục
ngọt ngào.
- Bạn tình của em,
anh tên là gì? Có phải lần đầu anh tới với em không?
Tấm thân óng ả của Diệu
Nương mà đời sống cơ cực vùng giải phóng chưa kịp hủy hoại đượm một vẻ gì thật
quá đỗi đàn bà, đàn bà hơn tất cả những người đàn bà khác nhập lại. Không chỉ
những cái vuốt ve của cô, không chỉ có những lúc cô xuất thần thác loạn, tận lực
nồng nàn âu yếm, cô rên rỉ, cô giở trò, cô im lặng hổn hển mà cả khi đã nguội
đi, mệt nhoài bải hoải, ở cô vẫn dào dạt ma lực của tội lỗi đàn bà.
- Anh đã đi à, đã đi
rồi sao? - Cô níu tay tôi - Còn lâu mới sáng. Hãy nán lại một lát đã anh. Em
còn muốn ngỏ với anh điều này. Chỉ một điều này thôi...
Nhưng không mấy ai chịu
nán lại. Càng không ai muốn nghe cái điều duy nhất mà Diệu Nương mong được thổ
lộ với người bạn tình thoảng chốc. Không ai muốn nghe bởi không ai có thể làm
gì cho điều mong ước ấy của cô. Nó quá tội lỗi, quá đáng sợ, lại hão huyền. Có
lẽ Diệu Nương tưởng đâu rằng trên đời này vẫn còn sẵn lắm những kẻ điên rồ dám
vì tình mà liều mạng và vì tình mà cả gan làm phản.
Nhưng để lần sau lại
có thể dến với Diệu Nương, nói chung chẳng ai dại gì làm cô mất hy vọng, người
ta cứ hứa, hứa đại. Lời hứa gió bay.
Bởi vì ai cũng vậy cả
nên chẳng ai ngờ rằng ấy thế mà vẫn có kẻ giữ chữ tín với Diệu Nương. Y hứa sẽ
giúp cô và y đã y lời.
Về sau, khi sự đã rồi,
mới nghe nhiều người bảo rằng thực ra trước đây khi còn ở bộ binh Tuấn đã có
nhiều dịp ghé làng Diêm và vì thế đã quen Diệu Nương từ hồi ấy. Hồi ấy cánh cao
xạ chúng tôi chưa về lập trận địa ở bờ sông A Rang và Diệu Nương hồi ấy vẫn
đang dung thân dưới mái nhà của vị linh mục.
Người ta kể rằng làng
Diêm dạo đó đói dài. Một chút ít lương thực được bộ đội cứu trợ cho hồi mới giải
phóng đã cạn. Chính quyền cách mạng ra lệnh tăng gia tự túc. Cả nhà thờ cũng phải
tự liệu lấy kế sinh nhai.
Bởi vì một vị linh mục
thì không đời nào lại chịu phận cày cuốc, Diệu Nương phải lo làm lụng cho cả
hai. Cô theo những người đàn bà trong làng đi phát nương trồng sắn. Nhưng không
quen nhọc nhằn, cầm rựa chặt được một nhát là lại một lát cô cám cảnh ngồi ôm mặt
sụt sùi. Gần trọn một ngày mà đám nương của cô vẫn y nguyên cây cối lùm bụi.
Bấy giờ có một tốp mấy
người lính dừng chân mắc võng nghỉ ở ven sông và họ đã chứng kiến cảnh ngộ của
Diệu Nương. Thoạt đầu họ cười nhạo, chế giễu và thương hại thay cho cái giống
đàn bà gốc ngụy chẳng khác chi người giấy, quen thói lười nhác, chỉ biết ăn
chơi hưởng lạc, bây giờ đây mới được biết thế nào là mồ hôi nước mắt một kiếp
người. Nhưng dần dần tình cảnh khổ sở của Diệu Nương nhói vào lòng những người
lính nỗi thương cảm. Họ rời võng, đi tới bên cô, họ an ủi và đề nghị được ra
tay giúp đỡ cô.
Và vậy là từ đầu tối
tới cuối đêm, mấy chàng bộ đội xoay trần đốn cây cho nhà chung. Họ phát quang cả
một vạt rừng. Lúc từ giã, một người trong tốp bộ đội xưng tên là Tuấn. Anh hứa
dăm hôm nữa sẽ trở lại giúp Diệu Nương đốt rẫy. Và anh đã giữ lời.
Rẫy của Diệu Nương được
đốt gọn và sạch nhất làng, cháy đều, khốn gót một thân cây nào cháy dở dang.
Chia tay, Tuấn lại hẹn ngày về cùng Diệu Nương vùi hom sắn.
Cơn mưa đầu mùa, sắn
lên xanh non và chẳng bao ngày mà lá sắn đã phủ kín rẫy. Quanh rẫy, Tuấn gieo
thêm hạt bầu và trên vạt đất phía sau nhà thờ Tuấn giúp Diệu Nương mở một vườn
rau.
Và cứ vậy, không hiểu
xoay xở cách nào, cách năm ngày, cách mười ngày, từ chốt vùng ranh ven thị xã,
Tuấn băng đồng cỏ về làng thăm Diệu Nương.
Cũng thời gian ấy Diệu
Nương rời nhà thờ ra ở túp lều mà Tuấn đã dựng cho cô nơi rìa làng. Hình như nhờ
có Tuấn, Diệu Nương đã mất đi cái vẻ não nùng của những ngày mới được giải
phóng. Người ta thấy ánh mắt cô long lanh và đôi khi người ta thấy cô mỉm cười.
Có những lần, từ chốt
Tuấn lẻn về với Diệu Nương mang theo cả cây ghi ta. Anh đàn khẽ cho Diệu Nương
thầm thì hát. Hồi ấy cô chỉ hát nho nhỏ thế thôi, nồng nàn, giữa hai người với
nhau.
Chắc là giữa hai người
đã có sự thề bồi. Chắc là Diệu Nương đã thổ lộ điều ước nguyện da diết nhất của
cô. Cô ước được thoát kiếp sống cày cuốc cực khổ ở chốn gian lao xa lạ này, cô
ước được người đáng tin đưa mình vượt qua chiến tuyến trở về với quãng đời êm ấm
thân thuộc trước ngày được giải phóng.
Với Tuấn, vượt hơn mười
cây số với những bãi mìn, những điểm chốt chặn không phải là điều không thể.
Thêm nữa, ấy là những ngày mở đầu Thời Hiệp định, những ngày bỗng dưng đất trời
yên lặng. Mùa khô mà vắng bặt tiếng máy bay và tuyệt nhiên không một phát đại
bác.
Say đắm ái tình và bốc
đồng hy vọng thái bình, Tuấn đã hứa hẹn. Hứa thật lòng, có lẽ. Chỉ có điều là bỗng
nhiên anh biến mất. Năm ngày, rồi hàng tháng trời trôi qua, biệt âm vô tín, Tuấn
không trở lại làng Diêm.
Từ đó, lặng lẽ Diệu
Nương trở nên ngẩn ngơ và âm thầm cô trở thành sa đọa. Cô chẳng hề nói gì với
ai về Tuấn. Hình ảnh của anh và lời hứa của anh có lẽ đã tàn trong tâm trí cô.
Duy có khát vọng tự do thì vẫn sống, vẫn lay lắt. Niềm ao ước cô từng thổ lộ với
Tuấn biến thành tiếng hát cất lên dài dại mỗi sáng mỗi chiều. Và đêm đêm Diệu
Nương vẫn tìm kiếm những hứa hẹn viển vông, mỗi ngày một viển vông hơn theo đà
chiến sự càng ngày càng tàn bạo. Bom đạn tơi bời tàn phá làng Diêm, phũ phàng
quét sạch mọi manh nha của hòa bình.
Cho tới một đêm nọ, một
đêm mưa, trên đường mò vào nhà thờ với ông cha cố, khi đi tắt qua vườn rau gần
lán của những người lính anh nuôi, Diệu Nương chợt nghe thấy văng vẳng tiếng
đàn. Lẳng lặng cô đi gần tới, ghé nhìn qua các bụi cây. Đèn dầu lập lờ mờ tối.
Diệu Nương không trông thấy người đang đàn, nhưng điệu đàn quen thuộc của những
đêm xưa giúp cô nhận ra người ấy.
Thất thần, vô tri
giác, Diệu Nương từ từ bước tới cửa lán. Bất ngờ, con Ních từ góc lán chồm lên,
sủa vang.
- Ai? Cù vùng khỏi
võng, chộp lấy súng, hét.
Diệu Nương lùi lại một
bước, và khi tiếng đàn trong lán vụt tắt, cô xoay người chạy.
Cù lao ra cửa. Mưa đổ
ào ào trước mặt anh.
- Thám báo! - Cù quát
- Đứng lại!
Dưới một nhoàng chớp
bóng Diệu Nương hiện thoáng lên, rũ rượi, xiêu đảo.
- A! Con đĩ! Đứng lại,
tao thì giết!
Cù gầm lên, phóng
mình ra mưa va trượt chân, anh ngã sấp. Nhổm phắt dậy, điên tiết, Cù nâng súng
quạt cả một tràng theo tiếng chân đang chạy chấp chới phía trước. Tuấn xô tới,
giật súng.
- Thằng ngu xuẩn! Đồ
nông nô!
Tuấn gào, khản đặc,
và mê muội đấm vào mặt anh nuôi trưởng. Anh quăng khẩu AK xuống vũng bùn cạnh
Cù rồi lao mình vào mưa đêm đen đặc đuổi theo Diệu Nương. Khắp làng ran lên kẻng
báo động. Du kích từ nhiều ngả ập tới.
Bình vực Cù vào lán.
- Bọn du kích tới,
mày bảo là không có chuyện gì nhá
- Cù lấy ống tay áo
lau khuôn mặt ròng ròng nước mưa và máu, nhổ cái răng cửa bị gãy và khó nhọc bảo
với Bình - Nói với chúng là tao mê hoảng bắn bừa... Rồi mày đi tìm xem hai đứa
chúng nó ra sao rồi...
Anh thở dài:
- Mà tại sao con đó
nó lại vùng chạy cơ chứ, hả?
Rất lâu sau này, kể lại
chuyện đêm ấy, Bình ngậm ngùi bảo với tôi:
- Giá kể con đó nó
không dính đạn, hai đứa chúng dắt nhau trốn đi ngay trong đêm ấy thì không chừng
đã thoát được rồi cũng nên.
Giờ đây ngẫm lại, tôi
thấy trong toàn bộ tấn thảm kịch xảy ra hồi đó Cù là nhân vật không tài nào ai
hiểu nổi. Chính anh đã cố tình xả súng bắn Diệu Nương, lại cũng chính anh suốt
một thời gian dài đã giúp vào việc chăm sóc cô. Cha xứ chỉ chịu hé cửa tu phòng
cho một mình Cù. Bông băng, thuốc men, đồ ăn, ông chỉ nhận nếu là do Cù đưa
sang. Tuấn bị ông cấm cửa.
Cù và Bình không hé
răng hở chuyện. Toàn đại đội không ai biết Cù đã bắn bị thương Diệu Nương. Cũng
không người nào hay có vụ xô xát giữa Cù và Tuấn. Càng chẳng ai ngờ có mối tình
nung nấu mà mơ hồ giữa Diệu Nương và Tuấn.
Đến kỳ thay phụ bếp,
Cù xin đại đội cho tổ anh nuôi được giữ Tuấn lại.
Bỗng nhiên, Diệu
Nương biến mất. Không nghe thấy tiếng hát của cô nữa. Túp lều ở rìa làng bỏ chơ
vơ, trống huyếch, xiêu mọp, ngập cỏ. Người ta đồn rằng cô đã bỏ trốn. Hoặc đã
chết. Chết đuối, trôi mất xác. Cũng có thể là chết tan xác vì trúng phải một
trái bom, trái pháo giáng trực tiếp xuống đầu.
Mùa mưa năm ấy dài đằng
đẵng, buồn ê ẩm. Dần dần tôi thầm hiểu tôi buồn vì nuối tiếc Diệu Nương. Mà
không riêng tôi, cả đại đội đều rầu rĩ. Dường như, mất bóng Diệu Nương thì
chúng tôi chẳng còn lý do gì để bám lại trên mảnh đất này.
Đột nhiên vào ngày nắng
hửng đầu mùa khô, chúng tôi hay tin Diệu Nương vẫn còn sống. Suốt mùa mưa cô ẩn
trong nhà thờ để chữa trị vết thương. Nay cô đã gần khỏi. Chỉ có điều nay cô mới
thực sự đã bỏ trốn.
Người thông báo cho
chúng tôi tin đó chính là ông linh mục. Ông ta lần ra trận địa pháo vào lúc tảng
sáng, cái áo chùng ướt đầm sương.
- Người của các ông đã
cám dỗ cô ta. Cái tên mặt sẹo, dáng vẻ lầm lỳ ấy. Hắn đã bội phản các ông, lại
kéo cô ta phản Chúa.
Ông còn cho biết ông
đã báo cho Cù ngay khi phát hiện Diệu Nương trốn đi với Tuấn, nghĩa là ngay từ
nửa đêm. Vậy mà Cù đã không hề báo cáo gì cho đại đội.
Anh ta đứng đấy, đầu
trần, răng nghiến lại nghe chính trị viên xỉ vả.
- Theo tôi, để cho họ
đi! - Cù nói, sa sầm - Còn nếu nhất định phải bắt lại thì chẳng khó. Vết thương
cô ta chưa lành hẳn, không thể đi nhanh. Với lại, có con Ních...
Tôi có vinh dự tham
gia nhóm tác chiến cùng Cù và hai trinh sát viên. Chúng tôi khẩn trương xuất
kích. Con Ních thoăn thoắt chạy dẫn đường, kéo căng sợi dây da trong tay Cù.
Chúng tôi lặng lẽ rảo
theo. Hàng dọc, súng lăm lăm. Lệnh trên là kiên quyết không để chúng trốn thoát
mang theo bí mật về cuộc hành quân sắp tới của đơn vị.
Chỉ lạ là không hiểu
sao dấu vết con Ních dò theo không nhằm về thị xã mà cứ men mãi bờ sông A Rang,
ngược lên mé tây đồng cỏ. Phía đó chỉ có rừng rậm.
Ý chí đuối dần. Chúng
tôi lết đi chậm chạp. Bụi bốc lên dưới chân. Nhiều giờ trôi qua. Con Ních vẫn cần
mẫn lần theo dấu vết vô hình lượn ngoằn ngoèo.
Chính vào lúc chúng
tôi đã nản, tính chuyện quay về thì hình tích của hai kẻ trốn chạy đã thực sự
hiện ra.
Dưới tán một cây
kơ-nia mọc đơn độc giữa trảng cỏ tranh, Tuấn và Diệu Nương đã nghỉ chân. Đàn kiến
đang tha đi những vụn cơm. Một mẩu thuốc rê vấn bằng giấy báo. Nhưng đặc biệt
rõ ràng, hằn trên cỏ, như thể cỏ đã tạc nên thân hình người đang nằm. Một bức họa
khắc nổi dáng vóc đàn bà, không thể nhầm được...
Chúng tôi đuổi kịp họ
trước lúc mặt trời lặn. Đã chớm tới vạt rừng đầu tiên ở bờ tây đồng cỏ.
Mệt nhoài, chúng tôi
dừng lại trước một dòng suối lớn. Con Ních bị dòng nước xóa dấu vết. Chúng tôi
ngồi xuống nghỉ. Im lặng đè nặng lên buổi hoàng hôn màu hồng thẫm.
Thốt nhiên, giữa sự
im ắng và tiếng rì rầm của dòng suối, lướt nhanh qua không gian một âm thanh bất
ngờ giống như một gợn sóng mỏng.
- Tiếng đàn! - Cù khẽ
thốt lên.
Chúng tôi sững sờ, lắng
nghe, hồ nghi. Đã tưởng chỉ là một cảm giác sai lạc, không dè sau một lúc nín
thở chờ đợi, chúng tôi nghe thấy khe khẽ tiếng hát.
Lội mau qua suối,
chúng tôi nhẹ chân tiến tới. Đấy là một dải rừng thông. Những cây thông cao
vút, mọc cách thưa. Một tà khói mỏng bốc lên trong chiều. Chúng tôi khom rạp xuống,
áp sát.
Một tiếng cành khô
gãy dưới chân. Tiếng hát tắt lặng. Tôi đứng thẳng lên sau một thân cây và căng
mắt quan sát. Một cái bếp nhỏ với chiếc hăng-gô treo đung đưa trên lửa. Một chiếc
võng dù căng giữa hai cây thông.
Im lặng kéo dài, kéo
dài mãi. Tôi gạt chốt AK vào nấc liên thanh.
- Các bạn...
Anh em ơi... - Giọng Tuấn - Chúng tôi chẳng làm hại gì cả... Không chống lại
ai... Hãy để chúng tôi đi...
- Câm mồm! - Bào,
trinh sát viên hét - Đứng dậy! Giơ cao hai tay. Bước ra!
Một phút. Nhiều phút.
Vẫn lặng phắc. Cù buông sợi dây da. Tôi thấy con Ních chạy xéo qua, và lát sau
tôi nghe tiếng nó sủa ở bụi cây. Tiếng sủa rối rít, mừng rỡ.
Nhưng cũng đúng lúc
đó, bụi cây lay động.
“Trong cuộc huynh đệ
tương tàn...” - Tiếng hát.
- Đồ điên! - Cạnh tôi,
ai đó gầm lên - Con đĩ! Này thì tương tàn!
Và tức thì súng nổ. Một
khẩu nhả đạn kéo theo những khẩu khác cùng khạc lửa. Chớp đầu nòng nhằng nhằng
xé rách lượt bóng tối đầu tiên đang phủ xuống khu rừng.
Bốn khẩu AK cùng bắn
hết băng, cùng câm bặt. Bốn chúng tôi cùng lao vọt lên, cùng chết sững.
Sau bụi cây bị đạn
băm, hai con người ấy quấn lấy nhau. Những vết đạn như càng vặn xiết hai cơ thể
vào nhau. Vào chớp mắt cuối cùng, người đàn ông dường như đã cố dùng thân mình
đỡ đạn cho người đàn bà. Nhưng đạn khoan qua người họ. Ánh lửa từ bếp lấp loáng
trên hai mảng lưng trần.
Chúng tôi đứng chết
trân. Màn đêm vây dần lại. Cả bốn chúng tôi như bị trói vào nhau trong sự cam
chịu một cái gì vô hình vô tận đang đổ xuống. Mùi thuốc đạn là dấu vết duy nhất
của ý chí điên khùng, đã tan đi.
- Ê... ê... Ních!
Ê... - Cù tru lên gọi con chó đã bị trận mưa đạn xua dạt vào rừng sâu.
Ngồi xuống bên Tuấn
và Diệu Nương, tôi gỡ họ ra khỏi nhau.
Hai hôm sau chúng tôi
nhận lệnh hành quân về phương Nam. Vĩnh viễn giã từ làng Diêm. Tôi đã bình tĩnh
trở lại. Cả Cù cũng vậy. Cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước sẽ là lối thoát
cho tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi sẽ chiến đấu và sẽ quên.
Mùa khô nung vàng đồng
cỏ. Và những ngọn gió dại gào hú làm bốc lên những cột lốc đỏ lòm. Những ngọn
gió điên rồ như có móng vuốt, cào xé mặt đất.
Chúng tôi chỉ không
ngờ rằng chúng tôi đang tiến vào mùa khô cuối cùng của cuộc chiến. Chúng tôi đã
bắn chết những người báo trước hòa bình, vậy mà hòa bình vẫn đến.
-----
Nhị Linh viết.
-----
Nhị Linh viết.
Họ bắn vào hòa bình, chúng tôi bắn vào hòa bình
Về Bảo Ninh, nếu muốn phản đối việc người ta cứ nói là cả đời ông ấy chỉ có mỗi Nỗi buồn chiến tranh, thì có thể nêu tên truyện ngắn "Gió dại". Nhưng nếu bảo ngoài hai cái đó nữa còn có gì, thì thực sự là khó. Bảo Ninh còn cả loạt truyện ngắn đặc sắc, nhiều truyện rất hay, như truyện về Hà Nội hồi những năm trước 1975 có "Người anh hùng thời đại" để ria theo lối chất nghệ (tên Vinh hay sao?), hay gần đây hơn là "Bội phản". Thỉnh thoảng viết bút ký cũng rất giỏi, chẳng hạn như gần đây nhất là "Đêm cuối cùng ngày đầu tiên". Nhưng cái hay của những cái ấy là cái hay bình thường. Đặc biệt thì chỉ có Nỗi buồn chiến tranh và "Gió dại".
Thời gian của truyện là giai đoạn ngay trước 30/4/1975. Ẩn dụ "gió dại" ngay lập tức cho thấy tính chất vô nghĩa, nhỏ nhoi, thảm hại của con người, và của cái chết, trong một cuộc chiến tranh như cuộc chiến tranh Việt Nam. Cái nhìn của người kể chuyện đặt ở bên phía bộ đội, lúc đó đóng quân tại một vùng vừa chiếm được, một vùng theo đạo có ông cha cố, và nhất là có một cô ca sĩ vì loạn lạc mà bị kẹt lại và sống luôn ở đây, đêm đến vẫn thường tiếp khách đàn ông, đều là bộ đội.
Chuyện tình duyên giữa Diệu Nương cô ca sĩ và anh lính phụ tá anh nuôi nhanh chóng trở thành một thảm kịch. Thảm kịch này giống như là một tiếng thở dài, rất dài - sở trường của văn Bảo Ninh. Văn của Bảo Ninh phải đi theo từng hơi một, cay đắng, buồn bã, không thể vui được, và những trường hợp tác phẩm khác không được thành công lắm có lẽ là bởi vì cái hơi này không đủ dài.
Và đặc biệt là "Gió dại" có một câu kết không thể nào quên: "Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hòa bình, vậy mà hòa bình vẫn đến." Nghe nói câu văn này một thời đã gây sóng gió (truyện này hình như được viết cuối những năm 1990), thậm chí một thời gian đã bị cắt khỏi truyện, như một hình thức kiểm duyệt. "Những người báo trước hòa bình" là cô ca sĩ Diệu Nương và người tình bộ đội của mình trên đường chạy trốn, khi bị bắt gặp họ xin được tha mạng vì "chẳng làm hại gì cả", "không chống lại ai", nhưng các đồng đội của anh lính (trong đó có "tôi", người cũng đã từng nhiều lần ngủ với Diệu Nương) đã xả súng qua đám cây. Sau khi bắn xong rồi họ mới nhìn thấy xác hai con người kia, quấn chặt vào nhau.
Bây giờ cứ mỗi dịp 30/4 xem người ta kỷ niệm hào hùng mà thấy mệt. Phần lớn khăng khăng tô màu đỏ màu hồng rộn ràng cho một cuộc chiến đáng tởm. Một số khác tìm cách chứng minh rằng tất cả đều rất tởm, nhưng chúng tôi ít tởm hơn, và một số khác nữa: tất cả đều rất tởm, nhưng chúng nó tởm hơn chúng tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét